Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

Chính sách cấm đạo của triều nguyễn từ năm 1820 đến năm 1883

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.64 MB, 85 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA LỊCH SỬ
--------------------

NGUYỄN THỊ ÁNH TUYẾT

CHÍNH SÁCH CẤM ĐẠO CỦA TRIỀU NGUYỄN
TỪ NĂM 1820 ĐẾN NĂM 1883

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam

HÀ NỘI - 2018


TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA LỊCH SỬ

======

NGUYỄN THỊ ÁNH TUYẾT

CHÍNH SÁCH CẤM ĐẠO CỦA TRIỀU NGUYỄN
TỪ NĂM 1820 ĐẾN NĂM 1883
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học

TS. CHU THỊ THU THỦY

HÀ NỘI - 2018




LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, cho phép tôi được trân trọng cảm ơn cô Chu Thị Thu Thủy
đã tận tình hướng dẫn và cho tôi những nhận xét, những bổ sung, những góp ý
bổ ích trong suốt quá trình tôi thực hiện và hoàn thành khóa luận của mình.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong Khoa Lịch sử trường
ĐHSP Hà Nội 2 đã nhiệt tình giảng dạy tôi trong suốt bốn năm qua, nhờ vậy
mà tôi đã tích lũy được cho bản thân những kiến thức khoa học và thực tiễn
để áp dụng vào quá trình nghiên cứu, học tập và làm việc của mình.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn gia đình đã động viên và tạo điều kiện
cho tôi học tập, nghiên cứu và hoàn thành khóa luận. Tôi xin gửi lời cảm ơn
sâu sắc tới những người bạn của mình đã cảm thông, ủng hộ, và giúp đỡ tôi
những lúc khó khăn trong suốt quá trình thực hiện khóa luận tốt nghiệp này.
Hôm nay, khóa luận được hoàn thành. Do trình độ nghiên cứu và thời
gian có hạn, khóa luận của tôi chắc chắn còn nhiều thiếu sót. Tôi rất mong
nhận được sự góp ý, nhận xét của thầy cô.
Tôi xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, tháng 5, năm 2018

Sinh viên

Nguyễn Thị Ánh Tuyết


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan, đây là công trình nghiên cứu của chính mình, không
sao chép một cách bất hợp lệ từ bất cứ nguồn nào. Tôi xin chịu mọi trách
nhiệm về tính xác thực và độ tin cậy của khóa luận tốt nghiệp này.
Hà Nội, tháng 5, năm 2018


Sinh viên

Nguyễn Thị Ánh Tuyết


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................ 2
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu ................................................. 3
4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu ................................................... 4
5. Đóng góp của khóa luận................................................................................ 5
6. Bố cục của khóa luận .................................................................................... 6
Chương 1: TÌNH HÌNH VIỆT NAM TRƯỚC NĂM 1820 ............................. 7
1.1. BỐI CẢNH LỊCH SỬ VIỆT NAM ........................................................... 7
1.1.1. Tình hình chính trị................................................................................... 7
1.1.2. Tình hình kinh tế ................................................................................... 10
1.1.3. Tình hình xã hội .................................................................................... 11
1.2. Tình hình tôn giáo Việt Nam dưới thời Gia Long ................................... 11
1.2.1. Chính sách độc tôn Nho giáo ................................................................ 11
1.2.2. Chính sách hai mặt đối với Thiên Chúa giáo ........................................ 13
Tiểu kết chương 1............................................................................................ 16
Chương 2: CHÍNH SÁCH CẤM ĐẠO CỦA TRIỀU NGUYỄN GIAI ĐOẠN
1820 – 1883 ..................................................................................................... 18
2.1. CHÍNH SÁCH CẤM ĐẠO DƯỚI THỜI MINH MẠNG (1820 - 1840) 18
2.2. CHÍNH SÁCH CẤM ĐẠO DƯỚI THỜI THIỆU TRỊ (1841 - 1847) .... 28
2.3. CHÍNH SÁCH CẤM ĐẠO DƯỚI THỜI TỰ ĐỨC (1847 - 1883) ........ 34
2.3.1. Chính sách cấm đạo dưới thời Tự Đức trước năm 1858....................... 34
2.3.2. Chính sách cấm đạo dưới thời Tự Đức từ năm 1858 đến trước năm

1862 ................................................................................................................. 43
2.3.3. Chính sách đối với Công giáo từ năm 1862 đến năm 1883 .................. 48
Tiểu kết chương 2............................................................................................ 51


Chương 3. HỆ QUẢ CỦA CHÍNH SÁCH CẤM ĐẠO ................................. 53
ĐỐI VỚI VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1820 – 1883 .......................................... 53
3.1. VỀ CHÍNH TRỊ - NGOẠI GIAO ............................................................ 53
3.2. VỀ AN NINH QUỐC PHÒNG ............................................................... 58
3.3. VỀ KINH TẾ ............................................................................................ 63
3.4. VỀ VĂN HÓA - XÃ HỘI ........................................................................ 68
Tiểu kết chương 3............................................................................................ 73
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 75
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 77


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Vương triều Nguyễn là vương triều phong kiến cuối cùng trong lịch sử
Việt Nam. Là vương triều có tầm ảnh hưởng mạnh mẽ tới tiến trình lịch sử
dân tộc, vương triều Nguyễn mang nhiều công trạng nhưng cũng mang nhiều
tội trạng. Trước đây các nhà nghiên cứu thường quy kết cho triều Nguyễn là
vương triều phản động, bán nước mà không thấy được những công lao to lớn
của vương triều này. Cho đến những năm gần đây, nhiều nhà sử học tiếp tục
nghiên cứu về vương triều Nguyễn và đã đưa ra những đánh giá xác thực,
khách quan hơn. Tuy vậy, vẫn có rất nhiều ý kiến chủ quan thiên về những tội
trạng của nhà Nguyễn, nhấn mạnh vào đó mà đánh giá. Vì nhiều ý kiến trái
chiều như vậy mà những công trình nghiên cứu về nhà Nguyễn vẫn còn thu
hút giới sử gia cho đến tận ngày nay.
Một trong những vấn đề nổi bật khi đi tìm hiểu về vương triều Nguyễn

là vấn đề cấm đạo. Chính sách cấm đạo của nhà Nguyễn được ban hành trong
một thời gian gian dài đã có tác động rất lớn tới mọi lĩnh vực của đời sống xã
hội ở Việt Nam. Từ đó tác động rất lớn tới vận mệnh quốc gia, dân tộc. Xét
thấy sự liên quan mật thiết giữa chính sách cấm đạo của triều Nguyễn với vận
mệnh dân tộc Việt Nam cần phải nghiên cứu đánh giá thêm, cho nên tôi muốn
góp một phần nhỏ vào việc giải đáp vấn đề cấm đạo dưới triều Nguyễn thông
qua khóa luận của tôi lần này.
Vì vậy, tôi chọn đề tài “Chính sách cấm đạo của triều Nguyễn từ năm
1820 đến năm 1883” làm đề tài nghiên cứu khóa luận tốt nghiệp của mình
nhằm làm sáng tỏ một số vấn đề về triều Nguyễn mà đến nay vẫn còn gây
tranh cãi, góp phần làm sáng tỏ một thời kỳ lịch sử đầy biến động của dân tộc.
Hơn thế nữa, vấn đề về tôn giáo và tư tưởng là một vấn đề nhạy cảm,
tác động lớn đến tình hình chính trị - xã hội kể cả trước đây hay hiện tại. Buộc

1


ta phải tìm hiểu kỹ lưỡng hơn, để có cái nhìn khách quan hơn. Nhất là trong
bối cảnh hiện nay, đời sống tôn giáo Việt Nam rất đa dạng nhưng cũng khá
phức tạp. Nghiên cứu về vấn đề này sẽ giúp ta có thêm lập trường vững vàng
về tư tưởng, từ đó có thể tìm ra giải pháp để giải quyết thỏa đáng nhất cho
những vấn đề tôn giáo hiện nay.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Đã có rất nhiều sách báo, văn bản nói về tôn giáo dưới triều Nguyễn.
Thậm chí cũng có nhiều nghiên cứu về vấn đề cấm đạo dưới triều Nguyễn.
Trong vấn đề về cấm đạo thì không thể không nhắc đến cuốn “Một số
vấn đề về lịch sử Thiên Chúa giáo ở Việt Nam” của Đỗ Quang Hưng, 1990,
Nhà xuất bản Đại học Tổng hợp Hà Nội. Cuốn sách là sự khái quát về Thiên
Chúa giáo, một tôn giáo lớn trên thế giới và những đặc điểm của tôn giáo này.
Tác phẩm này cho thấy được những nét cơ bản về Giáo hội Việt Nam, mối

quan hệ với chủ nghĩa thực dân và mối quan hệ với dân tộc.
Ngoài ra còn phải kể đến cuốn “Công giáo Việt Nam thời kỳ triều
Nguyễn (1802 - 1883)” của Nguyễn Quang Hưng do nhà xuất bản Tôn giáo
xuất bản tại Hà Nội, 2007 và những tác phẩm này cho ta cái nhìn khái quát về
sự phát triển của Công giáo Việt Nam, những thăng trầm trong lịch sử Công
giáo Việt Nam thời kỳ triều Nguyễn (1802 - 1883)
Ngoài ra còn có nhiều nghiên cứu đã quan tâm đến vấn đề cấm đạo và
chính sách cấm đạo, chính sách văn hóa dưới triều Nguyễn, như: “Chính sách
văn hóa triều Nguyễn (1802 - 1884)” (2014, Vũ Thị Phương Hậu, Nhà xuất
bản Chính trị Quốc gia), “Chính sách của triều Nguyễn đối với Thiên Chúa
Giáo”(2010) (Đỗ Bang, Tạp chí nghiên cứu lịch sử số 1), “Tìm hiểu chính
sách tôn giáo của Nhà Nguyễn trong giai đoạn 1802 - 1883 (từ Gia Long đến
Tự Đức)” (Trương Thúy Trinh (2004), Luận văn thạc sĩ, Trường đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn). Những nghiên cứu đó góp phần làm sáng tỏ

2


nguyên nhân ra đời của các chính sách văn hóa, tôn giáo của triều Nguyễn.
Đó là những nhận định, lập trường để tôi tham khảo, đánh giá khách quan hơn
về vấn đề nghiên cứu.
Những tư liệu, sách báo kể trên, là căn cứ cho lập luận của tôi và những
nghiên cứu của các tác giả cung cấp những nhận định giúp tôi tham khảo và
đánh giá một cách khách quan hơn.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Thông qua việc nghiên cứu vấn đề cấm đạo dưới triều Nguyễn từ năm
1820 đến năm 1883, khóa luận góp phần làm sáng tỏ một trong những vấn đề
nổi cộn trong giai đoạn lịch sử Việt Nam thế kỉ XIX.Từ đó cho thấy những
vấn đề chính trị - xã hội diễn ra đầy phức tạp trong thời kỳ này, phân tích

những hệ quả từ chính sách cấm đạo của triều Nguyễn tác động đến các lĩnh
vực của đời sống xã hội. Từ đó sẽ lí giải và đánh giá được nguyên nhân nền
độc lập của Việt Nam bị rơi vào tay thực dân Pháp trong thời kỳ này.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Thứ nhất là thấy được bối cảnh diễn ra những chính sách cấm đạo, lí
giải được nguyên nhân dẫn đến chính sách cấm đạo của các vị vua Nguyễn.
Thứ hai là nêu lên những dẫn chứng cụ thể về các đạo dụ, các biện
pháp thi hành, tình hình thực hiện các biện pháp đó như thế nào.
Thứ ba là phân tích những hệ quả mà chính sách cấm đạo đó gây ra đối
với chính trị - ngoại giao, an ninh - quốc phòng, kinh tế, văn hóa - xã hội Việt
Nam đương thời.
3.3. phạm vi nghiên cứu:
Về thời gian: Trong khóa luận này, tập trung vào việc khai thác, nghiên
cứu những sự kiện, đạo dụ cấm đạo và việc thi hành những đạo dụ đó trong
khoảng thời gian từ năm 1820 đến năm 1883, tức là từ đầu thời Minh Mạng

3


cho đến khi triều Nguyễn để mất độc lập vào tay thực dân Pháp vào năm
1883.
Về không gian: Khóa luận tập trung nghiên cứu vấn đề cấm đạo ở Việt
Nam và những hệ quả mà chính sách cấm đạo gây ra tại Việt Nam.
4. Nguồn tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Nguồn tƣ liệu
Khóa luận dựa vào những tư liệu chính sau:
Đầu tiên phải kể đến những văn bản gốc của Quốc sử quán triều
Nguyễn, đó là các tập Đại Nam thực lục chính biên tập 8, Đại Nam thực lục
chính biên tập 9, Đại Nam thực lục chính biên tập 25,...Đây là một nguồn tư
liệu quý giá và xác thực về những đạo dụ đã được ban ra, trong mỗi hoàn

cảnh khác nhau. Cho thấy rõ những phản ứng của triều đình Nguyễn đối với
Công giáo thay đổi như thế nào.
Bên cạnh đó còn nhiều nguồn tài liệu lưu trữ tại thư viện quốc gia Việt
Nam bao gồm các sách báo và tài liệu khác như “Công giáo Việt Nam thời kỳ
triều Nguyễn (1802 - 1883)” (Nguyễn Quang Hưng (2007), Nhà xuất bản Tôn
Giáo); “Tản mạn lịch sử Giáo hội Công giáo Việt Nam” (Đỗ Quang Chính
(2008), Nhà xuất bản Tôn Giáo); “Việt Nam sử lược” (Trần Trọng Kim
(2008), Nxb Văn học). Cung cấp những tư liệu, những dẫn chứng xác thực
góp phần làm sáng tỏ những nhận định, những đánh giá của tôi trong khóa
luận này.
Ngoài ra, còn có một số luận án như:“Tìm hiểu chính sách tôn giáo của
Nhà Nguyễn trong giai đoạn 1802 - 1883 (từ Gia Long đến Tự Đức)” (Trương
Thúy Trinh (2004), Luận văn thạc sĩ, Trường đại học Khoa học Xã hội và
Nhân văn); “Tư tưởng chính trị - xã hội của Minh Mệnh và ảnh hưởng của nó
đối với chế độ phong kiến Việt Nam dưới triều Nguyễn” (Phan Thị Thu
Hằng, 2015, Luận án tiến sĩ, Trường đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn).

4


Những luận án đó sẽ giúp tôi hiểu thêm về những nhận định về chính
sách văn hóa và chính sách tôn giáo trong thời kỳ này, cung cấp những khía
cạnh tiếp cận mới, đóng góp những đánh giá khác nhau làm lập luận thêm
phong phú cho bài khóa luận.
4.2. Phƣơng pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu chủ yếu của đề tài là phương pháp lịch sử và
logic. Trong đó việc kết hợp các công việc tổng hợp, phân tích, chọn lọc tài
liệu, đánh giá vấn đề một cách xác thực nhất cũng là yếu tố quan trọng. Các
sự kiện liên quan được đưa ra gắn với ý nghĩa thực tiễn của đề tài, phương
pháp so sánh, lấy dẫn chứng từ đó đưa ra kết luận đúng đắn nhất về toàn cảnh

của vấn đề cần nghiên cứu.
Trong quá trình sưu tầm và xử lý tài liệu, tác giả tiến hành giám định và
xác miảo lộn một cách rõ rệt tất cả phong tục và
tập quán bản xứ; (...) nó làm rung chuyển và đe dọa làm tan rã nền móng của
nhà nước, của gia đình và của xã hội Việt Nam” [34; tr.321].

68


Ngay từ Gia Long, ông đã có những bất đồng với Công giáo trong vấn
đề nghi lễ. Xuất phát từ việc coi Khổng giáo là tôn giáo độc tôn, các vua triều
Nguyễn cực kỳ coi trọng tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên vì rằng chữ “Hiếu” là
một trong những phạm trù đạo đức chính yếu của Khổng giáo. Trong sách
Trung Dung có nói: “Thờ cha mẹ lúc chết rồi cũng như còn sống ấy là hiếu rất
mực vậy” [2; tr.257].
Vì vậy tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên được coi là một điều vô cùng quan
trọng vì nó gắn liền với sự củng cố quan hệ gia đình, họ hàng, quan hệ làng
xã, quan hệ tự nhiên theo huyết thống, được nhà nước quân chủ phong kiến
duy trì, được học thuyết nho giáo cổ vũ, khẳng định, phát triển mạnh mẽ trong
thế kỷ XIX. Nên, vấn đề nghi lễ có một vai trò vô cùng quan trọng để duy trì
củng cố ý thức hệ nho giáo. Nhận thức rõ tầm quan trọng và ý nghĩa sâu xa
của tín ngưỡng cổ truyền của người dân Việt Nam, thái độ và sự ứng xử của
các nhà vua triều Nguyễn tập trung chủ yếu vào việc giữ gìn những tín
ngưỡng truyền thống mà trước hết là sự thờ cúng tổ tiên, sau nữa là các anh
hùng dân tộc và những người có công với dân với nước, các vị thần linh khác.
Trong khi đó, hệ tư tưởng Nho giáo mà nhà Nguyễn sử dụng là một học
thuyết chính trị xã hội với mục đích tối cao là thiết lập trật tự xã hội, có đẳng
cấp trên dưới phân biệt rõ ràng cả về quy phạm đạo đức lẫn nghĩa vụ báo đáp
ân nghĩa của con người đối với bề trên. Cho nên vấn đề nghi lễ liên quan mật
thiết ý thức hệ Nho giáo, liên quan mật thiết tới tín ngưỡng truyền thống, liên

quan trực tiếp tới tính trung ương tập quyền và sự tồn tại của triều đình phong
kiến nhà Nguyễn. Từ đó, các vị vua triều Nguyễn có sự bất đồng đối với
Thiên Chúa giáo với những giáo lý của nó là điều dễ hiểu.
Bất đồng quan điểm của Gia Long về vấn đề nghi lễ đối với đạo Thiên
Chúa càng trở nên sâu sắc khi hoàng tử Cảnh sau khi từ Pháp trở về đã không
làm lễ ở nhà thờ tổ tiên, khiến Gia Long hết sức bất ngờ và phiền lòng, nhận
thấy mối nguy hại của tôn giáo này, ông trở nên hết sức đề phòng.

69


Đối với Thiên Chúa giáo “Thờ cúng tổ tiên” là cụm từ càng gây khó
hiểu, rắc rối cho bao người! Các thừa sai hiểu, “thờ” chỉ dành cho một thiên
chúa duy nhất, ngoài ra bất cứ một tạo vật nào, một thần thánh nào dù cao cả
đến đâu cũng còn kém xa Thiên Chúa vô cùng, nên không được dùng danh từ
“thờ”, mà phải dùng danh từ khác như “kính”, “tôn vinh”... kẻ nào dám “thờ”
những nhân vật, những thần thánh, khác đều tỏ ra không tin “thờ” một Thiên
Chúa, chối bỏ Thiên Chúa, rơi vào cái bẫy “đa thần”, “mê tín dị đoan” [3;
tr.92].
Giáo lí đạo Thiên Chúa chỉ cho phép thờ duy nhất một vị thánh tối cao
là Jesu. Vì vậy, nó đe dọa rất lớn tới văn hóa, tín ngưỡi cổ truyền Việt Nam.
Chính vấn đề nghi lễ là một trong những nguyên nhân hàng đầu khiến nhà
Nguyễn ban hành chính sách cấm đạo và chính sách đó đã có tác động không
nhỏ tới nền văn hóa xã hội Việt Nam lúc bấy giờ. Hệ quả là làm cho văn hóa
Việt Nam không có điều kiện giao lưu tiếp xúc với nền văn hóa bên ngoài,
không học hỏi được những tư tưởng tiến bộ từ các nước trên thế giới, đặc biệt
là phương Tây. Càng làm cho hệ tư tưởng Nho Giáo độc tôn lúc này không có
sự chuyển mình để thích ứng với thời đại. Mà thay vào đó là sự bảo thủ, giáo
điều và bản thân triều đình nhà Nguyễn cùng với tư tưởng Nho Giáo đó dần
trở nên trì trệ trước sự phát triển của thời đại, từ đó ảnh hưởng tới nền giáo

dục nước nhà, tư tưởng của dân tộc cũng trở nên lạc hậu hơn so với nền văn
minh thế giới. Khiến tư duy của con người Việt Nam không theo kịp thời đại.
Tuy nhận thức được điều đó nhưng đứng trước một số tư tưởng cải cách như
của Nguyễn Trường Tộ, vua Tự Đức vẫn còn giữ thái độ rụt rè, thậm chí là
bảo thủ mà không tiến hành canh tân đất nước.
Triều Nguyễn chỉ nhìn Thiên Chúa giáo và giáo lý của họ như một thứ
tà đạo làm ảnh hưởng và đe dọa đến tín ngưỡng tôn giáo truyền thống của
Việt Nam. Thậm chí là đe dọa trực tiếp tới sự tồn vong của triều đình phong

70


kiến Nguyễn. Mà không thấy được những đóng góp của một tôn giáo khác
trên thế giới, đại diện cho một nền văn minh khác. Nó đã trở thành cầu nối
cho sự giao lưu giữa nền văn minh phương Đông và phương Tây, sự giao lưu
tiếp xúc giữa hai nền văn hóa khác nhau mà theo nhà sử học Phan Huy Lê
nhận xét rằng: “Trong hàng ngũ giáo sĩ có những người chỉ hoạt động vì đức
tin và cũng góp phần truyền bá một số thành tựu văn minh phương Tây vào
Việt Nam. Nhà toán học và thiên văn học Jean Baptisle Sanna (Ý), Sebatien
Pices (Bồ), Francoi de Lima (Bồ), Joseph Neugebeaur (Đức), nhà y học Jean
Sibert (Tiệp), Chales Salemen ski (Hung), Jean Koffler (Tiệp), Jean de
Loureiri (Bồ)... là những giáo sĩ đã có thời gian giúp chúa Nguyễn ở Đàng
Trong. Alexandre de Rhodes cùng các giáo sĩ Francesco de Pina, Christoforo
Borri, Gaspar de Amral, Antonie de Barbosa... đã đưa hệ thống chữ cái latinh
và Việt Nam, góp phần sáng tạo ra chữ quốc ngữ, góp phần sáng tạo ra chữ
quốc ngữ, latinh hóa chữ Việt” [14; tr.19].
Xã hội thời kỳ này được nhận xét “là thời kỳ đường hiền tài bế tắc, trí
học không mở mang, tâm lực không đồng, gian dối trở thành tập quán, các tệ
đoan chồng chất” [2; tr.430].
Nguyễn Trường Tộ cũng đã có cái nhìn chua chát về xã hội Việt Nam

trong thời kỳ này thông qua di thảo “Bàn về những tình thế lớn trong thiên
hạ” của ông: “Hiện nay tình hình trong nước rối loạn... Thế mà đối ngoại thì
không có cách nào để động đến mảy may lông của quân Pháp, cũng chẳng
thuyết phục được ai để giải vây cho, lại đi tàn sát dân mình, giận cá chém thớt
khiến cho dân bị hai cái hại “cháy nhà vạ lây”.
Thật đúng như câu nói: “đào ao đuổi cá”, “nối giáo cho giặc”. Cây thối
trước hết nó tự hủ mục sau mới bị sâu đục, nước mình trước hết không biết giữ
thể diện thì người ta mới khinh mình, dân loạn bên trong rồi kẻ địch mới nhân đó
mà vào. Như thế loạn không chỉ từ bên ngoài mà ngay ở trong nước vậy.

71


Than ôi! Dân chúng phụng sự quan trên, đóng thuế nạp tô để mạng
sống được yên thân, thế mà bây giờ lại lấy những thứ nuôi sống người đó để
làm hại người, nỡ khiến dân chúng vấp phải họa binh đao, nỡ tranh giành cái
nhỏ và bỏ cái lớn, cũng như muốn bảo tồn cành lá mà lại đem đẵn cả cội gốc.
Cho nên mới nói: không sợ giặc ngang tàng mà sợ lòng người rời rạc, đã
muốn chóng mất, thì dù có thành trì bằng kim loại, có ao nước sôi cũng phải
bỏ mà chạy, ai ở đó mà chịu chết cho” [2; tr.431].
Qua đó, chúng ta thấy rằng, hệ thống quan liêu dưới triều đình nhà
Nguyễn đã dần trở nên mục rỗng, quan lại trở nên lộng quyền, hà hiếp nhân
dân. Cái hệ thống quan liêu đó chẳng khác gì một hệ thống áp bức, bóc lột
nhân dân. Từ đó dẫn đến đời sống của nhân dân vô cùng cực khổ, mâu thuẫn
xảy ra, đoàn kết dân tộc bị chia rẽ làm cho nội lực quốc gia suy giảm trước sự
đối đầu với kẻ địch Từ phương Tây. Ngân khố quốc gia vốn cạn kiệt vì kinh
tế không phát triển thì nay lại bị thâm hụt do sự đục khoét của lũ sâu mọt
quan lại này. Đã vậy, hệ thống quan liêu đó lại còn được củng cố hơn nữa
bằng ý thức hệ Nho giáo ngày càng trì trệ và bảo thủ. Giáo dục Nho học trở
thành một lối học thụ động để phục vụ cho triều đình phong kiến. Lối học đó

là một lối học phù phiếm mang tính chất giáo điều khuôn khổ ăn sâu vào tiềm
thức con người Việt Nam khiến cho tư tưởng canh tân đất nước vừa mới xuất
hiện đã bị dập tắt.
Lối Nho học giáo điều còn làm cho đất nước thiếu hụt đi một lực lượng
giai cấp trung lưu có tư tưởng tiến bộ. Mà lúc này, khối nông dân thì không
có phần trong công việc nhà nước, và giới lãnh đạo của các sĩ phu thì nhận
thức lại đầy thành kiến về ưu thế của các quan niệm tri thức và đạo đức truyền
thống mà khinh rẻ các tiến bộ kỹ thuật và tỏ ra thù nghịch với mọi sự canh
tân.

72


Nổi bật trong tư tưởng và đề xuất canh tân lúc này đó chính là Nguyễn
Trường Tộ, ông đã có những đề nghị về chính sách ngoại giao, cải cách quân
sự, đề nghị khuếch trương về kinh tế và tài chính, đề nghị cải cách nền học
chính, đề nghị cải cách hành chính và xã hội.
Tuy nhiên lúc này không có một giai cấp trong lớp trung lưu có thể
hiểu rõ được lợi ích của những đề nghị này và vì thế sự cải cách đã không
được dư luận tán thành. Và sự thật là các bản điều trần của ông không được
nhiều người biết tới một số quan trong triều trong khi đó thái độ chung của
các nhà nghỉ lúc bấy giờ là khinh bỉ và nghi kị.
Mặt khác Tự Đức là người đứng đầu triều đình Nguyễn, là người đã có
thể đứng ra thực hiện chương trình cải cách. Nhưng với sự yếu đuối và tính
nhu nhược của mình đã khiến vị vua này nghe lời những người xung quanh
mà trong đấy các cận thần của nhà vua đều là những kẻ thiển cận. Vì thế, cải
cách của Nguyễn Trường Tộ chỉ dừng lại ở mức độ đề xuất mà không thể
thực hiện.
Vậy là thêm một mặt nữa, chính sách cấm đạo đã làm cho tư tưởng của
người dân Việt Nam thu hẹp lại, trở nên bảo thủ, đất nước không thể canh

tân, sức mạnh của quốc gia không thể phát huy. Điều đó nghiễm nhiên
khiến triều đình Nguyễn bất lợi trong cuộc chiến đấu chống lại sự xâm lược
của phương Tây.
Tiểu kết chƣơng 3
Từ mong muốn bảo vệ tổ quốc trước họa xâm lăng từ phương Tây mà
các vị vua triều Nguyễn thi hành chính sách “cấm đạo” và “bế quan tỏa cảng”.
Rồi cũng vì bế quan tỏa cảng mà đất nước khó phát triển, không bắt kịp xu
hướng của thời đại. Làm cho Việt Nam tụt hậu và trở nên yếu thế trong cuộc
chiến chống ngoại xâm. Cuối cùng thì mục tiêu đầu tiên cũng không thể đạt
được. Nhà Nguyễn như rơi vào một vòng luẩn quẩn và rồi lại đi đến điểm đầu

73


tiên, vẫn phải đối mặt với nạn ngoại xâm mà trong khi tiềm lực quốc gia đã
trở nên suy giảm trầm trọng.
Những hậu quả mà chính sách cấm đạo gây ra là sâu rộng đến mọi lĩnh
vực của đất nước. Khiến giao thương không được mở rộng ra bên ngoài, kinh
tế kém phát triển. Sự giao lưu, học hỏi từ bên ngoài hạn chế, không tiếp cận
được những tư tưởng tiến bộ, khiến tư tưởng của con người, đặc biệt là văn
thân, sĩ phu càng ngày càng bảo thủ. Thể chế nhà nước không được đổi mới,
bộ máy quản lí cồng kềnh, tham nhũng trở thành tệ nạn gây hao tổn tài chính
đất nước. Không học được các kĩ thuật quân sự từ bên ngoài, vũ khí lạc hậu,
lực lượng yếu kém. Mất đoàn kết dân tộc xảy ra...Vì lẽ đó, sức mạnh của dân
tộc không được phát huy trong cuộc chiến chống ngoại xâm.
Từ nhận thức và đường lối của vị vua đầu tiên là Gia Long, đã ảnh
hưởng đến một loạt những tư tưởng trị nước của các vị vua tiếp theo. Và cuối
cùng, Tự Đức trở thành vị vua kém may mắn, phải hứng chịu mọi trách
nghiệm mất nước về mình. Nhưng xét rõ thì ta thấy, đó vốn là hệ quả của một
chuỗi những sai lầm từ thời Gia Long và đến thời Tự Đức thì ông cũng gần

như chẳng thể làm gì được nữa. Những hệ quả do chính sách cấm đạo gây ra
đã quá lớn. Việc triều Nguyễn đánh mất độc lập trở thành vấn đề tất yếu của
lịch sử.

74


KẾT LUẬN
1. Xuất phát từ những bất đồng với Công giáo về vấn đề nghi lễ ngày
một sâu sắc, các vị vua đầu triều Nguyễn đã tiến hành những biện pháp nhằm
hạn chế sự lan rộng của tôn giáo này. Tuy nhiên, vì một số vấn đề chính trị
mà tôn giáo này ảnh hưởng tới đã khiến các vị vua triều Nguyễn phải nhìn
nhận lại tác động to lớn của tôn giáo này tới tôn ti, trật tự, tới vương quyền và
cả an ninh quốc gia. Chính vì vậy từ việc ban bố những biện pháp nhằm hạn
chế sự mở rộng của Công giáo thì triều Nguyễn chuyển sang tiến hành cấm
đoán bằng những đạo dụ, những biện pháp cụ thể.
2. Mối quan hệ giữa những nhà truyền giáo và chủ nghĩa thực dân
phương Tây là không thể phủ nhận. Và Công giáo đã có vai trò to lớn trong
việc đưa thực dân phương Tây can thiệp tại Việt Nam. Phản ứng của các vị
vua triều Nguyễn trước tôn giáo này và trước những hành động xâm nhập bất
hợp pháp của giáo sĩ Phương Tây là điều dễ hiểu. Tuy nhiên, chính sách cấm
đạo không thật sự là một chính sách khôn khéo và không đem lại hiệu quả cho
việc ổn định đất nước, bảo vệ chủ quyền quốc gia, dân tộc.
3. Kế thừa quan điểm của Gia Long, các vị vua triều Nguyễn sau này đã
tiếp tục thực hiện quan điểm của ông về vấn đề Công giáo. Đầu tiên là Minh
Mạng, ông đã là người đầu tiên thi hành những chính sách cấm đạo, là người
tạo ra những thay đổi mạnh mẽ trong chính sách đối với tôn giáo, khuếch
trương Nho giáo và đồng thời cấm đạo. Tới Thiệu Trị, đã có sự hòa hoãn
bước đầu, tuy nhiên, những sự kiện đe dọa đến an ninh chủ quyền khiến
Thiệu Trị phải quay trở lại với chính sách cấm đạo gắt gao như trước. Đến

Thời Tự Đức, bối cảnh lịch sử càng phức tạp khi chủ nghĩa thực dân ngày
càng tiến lại gần và đe dọa đến vận mệnh quốc gia, thêm vào đó, sự liên quan
mật thiết giữa các thừa sai và chủ nghĩa thực dân ngày càng rõ ràng khiến Tự
Đức phản ứng lại bằng một loạt dụ cấm đạo. Nhìn chung, chính sách cấm đạo

75


dưới mỗi thời vua Nguyễn đều chịu tác động của bối cảnh lịch sử đương thời
và đặc biệt, không chỉ dừng lại ở “vấn đề nghi lễ” mà còn là từ vấn đề an ninh
quốc gia bị đe dọa. Nó cho thấy, nhận thức của các vị vua Nguyễn thời kì này
rất tỉnh táo trước họa xâm lăng, tuy nhiên, phản ứng trước những nguy cơ từ
bên ngoài của các vị vua Nguyễn chưa thực sự khôn khéo.
3. Các đạo dụ được triều Nguyễn liên tiếp ban hành qua các năm trong
việc theo đuổi chính sách “cấm đạo”, cùng với chính sách “bế quan tỏa cảng”,
chủ trương “Không phương Tây” hòng ngăn chặn sự xâm nhập của thực dân
phương Tây. Tuy nhiên, việc thi hành những chính sách đó chỉ càng làm cho
nền kinh tế Việt Nam không phát triển, văn hóa không được giao lưu, trình độ
khoa học - kĩ thuật lạc hậu, thụt lùi so với phương Tây. Điều đó là cho tiềm
lực của đất nước suy giảm. Đứng trước sự xâm lược của phương Tây, tất yếu
phần thua sẽ thuộc về triều đình Nguyễn, độc lập dân tộc bị đánh mất.
4. Hệ quả từ chính sách cấm đạo gây ra cho dân tộc là vô cùng to lớn.
Những hệ quả lớn dần theo các chỉ dụ cấm đạo, mức độ nghiêm trọng của các
chỉ dụ theo thời gian chứ không phải chỉ trong một thời gian ngắn. Đó là một
chuỗi những sự kiện liên tiếp nhau, tác động lẫn nhau và làm cho dòng lịch sử
Việt Nam đi theo một lối mòn của hầu hết các nước châu Á lúc bấy giờ, đó là
con đường dẫn đến mất độc lập dân tộc.

76



TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Thế Anh (2008), Kinh tế và xã hội Việt Nam dưới các vua triều
Nguyễn, Nxb Văn học, Hà Nội
2. Đỗ Bang (2005), Lịch sử nhà Nguyễn một cách tiếp cận mới, Nxb Đại học
Sư phạm, Hà Nội
3. Đỗ Quang Chính (2008), Tản mạn lịch sử Giáo hội Công giáo Việt Nam,
Nxb Tôn Giáo, Hà Nội
4. Georges Coulet (1929), Cultes et religions de l’Indochine annamite, Sài
Gòn
5. Tự Đức (2001) (Người dịch: Ngô Lập Chi), Tự Đức ngự chế văn tập, Tài
liệu Viện triết học số kí hiệu: H:43
6. Ch. Gosselin (1904), L’Empire d’Annam, Librairie académic Didier,
Paris
7. Phan Thị Thu Hằng (2015), Tư tưởng chính trị - xã hội của Minh Mệnh và
ảnh hưởng của nó đối với chế độ phong kiến Việt Nam dưới triều Nguyễn,
luận án tiến sĩ, Trường đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Hà Nội
8. Vũ Thị Phương Hậu (2014), Chính sách văn hóa triều Nguyễn (1802 1884), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội
9. Đỗ Quang Hưng (1990), Một số vấn đề lịch sử Thiên chúa giáo ở Việt
Nam, Nxb Đại học Tổng hợp, Hà Nội
10. Nguyễn Quang Hưng (2007), Công giáo Việt Nam thời kỳ triều Nguyễn
(1802 - 1883), Nxb Tôn giáo, Hà Nội
11. Phan Khoang (1971), Việt Nam Pháp thuộc sử, Nxb Khai Trí
12. Trần Trọng Kim (2008), Việt Nam sử lược, Nxb Văn học, Hà Nội
13. Phan Huy Lê, Chu Thiên, Vương Hoàng Tuyên (1965), Lịch sử chế độ
phong kiến Việt Nam, tập 3, Hà Nội

77



14. Phan Huy Lê (1988), Một số vấn đề lịch sử đạo Thiên Chúa trong lịch sử
dân tộc Việt Nam, Kỷ yếu hội thảo khoa học, Ủy ban Khoa học Xã hội
Nhân văn - Ban Tôn giáo Chính phủ, Hà Nội
15. Nguyễn Thế Long (2005), Bang giao Đại Việt triều Nguyễn, Nxb Văn hóa
Thông tin, Hà Nội
16. Đỗ Văn Minh (1993), “Quân đội nhà Nguyễn”, Tạp chí Nghiên cứu lịch
sử, số 6/1993
17. Nguyễn Quang Ngọc (Chủ biên) (2000), Tiến trình lịch sử Việt Nam, Nxb
Giáo dục, Hà Nội
18. Quốc sử quán triều Nguyễn (1963), Đại Nam thực lục chính biên, tập 3,
Đệ nhất kỷ, Nxb Sử học, Hà Nội
19. Quốc sử quán triều Nguyễn (1964), Đại Nam thực lục chính biên, tập 9,
Đệ nhị kỷ, Minh Mệnh năm thứ 13, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội
20. Quốc sử quán triều Nguyễn (1964), Đại Nam thực lục chính biên, tập 17,
Đệ tứ kỷ, Tự Đức 1859 - 1862, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội
21. Quốc sử quán triều Nguyễn (1970), Đại Nam thực lục chính biên, tập 25
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội
22. Quốc sử quán triều Nguyễn (1970), Đại Nam thực Lục chính biên, tập 26,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội
23. Quốc sử quán triều Nguyễn (1972), Đại Nam thực lục chính biên, tập 26,
Đệ tam kỷ, Bản dịch của Viện sử học, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội
24. Quốc sử quán triều Nguyễn (1973), Đại Nam thực lục chính biên. Đệ tứ
kỷ, Quyển XI, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội
25. Quốc sử quán triều Nguyễn (1973), Đại Nam thực lục chính biên, tập 27, Đệ
tứ kỷ, Tự Đức năm thứ 1-6 (1848 - 1853), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội
26. Quốc sử quán triều Nguyễn (1974), Đại Nam thực lục chính biên. Tập 29.
Đệ nhị Kỷ, XIII, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội

78



27. Quốc sử quán triều Nguyễn (2007), Đại Nam thực lục, tập 4, Nxb Giáo
dục, Hà Nội
28. Nguyễn Phan Quang (1999), Việt Nam thế kỷ XIX (1802 - 1884), Nxb
Thành phố Hồ Chí Minh
29. Dương Trung Quốc (2007), Những vấn đề lịch sử triều Nguyễn, Nxb Văn
hóa Sài Gòn
30. Trương Hữu Quýnh, Đinh Xuân Lâm, Lê Mẫu Hãn (2001), Đại cương
lịch sử Việt Nam, Nxb Giáo Dục, Hà Nội
31. Trương Hữu Quýnh (Chủ biên), Phan Đại Doãn - Nguyễn Cảnh Minh
(2008), Đại Cương lịch sử Viêt Nam, tập 1, Từ thời nguyên thủy đến năm
1858, Nxb Giáo dục, Hà Nội
32. Nguyễn Ngọc Quỳnh (2012), Chính sách tôn giáo thời Tự Đức (1848 1883, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội
33. Capitaine Rey (1932), Relation du second voyage du “Heari” à la
Cochinchine (1819 - 1820). B.S.E.I. Janv.mars
34. Taboulet (1953), Geste francaise en Indochine, tập I, Paris
35. Cao Huy Thuần(1996), Đạo Thiên Chúa và chủ nghĩa thực dân tại Việt
Nam,, Luận án tiến sĩ quốc gia Pháp, Paris
36. Trần Nam Tiến (2006), Ngoại giao giữa Việt Nam và các nước Phương
Tây dưới Triều Nguyễn (1802- 1858), Nxb Đại học Quốc gia TP Hồ Chí
Minh
37. Trương Thúy Trinh (2004), Tìm hiểu chính sách tôn giáo của Nhà Nguyễn
trong giai đoạn 1802 - 1883 (từ Gia Long đến Tự Đức), Luận văn thạc sĩ,
Trường đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Hà Nội
38. Ưng Trình (1970), Việt Nam ngoại giao sử cận đại, Nxb Văn đàn

79




×