Tải bản đầy đủ (.pdf) (64 trang)

Người lính trong tiểu thuyết đối chiến của khuất quang thụy

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (734.25 KB, 64 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN

LÊ THỊ THÙY LINH

NGƯỜI LÍNH TRONG TIỂU THUYẾT
ĐỐI CHIẾN CỦA KHUẤT QUANG THỤY

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

HÀ NỘI, 2019


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN

LÊ THỊ THÙY LINH

NGƯỜI LÍNH TRONG TIỂU THUYẾT
ĐỐI CHIẾN CỦA KHUẤT QUANG THỤY

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

Người hướng dẫn khoa học:

TS. THÀNH ĐỨC BẢO THẮNG

HÀ NỘI, 2019



LỜI CẢM ƠN

Trong quá trình thực hiện và hoàn thành luận văn này, tôi đã nhận được
sự quan tâm và giúp đỡ rất lớn từ quý thầy cô, bạn bè và gia đình. Tôi xin bày
tỏ lòng biết ơn chân thành của mình đến:
Thầy giáo, TS. Thành Đức Bảo Thắng – người đã trực tiếp hướng dẫn
về mặt chuyên môn, đã rất tận tình chỉ dẫn, định hướng và giúp đỡ tôi trong
suốt quá trình thực hiện khóa luận.
Quý thầy cô trong khoa Ngữ Văn trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 đã
tận tình giảng dạy, chỉ dẫn tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu hoàn
thành khóa luận này.
Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè đã sát cánh,
động viên và giúp đỡ tôi rất nhiều trong suốt thời gian học tập và hoàn thành
khóa luận tốt nghiệp này.
Hà Nội, tháng 5 năm 2019
Tác giả Khóa luận tốt nghiệp

Lê Thị Thùy Linh


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan số liệu và kết quả nghiên cứu trong khóa luận tốt
nghiệp này là trung thực và không trùng lặp với các công trình khác. Tôi cũng
xin cam đoan, mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện khóa luận này đã được cảm
ơn và các thông tin trích dẫn trong khóa luận này đã được ghi rõ nguồn gốc.

Hà Nội tháng 5 năm 2019
Tác giả khóa luận tốt nghiệp


Lê Thị Thùy Linh


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài: ....................................................................................... 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ......................................................................... 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................. 5
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................. 5
5. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................... 5
6. Đóng góp của khóa luận ............................................................................ 6
7. Bố cục của khóa luận ................................................................................. 6
NỘI DUNG....................................................................................................... 7
Chương 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN.......................................................................... 7
1.1. Khái quát về nhân vật người lính trong tiểu thuyết Việt Nam hiện đại ..... 7
1.1.1. Khái niệm nhân vật văn học................................................................. 7
1.1.2. Vị trí và vai trò của người lính trong tiểu thuyết Việt Nam hiện đại .. 8
1.2. Nhà văn Khuất Quang Thụy và tiểu thuyết Đối chiến ............................. 12
1.2.1. Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của nhà văn Khuất Quang Thụy ..... 12
1.2.2. Vài nét về tiểu thuyết Đối chiến ........................................................ 13
Chương 2: HIỆN THỰC VÀ CUỘC SỐNG CỦA NGƯỜI LÍNH
TRONG CHIẾN TRANH ............................................................................ 15
2.1. Người lính với hiện thực tàn khốc của chiến tranh .................................. 15
2.1.1 Người lính Cách mạng với hiện thực chiến tranh khốc liệt............. 16
2.1.2. Hiện thực chiến tranh tàn khốc đối với người lính phía bên kia
chiến tuyến ................................................................................................ 20
2.2. Người lính trong mối quan hệ gia đình, tình yêu ..................................... 24
2.2.1 Người lính “phe ta” trong các mối quan hệ tình cảm ...................... 24
2.2.2 Người lính “phe địch” trong mối quan hệ tình cảm ........................ 29



2.3. Người lính với những suy ngẫm, trăn trở về cuộc chiến ...................... 33
Chương 3: MỘT SỐ BIỆN PHÁP THỂ HIỆN NHÂN VẬT .................... 41
3.1. Nghệ thuật tạo dựng tình huống ............................................................... 41
3.2. Nghệ thuật khắc họa nhân vật người lính ................................................ 44
3.2.1. Khắc họa người lính qua ngoại hình .................................................. 44
3.2.2. Khắc họa người lính qua hành động .................................................. 46
3.2.3. Khắc họa người lính qua ngôn ngữ .................................................... 49
3.2.4. Khắc họa người lính qua giọng điệu .................................................. 54
KẾT LUẬN .................................................................................................... 57
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 58


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài:
1.1. Có thể quan niệm rằng: Văn học là sân khấu của cuộc đời, ở đó
diễn ra mọi diễn biến cảm xúc “hỉ, nộ, ái, ố”, mọi cung bậc tâm trạng của
nhân vật. Chính vì vậy, việc xây dựng nhân vật trong tác phẩm văn học đóng
vai trò quan trọng, góp phần thể hiện tư tưởng chủ đề của tác phẩm cũng như
tài năng và phong cách sáng tác của tác giả.
1.2. Trong văn học Việt Nam, mảng đề tài chiến tranh từ trước đến
nay vẫn luôn tạo được sức hấp dẫn mạnh mẽ đối với các tác giả, những tác
phẩm mang đậm hơi thở của thời đại, của cuộc chiến tạo ra những dấu ấn
riêng trong lòng độc giả. Và nổi lên trên cái nền của hiện thực chiến tranh đó
chính là hình ảnh người lính, hình ảnh về những chàng trai bị thử thách trong
những khắc nghiệt của cuộc sống, của thời bom rơi bão đạn.
1.3. Tiểu thuyết Đối chiến của Khuất Quang Thụy được sáng tác sau
1986, độ lùi thời gian đã giúp ông nhìn nhận cuộc chiến một cách bao quát và
đầy đủ hơn. Hình ảnh người lính được soi chiếu khách quan, cả “phe ta” lẫn

“phe địch” đều chứa bên trong những người tốt, kẻ xấu, kẻ hèn nhát hay
người anh hùng đúng với tinh thần “Nhìn thẳng sự thật, nói đúng sự thật” của
Đại hội lần thứ VI của Đảng năm 1986. Với Khuất Quang Thụy, cuộc chiến
giành độc lập và thống nhất Tổ quốc của quân và dân ta không chỉ là cuộc
chiến chống ngoại xâm mà là cuộc đối đầu tàn khốc, đau đớn giữa những con
người có cùng một nguồn gốc, một dòng máu. Cái nhìn về cuộc chiến trong
tác phẩm thật sự được mở rộng về biên độ đã giúp cho người đọc thấy được
ngày càng đầy đủ hơn về hiện thực chiến tranh, cả cái hào hùng lẫn những
mất mát, đau thương, cả cái đặc biệt của chiến tranh với cái đời thường của
cuộc sống, cả hiện thực bên ta và hiện thực bên địch, cả những trăn trở về
cuộc chiến và con người, cái tốt đan xen cái xấu…. Đối chiến của Khuất
Quang Thụy đã thể hiện được những khát vọng muôn đời của nhân dân - khát
vọng độc lập và hòa hợp dân tộc.
1.4. Trong chương trình Ngữ Văn ở bậc trung học phổ thông, mảng
văn học thời chiến khá phổ biến đối với học sinh, học sinh được tiếp xúc với
nhiều những tác phẩm viết về đề tài chiến tranh và người lính. Vì vậy, nghiên
cứu về người lính trong Đối chiến như một cách gợi mở, một cách tiếp cận
1


mới cho học sinh, cung cấp tư liệu trong quá trình tìm hiểu tác phẩm viết về
đề tài chiến tranh.
1.5. Với những lý do trên, tôi chọn đề tài “Người lính trong tiểu
thuyết Đối chiến của Khuất Quang Thụy” là đề tài nghiên cứu của mình. Thực
hiện đề tài này, tôi mong muốn sẽ đóng góp một góc nhìn mới về Đối chiến,
qua đó có cái nhìn toàn diện hơn về hiện thực chiến tranh được tái hiện trong
văn học, đồng thời khẳng định vị trí của Khuất Quang Thụy cũng như tiểu
thuyết Đối chiến.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Tiểu thuyết viết về người lính trong chiến tranh là một trong những vấn

đề được giới nghiên cứu đặc biệt quan tâm, bắt đầu từ khoảng những năm 60
của thế kỉ trước, thời kì nở rộ của tiểu thuyết mang âm hưởng sử thi. Khuất
Quang Thụy là một trong những nhà văn tiêu biểu viết về người lính, chính vì
vậy, ông được giới nghiên cứu và các nhà chuyên môn quan tâm chú ý từ
những năm đầu của xu hướng thay đổi đổi mới tư duy về tiểu thuyết.
Ông là tác giả của Trong cơn gió lốc (1980), Trước ngưỡng cửa bình
minh (1985), Không phải trò đùa (1985), Giữa ba ngôi chùa (1989), Góc tăm
tối cuối cùng (1990), Những bức tường lửa (2006), Đối chiến (2010), Đỉnh
cao hoang vắng (2016). Ông không có sự mở đầu vang dội như một vài tác
giả khác, nhưng luôn có mặt trên văn đàn và bạn đọc trong khoảng 40 năm
qua, thể hiện sự bền bỉ mạnh mẽ.
2.1.Về tác phẩm Không phải trò đùa, tác giả Nguyễn Thị Thanh trong
bài viết khuynh hướng triết luận trong tiểu thuyết Việt Nam sau 1975 về đề
tài chiến tranh khẳng định tính triết luận ngay ở nhan đề bài viết “Chiến tranh
không phải trò đùa”. Tác giả cũng khẳng định “Tác phẩm là sự suy ngẫm,
chiêm nghiệm về chiến tranh, về người lính, về cõi tâm linh siêu thực của con
người, tình yêu” [14]. Tiểu thuyết chiến tranh nhưng không xoáy sâu vào bom
rơi đạn lạc, những tàn khốc trên mặt trận chiến trường mà quan tâm đến số
phận, những hành động, suy nghĩ thể nghiệm của người lính trong khói lửa
chiến tranh. Chính ngọn lửa chiến tranh làm lộ rõ những phẩm chất tốt đẹp,
lòng nhân ái, hay những kẻ xấu xa, phi nhân tính.

2


Bên cạnh đó, một số bài viết đánh giá về tiểu thuyết của Khuất Quang
Thụy như Nguyễn Đình Tú trên báo Văn nghệ quân đội 2005 với bài “Những
bức tường lửa và sự đổi mới tiểu thuyết sử thi” [10] đã đánh giá dưới góc độ
nghệ thuật “về cơ bản thời gian của tác phẩm là thời gian sử thi, thời gian
mang tính lịch sử- sự kiện. Nhưng xét ở góc độ tiểu thuyết, tác phẩm là những

câu chuyện về những cuộc đời”, “những sự kiện vừa mang dấu ấn thời đại
vừa mang tính đời thường”. Tác giả cũng cho rằng “nhân vật người lính anh
hùng đến nhân vật tập thể thật cao quý anh dũng mà cũng đời thường tự
nhiên”, người lính không hiện diện như những con người được lý tưởng hóa,
họ không phải là những con người đẹp toàn diện như viên ngọc không tì vết,
họ là những con người bình thường, vẫn có những khiếm khuyết hoặc về
ngoại hình, hoặc về tính cách. Còn về kết cấu, tác giả cho rằng Khuất Quang
Thụy đã có nhiều cố gắng trong đổi mới về kết cấu, điểm nhìn trần thuật,
giọng điệu.
Một nhận xét khác của Nguyễn Chí Hoan trong bài viết “Luận về anh
hùng, về chiến thắng và về đồng đội”[5] đã đánh giá Những bức tường lửa là
tác phẩm có “cái nhìn hồi cố, từ thời điểm hiện tại ở khoảng giao thời hai thế
kỉ, những điều mà dường như đã xa lạ với đương thời: về người anh hùng
chiến trận và chủ nghĩa anh hùng thấm đẫm chất lý tưởng cộng sản thời
chiến”. Nhà nghiên cứu cho rằng đây là tác phẩm “lần đầu tiên đã gắn kết
thành công hai chủ đề “thân phận con người và chủ nghĩa anh hùng cách
mạng” vừa mang đậm dấu ấn sử thi vừa không “bỏ quên” những ngóc ngách
riêng tư trong tâm hồn con người. Không những vậy, tác giả còn cho rằng,
đây “là một tác phẩm hiếm hoi đã đưa người anh hùng vào tâm điểm khảo
sát”, và “điều làm nên sự khác biệt của tác phẩm là “tác giả mô tả nhân vật
“Hùng Phong như một tướng lĩnh hàng đầu của đất nước””. Tác giả tiếp tục
khẳng định “một cuốn tiểu thuyết tiếp tục xu hướng tiểu thuyết luận đề được
đặt ra “Những luận đề về người anh hùng, về chiến tranh được đặt ra nhưng
không nhằm ca ngợi chiến tranh mà làm sống lại một tinh thần văn hóa cao
thượng có tính lý tưởng , một chủ nghĩa anh hùng có tính khắc kỉ vị tha”.
Những đánh giá, nhận xét của các nhà nghiên cứu về tiểu thuyết viết về
chiến tranh của Khuất Quang Thụy đã đưa ra một vài nét mới mẻ trong cách

3



nhìn, cách viết về chiến tranh, là nguồn tài liệu quý báu giúp tôi triển khai bài
khóa luận của mình.
2.2. Báo Văn nghệ đã tổ chức một buổi tọa đàm vào tháng 8 năm 2011
với sự góp mặt của các nhà nghiên cứu, nhà văn như Nguyễn Trí Huân, Đỗ
Tiến Thụy, Sương Nguyệt Minh, Nguyên An, Cao Việt Dũng, Nguyễn Chí
Hoan ... Tại đây đã có những ý kiến đánh giá trên phương diện khái quát tác
phẩm Đối chiến của Khuất Quang Thụy, nhìn nhận một cách trung thực thẳng
thắn, đồng thời cũng đưa ra những hạn chế của tác phẩm. Đại đa số ý kiến của
các nhà nghiên cứu đều đồng tình với yếu tố lạ trong nghệ thuật của tiểu
thuyết Đối chiến. Bên cạnh đó, tác giả Văn Chinh đã bày tỏ quan điểm của
mình qua bài viết “Chiến tranh dưới góc nhìn xã hội học của Khuất Quang
Thụy” đã khái lược những nét chính của ba cuốn tiểu thuyết từ Không phải
trò đùa đến Những bức tường lửa và Đối chiến như một dòng chảy xuyên
suốt và đầy tâm huyết của nhà văn. Ông cho rằng “Đọc Khuất Quang Thụy,
tôi nhận thấy một điều nhất quán xuyên suốt các cuốn sách của ông sau đổi
mới. Đó là sự chuyển dịch điểm nhìn từ trong cuộc ra ngoài cuộc, từ chủ quan
sang khách quan”[1], chính độ lùi về thời gian đã giúp nhà văn có cái nhìn
bao quát và toàn cảnh hơn về cuộc chiến, và ở đây, điểm nhìn không chỉ dừng
lại ở người lính “phe ta” mà tác giả mở rộng điểm nhìn, hướng ngòi bút của
mình về những con người ở phía bên kia chiến tuyến, những người lính “phe
địch”.
Bên cạnh Văn Chinh thì Nguyễn Chí Hoan cũng bày tỏ quan điểm của
mình về Đối chiến trong bài viết “Con mắt người Đối chiến”: “Lần đầu tiên
trong các sáng tác văn học hậu chiến, tiểu thuyết Đối chiến của nhà văn Khuất
Quang Thụy đã nỗ lực hết mức trong việc tạo dựng một hệ thống nhân vật có
thể giúp hình dung diện mạo quân đội đối phương” [6]. Theo tác giả, những
trang văn của Khuất Quang Thụy là sản phẩm không có gì mới mẻ về đề tài,
vẫn là đề tài chiến tranh quen thuộc, về “số phận con người của một thế hệ,
trong một nhà nước- dân tộc”, không làm giật gân nhưng lại làm ngạc nhiên

bất cứ ai quan tâm đến những tiểu thuyết viết về đề tài chiến tranh. Khuất
Quang Thụy sử dụng lăng kính trần trụi của mình để chắp bút viết về cuộc
chiến, viết về những người lính với cái nhìn nhân bản, nhân văn và đầy “sòng

4


phẳng”, ông dựng lên “chân dung những binh lính Việt Nam cộng hòa, những
con người quen thuộc mà xa lạ suốt thời đó”.
Những đánh giá, nhận xét của các nhà nghiên cứu mà tôi tiếp tuy chưa
đầy đủ nhưng cũng là nguồn tư liệu quý báu, làm cơ sở để giúp tôi triển khai
bài khóa luận của mình. Điểm qua các công trình nghiên cứu đề cập trên đây,
tôi nhận thấy đều là những ý kiến đánh giá nhận xét của các nhà nghiên cứu
phê bình trên một vài phương diện, những bài viết chưa có sự đi sâu khám
phá tỉ mỉ tiểu thuyết Đối chiến cũng như hình tượng người lính trong tác
phẩm. Chính vì vậy, với đề tài này tôi sẽ đi sâu và kĩ tìm hiểu chi tiết về
người lính trong tiểu thuyết Đối chiến của Khuất Quang Thụy.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của chúng tôi trong đề tài này là: người lính
trong Đối chiến của Khuất Quang Thụy.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Khóa luận tập trung nghiên cứu về nhân vật người lính trong tiểu thuyết
Đối chiến của nhà văn Khuất Quang Thụy.
4.Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
Đề tài này chủ yếu đi sâu vào khai thác nhân vật người lính trong tiểu
thuyết Đối chiến của Khuất Quang Thụy, từ đó thấy được cái nhìn đa chiều về
người lính, những ưu điểm và hạn chế của người lính của cả “phe ta” và “phe
địch”. Qua đó, thể hiện ngòi bút khách quan, nhân bản của Khuất Quang

Thụy về chiến tranh cũng như người lính.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài nhằm tìm ra nét độc đáo về nhân vật người lính trong tiểu thuyết
Đối chiến.
5. Phương pháp nghiên cứu
Ở đề tài này, chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu:

5


Phương pháp tiếp cận hệ thống
Phương pháp lịch sử - xã hội
Phương pháp phân tích, tổng hợp
Phương pháp so sánh, đối chiếu.
6. Đóng góp của khóa luận
Về mặt khoa học: Đề tài này góp phần làm rõ hình tượng nhân vật người
lính trong văn học Việt Nam, đồng thời thấy được những giá trị nội dung
và nghệ thuật của tác phẩm.
Về mặt thực tiễn: Khóa luận là một tư liệu thiết thực trong học tập và
nghiên cứu, giảng dạy các tác phẩm của Khuất Quang Thụy ở trường cao
đẳng và đại học.
7. Bố cục của khóa luận
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, khóa luận gồm 3
chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận
Chương 2: Hiện thực và cuộc sống của người lính trong chiến tranh
Chương 3: Một số biện pháp thể hiện nhân vật.

6



NỘI DUNG
Chương 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1. Khái quát về nhân vật người lính trong tiểu thuyết Việt Nam hiện đại
1.1.1. Khái niệm nhân vật văn học
Tác phẩm văn học sẽ không trở thành một chỉnh thể hoàn chỉnh nếu
không có nhân vật văn học, nhân vật văn học có thể coi là “nhãn quan” của
tác giả, là phương tiện để tác giả bày tỏ tư tưởng, quan điểm, nhận định, gửi
gắm ước mơ, khát vọng của mình, tất cả đều được thể hiện khéo léo và tinh tế
thông qua nhân vật văn học.
Về mặt thuật ngữ:
Hiểu theo nghĩa rộng: “nhân vật” là khái niệm dùng trong nhiều lĩnh
vực của đời sống. Theo bộ Từ điển tiếng Việt, “nhân vật” là khái niệm mang
hai nghĩa: nghĩa thứ nhất là đối tượng (thường là con người) được miêu tả, thể
hiện trong tác phẩm văn học. Thứ hai, đó là người có một vai trò nhất định
trong xã hội [8, tr.881]. Nghĩa là, thuật ngữ “nhân vật” được sử dụng ở nhiều
lĩnh vực của đời sống, nhưng ở đây, chúng tôi chỉ đề cập đến khái niệm “nhân
vật” theo nghĩa thứ nhất mà bộ Từ điển tiếng Việt định nghĩa, tức là nhân vật
trong tác phẩm văn chương.
Trong cuốn Lí luận văn học do giáo sư Hà Minh Đức chủ biên định
nghĩa: “Nhân vật trong văn học là một hiện tượng nghệ thuật mang tính ước
lệ, đó không phải là sự sao chụp đầy đủ mọi chi tiết, biểu hiện của con người
mà chỉ là sự thể hiện con người qua những đặc điểm điển hình về tiểu sử,
nghề nghiệp, tính cách... và cần chú ý thêm một điều: thực ra khái niệm nhân
vật thường được quan niệm với một phạm vi rộng lớn hơn nhiều, đó không
chỉ là con người, những con người có tên hoặc không tên, được khắc họa sâu
đậm hoặc chỉ xuất hiện thoáng qua trong tác phẩm, mà còn có thể là sự vật,
loài vật khác ít nhiều mang bóng dáng, tính cách con người... cũng có khi đó
không phải là những con người, sự vật cụ thể, mà chỉ là một hiện tượng về
con người hoặc liên quan tới con người, một thể hiện nổi bật trong tác phẩm”

[2, tr.102].

7


Bên cạnh đó, trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học của nhóm tác giả
Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi có định nghĩa về “Nhân vật văn
học” cơ bản giống cuốn Lí luận văn học: “Nhân vật văn học là con người cụ
thể được miêu tả cụ thể trong tác phẩm văn học. Nhân vật văn học có thể có
tên riêng (Tấm, Cám, chị Dậu, anh Pha...), cũng có thể không có tên riêng
(...). Khái niệm nhân vật văn học có khi được sử dụng như một ẩn dụ, không
chỉ một con người cụ thể mà chỉ một hiện tượng nổi bật nào đó trong tác
phẩm (...). Nhân vật văn học là một đơn vị đầy tính ước lệ, không thể đồng
nhất nó với con người có thật trong đời sống” [4, tr.235].
1.1.2. Vị trí và vai trò của người lính trong tiểu thuyết Việt Nam hiện đại
1.1.2.1. Vị trí và vai trò của người lính trong tiểu thuyết Việt Nam từ 1945 đến
1975
Nhìn lại tiến trình lịch sử Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1975, hơn 30
năm cả dân tộc chìm trong mưa bom bão đạn của chiến tranh, đối diện với hai
kẻ thù lớn là thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, chính bối cảnh thời đại này đã tác
động mạnh mẽ đến mọi lĩnh vực của đời sống, và văn chương cũng không
nằm ngoài luồng ảnh hưởng này. Với văn học, cảm hứng chủ đạo trong thời
kì này là cảm hứng yêu nước, khát vọng độc lập tự do, niềm tự hào về sự
nghiệp cứu nước vĩ đại của dân tộc Việt Nam. Kéo theo đó chính là yêu cầu
về nhân vật trong văn học 1945 -1975. Trong giai đoạn này, nhân vật trong
các tác phẩm văn học nói chung và tiểu thuyết nói riêng hầu hết đều xoay
quanh nhân vật người lính, người anh hùng dân tộc.
Về vị trí, nhân vật người lính chiếm vị trí trung tâm, sợi dây xuyên suốt
toàn bộ tác phẩm đều xoay quanh về người anh hùng mang lý tưởng dân tộc.
Trong mỗi thiên truyện, hình ảnh về người lính luôn được khắc họa đậm nét,

mang trong mình những phẩm chất của thời đại.
Về vai trò, hình ảnh anh bộ đội cụ Hồ trong kháng chiến chống thực
dân Pháp và anh giải phóng quân trong kháng chiến chống đế quốc Mỹ được
xây dựng là những nhân vật điển hình, đặt trong hoàn cảnh điển hình. Họ là
những con người mang trong mình sứ mệnh của cả cộng đồng, cả dân tộc, họ
là những con người đứng mũi nhọn trong cuộc chiến đấu vì lợi ích chính trị
thiêng liêng của Tổ quốc: độc lập tự do và chủ nghĩa xã hội. Hình tượng
8


người lính trong giai đoạn này được khắc họa rõ nét, mang lý tưởng thời đại,
người anh hùng trong tư thế tiến công, sẵn sàng chiến đấu và chiến thắng,
người anh hùng là sản phẩm sinh ra từ thời đại. Và vì thế, những nhân vật này
ít bị khai thác đời tư cá nhân, những cá tính riêng rẽ trong mỗi bản ngã của
nhân vật, mà họ mang trong mình phẩm chất đại diện cho cả cộng đồng, gánh
vác trên vai những trọng trách của cả dân tộc.
Các tác phẩm Hòn đất (Anh Đức), Rừng U Minh (Trần Hiếu Minh),
Đất Quảng (Nguyên Ngọc), Mẫn và tôi (Phan Tứ), Dấu chân người lính
(Nguyễn Minh Châu), Chiến sĩ (Nguyễn Khải), Vùng trời (Hữu Mai) đều thể
hiện rõ điều này. Trong tiểu thuyết Dấu chân người lính (1968) của Nguyễn
Minh Châu, hình ảnh trung tâm của tác phẩm là hình ảnh người lính, cả
những người lính già và người lính trẻ, họ là những con người ý thức sâu sắc
về cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ và trách nhiệm bổn phận của thế hệ
mình, những con người có ý chí mãnh liệt, tràn đầy nhựa sống . Hay trong
Mẫn và tôi, Thiêm hiểu rằng “Loài người đang đánh lấn đế quốc từng bụi tre
một”. Đông, Quỳnh những chiến sĩ lái máy bay dũng cảm xông lên bầu trời
đối mặt với kẻ thù và chiến đấu giống như bằng sức mạnh của cả cộng đồng.
(Vùng trời – Hữu Mai). Chính chiến tranh đã đánh thức trong linh hồn mỗi
người ý thức về việc tự khẳng định mình, xả thân cống hiến cho nhiệm vụ của
cả dân tộc, của chế độ mình đang sống. Và cũng chính từ chiến tranh, hình

ảnh những người anh hùng trở nên đậm nét và rõ rệt hơn bao giờ hết, vì người
anh hùng chính là sản phẩm sinh ra từ thời đại. Họ được hun đúc qua khói lửa
của cuộc chiến, được chắt lọc, kết tinh qua dòng chảy của thời gian, mang
trong mình truyền thống anh hùng bốn nghìn năm lịch sử.
Nhìn chung, tiểu thuyết trong giai đoạn này đã đạt được thành công
nhất định khi khai thác và xây dựng nhân vật người lính. Người lính trở thành
nhân vật trung tâm trong các tác phẩm, họ được xây dựng là những người anh
hùng với những phẩm chất của con người xã hội chủ nghĩa, con người mang
tầm vóc lớn lao của lịch sử dân tộc, được các nhà văn nhào nặn, tô vẽ bằng
những ngôn từ vĩ đại, cao cả, đẹp đẽ và dường như không có “vết xước”.

9


1.1.2.2. Vị trí và vai trò của người lính trong tiểu thuyết Việt Nam hiện đại sau
năm 1975
Bối cảnh lịch sử xã hội của đất nước trong giai đoạn này có sự chuyển
biến mạnh mẽ, chiến tranh kết thúc, hòa bình lặp lại, đất nước trở về trạng
thái bình yên vốn có. Song, độ lùi thời gian đã giúp con người nhìn nhận thực
tế, nhìn nhận lại cuộc chiến một cách khách quan và đa chiều hơn.
Văn học Việt Nam từ sau năm 1975 nhìn chung có thể chia làm hai
chặng: chặng đầu từ 1975 đến 1985, văn học từ chỗ “trượt theo quán tính cũ”
cho đến dần xác định được cho mình lối đi mới; chặng tiếp theo là từ năm
1986 cho đến nay, đây là thời kì văn học có sự chuyển mình mạnh mẽ và toàn
diện “vượt qua những hạn chế của thời kì trước cả về phương diện hình thức
lẫn phương pháp tiếp cận hiện thực”[7].
Các tác phẩm có thể kể đến như là: Thời xa vắng (Lê Lựu), Ăn mày dĩ
vãng, Ba lần và một lần (Chu Lai), Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh), Rừng
thiêng nước trong (Trần Văn Tuấn), Tàn đen đốm đỏ (Phạm Ngọc Tiến), Góc
tăm tối cuối cùng, Những bức tường lửa, Đối chiến (Khuất Quang Thụy), Bến

đò xưa lặng lẽ (Xuân Đức), Trong nước giá lạnh (Võ Thị Xuân Hà)...
Về vị trí
Trong giai đoạn này, người lính vẫn giữ vị trí trọng yếu, hình tượng
người lính vẫn là hình tượng phổ biến trong văn học. Tuy nhiên, ở giai đoạn
này chiến tranh được phản ánh từ góc độ mới, quan niệm nghệ thuật về con
người có sự thay đổi. Hình tượng người lính được tiếp cận dưới góc nhìn đa
dạng, khách quan và chân thực hơn.
Về vai trò
Nếu trong giai đoạn trước, người lính xuất hiện là những con người tập
thể, con người cộng đồng, con người mang lý tưởng của cả dân tộc, những
con người ra chiến trận với một niềm tin rạo rực về chiến thắng thì đến giai
đoạn này, người lính được tiếp cận dưới góc nhìn của con người cá nhân, con
người đời thường với đầy đủ những trạng thái: niềm vui, nỗi buồn, hạnh phúc,
khổ đau.. , những góc khuất riêng tư của người lính được các nhà văn đào xới,
mổ xẻ. Không dễ gì để đặt dấu chấm hết cho những nỗi đau trần thế, chiến

10


tranh đã qua đi, tiếng súng đã lặng im, những “va đập vật chất”, “đau đớn vật
chất” (chữ dùng của Khuất Quang Thụy) không còn nữa nhưng những vết
thương lòng vẫn âm ỉ rạo rực mà khôn nguôi. Hình ảnh người lính trong giai
đoạn này gắn với những thế sự đời tư, những day dứt ám ảnh của thời hậu
chiến, độ lùi thời gian khiến các nhà văn có sự chiêm nghiệm, nhìn cuộc chiến
bao quát và đầy đủ hơn về thân phận con người, kết quả và hậu quả của cuộc
chiến, sự vinh quang và tinh thần hòa giải.
Không còn là sự né tránh hiện thực tàn khốc hay tô hồng cuộc sống mà
tái hiện một cách nguyên vẹn những nỗi đau nhân bản, tiểu thuyết viết về
chiến tranh sau năm 1975 đã làm được điều đó. Như trong Thời xa vắng của
Lê Lựu, bi kịch của người lính xuất thân từ nông thôn vẫy vùng trong vũng

lầy của hủ tục, lúc trưởng thành thì sống trong môi trường tuy chân thành
nhưng ấu trĩ, lương thiện chất phác nhưng thiếu tự tin, lối sống đơn giản xuề
xòa, chính vì thế luôn gặp bất hạnh trong mối quan hệ với gia đình và tình
yêu. Hay trong Ăn mày dĩ vãng của Chu Lai là sự cố tình lãng quên quá khứ,
lãng quên một thời gian khổ hào hùng do sự choáng ngợp trước cuộc sống
thời bình, hậu quả là chối bỏ chính mình, chối bỏ đồng đội. Là Kiên trong Nỗi
buồn chiến tranh (Bảo Ninh), vật vã trong chiến tranh, lay lắt trong hòa bình,
luôn bị ám ảnh bởi cuộc chiến đã qua. Là Huấn trong Vòng tròn bội bạc (Chu
Lai), số phận trượt dài trên con đường tội lỗi do chiến tranh “vẹt mòn ra” để
rồi trở thành con người tha hóa, phi nhân bản. Các nhà văn chạm sâu vào mọi
khía cạnh của đời sống con người, những người lính thời hậu chiến, những bí
ẩn và những uẩn khúc về số phận con người, từ đó chiến tranh được nhận
thức và thể hiện một cách đúng đắn, đầy đủ và mang sức khái quát cao.
Mặt khác, trong giai đoạn này, các nhà văn có điều kiện nhìn nhận
những con người tham gia chiến trận từ hai phía, lý giải chiến tranh dựa trên
nguyên tắc nhân bản, đặt hai bên chiến tuyến trong mối tương quan về trí tuệ
và nhân cách. “Phe ta” và “phe địch” được mang đặt lên bàn cân, so sánh và
đối chiếu một cách công bằng, sòng phẳng. Nếu như ở giai đoạn trước, hình
tượng người lính ở phía bên kia chiến tuyến rất ít được miêu tả và quan tâm,
nếu có thì cũng bạo tàn, khát máu như thằng Xăm trong Hòn đất (Anh Đức)
hay là một sĩ quan Mỹ nham hiểm và máu gái nhiều tiền nào đó.. thì đến giai
đoạn này, cái nhìn đó có nhiều thay đổi hơn so với trước. Nhân vật “phe ta”
11


không hiện diện như những con người được lý tưởng hóa mà là những con
người bình thường, không toàn diện như viên ngọc không tỳ vết (Khúc bi
tráng cuối cùng - Chu Lai, Bến đò xưa lặng lẽ - Xuân Đức) ... và ngược lại,
hình ảnh những người lính “phe địch” cũng không còn được đóng vai là
những kẻ khát máu bạo tàn, những con người ngu dốt nham hiểm, mà là

những con người bình thường, trong chiến trận biết xông pha, ở đời thường là
những tâm hồn lãng mạn (Thượng Đức – Nguyễn Bảo, Ngày rất dài – Nam
Hà..). Kẻ thù của chúng ta ở phía bên kia chiến tuyến họ vẫn là những con
người có suy tư, khát vọng hòa bình, có lý tưởng khi cầm súng, nhưng họ thất
bại do thiếu chính nghĩa, không có sự cộng hưởng của cộng đồng (Đối chiến –
Khuất Quang Thụy).
Nhìn chung, người lính trong tiểu thuyết sau 1975 có sự thay đổi rõ rệt
so với giai đoạn trước, độ lùi thời gian giúp các nhà văn nhìn nhận về người
lính có sự mở rộng, cái nhìn nhân văn hơn, thông cảm hơn.
1.2. Nhà văn Khuất Quang Thụy và tiểu thuyết Đối chiến
1.2.1. Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của nhà văn Khuất Quang Thụy
1.2.1.1. Cuộc đời
Nhà văn Khuất Quang Thụy sinh ngày 12 tháng 1 năm 1950; quê ở
làng Thanh Phần, xã Phúc Hòa, huyện Phúc Thọ, tỉnh Hà Tây cũ, nay thuộc
thành phố Hà Nội.
Ông xuất thân trong một gia đình nông dân, ngay sau khi tốt nghiệp
phổ thông trung học năm 1967, ông nhập ngũ và chiến đấu trong đội hình Sư
đoàn 320 (Đại đoàn Đồng Bằng anh hùng) tại các mặt trận nổi tiếng là ác liệt
như: Quảng Trị, Tây Nguyên, từ đường 9 Nam Lào đến Đông Nam Bộ ...
Chính những trải nghiệm thực tế này đã giúp bản thân ông có thêm nhiều tư
liệu quý giá, những thước phim sống động chạy trước con mắt của nhà văn
hơn hẳn những câu từ kể lại dưới góc nhìn của kẻ khác, để từ đó làm chất liệu,
nguồn cảm hứng để ông có thể chắp bút viết nên những tác phẩm văn học về
đề tài chiến tranh của mình.
Năm 1976, ông được điều về Trại sáng tác văn học của Tổng cục Chính
trị và sau đó học Trường Viết văn Nguyễn Du khóa I. Tốt nghiệp, nhà văn
Khuất Quang Thụy về Tạp chí “Văn nghệ Quân đội”, lần lượt trải qua các
12



chức vụ: Biên tập viên, Trưởng ban Văn xuôi rồi Phó tổng biên tập. Sau đó
chuyển sang làm Tổng biên tập trang thông tin điện tử Vanvn.net của Hội nhà
văn Việt Nam, Phó tổng biên tập phụ trách – Tổng biên tập báo “Văn Nghệ”
cho đến ngày nay.
Ông là Đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam, Hội viên Hội nhà văn Việt
Nam, hiện ông đang sinh sống và công tác ở Hà Nội.
1.2.1.2. Sự nghiệp sáng tác văn học của nhà văn Khuất Quang Thụy
Nhà văn Khuất Quang Thụy (1950) có các bút danh là Hưng Long, Vân
Huyền.
Ông sáng tác tiểu thuyết và truyện ngắn, kí sự mặt trận, ngoài ra ông
còn sáng tác thơ, tuy số lượng không nhiều nhưng thơ ông mang những phong
cách riêng không lẫn với ai.
Về tiểu thuyết, có thể kể đến những tác phẩm chính: Trong cơn gió lốc,
Trước ngưỡng cửa bình minh, Giữa ba ngôi chúa, Góc tăm tối cuối cùng,
Những bức tường lửa, Đối chiến ..
Về truyện ngắn, những tập truyện ngắn tiêu biểu như: Thềm nắng,
Người ở bến Phù Văn, Tứ đại Mỹ nhân ...
Về kí sự mặt trận thì có Lửa và thép.
Kể đến thơ, có thể kể đến những bài thơ: Qua cầu treo, Nỗi nhớ, Bông
hồng trắng, Chiếc gương soi bên buồng lái, Hoa trên đường, Phù sa đỏ, Điệu
múa hái dâu, Kỉ niệm mùa mưa, Kỉ niệm một tuần trăng ...
Với những cống hiến trong lĩnh vực văn chương, ông đã đạt được nhiều
giải thưởng trong sự nghiệp sáng tác của mình. Ông đạt giải thưởng Nhà nước
về Văn học nghệ thuật cho cụm 3 tiểu thuyết: Trong cơn gió lốc, Không phải
trò đùa và Góc tăm tối cuối cùng, 2017. Giải nhất cuộc thi viết truyện ngắn
của Tạp chí Văn nghệ Quân đội. Giải thưởng Văn học của Bộ Quốc phòng
với tiểu thuyết Không phải trò đùa năm 1984; và tiểu thuyết Những bức
tường lửa năm 2004.
1.2.2. Vài nét về tiểu thuyết Đối chiến
“Có một dạo, tiểu thuyết hay truyện ngắn của ta khi mô tả đối phương,

thường vẽ lên hình ảnh họ là những kẻ khát máu và ngu độn, đểu cáng và ti

13


tiện...trong ý nghĩ và nhất là trong hành động... Loại nhân vật “ngụy”, kẻ thù
này đương nhiên, bị tác giả gọi là thằng, là hắn, là y... với thái độ căm ghét,
khinh bỉ, nguyền rủa... tất nhiên.
Nhưng đến Đối chiến thì khác hẳn, các tướng tá và những người lính
trong quân đội Sài Gòn cũ, đều được nhà văn gọi là anh hoặc gọi theo chức
vụ, quân hàm. Hơn thế, từ mô tả của tác giả, ta thấy hình ảnh các binh sĩ này
cũng có những phẩm chất tốt và đẹp như có ý thức kỷ luật và bản lĩnh tác
chiến, có lòng tự tôn và tình đồng đội thực sự. Họ cũng trung thực với lẽ sống
và tình yêu của mình. Nhiều trang dựng lại trận chiến khốc liệt, đẫm máu với
thân xác của đôi bên, rồi cái chết bằng tự vẫn sau khi bắn hết đạn cả hai khẩu
súng luôn ở trong tay của đại tá Sơn Đường là thật sự bi tráng, hào hùng”.
Đây là lời nhận xét của Nguyên An về cuốn tiểu thuyết Đối chiến và
được in ở phía đằng sau của cuốn sách. Chỉ cần vài dòng chia sẻ ngắn gọn đã
thể hiện được cái nhìn mới mẻ và sáng tạo của Khuất Quang Thụy, một góc
nhìn mới về cuộc chiến dưới con mắt thời hậu chiến, góc nhìn sòng phẳng
giữa “phe ta” và “phe địch”, giờ đây những người lính bên kia chiến tuyến
không còn là những kẻ khát máu, vô danh, mờ nhạt ...
Là một nhà văn trưởng thành từ mưa bom bão đạn của chiến tranh,
dường như các tác phẩm của ông đều phản ánh đề tài này và Đối chiến cũng
không vượt ra khỏi dòng chảy mãnh liệt đó. Ông quan niệm “Chẳng cuốn tiểu
thuyết nào vĩ đại hơn cuộc đời”, chính vì thế trong mỗi trang văn của mình,
ông đều lựa chọn những tấm phông nền bằng những sự kiện có thật trong thực
tế, và ở Đối chiến, Khuất Quang Thụy lựa chọn tấm phông nền là chiến dịch
Đường 9 – Nam Lào mùa xuân năm 1971 (phía Mỹ và Quân đội Sài Gòn gọi
là Chiến dịch Lam Sơn 719). Đây được coi giai đoạn quan trọng nhất, gần

như có tính quyết định sự thành hay bại của “Chiến lược Việt Nam hóa” của
Nhà Trắng và Lầu năm góc nhằm tìm cho nước Mỹ con đường rút lui trong
danh dự khỏi cuộc chiến tại Việt Nam.
Đây là cuốn tiểu thuyết thứ năm của ông viết về chiến tranh và người
lính, nhưng đây là tác phẩm được tác giả dụng công dựng lên một cách toàn
diện diện mạo của quân đội đối phương trên chiến tranh, với cái nhìn khách
quan và sòng phẳng.

14


Chương 2: HIỆN THỰC VÀ CUỘC SỐNG CỦA NGƯỜI LÍNH
TRONG CHIẾN TRANH

Sinh thời, nhà văn Nguyễn Minh Châu khi đọc những áng văn của nhà
văn Khuất Quang Thụy đã nói rằng: “Các cậu có cái may mắn lớn là được
nhìn chiến tranh bằng “mắt thường” chứ không phải qua cặp kính của nhà văn
đi thực tế” [12]. Thật đúng như vậy, với gần bốn mươi lăm năm phục vụ trong
quân đội, trong đó có 9 năm trực tiếp tham gia chiến đấu tại các chiến trường,
và đặc biệt trong chín năm đó ông chỉ phục vụ tại một sư đoàn bộ binh chủ
lực - đó là Sư đoàn 320, một trong những sư đoàn chủ lực cơ động quan trọng
nhất của quân đội ta. Khuất Quang Thụy bằng chính cặp mắt đời thường của
mình để nhìn nhận và đánh giá chiến tranh mà không cần phải thông qua một
lớp văn hay bất cứ một đôi mắt khác nào, phải chăng chính vì vậy mà lớp văn
của ông rất thật, rất đời thường, bao quát và toàn cảnh hơn.
Với Đối chiến, từng lớp từng lớp nhân vật được bóc tách, càng đi sâu
càng tìm hiểu ta càng nhận thấy rằng hình ảnh người lính được hiện lên dưới
nhiều góc độ, khám phá dưới nhiều điểm nhìn, những góc khuất cá nhân
không còn sự né tránh, không thi vị hóa. Quan trọng hơn cả, tác phẩm không
làm phai mờ phẩm chất tốt đẹp, lí tưởng cao đẹp của người lính cách mạng

mà ngược lại, tỏa sáng trong chính những hoàn cảnh phức tạp, khắc nghiệt
của cuộc chiến. Chân dung người lính cách mạng hiện lên chân thực hơn,
người hơn và giàu chất sống hơn.
2.1. Người lính với hiện thực tàn khốc của chiến tranh
Như đã nói ở trên, Khuất Quang Thụy là một trong những nhà văn viết
về tiểu thuyết sau năm 1986 có cái nhìn mới mẻ về tư tưởng cũng như quan
điểm nghệ thuật. Đề tài chiến tranh trong những cuốn tiểu thuyết mà ông viết
trong giai đoạn này là minh chứng rõ ràng nhất, và cụ thể, tác phẩm Đối chiến
là một minh chứng rõ rệt cho điều đó. Nếu như trong văn học giai đoạn trước
năm 1986, hình ảnh người lính “phe ta” được xây dựng theo một nguyên mẫu
lý tưởng, một con người mang vẻ đẹp của cộng đồng, toàn diện và toàn bích
và ngược lại, người lính “phe địch” được vẽ nên bởi những nét vẽ hung dữ,
dữ tợn, nham hiểm, hèn nhát ... thì đến giai đoạn sau 1986, đề tài chiến tranh
15


khoác lên mình tấm áo mới. Và ở đây, đặt trên góc nhìn của Khuất Quang
Thụy, cụ thể là tác phẩm Đối chiến, hình ảnh người lính cả “phe ta” và “phe
địch” được tiếp cận dưới góc nhìn khách quan, công tâm hơn rất nhiều. Chiến
tranh là mất mát, chiến tranh là đau thương, chiến tranh là những gian khổ
khốc liệt không ai mong muốn, cả “phe ta” lẫn “phe địch”. Chính vì vậy, khi
“đào bới” tấm phông nền hiện thực chiến tranh tàn khốc này, tôi sẽ nhìn nhận
dưới hai góc độ, cả “phe ta” và “phe địch”.
2.1.1 Người lính Cách mạng với hiện thực chiến tranh khốc liệt
Ngay khi đọc những trang đầu của tác phẩm, Khuất Quang Thụy đã vẽ
nên một bức tranh về những mất mát đau xót mà chiến tranh đem lại, hình ảnh
về những người lính cụ Hồ không còn là những binh đoàn oai vệ “bước đều
bước”, sôi nổi, khí thế, mang trong mình những khát vọng của dân tộc, ý chí,
niềm tin nữa mà hình ảnh về họ lại buồn, đau xót đến như vậy :”Tiếng là một
tiểu đoàn, nhưng vào thời điểm này tiểu đoàn của Thịnh chỉ còn hơn trăm

người. So với hồi đầu năm 1968, khi đơn vị bắt đầu nố súng tham gia chiến
dịch Tổng tiến công Tết Mậu Thân thì quân số chỉ còn một phần ba. Hai năm
chiến đấu liên miên đã khiến tiểu đoàn rơi rụng mấy trăm lính. Số hi sinh, số
bị thương bị loại khỏi vòng chiến đấu chiếm nhiều hơn cả. Tuy vậy cũng có
một số kẻ đào ngũ và chừng vài chục người còn mất tích ... Hai năm trước
trung đoàn ta ra trận với hàng ngàn quân, người lính nào cũng trẻ trung tươi
đẹp như một rừng hoa, toàn quân mũ sắt sáng ngời quân phục mới tinh, khí
thế như rồng như hổ. Vậy mà hôm nay trung đoàn xơ xác thế này đây. Chúng
ta đã đánh vài chục trận lớn nhỏ, lập những chiến công lẫy lừng, tiêu diệt
hàng ngàn tên Mỹ. Nhưng phải nói thẳng, chúng ta cũng thương tích đầy
mình.” [9,tr.13] Không hoa mỹ, cầu kì và văn chương của Khuất Quang Thụy
luôn mang đến thứ cảm giác rất đời rất thường và rất dung dị. Ông không hề
tô hồng hay phủ những mảng màu tươi sáng vào hiện thực cuộc sống tàn khốc
này, ông nhìn trực diện vào những mất mát mà chiến tranh đã gây ra, từ một
tiểu đoàn đông đủ nay chỉ còn hơm trăm người, “quân số chỉ còn một phần
ba”, hai năm chiến đấu “rơi rụng mấy trăm lính”, đó là cách mà chiến tranh
gây ra,cướp đi hàng ngàn sinh mệnh, đó là những cuộc chiến đầy máu và
nước mắt. Không những vậy, chiến tranh còn khiến một trung đoàn “trẻ trung
tươi đẹp”, “mũ sắt sáng ngời”, “khí thế như rồng như hổ” thành trung đoàn
16


“xơ xác”, bản chất của chiến tranh là vậy, tàn nhẫn, nó không chỉ tước đi
quyền sống của hàng ngàn người lính, mà nó còn tước đi cái khí thế, cái hăm
hở của những ngày đầu ra trận. Khuất Quang Thụy còn thẳng thắn thừa nhận
rằng “Chúng ta đã đánh vài chục trận lớn nhỏ, lập những chiến công lẫy lừng,
tiêu diệt hàng ngàn tên Mỹ. Nhưng phải nói thẳng, chúng ta cũng thương tích
đầy mình” [9, tr.13]. Để đạt được những chiến công đó, ta phải đánh đổi bằng
máu, bằng nước mắt, bằng cả chính mạng sống của mình, bên cạnh những
vinh quang chiến thắng là những vết sẹo của chiến tranh, cả những vết sẹo

trên cơ thể người lẫn những vết thương lòng cho dù cuộc chiến đã qua đi.
Khi đọc Đối chiến đôi khi ta nhận thấy có những câu văn tưởng chừng
là bông đùa cợt nhả không mục đích, nhưng đằng sau nó chính là một ẩn ý
đầy tinh tế của Khuất Quang Thụy: “Tớ vẫn nghĩ sau chiến tranh ở nước mình
chỉ có nghề làm vàng mã là chắc ăn nhất. Cung sẽ luôn không đủ cầu” [9,
tr.23]. Đây là lời mà tiểu đoàn trưởng Kiều Bá Thịnh nói với trợ lí tác chiến
của trung đoàn Lê Hoài Dân trong một cuộc nói chuyện phiếm. Không hề
miêu tả, không hề kể một cách trực tiếp và trần trụi những tàn dư mà chiến
tranh để lại, chỉ đơn giản là những cuộc nói chuyện bình thường, nhưng lại
bình thường đến đau thương. Chiến tranh kết thúc, những gì người ta nghĩ đến
không phải là tương lai tươi sáng đẹp đẽ, nó là những đau thương và mất mát.
Ở đây, những gì người ta nghĩ đến chính là cái chết “nghề làm vàng mã là
chắc ăn nhất” bởi vì “cung sẽ luôn không đủ cầu”. Trong Truyền thuyết về
hoa phượng, nhà văn Chu Văn đã viết: “Thời loạn ly đẻ ra bi kịch. Thời hậu
chiến, những bi kịch cũ mới nổi cơn đau, thấm thía, xót xa hơn” [9, tr.3].
Chiến tranh đã qua đi, nhưng những tàn dư vết tích mà nó để lại thì khó để
xòa nhòa, bản thân là những người “đầu tàu” trong con thuyền đầy bão đạn, là
những người trực tiếp tham gia chiến trận, chính vì vậy, người lính họ suy
nghĩ về hậu chiến không hề bay bổng lãng mạn, mà rất đời thường và thực tế.
Thẳng thắn nhìn nhận, tránh sự khiên cưỡng một chiều, đó có lẽ là cái cách
mà những nhà văn viết tiểu thuyết về đề tài chiến tranh sau 1986 lựa chọn để
gửi gắm suy nghĩ trăn trở của mình trong những “đứa con tinh thần”, khác xa
với những gì đẹp đẽ mơ mộng của văn chương trước năm 1986.
Bom rơi, đạn lạc và đi kèm với nó là máu chảy, đầu rơi. Chiến tranh
vẫn luôn lạnh lùng như vậy, nó cướp đi tất thảy sinh mệnh hay những bộ phận
17


trên cơ thể của người lính. “Nhưng nó chết cũng thảm quá. Trúng nguyên một
quả pháo, bọn em chỉ nhặt được cái đầu nát bấy với hai cái cẳng chân” [9,

tr.15] hay “Đây là con Thảo, em út đại đội 4. Mà ... hai cái chân của nó đâu
rồi hả trời !” [9, tr.56]. Chỉ bằng vài câu văn ngắn nhưng đã hiện lên trong
mắt bạn đọc hình ảnh về cái chết bi thảm, xót xa của người lính, một cái chết
không còn nguyên vẹn. Không còn là cái chết “tựa lên súng mũ bỏ quên đời”
nhẹ nhàng và thanh thản nữa mà đó là cái chết đầy bi thảm.
Không những thế, có những đoạn mà Khuất Quang Thụy dành gần hai
trang giấy của mình miêu tả cảnh chết chóc đến rợn người. Đó là khi Mỹ đánh
bom rải thảm, hủy diệt, tấn công vào nông trường Quyết Thắng, càn quét vào
một tiểu đoàn thanh niên xung phong vừa tập kết: “Xác người ở khắp nơi.
Xương thịt, áo quần, tóc tai đàn bà con gái văng ra khắp nơi. Mùi máu trộn
với mùi thuốc bom thuốc đạn xông lên nồng nặc, ngấm vào từng ngõ ngạc,
từng ngọn cỏ, lá cây tạo nên một vùng không gian xú ếu âm u tang tóc đến
rợn người” [9, tr.54], “những thi thể và rất nhiều những phần bị xé ra từ
những cơ thể thanh tân, tràn đầy sức sống của những người con gái liên tiếp
được đưa xếp về thành những hàng dài trên những tấm tăng, tấm bạt trải trên
nền đất đỏ ...” [9, tr.55]. Có lẽ phông nền hiện thực quá đỗi tàn khốc, ghê rợn,
đáng sợ tới mức khiến tiểu đoàn trưởng vốn “là một người nổi tiếng gan góc
trong chiến đấu nhưng tiểu đoàn trưởng Kiều Bá Thịnh cũng cảm thấy rụng
rời, ớn lạnh khi qui mô cuộc tàn sát dần dần được phơi bày dưới ánh mặt trời”
[9, tr.54] huống chi những người bình thường, có lẽ vì thế mà trước cảnh
tượng đầy ghê rợn này “những chị em sống sót thì tới lúc này vẫn hoảng loạn,
người thì chỉ biết chạy khắp nơi vừa khóc vừa la gọi đồng đội, người ôm xác
bạn bè mà khóc, nhiều người rơi vào trạng thái thần kinh bất định, không
ngừng la hét hoặc ngất lên ngất xuống.” [9, tr.55] một cảnh tượng đầy hỗn
loạn, tiếng khóc, tiếng rên xiết ai oán, tiếng la hét, những âm thanh cuồng nộ
trong một không gian tanh tưởi của máu. Những con người chưa từng chạm
đến những góc khuất của chiến tranh, chưa từng biết đến bom rơi đạn lạc,
chính vì vậy thật dễ hiểu khi những con người ấy mất kiểm soát khi đối diện
với hiện thực, đối diện với thần chết trong gang tấc.
Một chi tiết khá hay mà Khuất Quang Thụy tạo dựng trong Đối chiến,

đó chính là cảnh đoàn tụ của hai chị em, cô chị là thanh niên xung phong có
18


mặt trong mặt trong trận bom hủy diệt này, cậu em là Lê Văn Ngải, chiến sĩ
của đại đội 1 có nhiệm vụ khắc phục hậu quả của trận bom này. Là một người
chiến sĩ, ít nhiều cũng có những giây phút sinh ly tử biệt, chạm trán với cái
chết, tuy nhiên, Lê Văn Ngải lại không giữ được bình tĩnh, không giữ được
cái đầu lạnh, điên cuồng gào thét tìm chị: “Thả tôi ra! Thả tôi ra ... Tôi phải đi
tìm chị tôi. Chị tôi đâu ? Chị tôi đâu ? Chị Ngà ơi! Ơi chị Ngà ơi! Chị nằm
đâu rồi! Em là thằng Ngải ... Em trai của chị đây!” [9, tr.58] la hét, vẫy vùng,
gào rống, có lẽ cảm xúc của chàng trai trẻ này không còn nằm trong phạm vi
kiểm soát được nữa, chiến tranh khiến con người ta điên cuồng và hoảng loạn,
họ quên mất ý niệm về bản thân trong khoảnh khắc khi người thân của mình
sắp ra đi, quên mất bản thân là chiến sĩ bộ đội chủ lực, đang làm nhiệm vụ,
khoảnh khắc cậu lao vào những hàng xác chết, gào thét tên người chị trong vô
vọng “như một hòn đá lớn vừa rơi tõm vào cái vực chất chứa đầy ắp cảm
thương đang cố đè nén trong lòng các cô gái đứng xung quanh” [9, tr.60] Và
có lẽ, Khuất Quang Thụy không muốn nhân vật của mình cứ tiếp tục gào thét
trong sự tuyệt vọng, ông để cho hai nhân vật đoàn tụ với nhau, trong một
không gian đầy những thi thể đã “lạnh cứng”. Rồi tưởng chừng giây phút
đoàn tụ ấy cứ kéo dài thêm, thêm nữa, rồi kết thúc nó chính là một cái tát
giáng trời lên gương mặt người lính trẻ, khoảnh khắc đoàn tụ ngắn ngủi như
một điểm sáng le lói trong chuỗi hành trình nhặt xác đầy bi thương và mất
mát, như một niềm an ủi nhỏ bé trong sâu thẳm tâm hồn người lính. Tuy
nhiên, chính cái tát bất ngờ của tiểu đoàn trưởng Kiều Bá Thịnh đã thức tỉnh
mọi người khỏi chút ủy mị yếu đuối nhất thời này để trở về với bức tranh hiện
thực ảm đạm đầy máu và nước mắt. Để rồi, một câu nói của Kiều Bá Thịnh:
“Thế còn những cô bé đang nằm kia? ... Đã đứa nào kịp khôn lớn hay chưa.
Hả?” [9, tr.61] Không sai, nếu lấy lý do là trẻ người non dạ nên có những

hành động như vậy, vậy thì những con người đã nằm xuống kia, họ cũng vậy,
họ cũng chỉ là những thanh thiếu niên chưa kịp lớn, ra đi vì lý tưởng cách
mạng để rồi giờ đây ngã xuống với những vết tích không lành lặn, vậy thì
chút cảm xúc riêng tư của hai người kia phải chăng là sự bất công với họ?
Ngòi bút của Khuất Quang Thụy rất thật và rất trần trụi, chiến tranh và cái
chết, chiến tranh và mất mát, đau thương, chiến tranh với những gian khổ và
hi sinh, tất cả đều được lột cả một cách nguyên bản nhất trong Đối chiến.

19


×