Tải bản đầy đủ (.pdf) (66 trang)

Sự ra đời và hoạt động của hội nam kỳ nghiên cứu phật học (1931 1945)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (871.92 KB, 66 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA LỊCH SỬ
======

PHẠM VĂN TUẤN

SỰ RA ĐỜI VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA
HỘI NAM KỲ NGHIÊN CỨU PHẬT HỌC
(1931 – 1945)
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam

HÀ NỘI - 2018


TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA LỊCH SỬ
======

PHẠM VĂN TUẤN

SỰ RA ĐỜI VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA
HỘI NAM KỲ NGHIÊN CỨU PHẬT HỌC
(1931 – 1945)
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam
Ngƣời hƣớng dẫn

TS. Ninh Thị Sinh

HÀ NỘI - 2018




LỜI CẢM ƠN
Em xin gửi lời cảm ơn chân thành và tri ân sâu sắc đối với các thầy cô
trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 đã tạo điều kiện, giúp đỡ để em hoàn thành
khóa luận tốt nghiệp.
Em cũng xin chân thành cảm ơn TS. Ninh Thị Sinh, người đã tận tình
hướng dẫn em hoàn thành nhiệm vụ học tập và nghiên cứu.
Trong quá trình làm khóa luận, khó tránh khỏi sai sót, em rất mong các
Thầy, Cô bỏ qua. Đồng thời do trình độ lý luận cũng như kinh nghiệm thực
tiễn còn hạn chế nên khóa luận không thể tránh khỏi những thiếu sót, em rất
mong nhận được ý kiến chỉ dẫn của quý Thầy, Cô. Đó là hành trang quý giá
giúp em hoàn thiện bản thân mình sau này.
Xin cảm ơn gia đình và bạn bè luôn đồng hành, tạo điều kiện giúp đỡ
em hoàn thành tốt khóa luận.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 10 tháng 5 năm 2018
Sinh viên

Phạm Văn Tuấn


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi.
Các dẫn chứng và kết quả trong đề tài nghiên cứu đều chính xác, trung thực.
Đề tài nghiên cứu này chưa công bố trong bất kỳ một công trình khoa học
nào.
Hà Nội, ngày 10 tháng 5 năm 2018
Sinh viên


Phạm Văn Tuấn


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................ 2
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu ................................................. 4
4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu ................................................... 5
5. Đóng góp của khóa luận................................................................................ 6
6. Bố cục khóa luận ........................................................................................... 6
Chương 1: BỐI CẢNH PHONG TRÀO CHẤN HƯNG PHẬT GIÁO Ở VIỆT
NAM NỬA ĐẦU THẾ KỈ XX ......................................................................... 7
1.1. BỐI CẢNH PHẬT GIÁO VIỆT NAM NỬA ĐẦU THẾ KỈ XX ............. 7
1.1.1. Khái lược Phật giáo trong lịch sử dân tộc (từ thế kỉ X đến đầu thế kỉ
XX) .................................................................................................................... 7
1.1.2. Thực trạng Phật giáo Việt Nam thời Pháp thuộc. ................................. 18
1.2. BỐI CẢNH THẾ GIỚI. PHONG TRÀO CHẤN HƯNG PHẬT GIÁO Ở
CHÂU Á NỬA ĐẦU THẾ KỈ XX ................................................................. 19
Chương 2: SỰ THÀNH LẬP VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI NAM KỲ
NGHIÊN CỨU PHẬT HỌC (1931 – 1945) ................................................... 22
2.1. SỰ THÀNH LẬP HỘI NAM KỲ NGHIÊN CỨU PHẬT HỌC ............ 22
2.2. THIỀN SƯ KHÁNH HÕA VÀ QUÁ TRÌNH VẬN ĐỘNG THÀNH
LẬP HỘI NAM KỲ NGHIÊN CỨU PHẬT HỌC ......................................... 28
2.3. HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI NAM KỲ NGHIÊN CỨU PHẬT HỌC ........ 33
2.3.1.Thành lập Pháp Bảo Phương và Duyệt Kinh Thất................................. 33
2.3.2. Xuất bản tạp chí Từ Bi Âm ................................................................... 35
2.3.3. Một số nhân vật tiêu biểu của Hội Nam Kỳ Nghiên cứu Phật học ....... 38
2.3.3.1. Sư Thiện Chiếu (1898 - 1974) ........................................................... 38



2.3.3.2. Hòa thượng Thích Huệ Quang (1888 – 1956) ................................... 41
2.3.3.3. Hòa thượng Bích Liên-Thích Trí Hải (1876 - 1950) ......................... 43
2.3.3.4. Hòa thượng Thích Huệ Pháp (1891-1946)......................................... 45
2.4. SỰ PHÂN HÓA TRONG HÀNG NGŨ LÃNH ĐẠO HỘI .................... 47
2.5. ĐẶC ĐIỂM, VAI TRÕ CỦA HỘI NAM KỲ NGHIÊN CỨU PHẬT
HỌC................................................................................................................. 49
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 52
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 54
PHỤ LỤC


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Phật giáo đã du nhập vào Việt Nam từ những năm đầu công nguyên và
đã có lịch sử khoảng 2000 năm. Qua các thời đại từ khi dân tộc Việt Nam mới
lập quốc đến ngày nay, Phật giáo giữ một địa vị quan trọng trong quá trình
xây dựng văn hóa Việt Nam. Có thể nói một cách không quá rằng: Văn hóa
Việt Nam có một phần lớn là văn hóa Phật giáo.
Trong lịch sử dân tộc Phật giáo cũng đóng góp một vai trò to lớn, trong
thời đầu xây dựng các nhà nước phong kiến từ Ngô – Đinh – Tiền Lê. Đặc
biệt dưới hai triều đại Lý – Trần, Phật giáo luôn được coi là một phần quan
trọng của xã hội, có sức ảnh hưởng lớn đến quá trình xây dựng và phát triển
đất nước. Phật giáo phát triển thịnh đạt nhất vào triều đại Lý và Trần và đó
cũng là giai đoạn nền phong kiến phát triển trong lịch sử dân tộc, có nhiều vị
vua “anh minh” cũng như những người hiền tài, xã hội thời đó cũng ổn định,
người dân ấm no. Vua quan nhà Trần ba lần đánh thắng quân Nguyên – Mông
giữ yên bờ cõi, hòa bình cho dân tộc cũng một phần nhờ thấm nhuần tư tưởng
của đạo Phật.
Tuy nhiên đến giai đoạn từ nhà Lê sơ trở đi Phật giáo không còn được

coi trọng như trước, Phật giáo suy vi, tầng lớp tăng sĩ xuống cấp không chịu
tu hành, chỉ có số ít còn có đạo hạnh cao. Từ đó cho tới triều Nguyễn Phật
giáo chỉ còn là một tôn giáo thông thường không còn nhiều ảnh hưởng trong
xã hội. Ở Việt Nam những năm đầu thế kỉ XX, thực dân Pháp một mặt đàn áp
và bóc lột nhân dân dã man, mặt khác chúng thi hành những chính sách phản
động thâm độc nhằm đầu độc nhân dân ta bằng rượu cồn, thuốc phiện, thực
hiện chính sách ngu dân đặc biệt chúng lợi dụng tôn giáo để gây chia rẽ, lung
lạc ý chí đấu tranh của quần chúng. Phật giáo Việt Nam những năm đầu thế kỉ

1


XX vốn đã suy yếu thì với những chính sách của chính quyền thực dân lại
càng suy yếu hơn bao giờ hết, nhu cầu vực dậy một tôn giáo lớn và có ảnh
hưởng suốt hàng nghìn năm trong đời sống văn hóa người dân Việt được đặt
ra không chỉ trong giới tăng ni Phật tử, các cư sĩ mà còn cả những người mộ
đạo.
Trước yêu cầu của lịch sử cùng với những hoạt động tích cực của giới
Phật tử phong trào Chấn hưng Phật giáo đã bùng nổ và phát triển mạnh mẽ ở
cả khắp ba miền ghi nhận sự ra đời và hoạt động của các hội Phật giáo, Phật
học trong cả nước. Đặc biệt với sự ra đời và hoạt động của hội Nam Kỳ
Nghiên cứu Phật học đã cổ vũ cho phong trào Chấn hưng Phật giáo ở
khắpViệt Nam.
Nhận thức được phong trào Chấn hưng Phật giáo có ý nghĩa vô cùng to
lớn đối với lịch sử dân tộc và vai trò quan trọng của hội Nam Kỳ Nghiên cứu
Phật học đối với Phật giáo Việt Nam và phong trào chấn hưng Phật giáo nửa
đầu thế kỷ XX, tác giả đã chọn đề tài “Sự ra đời và hoạt động của Hội Nam
Kỳ Nghiên cứu Phật học (1931-1945) làm đề tài khóa luận tốt nghiệp,
chuyên ngành lịch sử Việt Nam của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Là một tôn giáo lớn ở nước ta Phật giáo đã có ảnh hưởng sâu rộng trong
đời sống sinh hoạt văn hóa của nhân dân chính vì vậy mà đã có rất nhiều công
trình nghiên cứu về tôn giáo này. Tuy nhiên các tác phẩm đề cập đến Hội
Nam Kỳ Nghiên cứu Phật học (1931-1945) thì có rất ít, một số tác phẩm có
chạm tới nhưng chỉ ở dưới góc độ tản mạn chưa tập trung đi sâu vào nghiên
cứu trực tiếp về nội dung và ý nghĩa của nó. Có thể kể đến một số công trình
như sau:
Năm 1994 cuốn Việt Nam Phật giáo sử luận, tập 3 của Nguyễn Lang,
Nxb văn học tại chương 29 đã trình bày về công cuộc chấn hưng Phật giáo ở

2


Nam Kỳ trong đó có nói đến một số hoạt động liên quan đến Hội Nam Kỳ
Nghiên cứu Phật học song nội dung trình bày còn ít chưa đi vào chiều sâu của
vấn đề.
Vào năm 2017 Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam, Viện Nghiên cứu
Tôn giáo đã thực hiện hai Hội thảo khoa học với tựa đề Hòa thượng Khánh
Hòa và phong trào chấn hưng Phật giáo Việt Nam (ngày 20 tháng 5 năm
2017, diễn ra tại Tòa Viện trưởng Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam, quận
Gò Vấp, TP.Hồ Chí Minh) và Hòa thượng Khánh Hòa với phong trào chấn
hưng Phật giáo ở Việt Nam và truyền thống Bến Tre (ngày 19 tháng 10 năm
2017, tại hội trường chính chùa Viên Minh - Văn phòng Ban trị sự Giáo Hội
Phật Giáo tỉnh Bến Tre). Tại hội thảo khoa học Hòa thượng Khánh Hòa và
phong trào chấn hưng Phật giáo Việt Nam có nói đến phong trào chấn hưng
Phật giáo trong cả nước và phần còn lại đề cập đến hoạt động, vai trò của hòa
thượng Khánh Hóa với công cuộc Chấn hưng Phật giáo Việt Nam đầu thế kỷ
XX. Tại hội thảo khoa học Hòa thượng Khánh Hòa với phong trào chấn hung
Phật giáo ở Việt Nam và truyền thống Bến Tre có đề cập đến ba vấn đề chính:
Thứ nhất Hòa thượng Khánh Hòa với phong trào chấn hưng Phật giáo ở Việt

Nam; Thứ 2: Phong trào chấn hưng Phật giáo ở Việt Nam; Thứ 3 Truyền
thống lịch sử, văn hóa và Phật giáo ở Bến Tre. Qua đó một lần nữa khẳng
định vai trò to lớn của công cuộc Chấn hưng Phật giáo nước nhà nói chung và
vai trò của hòa thượng Khánh Hòa nói riêng đối với lịch sử Phật giáo Việt
Nam.
Ngoài các tác phẩm và các bài viết trên còn có các tài liệu về Phật giáo
trực tiếp hoặc gián tiếp nối về sự ra đời và hoạt động của Hội Nam Kỳ Nghiên
cứu Phật học (1931-1945): Lịch sử Phật giáo Việt Nam của Nguyễn Tài Thư
(Nxb khoa học xã hội 1989), Việt Nam Phật giáo sử luận tập 1,2,3 của
Nguyễn Lang (Nxb Văn học, năm 2000), Phong trào chấn hưng Phật giáo tư

3


liệu báo chí từ 1929-1945 của Nguyễn Đại Đồng và Nguyễn Thị Minh (Nxb
chính trị quốc gia, năm 2010), Tiểu sử danh tăng Việt Nam thế kỷ XX tập I và
tập II của Thích Đồng Bổn (xuất bản năm 1995 do Thành hội Phật giáo
TP.Hồ Chí Minh xuất bản và xuất bản năm 2002 do Nxb Tôn giáo – Hà Nội
in ấn), Thiện Chiếu – Danh sư, trí thức cách mạng của hòa thượng Thích Như
Niệm và Đinh Thu Xuân (Nxb Chính trị quốc gia sự thật), Vai trò của báo chí
trong phong trào chấn hưng Phật giáo ở Việt Nam (số 5, tr 25-29) trên tạp chí
nghiên cứu Phật học, năm 2006 của Thích Gia Quang, Phật giáo Việt Nam từ
khởi nguyên đến năm 1981 của Nguyễn Đại Đồng năm 2012, 50 năm (1920 –
1970) chấn hưng Phật giáo Việt Nam của Thích Thiện Hoa do Viện Hóa Đạo
ấn hành, Vai trò “tiên phong” của hòa thượng Khánh Hòa trong phong trào
Chấn hưng Phật giáo ở Việt Nam trong những năm 1920 – 1945 qua tài liệu
lưu trữ, trên Tạp chí nghiên cứu tôn giáo, số 158 của Ninh Thị Sinh,…
Tuy nhiên chưa có công trình chuyên khảo nào đi sâu tìm hiểu về hội
Nam Kỳ nghiên cứu Phật học mà mới chỉ dừng lại ở giới thiệu một số nhân
vật tiêu biểu, nêu một vài sự kiện liên quan đến sự thành lập của hội.

3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Khóa luận làm rõ Sự ra đời và hoạt động của Hội Nam Kỳ Nghiên cứu
Phật học (1931-1945), nhằm chỉ ra những đóng góp và vai trò của Hội đối với
sự phát triển của phong trào Chấn hưng Phật giáo ở Việt Nam đầu thế kỉ XX.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích trên, khóa luận tập trung giải quyết ba nhiệm vụ sau:
- Một là tìm hiểu bối cảnh lịch sử của phong trào chấn hưng Phật giáo ở
Việt Nam.
- Hai là trình bày sự ra đời và những hoạt động chính của hội Nam Kỳ
nghiên cứu Phật học

4


- Ba là đánh giá được vai trò, đặc điểm của hội Nam Kỳ nghiên cứu Phật học
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Khóa luận tập trung tìm hiểu về sự ra đời và hoạt động của Hội Nam
Kỳ Nghiên cứu Phật học, từ năm 1920 đến 1945, trong phạm vi các tỉnh Nam
Kỳ thời Pháp thuộc.
4. Nguồn tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Nguồn tư liệu nghiên cứu
Tư liệu nghiên cứu gồm có hai loại chính. Một là bộ sưu tập tạp chí Từ
Bi Âm, cơ quan ngôn luận của Hội. Thời gian tồn tại từ năm 1932 đến 1945
với tổng cộng 235 số, hiện nay được lưu trữ tại Thư viện Quốc gia Việt Nam.
Hai là tài liệu tham khảo, gồm các tài liệu sách như: Lịch sử Phật giáo Việt
Nam của Nguyễn Tài Thư (Nxb khoa học xã hội 1989), Việt Nam Phật giáo
sử luận tập 1,2,3 của Nguyễn Lang (Nxb Văn học, năm 2000), Phong trào
chấn hưng Phật giáo tư liệu báo chí từ 1929-1945 của Nguyễn Đại Đồng và
Nguyễn Thị Minh ( Nxb chính trị quốc gia, năm 2010), Tiểu sử danh tăng

Việt Nam thế kỷ XX tập I và tập II của Thích Đồng Bổn (năm 1995 do Thành
hội Phật giáo TP. Hồ Chí Minh in ấn và xuất bản năm 2002 do Nxb Tôn giáo
– Hà Nội in ấn), Thiện Chiếu – Danh sư, trí thức cách mạng của hòa thượng
Thích Như Niệm và Đinh Thu Xuân (Nxb Chính trị quốc gia sự thật); các bài
báo, tạp chí trên Nghiên cứu Phật học, Nghiên cứu tôn giáo, các bài viết trong
kỷ yếu hội thảo…
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Khóa luận vận dụng phương pháp luận nghiên cứu của chủ nghĩa Máclênin và tư tưởng của Hồ Chí Minh về lịch sử triết học tôn giáo và các phương
pháp nghiên cứu khoa học xã hội như: phương pháp lịch sử, logic lịch sử,
phân tích tổng hợp, so sánh- đối chiếu, hệ thống hóa, khái quát hóa các nguồn
tư liệu, ...

5


5. Đóng góp của khóa luận
Đề tài Sự ra đời và hoạt động của Hội Nam Kỳ Nghiên cứu Phật học
(1931-1945) đi sâu vào phân tích những hoạt động của Hội cũng như đề cập
đến các nhân vật có vai trò quan trọng trong quá trình thành lập Hội. Ngoài ra
đề tài còn đề cập đến các vấn đề về hoàn cảnh cũng như sự phát triển của
phong trào chấn hưng Phật giáo tại Việt Nam để có thể thấy rõ ràng ý nghĩa
của Hội Nam Kỳ Nghiên cứu Phật học đối với Phật giáo Việt Nam.
6. Bố cục khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo khóa luận gồm có 2
chương:
Chương 1: BỐI CẢNH PHONG TRÀO CHẤN HƯNG PHẬT GIÁO Ở VIỆT
NAM NỬA ĐẦU THẾ KỈ XX
Chương 2: SỰ THÀNH LẬP VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI NAM KỲ
NGHIÊN CỨU PHẬT HỌC (1931)


6


Chƣơng 1: BỐI CẢNH PHONG TRÀO CHẤN HƢNG PHẬT GIÁO Ở
VIỆT NAM NỬA ĐẦU THẾ KỈ XX
1.1. BỐI CẢNH PHẬT GIÁO VIỆT NAM NỬA ĐẦU THẾ KỈ XX
1.1.1. Khái lược Phật giáo trong lịch sử dân tộc (từ thế kỉ X đến đầu thế kỉ
XX)
Việt Nam nằm trên bán đảo Đông Dương, giữa hai nước rộng lớn là Ấn
Độ và Trung Quốc, hai dân tộc đông đảo nhất thế giới, hai nền văn minh sáng
lạn của châu Á là Ấn Ðộ và Trung Hoa. Vì địa thế của nước Việt Nam nằm ở
giữa con đường biển đi Ấn Ðộ đến Trung Hoa, nên đã chịu ảnh hưởng nhiều
của hai nền văn minh ấy.
Phật giáo được du nhập vào Việt Nam qua cả hai con đường: đường
biển từ phía Nam lên và đường bộ từ phía Bắc xuống. Trong số bốn nhà
truyền giáo đầu tiên đặt chân lên Việt Nam, thì có tới ba nhà sư là người Ấn
Ðộ, đi đường thủy sang Trung Hoa truyền đạo và đã ghé tại Việt Nam là các
Ngài: Ma Ha Kỳ Vực, Khương Tăng Hội và Chi Cương Lương.
Nhà truyền giáo thứ tư là người Trung Hoa, Ngài Mâu Bác (hay còn
gọi là Mâu Tử), đã đi đường bộ từ phía Bắc xuống. Ðó là điều chứng minh
rằng Phật Giáo vào Việt Nam do cả đường thủy và đường bộ cả từ phía Nam
lên và phía Bắc xuống. Nhưng vì nước ta bị Trung Hoa đô hộ ngót một ngàn
năm và sau đó vẫn còn lệ thuộc vào văn hóa và chính trị nên về sau con
đường truyền giáo từ Trung Hoa sang là con đường chính.
Như vậy Phật giáo vào nước ta từ những thế kỉ đầu công nguyên, sang
cuối thời Bắc thuộc Phật giáo đã lan rộng khắp mọi miền của xứ “An Nam đô
hộ phủ”, làm xuất hiện một lớp cao tăng người Việt, trong đó nhiều người đã
đến Trung Quốc, xuống Nam Dương, sang Ấn Độ, hiểu rộng biết nhiều, tinh
thông Hán Phạn, có thể coi là những tri thức đương thời.


7


Sau chiến thắng Bạch Đằng năm 938 của Ngô Quyền, một thời Kỳ mới
đã mở ra cho lịch sử dân tộc, thời Kỳ phong kiến độc lập tự chủ được bắt đầu.
Các triều đại Ngô – Đinh – Tiền Lê mở đầu cho thời Kỳ phong kiến độc lập
của nước ta. Do mới thành lập, nhà nước phong kiến còn non trẻ, lúc này nho
giáo chưa có vị thế và phát triển để có thể làm chỗ dựa cho triều đình trong
khi đó Phật giáo trong lại rất phát triển, có tầm ảnh hưởng lớn đối với xã hội.
Nhiều nhà sư trở thành những nhà cố vấn cho vua trong các lĩnh vực đối nội
và đối ngoại. Các nhà sư từng là cố vấn cho nhà vua có thể kể đến như Ngô
Chân Lưu (hay Khuông Việt đại sư), Trương Ma Ni, Đỗ Pháp Thuận thuộc
dòng Thiền Tỳ Ni Đa Lưu Chi (là cố vấn của vua Lê Đại Hành), tiếp theo đó
là các nhà sư như Ma Ha, Sùng Phạm, Vạn Hạnh [27, tr.11].
Phật giáo với sự tỏa rộng về mặt không gian cũng như sự thấm sâu
trong đời sống tinh thần của người Việt, bước đầu đã chiếm được vị trí vững
chắc trong xã hội thế kỷ X. Tất nhiên sự toàn thịnh của nó chỉ có được trong
hai triều đại Lý -Trần tiếp theo. Nhưng dựa vào các nguồn sử liệu hiện có,
chúng ta có thể nhận ra sự phát triển mạnh mẽ của Phật giáo thế kỷ X và sự
đóng góp của Phật giáo vào công cuộc giữ gìn, xây dựng và phát triển đất
nước thời Ngô - Đinh và Tiền Lê của dân tộc Việt Nam.
Năm 1009, Lý Công Uẩn lên ngôi vua ở kinh đô Hoa Lư, một triều đại
mới được thiết lập, mở đầu cho hơn hai thế kỉ thịnh trị của dân tộc, và người
có công lớn nhất trong việc này là nhà sư Vạn Hạnh. Thiền sư Vạn Hạnh
chẳng những có công đưa Lý Công Uẩn lên ngôi vua mà còn là người thuyết
phục nhà vua dời đô từ Hoa Lư ra Thăng Long. Từ đó có thể thấy nhà sư Vạn
Hạnh có vai trò rất lớn và quan trọng đối với vương triều Lý nói riêng và lịch
sử dân tộc Việt Nam nói chung.
Lý Công Uẩn khi mới lên ngôi đã cho xây dựng chùa. Các vị vua tiếp
theo cũng vậy. Nhờ có sự bảo trợ của triều đình, nên Phật giáo có điều kiện để


8


phát triển mạnh mẽ. Năm 1010, Lý Thái Tổ lên ngôi đã cho xây dựng một số
ngôi chùa sau: tám ngôi chùa ở phủ Thiên Ðức, tỉnh Bắc Ninh; chùa Hưng
Thiên Ngự tại Thăng Long, chùa Vạn Tuế, chùa Thiên Quang, Thiên Ðức,
Thiên Vương, Thắng Nghiêm.... Khắp cả nước có chừng 300 ngôi chùa được
dựng mới và những chùa đã cũ thì được tu sửa lại. Năm 1036, đến thời vua
Lý Thái Tông có những công trình đã được làm lễ khánh thành như: tượng
Phật Ðại Nguyện, một nghìn pho tượng Phật bằng gỗ, một nghìn bức tranh
Phật và một vạn cờ phướn ( năm 1040), tượng Phật Di Lặc bằng đồng tại viện
Thiên Phúc (năm 1041), chùa Một Cột ( năm 1049).
Đến năm 1055, Vua Lý Thánh Tông đã cho xây dựng chùa Ðông Lâm
và chùa Tĩnh Lự ở Bắc Ninh. Năm 1056, vua khởi công xây chùa Sùng
Khánh Báo Thiên. Năm 1057 vua đã cho xây dựng một ngọn tháp tên Ðại
Thắng Tư Thiên, xây hai chùa Thiên Phúc và Thiên Thọ, đúc hai tượng Phạm
Vương và Ðế Thích bằng vàng. Năm 1058, vua xây điện Linh Quang, Kiến
Lễ, Sùng Nghi, tháp núi Ðồ Sơn. Năm 1070, dựng chùa Nhị Thiên Vương.
Năm 1086, vua Lý Nhân Tông cho xây dựng một số công trình sau:
chùa Lâm Sơn, tháp đá tại huyện Quế Dương, tháp Linh Tế, ba tháp đá tại
chùa Lãm Sơn, dựng đài Ðộng Linh, khánh thành tháp Vạn Phong Thành
Thiện ở núi Chương Sơn, khánh thành tháp Thất Bảo. Năm 1121, vua cho
dựng chùa Quảng Giáo ở núi Tiên Du và khánh thành điện Trùng Minh ở
chùa Báo Thiên. Năm 1129, đến vua Lý Thần Tông đã cho khánh thành
84.000 bảo tháp bằng đất, khánh thành chùa Quảng Nghiêm Tư Thánh năm
1130. Khánh thành ba tượng tam tôn bằng vàng năm 1134.
Nhân dân được gia ân, miễn thuế trong những cuộc lễ lớn được tổ chức
vào mỗi dịp hoàn tất xây dựng hay trùng tu một ngôi chùa. Điều đáng chú ý là
thời Lý, số lượng sư rất đông, Phật giáo thời Lý có tiềm lực kinh tế khá mạnh.

Các chùa đều có đất, hội lễ Phật giáo diễn ra thường xuyên, nhiều hội lớn đích

9


thân nhà vua tổ chức. Từ sự ủng hộ của các vua chúa, quý tộc quan liêu, Phật
giáo thời Lý có vị trí quan trọng trong xã hội, đến với mọi miền đất nước và
đông đảo mọi tầng lớp nhân dân. Một số tăng sĩ đắc đạo và có học vấn uyên
bác thời này được các vua Lý hết sức trọng dụng, có sư là thầy dạy của vua và
được phong làm Quốc sư. Nhiều nhà sư được ban hiệu Quốc sư như: Vạn
Hạnh, Viên Chiếu, Thông Biện, Viên Thông, Không Lộ. Vai trò chủ yếu của
các Quốc sư thời Lý là những cố vấn đắc lực giúp vua hiểu biết về giáo lí Phật
giáo, ngoài ra còn có các vấn đề khác về chính trị, ngoại giao, quân sự, văn
hóa….
Dưới thời Lý, Việt Nam xuất hiện một thiền phái mới, thiền phái Thảo
Đường. Năm 1069, vua Lý Thánh Tông mang quân đi đánh Chiêm Thành và
bắt được vua nước ấy là Chế Củ cùng với nhiều tù binh và trong số tù binh có
một thiền sư tên là Thảo Đường. Khi về tới kinh đô Thăng Long, nhà vua chia
số tù nhân bắt được cho các quan để làm người phục dịch. Tình cờ vị sư ấy
được chia cho một người tăng lục, chuyên coi việc tăng sự tại triều. Một hôm,
trong lúc viên tăng lục đi vắng, vị sư trong thân phận nô bộc kia, lật xem thử
những bản ngữ lục Thiền học chép tay để trên bàn của chủ. Thấy trong bản
chép có nhiều chỗ sai quá, nhà sư bèn cầm bút sửa chữa. Khi vị tăng lục về,
khám phá ra, rất lấy làm ngạc nhiên, bèn đem chuyện tâu lên vua. Vua Lý
Thánh Tông cho vời tên nô bộc kỳ lạ ấy lên hỏi, thì biết đó là thiền sư tên là
Thảo Ðường ở Trung Quốc, nhân đi qua Chiêm Thành truyền giáo mà bị bắt.
Qua trao đổi, vua Lý Thánh Tông thấy thiền sư Thảo Đường là người "có đức
hạnh, lại tinh thông Phật điển, bèn bái làm thầy" và phong làm Quốc sư, mời
đến trụ trì tại chùa Khai Quốc (chùa Trấn Quốc ngày nay) tại kinh
thành Thăng Long. Bởi thiền học của Quốc sư có những nét mới lạ so với hai

thiền phái đương thời là Tỳ ni đa lưu chi và Vô Ngôn Thông, nên một thiền
phái nữa được thành lập, lấy tên là thiền phái Thảo Ðường. Lý Thánh Tông

10


cũng thọ giáo với ngài, sau khi Thánh Tông đắc đạo được ngài truyền tâm
pháp và là đệ tử đầu tiên của phái Thảo Đường. Trong suốt thời gian trị vì của
mình “Ngài là một ông vua sùng đạo Phật và nhân từ nhất” [27, tr.14].
Có nhiều lý do khiến các thiền sư đời Lý tham dự chính sự, bao gồm
các lý do chính như sau: Lý do thứ nhất họ là những người có học, có ý thức
về quốc gia, sống gần gũi với nhân dân và biết được những khổ đau của người
dân trong xã hội. Lý do thứ hai, họ không có ý muốn tranh quyền đoạt vị,
không quan tâm đến địa vị ngời đời nên vua tin họ. Lý do thứ ba, họ không cố
chấp và thuyết trung quân như các nhà Nho, nên họ có thể cộng tác với bất cứ
ông vua nào có thể đem lại hạnh phúc cho dân. Lý do thứ tư, vua cần tri thức
và sự hiểu biết của họ; nhất là trong đời Ðinh, Lê, các vua đều không phải
thuộc giới trí thức. Các nhà sư có ý hướng xây dựng một nền văn hóa Việt
Nam độc lập cụ thể như sau: thứ nhất về vị trí địa lý họ đã muốn dời kinh đô
tới một nơi có thể dựng nên sự nghiệp độc lập lâu dài. Thứ hai về phương
diện học thuật, họ có công đào tạo một lớp trí thức không cố chấp, biết dung
hợp các ý thức dị biệt như Nho, Lão, Phật. Thứ ba về phương diện văn hóa,
họ dựng nên được cả một triều đại thuần từ, lấy đức từ bi làm căn bản cho
chính trị. Thứ tư về mỹ thuật, các công trình kiến trúc và điêu khắc của Phật
giáo là những đóng góp mỹ thuật quan trọng nhất của thời đại.
Dưới ảnh hưởng của đạo Phật, đặc biệt“Với những nhà chính trị có từ
tâm và những nhà xuất gia biết lo giáo dục, thực hành đạo lý từ bi trong dân
chúng, đời sống xã hội thời Lý trở thành thuần từ và đẹp đẽ. Đạo đức và từ bi
đã không làm cho dân nghèo nước yếu mà trái lại những yếu tố này tạo nên
phú cường . Những chiến thắng Chiêm Thành và Tống Quốc, sự vắng mặt của

bạo động trong nhân gian và trong cung khuyết, sự gần gũi giữa vua với dân,
những điều đó nói lên được đặc tính của xã hội thời Lý”[27, tr.13].

11


Sang thời Trần Phật giáo tiếp tục phát triển và được coi là “Quốc giáo”.
Chính sách thể hiện tư tưởng nhân đạo thời Trần giống như thời Lý, cũng có
nguồn gốc sâu xa từ Phật giáo. Tổ chức lại đất nước, vương triều Trần tìm
cách ưu ái Phật giáo. Yếu tố đưa đến thành công và những đặc sắc của Phật
giáo thời Trần là không tách rời với sự nghiệp gìn giữ, xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc. Phật giáo lúc này đã có sự thích nghi với phong tục, tôn giáo và con
người Việt Nam, hoàn toàn phù hợp với tâm tư, nguyện vọng của một dân tộc
yêu hòa bình, độc lập. Với tinh thần nhập thế cao cả các vị vua, các thiền sư
thời Trần đã sử dụng đúng tiềm năng của Phật giáo, khiến Phật giáo có được
sức mạnh yểm trợ cho công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước của triều đình.
Trong triều đại nhà Trần có nhiều vị vua uyên thâm Phật pháp, là tác
giả của nhiều tác phẩm Phật giáo tiêu biểu của Việt Nam. Đầu tiên có thể kể
đến là vua Trần Thái Tông, ông là người sáng lập ra triều Trần, không những
là một nhà Phật học uyên thâm mà còn là một vị vua anh hùng khi đã lãnh đạo
nhân dân ta giành thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược
Mông – Nguyên lần thứ nhất năm 1258, bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền
quốc gia dân tộc. Vua Trần Thái Tông đã tự mình học Phật và thỉnh thoảng có
nhờ đến sự chỉ giáo của các bậc kì đức trong giới Phật học, cho nên các kinh
điển của hệ thống giáo lý chính không kinh nào là ngài không nghiên cứu.
Ngoài ra ông còn soạn các sách về Phật giáo như: Thiền tông chỉ nam, Kim
Cương tam muội kinh chú giải, Lục thì sám hối khoa nghi, Bình đẳng lễ sám
văn, Khoa hư lục, Thi tập. Tiếp sau Trần Thái Tống đến đời vua Trần Thánh
Tông với các tác phầm về Phật giáo tiểu biểu như: Văn tập, Thiền tông liễu
ngộ ca, Chỉ giá minh, Phong ngưu và cơ cừu. Đến vua Trần Nhân Tông lúc

này Phật giáo phát triển đến độ cực thịnh trong xã hội, quan lại, vua chúa hay
cả nhân dân người người theo Phật và sống trong Phật pháp. Chính sự Từ, Bi,
Hỷ, Xả trong chính sách của các vị vua đã tạo cho xã hội một sự gắn kết chưa

12


từng có, nó cũng chính là sức mạnh đã giúp Trần Nhân Tông hai lần đánh
thắng quân Mông – Nguyên, giữ yên bờ cõi toàn vẹn đất nước. Vua Trần
Nhân Tông là một Phật tử lại là người đứng đầu dân tộc nên có vị trí hết sức
quan trọng không những đối với Phật giáo nước ta mà còn đối với cả dân tộc.
Ngài là một nhà tư tưởng, một nhà chính trị kiệt xuất. Ngoài ra Trân Nhân
Tông còn là người sáng lập ra thiền phái Trúc Lâm Yên Tử, dòng thiền riêng
của người Việt, thành lập giáo hội Phật giáo Đại Việt, và đã để lại một số tác
phẩm sau: Thiền lâm thiết chủy ngữ lục, Trúc Lâm hậu lục, Thạch thất mỵ
ngữ, Đại hương hải ấn thi tập, Tăng già toái sư, Cư trần lạc đao phủ, Đắc
phú lâm tuyền thành đạo ca, Thượng Sĩ hành trạng. Tiếp sau là vua Trân
Nhân Tông là Trần Anh Tông cũng là một vị vua sùng Phật và am hiểu Phật
pháp, ngài đã dùng chính máu của mình để viết Đại tạng kinh cỡ nhỏ, gồm 20
hộp ban cho sư Pháp Loa vào tháng 12 năm 1319 [8, tr.144]. Như vậy có thể
thấy các vị vua đầu triều Trần đều là những người tu đạo, sống trong Phật
pháp và sử dụng Phật pháp để cai trị mang lại cuộc sống ấm no và hòa bình
cho nhân dân, không những vậy họ còn để lại cho thế hệ sau nhiều tác phẩm
về Phật giáo quý báu.
Năm 1299 vua Trần Nhân Tông xuất gia tại chùa Yên Hoa núi Yên Tử,
lấy hiệu là Hương Vân Đầu Đà, sau này đã đổi thành Trúc Lâm Đầu Đà. Vua
là người truyền thừa chính thức của phái Yên Tử thế hệ thứ sáu, từ đó trở đi
phái Yên Tử trở nên nổi tiếng, ảnh hưởng đến triều đình cũng như trong nhân
gian. Vua Trần Nhân Tông cũng đã góp phần vào việc củng cố triều đại và
chế độ bằng những công tác hành đạo tích cực trong nhân gian. Vào đầu thế

kỉ XIII, ba thiền phái Phật giáo là: Tỳ Ni Ða Lưu Chi, Vô Ngôn Thông và
Thảo Ðường đã dần dần sát nhập làm một. Do ảnh hưởng của vua Trần Thái
Tông và Tuệ Trung thượng sĩ, sự sát nhập của ba thiền phái trên đã đưa tới sự
phát triển mạnh mẽ của thiền phái Yên Tử thành thiền phái Trúc Lâm và cũng

13


là thiền phái duy nhất trong đời Trần. Ðời Trần được gọi là thời đại Phật Giáo
Nhất Tông có nghĩa là thời đại của một phái Phật Giáo Duy Nhất. Tông phái
này xuất hiện từ núi Yên Tử mà vị tổ khai sơn là thiền sư Hiện Quang. Các vị
tổ sư của Tông phái này có thể kể đến như: Thiền sư Viên Chứng hiệu Trúc
Lâm là thầy của vua Trần Thái Tông (là tổ thứ hai của phái Yên Tử, được vua
tôn làm quốc sư); Vị thứ ba là Ðại Ðăng quốc sư ( là đồng sư với vua Trần
Thái Tông) và Nhất Tông quốc sư (cái tên tượng trưng cho sự lãnh đạo nền
Phật Giáo thống nhất đời Trần), quốc sư chính là đệ tử của thiền sư Ứng
Thuận thuộc thế hệ thứ 16 của thiền phái Vô Ngôn Thông. Danh từ Nhất
Tông mà vua Trần Thái Tông dùng để tôn xưng quốc sư có nghĩa là Phật giáo
đời Trần chỉ có một tông phái duy nhất là thiền phái Trúc Lâm Yên Tử.
Thời Trần, Phật giáo thực sự đã hòa nhập vào lòng dân tộc từ hình thức
đến nội dung. Khi đất nước thanh bình thì Phật giáo len lỏi khắp nơi qua giáo
lí của Trúc Lâm Đầu Đà. Người dân cả nước đều am hiểu về Phật giáo, cũng
như thực hiện những điều hay lẽ phải mà giáo lí nhà Phật đem lại. Người dân
chấp nhận Phật giáo và vua cũng là một Phật tử, điều này tạo nên sự đoàn kết
của Vua và dân mà chưa thời kỳ nào đạt được.
Trong thời Trần nhân dân ta đã ba lần đánh thắng quân Mông Nguyên,
có nhiều nguyên nhân, trong đó phải kể tới công lao của đạo Phật. Từ vua
Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông lúc này Phật giáo phát
triển đến độ cực thịnh trong xã hội, quan lại, vua chúa hay cả nhân dân người
người theo Phật và sống trong Phật pháp. Chính sự Từ, Bi, Hỷ, Xả trong

chính sách của các vị vua đã tạo cho xã hội một sự gắn kết chưa từng có, nó
cũng chính là sức mạnh đã giúp Trần Thái Tông đánh thắng quân Mông –
Nguyên lần thứ nhất, vua Trần Thánh Tông và Trần Nhân Tông đánh thắng
quân Mông – Nguyên lần thứ hai và thứ ba, giữ yên bờ cõi toàn vẹn đất nước.
Để tập hợp sức mạnh của toàn dân khi quân Mông – Nguyên tiến vào xâm

14


chiếm Đại Việt, vua Trần Thánh Tông đã mở hội nghị Diên Hồng để phát
động tinh thần yêu nước đánh giặc của toàn dân, chính Phật giáo đã tạo ra một
khối đoàn kết toàn dân từ trước cho nên khi nước nhà đang đứng trước nguy
cơ bị xâm lược nhân dân trên cả nước đã đồng lòng đứng lên chống giặc
ngoại xâm bảo vệ độc lập cho dân tộc.
Tăng sỹ đời Trần không trực tiếp đóng góp vào sự nghiệp chính trị
nhưng Phật giáo là một yếu tố liên kết nhân tâm quan trọng. Tinh thần Phật
giáo đã làm cho các nhà chính trị dời Trần áp dụng những chính sách bình dị,
thân dân. Ta có thể công nhận rằng, các ông vua triều Trần muốn sử dụng
Phật giáo để liên kết nhân tâm, nhưng không vì vậy mà họ giả danh Phật tử.
Họ là Phật tử chân chính và có ý nguyện phụng sự đạo Phật song song với
phụng sự quốc gia và triều đại của họ.
Ngày 28 tháng 2 năm Canh Thìn (1400), Hồ Quý Ly bức vua Thiếu Đế
nhường ngôi, mở ra một triều đại phong kiến mới đó là nhà Hồ. Dưới triều
Hồ, Phật giáo trở nên suy vi, tăng lữ lười biếng, không chịu tu học, các sư vãi,
tín đồ Phật giáo lại chiếm một tỉ lệ quá cao trong dân chúng, nhân dân quá
nửa là sư sãi và tăng lữ nhiều đến nỗi đã trở thành một lực lượng đe dọa đối
với chính quyền phong kiến. Đến năm 1414 nhà Minh sang xâm lược, Việt
Nam bị nội thuộc nhà minh. Năm 1419 nhà Minh tịch thu hết cả kinh sách
Phật giáo trong nước và đốt phá chùa chiền.
Sang thời Lê sơ, Nho học đã giữ địa vị quan trọng trong xã hội, các sĩ

phu thi nhau nhau vào khoa cử, miệt mài trong tư tưởng nho học, triết lí nhà
Phật không còn làm danh làm lợi cho ai cuối cùng bị rơi vào quên lãng, Phật
giáo cũng vì thế mà không phát triển lên được nữa, nhất là ngày trước khi nhà
Minh sang xâm lược đã tịch thu hết kinh điển, nên dù có những bậc mộ đạo
đến đâu cũng không còn sách vở để nghiên cứu. Vì thế đạo Phật chẳng qua
cũng là một sự tín ngưỡng theo hình thức thời. Việc tu đạo đối với kẻ ít học

15


chỉ thành một thể quyền nghi theo hình thức, với sĩ phu thì chỉ là một chỗ để
người nào lận đận công danh, chán nản cuộc thế, bất bình với thói đời, có
nghĩa là chỉ những người yếm thế mới tìm đến để lánh xa xã hội bên ngoài mà
thôi; chứ không phải là mến hiểu giáo lý của Phật mà tu hành, và ngộ đạo, rồi
lại đem đạo lý ra ngoài giác ngộ cho kẻ khác. Bởi vậy, trong đời Hậu Lê có
thể gọi là thời đại Phật giáo suy vi.
Trong các triều đại phong kiến sau này khi Nho giáo ngày càng phát
triển và trở thành hệ tư tưởng chính thống trong nhân dân thì Phật giáo ngày
càng bị mất đi vị thế của mình. Nho giáo là một công cụ rất thích hợp cho một
nhà nước phong kiến dùng để cai trị đất nước, vì nó giúp nâng cao vị trí của
triều đình, ít chi phối và phù hợp với chế độ quân chủ chuyên chế trung ương
tập quyền. Tư tưởng cảu nho giáo chủ yếu nói về mối quan hệ trong xã hội, ví
dụ như câu “Trung quân ái quốc” có nghĩa là trung với vua mới là yêu nước.
Tuy mất đi vị thế của mình nhưng Phật giáo vẫn phát triển trong dân gian, nhà
chùa vẫn là đến như một nơi giúp người ta thanh tịnh, tìm đến chỗ tâm linh.
Các nhà sư vẫn giảng dạy Phật pháp trong dân gian, có thể nói Phật giáo vẫn
tồn tại và phát triển đối với lịch sử của đất nước nhưng đã qua thời kỳ cực
thịnh.
Cuối thế kỷ XIX khi nước ta rơi vào tay thực dân Pháp thì đạo Phật bị
kìm hãm suy vi như những tôn giáo đương thời duy chỉ có Công giáo nhận

được sự ưu ái của chính quyền thuộc địa nên ngày càng phát triển. Phật giáo
trở thành đối tượng bị phê phán và đả kích. Phật giáo Việt Nam giai đoạn này
gặp rất nhiều khó khăn. Chính tự sự suy vi của đạo Phật nên đã đặt ra nhu cầu
cần phải chấn hưng chấn chỉnh lại đội ngũ tăng lữ, những người tu Phật, bài
trừ các hình thức mê tín, cúng bái, làm xấu đi hình ảnh nhà Phật.
Như vậy trong lịch sử dân tộc Phật giáo đã từng giữ vai trò rất quan
trọng trong xã hội và là một công cụ để các triều đại phong kiến củng cố nhân

16


tâm tạo sức mạnh đoàn kết trong nhân dân. Chính những điều đó đã tạo nên
sức mạnh, hào khí của cả một dân tộc chống lại giặc ngoại xâm với hai lần
kháng chiến chống Tống (triều Lý), ba lần đánh thắng quân Mông – Nguyên
(triều Trần). Người dân cũng được sống cuộc sống ấm no, hạnh phúc nhờ các
chính sách như giảm sưu thuế, quan tâm phát triển sản xuất, quan tâm đời
sống nhân dân, xuất phát từ tấm lòng Từ, Bi, Hỷ, Xả của các vị vua. Các vị
tăng sư cũng khẳng định được vị trí quan trọng của mình trong việc truyền
pháp cũng như người giúp vua trong những công việc đối nội, đối ngoại.
Ngoài ra còn có các bộ kinh Phật quý được các vị vua cử người sang Trung
Quốc thỉnh kinh và còn các hệ thống chùa chiền trên cả nước. Nhìn vào
những gì mà triều Ngô – Đinh – Tiền Lê – Lý – Trần để lại tới ngày nay thì
đủ để công nhận Phật giáo là một tôn giáo có sức ảnh hưởng mạnh mẽ tới xã
hội và tới cả chính trị hay vận mệnh quốc gia dân tộc.
Phật giáo vào Việt Nam đến nay đã hơn 2000 năm. Trong thời gian ấy,
Phật giáo đã trải qua nhiều biến chuyển thăng trầm: Từ ngoại lai đến bản địa,
từ ít người theo đến đa số người ngưỡng mộ, từ thô sơ đơn giản đến sâu sắc
bề thế. Suốt quá trình tồn tại và phát triển Phật giáo đã để lại nhiều dấu ấn
trong dân tộc, từ tín ngưỡng đến văn hóa, từ thế giới quan đến nhân sinh quan,
từ tư tưởng đến tình cảm. Nhiều vấn đề lịch sử văn hóa dân tộc, của lịch sử tư

tưởng không sáng tỏ nếu không hiểu được Lịch sử Phật giáo Việt Nam. Cho
dù phát triển cực thịnh hay không cực thịnh thì Phật giáo vẫn là tôn giáo có
số tín đồ lớn nhất Việt Nam và có sức ảnh hưởng lớn nhất. Ảnh hưởng của
Phật giáo lớn đến mức cùng với mái đình, ngôi chùa trở thành công trình công
cộng quan trọng nhất ở mỗi làng, người dân đi bất kỳ đâu lỡ đường thì có thể
xin nghỉ tam qua đêm, hay chở thành nơi sinh hoạt của mọi người dân trong
làng, trong vùng.

17


1.1.2. Thực trạng Phật giáo Việt Nam thời Pháp thuộc.
Đầu thế kỉ XX, sau khi bình định được Việt Nam, Pháp thực hiện chính
sách nâng đỡ, tạo điều kiện cho Công giáo phát triển. Chính quyền Pháp vì
muốn loại trừ ảnh hưởng của Nho giáo và Phật giáo, nên đã quyết tâm loại bỏ
chữ Hán mà thay vào đó là chữ Pháp.
Lúc bấy giờ kinh sách Phật toàn là chữ Hán, do vậy dẫn đến tình trạng
kinh điển đạo Phật bằng chữ Hán ít người thông hiểu. Từ đó, tín đồ không
thấu hiểu giáo lý kinh Phật. Đó là tiền đề để khiến người dân cách xa đạo
Phật, khiến đạo Phật ngày càng suy vi. Đạo Phật đã suy đến mức toàn quốc
không có một ngôi trường Phật học nào cho người dân đến tham học [10,
tr.20].
Bên cạnh đó quá trình đô hộ và xâm lược của thực dân Pháp đã có tác
động không nhỏ đến đời sống sinh hoạt của tăng ni, Phật tử Việt Nam. Đó là
thực trạng nhiều tăng ni, Phật tử sa vào con đường cờ bạc, rượi chè, đàm
trước thanh sắc; là phần đông tăng già chỉ nghĩ đến danh vọng chức tước, xin
bằng Tăng cang, trụ trì, sắc tứ… coi việc cúng cấp, cầu đạo, phù chú, làm bổn
phận của kẻ tu hành. Báo chí đương thời từng phê phán hiện tượng này:“Có
kẻ mượn Phật làm danh, cũng ngày đêm hai buổi công phu, thọ trì, sắc vọng,
cũng sám hối như ai, nhưng lại thủ dị cầu kỳ, học thêm bùa ngải, luyện roi

thần, làm bạn với Thiên Linh cái, khi ông lên,lúc bà xuống, ngáp ngắn ngáp
dài, thu phù niệm chú, gọi là cứu nhân độ thế, nhưng thực ra là lợi dụng lòng
mê muội của thiện nam tín nữ, mở rộng túi tham quơ quyét cho sạch sành
sanh. Hiện trạng như thế sao bảo chẳng suy đồi…”[17, tr.24]. Do vậy những
người có tâm huyết đến sự thịnh suy của đạo Phật đã đứng ra kêu gọi vận
động chấn hưng nhằm tìm con đường mới cho Phật giáo Việt Nam lúc này.
Mặc dù ở Việt Nam thời bấy giờ mỗi làng đều có chùa thờ Phật, thậm
chí có làng đến ba ngôi chùa thế nhưng những ngôi chùa đó chỉ dành riêng

18


cho phái nữ những bà cụ… mỗi tháng vào ngày rằm đều đến chùa lễ Phật.
Người dân tôn kính đức Phật, như một bậc thượng đến toàn năng có quyền
ban phước giáng họa.
Trong khi đó chính quyền thực dân đã thực hiện chính sách kiểm soát
khắt khe đối với nhà chùa. Những chùa nào muốn xây dựng, sửa chữa thì cần
được chính quyền thực dân cấp phép mới được xây dựng. Chúng còn hạn chế
nhà chùa, không cho xây dựng hay mua bán đất đai, thậm chí còn không được
nhận đồ cúng, của cải của khách thập phương mang đến chùa hỷ cúng. Ngược
lại chúng dùng chúng dùng chính sách hù hóa dân tộc ta bằng cách cho phép
tự do hoạt động mê tín dị đoan, nhưng hạn chế con đường giáo dục văn hóa
truyền thống của dân tộc. Mục đích của chúng là làm cho dân ta ngu dốt để dễ
bề sai khiến, không muốn dân ta lớn mạnh và đạo Phật từ đó bị đồng hóa với
những tà thuyết ngoại đạo. Ngoài ra, một số ngôi chùa lớn cũng bị thực dân
Pháp hủy dần. Cụ thể tại Miền Nam “Pháp chiếm đóng và triệt hạ các chùa
Kim Cương, chùa Phật Lớn (Ông Phúc) bị dỡ vào năm 1865 gần thành Ô Ma
(đường Nguyễn Trãi ngày nay); chùa Pháp Võ (Chợ Quán) bị dỡ vào năm
1863; chùa Phước Hải trong bệnh viện Chợ Rẫy bị dỡ vào năm 1865; chùa
Hưng (đường An Dương Vương ngày nay) bị dỡ vào năm 1864; chùa Kim

Tiên (Chợ Quán) bị dỡ năm 1863; chùa Gia Điền (Chợ Quán) bị dỡ năm
1865. Vậy là từ năm 1861 đến 1865, Pháp triệt hạ các chùa lớn, chỉ còn lại
những chùa trong ngõ hẻm và lo phát triển nhà thờ”[17, tr.43]
1.2. BỐI CẢNH THẾ GIỚI. PHONG TRÀO CHẤN HƢNG PHẬT
GIÁO Ở CHÂU Á NỬA ĐẦU THẾ KỈ XX
Nhìn rộng ra các nước khu vực Châu Á, phong trào Chấn hưng Phật
Giáo cũng diễn ra tại nhiều nước như Tích Lan, Ấn Độ, Trung Quốc... nhằm
khôi phục lại các giá trị của Phật giáo, chấn hưng Phật học.

19


×