Tải bản đầy đủ (.pdf) (72 trang)

Hoạt động buôn bán thuốc phiện của thực dân pháp ở việt nam(1861 1945)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.26 MB, 72 trang )

======
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA LỊCH SỬ

======
NGUYỄN THỊ THU TRANG

NGUYỄN THỊ THU TRANG

HOẠT ĐỘNG BUÔN BÁN THUỐC PHIỆN
CỦA THỰC DÂN PHÁP Ở VIỆT NAM
HOẠT ĐỘNG BUÔN BÁN THUỐC PHIỆN
( 1861-1945)
CỦA THỰC DÂN PHÁP Ở VIỆT NAM
KHÓA LUẬN( 1861-1945)
TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Lịch sử Thế Giới

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
hướng
Chuyên ngành: LịchNgười
sử Thế
Giớidẫn khoa học

TS. NGUYỄN THỊ TUYẾT NHUNG

HÀ NỘI - 2018


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA LỊCH SỬ



======

NGUYỄN THỊ THU TRANG

HOẠT ĐỘNG BUÔN BÁN THUỐC PHIỆN
CỦA THỰC DÂN PHÁP Ở VIỆT NAM
( 1861-1945)
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Lịch sử Thế Giới

Người hướng dẫn khoa học

TS. NGUYỄN THỊ TUYẾT NHUNG

HÀ NỘI - 2018


LỜI CÁM ƠN
Để hoàn thành đề tài khóa luận tốt nghiệp “ Hoạt động buôn bán thuốc
phiện của thực dân Pháp ở Việt Nam(1861-1945)”. Em xin chân thành cảm
ơn các thầy cô giáo đã tận tình giảng dạy em trong suốt quá trình học tập,
nghiên cứu và rèn luyện tại trường Đại học sư phạm Hà Nội 2. Đặc biệt em
xin gửi lời cám ơn sâu sắc nhất tới TS. Nguyễn Thị Tuyết Nhung đã tận tình,
chu đáo giúp đỡ và hướng dẫn em thực hiện khóa luận này.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội ngày 7 tháng 5 năm 2018
Sinh viên

Nguyễn Thị Thu Trang



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan những nội dung trình bày trong khóa luận là của riêng
tôi dưới sự hướng dẫn trực tiếp của TS. Nguyễn Thị Tuyết Nhung. Kết quả
thu được là hoàn toàn trung thực và không trùng lặp với đề tài nghiên cứu của
những tác giả khác.
Hà Nội ngày 7 tháng 5 năm 2018
Sinh viên

Nguyễn Thị Thu Trang


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................ 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................ 2
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu .................................................................... 4
4. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................. 5
4.1. Mục tiêu nghiên cứu ................................................................................... 5
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................................. 5
5. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu ................................................... 5
5.1. Nguồn tư liệu .............................................................................................. 5
5.2. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................ 5
6. Đóng góp của đề tài....................................................................................... 6
7. Bố cục của đề tài ........................................................................................... 6
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ CỦA HOẠT ĐỘNG BUÔN BÁN THUỐC PHIỆN
CỦA THỰC DÂN PHÁP Ở VIỆT NAM(1861-1945) ..................................... 7
1.1. Quá trình bành trướng xâm lược của thực dân Pháp ................................. 7
1.1.1. Tình hình nước Pháp ............................................................................... 7

1.1.2. Quá trình bành trướng xâm lược của thực dân Pháp .............................. 8
1.1.3. Chính sách cai trị của thực dân Pháp ở Việt Nam ................................ 10
1.2. Việc trồng và buôn bán thuốc phiện của các nước thực dân ................... 16
1.3. Nguồn gốc thuốc phiện xuất hiện ở Việt Nam......................................... 19
1.3.1. Nguồn gốc thuốc phiện xuất hiện ở Việt Nam...................................... 19
1.3.2. Quy trình chế biến thuốc phiện ............................................................. 24
Tiểu kết chương 1............................................................................................ 26
CHƯƠNG 2: HOẠT ĐỘNG BUÔN BÁN THUỐC PHIỆN CỦA THỰC
DÂN PHÁP Ở VIỆT NAM(1861-1945) ........................................................ 27
2.1. Hoạt động buôn bán thuốc phiện của thực dân Pháp ở Việt Nam ........... 27
2.1.1. Giai đoạn hình thành và phát triển hoạt động buôn bán thuốc phiện của
thực dân Pháp ở Việt Nam(1861-1930) .......................................................... 27
2.1.2. Giai đoạn suy yếu(1930-1945).............................................................. 34
2.2. Nhận xét về hoạt động buôn bán thuốc phiện của thực dân Pháp ........... 40


2.2.1. Lợi nhuận .............................................................................................. 40
2.2.2. So Sánh hoạt động buôn bán thuốc phiện của thực dân Pháp với một số
nước khác ........................................................................................................ 48
2.2.3. Hậu quả của hoạt động buôn bán thuốc phiện của thực dân Pháp đến
Việt Nam ......................................................................................................... 51
Tiểu kết chương 2............................................................................................ 58
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 60
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 62


LỜI MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Thuốc phiện là được biết đến ở Châu Á ngay từ thế kỉ XVIII nhờ bức
ảnh lưu truyền rộng rãi mang tên “ thói xấu Trung Hoa”. Thuốc phiện xuất

hiện ở Đông Dương từ khá sớm, nhưng chỉ thực sự nở rộ khi vùng đất này trở
thành thuộc địa của Pháp. Năm 1862, để đảm bảo nguồn thu ổn định, phó đô
đốc Bonard đã quyết định đánh thuế thuốc phiện để trang trải kinh phí ăn ở
của quân đội Pháp tại Đông Dương và các công ty thương mại đã tham gia
kinh doanh mặt hàng gây nghiện này ngay từ khi chính quyền cho phép.Từ
khi chính quyền cho phép buôn bán mặt hàng này nó trở thành mối hiểm họa
của cả Phương Đông, Phương Tây cần phải tiêu hủy. Thuốc phiện trở thành
mối hiểm họa của cả Phương Đông và Phương Tây chính là do tính cơ hội về
chính trị , địa lí chứ không phải bởi lí do mà người ta thường vin vào là vì con
người. Từ lâu, ma túy đã được coi là 1 thảm họa đối với khu vực Châu Á. Ban
đầu khi mới vào nó được các nước chấp nhận, nhưng sau những tác hại mà
nó mang lại, thì thuốc phiện lại bị cấm không cho phép buôn bán và các nước
đã phải lén lút buôn bán mặt hàng này.
Năm 1858, hải quân Pháp đổ bộ vào cảng Đà Nẵng và sau đó xâm
chiếm Sài Gòn. Năm 1862, Vua Tự Đức ký hiệp ước nhượng 3 tỉnh miền
Đông cho Pháp. Năm 1867, Pháp chiếm nốt 3 tỉnh miền Tây kế tiếp để tạo
thành 1 lãnh thổ thực dân . Từ năm 1873 đến năm 1886, Pháp xâm chiếm nốt
những phần còn lại của Việt Nam qua những cuộc chiến phức tạp ở Miền
Bắc. Miền Bắc khi đó rất hỗn độn do những mối bất hòa giữa người Việt và
người Hoa lưu vong. Chính quyền Việt Nam không thể kiểm soát mối bất hòa
này, cả Trung Hoa và Pháp đều coi khu vực này thuộc tầm ảnh hưởng của
mình và gửi quân đến đó, nhưng cuối cùng thì người Pháp đã chiến thắng.Khi
vào Việt Nam thì thực dân Pháp đã biến Việt Nam thành 1 thị trường phi lợi

1


nhuận với việc độc quyền thu các loại thuế từ muối, rượu, thuốc phiện. Đặc
biệt, thuốc phiện được coi là 1 nguồn lợi lớn mà thực dân Pháp thu được,
chúng đã cho xây dựng các nhà máy thuốc phiện ở đây để sản xuất và buôn

bán ra nước ngoài thu lợi nhuận.Hoạt động buôn bán thuốc phiện đem lại
nguồn lợi nhuận lớn cho thực dân Pháp nhưng lại gây ra những hậu quả nặng
nề cho đất nước Việt Nam.
Vì vậy nghiên cứu đề tài này giúp hiểu rõ hơn về hoạt động buôn bán
thuốc phiện của thực dân Pháp ở Việt Nam cũng như những hậu quả của hoạt
động buôn bán thuốc phiện đối với kinh tế, xã hội Việt Nam.
Với những lí do trên, em chọn “ Vấn đề hoạt động buôn bán thuốc phiện
của thực dân Pháp ở Việt Nam(1861-1945)” làm đề tài nghiên cứu.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Hoạt động buôn bán thuốc phiện ở Việt Nam được manh nha từ thời
phong kiến, rồi mạnh lên khi thực dân Pháp vào xâm lược, khi nhu cầu buôn
bán trên thế giới cực lớn.Vấn đề buôn bán thuốc phiện của thực dân Pháp ở
Việt Nam(1861-1945) thu hút rất nhiều học giả cả trong và ngoài nước quan
tâm và đưa ra nhiều quan điểm khác nhau
Một số nghiên cứu của các tác giả nước ngoài:
Trong số rất nhiều công trình nghiên cứu và tác phẩm đã xuất bản về
thuốc phiện, có 1 ấn phẩm đặc biệt đã làm rõ những khía cạnh kinh tế, xã hội
và chính trị, trong quan hệ giữa thuốc phiện và sự hiện diện của người Pháp ở
Đông Dương. Đó là cuốn sách “Commercer et colonnistation en Indochine
1860-1945”( Thương mại và công cuộc khai thác thuộc địa tại Đông Dương
1860-1945) của tác giả Khamvoraphet, nhà xuất bản Les Indes Savantes, Pari
2004.
Một số nghiên cứu đi sâu tìm hiểu hoạt động buôn bán thuốc phiện của
thực dân Pháp ở Đông Dương cũng như là ở Việt Nam như tác phẩm “ Thuốc

2


phiện và chính quyền thuộc địa ở Châu Á. Từ độc quyền đến cấm đoán, 18871940” của tác giả Phillippe Lefailler- Nhà xuất bản văn hóa thông tin
Cuốn sách “ Colonial Policy and Practice A Comparative Study of

Burma and Netherlands India”(Chính sách và thực hành thuộc địa.Một nghiên
cứu so sánh về Miến Điện và Hà Lan Ấn Độ)của tác giả J.s Furnival. Cuốn
sách giới thiệu về chính sách và mưu đồ của chủ nghĩa thực dân. Nền tảng của
chính sách thực dân, nghiên cứu, so sánh ở Myanmar và Ấn Độ. Chính sách
thực dân ở Myanmar từ 1826-1940, những quy định của chính sách thực dân
về phúc lợi xã hội, ruộng đất, lao động, y tế và giáo dục.
“ Nền chính trị ma túy ở Đông nam Á” của tác giả Alfred W.Mc Coy,
Cathleen B.Read, Leonard P.a dams II. Nhà xuất bản Công An Nhân Dân,
2002. Tác phẩm nói về lịch sử của vấn đề ma túy sau chiến tranh thế giới thứ
2 ở Việt Nam và Đông Nam Á. Tệ nạn ma túy và cuộc chiến tranh giữa các
băng đảng cũng như các nước trong việc buôn bán, vận chuyển ma túy ở
Đông Nam Á. Những hậu quả của ma túy gây ra tại các nước Đông Nam Á và
cuộc chiến tranh chống lại tệ nạn ma túy.
Một số nghiên cứu của các tác giả trong nước
“Phòng chống thuốc phiện dưới thời Nguyễn giai đoạn 1802-1883”Nguyễn Thị Nga- NXB Đại học sư phạm Hà Nội, 2016 nói vê những sắc lệnh,
Chỉ dụ phòng chống thuốc phiện dưới thời Nguyễn.
“ Chủ nghĩa thực dân Phương Tây và tệ nghiện thuốc phiện ở Châu Á”
của tác giả Nguyễn Cửu Đức- Viện thông tin khoa học xã hội, năm 2005..Bài
viết điểm lại các cuộc chiến tranh nha phiến diễn ra trong lịch sử và chỉ ra
nguyên nhân của tệ nghiện thuốc phiện ở Châu Á
“Khi thuốc phiện là nguồn tài chính ở Đông Dương”của tác giả Hoàng
kim Việt nói về hoạt động buôn bán thuốc phiện của thực dân Pháp ở Đông

3


Dương, cũng như những đóng góp về tài chính do thuốc phiện mang
lại.Blogger đăng ngày chủ nhật, 21-7-2013
Ngoài ra còn có các luận văn, luận án nghiên cứu khoa học của các
trường Đại học, như đại học sư phạm Hà Nội liên quan đến đề tài “ Gạo và

thuốc phiện: Nghiên cứu về hoạt động mậu dịch của người Hoa ở Việt Nam
đầu thế kỉ XIX” Dương văn Huy. “Hội thảo khoa học quốc tế kỉ niệm 150
năm chiến tranh thuốc phiện( 1840-1990).
Đây là những nguồn tài liệu quan trọng đối với đè tài của tôi trong việc
nghiên cứu hoạt động buôn bán thuốc phiện của thực dân pháp ở Việt Nam
trong giai đoạn từ năm 1861 khi thực dân Pháp bắt đầu đưa ra hoạt động buôn
bán thuốc phiện ở đây đến năm 1945 là một trong những vấn đề thiết thực và
quan trọng.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu:
Đề tài tập trung đi sâu vào nghiên cứu hoạt động buôn bán thuốc phiện
của thực dân Pháp ở Việt Nam gai đoạn 1861-1945, từ việc phân tích bối cảnh
thay đổi của thế giới, hoạt động buôn bán thuốc phiện của các nước thực dân,
cũng như hoạt động buôn bán trong khu vực có tác động đến hoạt động buôn
bán thuốc phiện của thực dân Pháp ở Việt Nam
Phạm vi nghiên cứu
Về không gian: Là hoạt động buôn bán thuốc phiện của thực dân Pháp ở
Việt Nam
Về thời gian: giai đoạn 1861-1945. Mốc năm 1861 là năm phó đô đốc
Bonard quyết định đánh thuế thuốc phiện để trang trải kinh phí ăn ở của quân
đội Pháp tại Đông Dương. Và các công ty thương mại đã tham gia kinh doanh
mặt hàng gây nghiện này ngay từ khi chính quyền cho phép. Đó cũng là điểm
khởi đầu cho hoạt động buôn bán thuốc phiện thuốc phiện của thực dân Pháp

4


ở Đông Dương cũng như ở Việt Nam.Năm 1945 là năm Việt Nam tuyên bố
độc lập, giành được chính quyền từ tay thực dân Pháp
4. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu

4.1. Mục tiêu nghiên cứu
Làm rõ Hoạt động buôn bán thuốc phiện của thực dân Pháp ở VN từ
1861 đến năm 1945
Làm rõ những hậu quả từ hoạt động buôn bán thuốc phiện của thực dân
Pháp đối với Việt Nam
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được những mục tiêu trên, đề tài thực hiện những nhiệm vụ sau:
Phân tích cơ sở cho hoạt động buôn bán thuốc phiện của thực dân Pháp
Phân tích các giai đoạn buôn bán thuốc phiện của thực dân Pháp ở Việt
Nam
Đưa ra những nhận xét về hoạt động buôn bán thuốc phiện của thực dân
Pháp ở Việt Nam
5. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
5.1. Nguồn tư liệu
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở những nguồn tư liệu tham khảo khác
nhau cả trong và ngoài nước. Tài liệu tham khảo là các sách, bài báo, tạp chí ở
trong và ngoài nước lưu trữ ở Viện Nghiên cứu Đông Nam Á, Thư viện
Thông Tin khoa Học Xã Hội, Thư viện quốc gia...
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận của đề tài: dựa trên chủ nghĩa duy vật biện chứng,
chủ nghĩa duy vật lịch sử. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lê Nin
Phương Pháp nghiên cứu chủ yếu của đề tài là phương pháp lịch sử và
logic. Thông qua việc phân tích, chọn lọc tài liệu,để đánh giá vấn đề, các sự

5


kiện liên quan được đưa ra gắn với ý nghĩa thực tiễn của đề tài, với những dẫn
chứng tiêu biểu, từ đó đưa ra kết luận đúng đắn nhất về toàn cảnh của vấn đề
cần nghiên cứu.

6. Đóng góp của đề tài
Lý luận:Đề tài là công trình nghiên cứu có hệ thống về hoạt động buôn
bán thuốc phiện của thực dân Pháp ở Việt Nam từ năm 1861 đến năm 1945
Thực tiễn:Là nguồn tư liệu tham khảo cho việc học tập và nghiên cứu về
Lịch sử Việt Nam cận đại
7. Bố cục của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, đề tài gồm
2 chương
Chương 1: Cơ Sở Của Hoạt Động Buôn bán Thuốc Phiện Của Thực Dân
Pháp ở Việt Nam( 1861-1945)
Chương 2: Hoạt động Buôn Bán Thuốc Phiện Của Thực Dân Pháp ở
Việt Nam (1861-1945)

6


CHƯƠNG 1: CƠ SỞ CỦA HOẠT ĐỘNG BUÔN BÁN THUỐC PHIỆN
CỦA THỰC DÂN PHÁP Ở VIỆT NAM(1861-1945)
1.1. Quá trình bành trướng xâm lược của thực dân Pháp
1.1.1. Tình hình nước Pháp
Cho đến năm 1870, kinh tế nước Pháp đứng hàng thứ 2 sau Anh trong
nền sản xuất công nghiệp thế giới. Nhưng ưu thế của Pháp dần bị mất trong
những năm tiếp theo, ưu thế của Pháp dần bị mất đi trước sự vươn lên của
Đức, Mỹ, Nga và nhiều nước tư bản trẻ tuổi khác. Nguồn gốc của tình trạng
đólà do hậu quả của cuộc chiến tranh 1870-1871( bồi thường Đức 5 tỉ Phrăng
và cắt nhượng 2 tỉnh Andat và Lôren cho là vùng giàu nguyên liệu, có nền
công nghiệp phát triển) do tình trạng hạn chế của thị trường nội địa, do sự
nghèo nàn nguyên liệu. Pháp phải nhập cảng than, sắt…nên không thể cạnh
tranh với các nước tư bản khác.
Tuy nhiên, trong khoảng 30 năm cuối thế kỉ XIX, công nghiệp Pháp

cũng có những tiến bộ đáng kể, đặc biệt là ở miền bắc.Hệ thống đường sắt lan
rộng ra cả nước đẩy nhanh sự phát triển của các ngành khai mỏ, luyện kim và
thương nghiệp. Việc cơ khí hóa sản xuất được tăng cường.Trong thời kì này,
nước Pháp cũng đang diễn ra quá trình tập trung sản xuất dẫn tới sự hình
thành các tổ chức lũng đoạn . Ngành luyện kim và khai mỏ trong tay hai công
ty lớn. Công ty “ Snâyđơ crơdô” nắm các nhà máy quân sự ở Crơdô và các
nhà máy chế tạo đồ đồng, thép cùng các ngành khác ở nhiều vùng trong nước.
Đồng thời nó có chi nhánh ở thuộc địa và nước Nga. Những tổ chức lũng
đoạn cũng hình thành ở các thuộc địa để tăng cường bóc lột: các công ty kinh
doanh đồn điền trồng nho ở Angieri,đồn điền cao su, lúa và đay ở Đông
Dương…
Điều nổi bật ở nước Pháp là sự tập trung tư bản ngân hàng.Trước đại
chiến 2/3 tư bản ở trong tay 5 nhà bang lớn. phần lớn tư bản được đưa ra nước

7


ngoài. Năm 1908: 38 tỉ Phrăng được xuất khẩu trong khi chỉ có 9,5 tỉ đầu tư
vào công nghiệp trong nước. Năm 1914 số vốn xuất khẩu lên 50-60 tỉ trong
đó 13 tỉ đưa sang nước Nga, chỉ có 2-3 tỉ được đưa vào các thuộc địa . Tổng
số lãi do vốn xuất khẩu năm 1913 lên tới 2,3 tỉ Phrăng. Pháp được coi là đế
quốc chuyên cho vay nặng lãi. Vậy với số tiền đầu tư lớn khi thục hiện việc
buôn bán cũng như sản xuất thuốc phiện ở đây thực dân Pháp sẽ không phải
lo về nguồn vốn.Mà ngược lại Pháp còn thu được nguồn lợi lớn cho chính
quốc từ hoạt động buôn bán này.
1.1.2. Quá trình bành trướng xâm lược của thực dân Pháp
Chính sách đối ngoại và xâm lược thuộc điạ của Pháp: Chiếm vị trí quan
trọng trong chính sách đối ngoại của Pháp là những cuộc chiến tranh xâm
lược thuộc địa tiến hành ráo riết ở Châu Á và Châu Phi trong những năm
80-90.

Năm 1822, bị Anh gạt khỏi Ấn Độ, thực dân Pháp càng tỏ ra quan tâm
hơn đến việc xâm lược Việt Nam. Tiêu biểu là ý kiến của thượng thư Gidô
năm 1843 rằng nước Pháp phải có hai cái đảm bảo ở Viễn Đông là vùng biển
Trung Hoa và Việt Nam.
Cuộc cách mạng năm 1848 và việc lập đế chế thứ 2 năm 1852 đã làm
chậm quá trình xâm lược của thực dân Pháp.
Napôlêông III lên ngôi, là người sùng đạo và kiên quyết đi theo chính
sách thuộc địa của Lu-I Philip, đặc biệt khi nổ ra chiến tranh giữa Anh với
nhà Thanh thì quyết tâm đánh chiếm Việt Nam càng tăng thêm. Tuy thế, kế
hoạch này chỉ ra đời khi có những tác động qua những ý kiến đệ trình của các
sĩ quan đã có mặt trong hạm đội Pháp ở biển Trung Hoa như Xêxin,
Phurisông, Giôrret và các nhân vật ngoại giao như Đờ Cuốc xy, Buôcbulông..
Năm 1858, Pháp mở cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, đến năm
1884 thì hoàn thành việc thôn tính.Cùng trong thời gian này, thực dân Pháp

8


ráo riết tiến hành xâm lược Campuchia và Lào,biến những nơi đó thành thuộc
địa. Năm 1870,Pháp đã thành lập được Liên Bang Đông Dương. Từ đó Pháp
có thể dễ dàng cai quản hoạt động buôn bán cũng như sản xuất ở khu vực này.
Ở Việt Nam khi Pháp tiến hành khai thác thuộc địa , chúng đã áp đặt bộ
máy cai trị trực tiếp, thông qua hệ thống tay sai người bản xứ. Về kinh tế,
chúng nắm độc quyền ngoại thương buôn bán, bên cạnhđó chúng còn nắm
độc quyền các loại thuế muối, rượu, thuốc phiện. Đặc biệt thuốc phiện là 1
trong những mặt hàng quan trọng đem lại nguồn lợi nhuận cao cho thực dân
Pháp. Chúng đã cho xây dựng các nhà máy sản xuất thuốc phiện để thu thuế,
mua bán cũng như trao đổi với các nước khác.
Sau khi thực dân Pháp xâm chiếm nước ta, Pháp đã hợp pháp hóa việc
buôn bán, sử dụng thuốc phiện ở nước ta coi đó là công cụ để cai trị nước ta

cũng như tìm kiếm lợi nhuận 1 cách đơn giản, hiệu quả nhất. Để thực hiện
chính sách ngu dân và vơ vét tài nguyên, tiền của ở Đông Dương, nhà cầm
quyền Pháp cho công khai phát triển trồng cây thuốc phiện, thành lập các cửa
hàng bán thuốc phiện tự do dưới sự quản lí của công quản nha phiến.Diện tích
trồng cây thuốc phiện tăng nhanh đáng kể.
Có người tiêu dùng ắt sẽ có kẻ cung ứng hợp pháp. Mặt hàng thuốc
phiện đã có thị trường và những kẻ cung ứng sẵn sàng sản xuất một số lượng
lớn với chất lượng đảm bảo. Với việc độc quyền ở thung lũng sông Hằng. Ấn
Độ thuộc Anh đã buôn bán thuốc phiện với Trung Hoa và chính quyền thực
dân Pháp đã nắm toàn bộ hệ thống khách hàng của mình kể cả ở Đông
Dương. Sự liên kết về thị trường với cấu trúc thật lí tưởng không dấu nổi một
sự thật ngày một tăng lên một cách nhanh chóng vào nửa cuối thế kỉ XIX.
Thêm nữa thị trường buôn lậu chiếm ưu thế. Có thể thấy số người nghiện rất
đông. Như vậy thực dân Pháp có một lợi thế về thị trường cũng như nguồn
thu lợi nhuận.

9


1.1.3. Chính sách cai trị của thực dân Pháp ở Việt Nam
31/8/1858.Liên quân Pháp-Tây Ban Nha dàn trận trước cửa biển Đà
Nẵng và tấn công Đà Nẵng mở đầu cho quá trình xâm lược Việt Nam của
thực dân Pháp.
Trước khi thực dân pháp xâm lược Việt Nam là một quốc gia độc lập,
có chủ quyền, đạt được những tiến bộ nhất định về kinh tế, văn hóa. Tuy
nhiên, ở giai đoạn này, chế độ phong kiến Việt Nam đang có những biểu hiện
khủng hoảng, suy yếu nghiêm trọng.Trước sự xâm lược của các nước tư bản
Phương Tây, đặc biệt là nước Pháp. Triều đình nhà Nguyễn đã nhu nhược đầu
hàng với việc lần lượt kí các bản hiệp ước tạo điều kiện cho Pháp mở rộng
xâm chiếm Việt Nam.Với bản hiệp ước Hác-Măng, Patơnôt pháp đã xâm

chiếm toàn bộ Việt Nam.Việt Nam bước vào thời kì Pháp thuộc
Sau khi đặt ách thống trị lên nước ta, thực dân Pháp nhanh chóng thiết
lập chế độ chính trị vô cùng phản động chúng ra sức khai thác thuộc địa với
mục đích vơ vét, xuất khẩu tư bản, bóc lột sức lao động, thị trường tiêu thụ.
Để hình thành bộ máy cai trị thực dân Pháp đã thành lập Liên Bang Đông
Dương vào ngày 17/10/1887, lúc đó bao gồm có Bắc Kì, Trung Kì, Nam Kì
và Campuchia, trực thuộc bộ hải quân và thuộc địa. Ngày 19/4/1889, tổng
thống Pháp ra sắc lệnh sáp nhập thêm lào vào liên bang Đông Dương. Việt
Nam bị chia cắt làm 3 kì: Bắc kì, Trung Kì và Nam Kì. Với ba chế độ cai trị
khác nhau. Bắc Kì và Trung Kì là hai xứ bảo hộ vẫn còn giữ lại chính quyền
phong kiến về hình thức; Nam Kì là đất thuộc địa hoàn toàn do pháp nắm
cùng với Lào và Campuchia cũng là đất bảo hộ của Pháp, hợp thành Liên
Bang Đông Dương. Từ năm 1897, thực dân Pháp tiến hành chương trình khai
thác thuộc địa lần thứ nhất và sau Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918),
chúng tiến hành chương trình khai thác thuộc địa lần thứ hai ở Đông Dương
với số vốn đầu tư trên quy mô lớn, tốc độ nhanh.Do sự du nhập của phương

10


thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, tình hình kinh tế Việt Nam có sự biến đổi:
quan hệ kinh tế nông thôn bị phá vỡ, hình thành nên những đô thị mới, những
trung tâm kinh tế và tụ điểm cư dân mới. nhưng thực dân Pháp không du nhập
một cách hoàn chỉnh phương thức tư bản chủ nghĩa vào nước ta, mà vẫn duy
trì quan hệ kinh tế phong kiến để thu lợi nhuận siêu ngạch.Vì vậy, nền kinh tế
Việt Nam không thể phát triển lên bình thường được, nền kinh tế Việt Nam bị
kìm hãm trong vòng lạc hậu và phụ thuộc nặng nề vào kinh tế Pháp
*Các chính sách cai trị của thực dân Pháp
Vừa được cử sang làm toàn quyền Đông Dương ngày 13/2/1897,
PaulĐume đã gửi cho bộ hải quân thuộc địa Pháp một chương trình hành

động gồm 7 điểm, tập trung vào các vấn đề như: hoàn thiện cơ cấu tổ chức
hành chính trên toàn lãnh thổ và cho từng xứ ở Đông Dương, sửa đổi chế độ
tài chính, thuế khóa, xây dựng các thiết bị khai thác, tạo điều kiện chắc chắn
cho tư bản Pháp đầu tư vào Đông Dương; ổn định tình hình chính trị và quân
sự đồng thời khuếch chương ảnh hưởng của Pháp ra vùng Viễn Đông, nhất là
đối với các nước lân cận
Thực hiện chương trình trên Đume đã cho thi hành một loạt chính sách
trên tất cả các mặt từ chính trị, kinh tế đến quân sự, xã hội, văn hóa-tư tưởng
Về chính trị:
Chúng áp dụng triệt để chính sách chia để trị , “ dùng người bản xứ trị
người bản xứ”.Chúng liên kết với các thế lực phong kiến phản động ở Việt
Nam để đàn áp về chính trị và vơ vét bóc lột về kinh tế.
Chính sách kìm kẹp của thực dân Pháp đã tạo điều kiện cho sự ra đời
một đội ngũ những kẻ ăn bám, sâu mọt ngày càng đông đúc.
Song song với tổ chức hành chính là bộ máy quân sự, cảnh sát, tòa án
nhà tù. Chúng ra sắc lệnh bắt thanh niên Việt Nam đi lính, lập lực lượng lính

11


khố xanh(tháng 6/1897), xây dựng lực lượng cảnh sát đặc biệt, lập sở tình báo
an ninh.
Các lực lượng quân đội, cảnh sát cùng với hệ thống tòa án, nhà tù dày
đặc sẵn sàng ngăn chặn, đàn áp đẫm máu và dập tắt mọi sự phản kháng của
nhân dân ta. Bộ máy thống trị của thực dân Pháp và phong kiến tay sai dựa
chủ yếu vào sức mạnh quân sự, dùng vũ lực đè bẹp các cuộc đấu tranh của
nhân dân đòi tự do, độc lập.
Về kinh tế
Pháp thành lập liên bang Đông Dương thuộc Pháp, để dễ bề cai quản cả
ba nước Đông Dương.Vào giai đoạn đầu Pháp mới chỉ chú trọng vào hai lĩnh

vực chủ yếu là nông nghiệp và khai mỏ.
Nông nghiệp: năm 1897, Pháp ép triều Nguyễn kí điều ước “ nhượng
quyền khai khẩn đất hoang” cho chúng. Ngay sau đó, pháp tăng cường cướp
đoạt ruộng đất để chúng lập các khu đồn điền trồng cao su rộng lớn với diện
tích hàng trăm ngàn ha, thứ cây công nghiệp mà Pháp coi trọng khi đó. Và
pháp đã tận dụng tối đa đất đai cũng như nguồn nhân công của Việt Nam,
Pháp đã bắt những ngưởi nông dân dân phải đi làm ở đòn điền cao su cho
chúng. Nông dân bị mất ruộng đất, không có đất đai để canh tác bởi ruộng đất
rơi vào tay địa chủ, và tư bản Pháp. Người nông dân phải chịu cảnh sưu cao,
thuế nặng mà thực dân Pháp đề ra.Với tình trạng đó cùng với thiên tai, bệnh
dịch làm cho mất mùa, đói kém thường xuyên xảy ra.Trong nạn đói năm Ất
Dậu đã làm cho gần 2 triệu đồng bào ta chết đói, tỷ lệ chết đói cao nhất là
những nông dân không có đất canh tác
Công nghiệp: Chú trọng khai thác mỏ, nhất là mỏ than và kim loại. Tuy
nhiên, Pháp không xây nhà máy luyện kim ở Việt Nam, tất cả khoáng sản
được trở về Pháp. Phần lớn các xí nghiệp khai mỏ nằm trong tay những tập

12


đoàn tư bản pháp. Phương thức hoạt động là tận dụng nhân công lao động rẻ
mạt, sao cho chi phí sản xuất giảm xuống mức thấp nhất để thu lợi nhuận cao.
Giao thông vận tải: Thực dân Pháp cho xây dựng hệ thống đường giao
thông hiện đại, vừa phục vụ cho việc vận chuyển nguyên nhiên liệu về Pháp,
vừa phục vụ cho mục đích quân sự.
Thương nghiệp: Việt Nam trở thành thị trường độc quyền của tư bản
Pháp, Pháp độc quyền thu thuế xuất nhập khẩu tất cả hàng hóa Việt Nam mà
Pháp cần đều phải ưu tiên xuất sang Pháp , không được xuất khẩu sang nước
khác,những hàng hóa mà Pháp ế thừa hoặc kém phẩm chất so với hàng hóa
khác thì Pháp xuất sang Việt Nam ép Việt Nam phải mua với giá cao để thu

lợi nhuận.Pháp giành độc quyền buôn bán ba mặt hàng quan trọng nhất là:
muối, gạo và rượu
Các loại thuế:
Chính quyền thực dân Pháp thu lợi tức thuộc địa thông qua hệ thống các
sắc thuế, nhiều lại thuế được đặt ra 1 cách vô lý. Các loại thuế được thu và
phân chia theo 2 loại ngân sách: thu cho ngân sách Đông Dương( chủ yếu là
thuế quan, thuế rượu, thuốc phiện, muối..) và thu cho ngân sách địa phương
gồm các xứ(Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ) và các tỉnh( chủ yếu là thuế thân,
thuế lao dịch, thuế ruộng đất..)
Thuế chủ yếu cho ngân sách Đông Dương
Thuế quan: thi hành cho đến năm 1940, theo đó Việt Nam phải dùng
chung một chế độ thuế quan do nước Pháp đặt ra. Pháp bảo hộ sản phẩm nào
thì Việt Nam cũng phải bảo hộ sản phẩm đó. Nhờ hàng rào thuế quan bảo hộ,
Pháp tự do đưa hàng với chất lượng thấp, giá đắt vào thị trường Việt Nam
Thuế gián thu: Thường bảo đảm khoảng 70% tổng số thu của ngân sách
Đông Dương, chủ yếu là thuế muối, thuế rượu, thuế thuốc phiện thông qua
chế độ mua bán độc quyền của Pháp

13


Thuế muối:Pháp quy định toàn bộ số muối mà dân sản xuất phải bán hết
cho nước Pháp với giá rẻ, rồi nhà nước bán lại cho dân với giá cao hơn để
hưởng lợi nhuận. Không chỉ phục vụ mục tiêu tận thu của chính quyền Pháp
mà còn mang ý nghĩa chính trị.Pháp có thể dùng muối làm áp lực với nhân
dân khi cần, vì muối là mặt hàng thiết yếu với người dân.
Thuể rượu:Pháp cấm mọi việc nấu rượu của tư nhân Việt Nam đồng
thời giao chỉ tiêu bán “ rượu ty” cho chính quyền tổng, xã để thu lợi nhuận.
Thuế thuốc phiện: Pháp mua và chế biến thuốc phiện, khuyến khích dân
Việt tiêu thụ, mở tiệm hút thuốc phiện để tạo được nguồn thu lớn cho chính

quyền Pháp
Thuế chủ yếu thu cho ngân sách các xứ(kỳ): chủ yếu gồm các thứ thuế
cũ dưới thời phong kiến như thuế thân,thuế ruộng đất, thuế lao dịch và được
sửa đổi theo hướng tăng mức thu ngày càng cao hơn
Giáo dục
Về giáo dục, chính quyền thực dân ở Việt nam cho mở hai hệ thống
trường học: trường hán học có cải tổ đôi chút và hệ thống trường Pháp-Việt.
Trường hán học chỉ duy trì tạm thời, đã được thay thế bằng trường Pháp-Việt
trên cả nước . Sự phát triển giáo dục cũng không đều khắp: Tất cả các vùng
miền núi đều không có trường học.
Chính sách giáo dục của chính quyền Pháp nhằm dụng ý là để chuyển
hướng tư duy của đại chúng, xóa bỏ những ảnh hưởng của văn minh Trung
Hoa, truyền bá văn minh Pháp nhằm đồng hóa người Việt; đồng thời đào tạo
ra một tầng lớp công chức và chuyên viên phục vụ cho nền cai trị và công
cuộc khai thác thuộc địa của Pháp. Mối đe dọa đáng sợ cho chính quyền thực
dân Pháp là Nho giáoqua các sách vở Hán văn, bởi Nho giáo cổ vũ lòng yêu
nước chống ngoại xâm và khuyến khích giới trí thức quan tâm đến các vấn đề
chính trị. Hơn nữa người Pháp rất khó chịu trước giới sĩ phu Nho học không

14


ngừng đả kích chế độ thực dân, kích động sự bất mãn của dân chúng thậm chí
lãnh đạo các cuộc khởi nghĩa chống Pháp. Vì vậy người Pháp đã dồn nhiều nỗ
lực vào việc cải biến nền giáo dục bản xứ: loại bỏ Nho học và cấm giảng
dạy lịch sử Việt Nam, thay vào đó là các kiến thức khoa học phương Tây, văn
chương và lịch sử Pháp. Một chứng cứ là sách giáo khoa thời Pháp thuộc
không dùng danh từ "Việt Nam" mà chỉ nhắc đến "Đông Pháp" và các xứ lệ
thuộc. Các kỳ thi Khoa bảng Việt Nam cũng bị loại bỏ, thay vào đó là các kì
thi bằng chữ quốc ngữ phỏng theo các kỳ thi của Pháp.

Văn hóa
Đi cùng với chính sách hạn chế giáo dục, thực dân Pháp dung dưỡng
nạn cờ bạc bằng cách cho phép mở các sòng bạc để thu thuế. Ngoài những
sòng bạc công khai có tính chất thường xuyên, tổ chức quy mô ở Chợ
Lớn, Lạng Sơn, Móng Cái, Hà Giang, Lào Cai còn có nhiều sòng bạc kín
được tổ chức ở các dịp chợ phiên, ở những vòng đua ngựa ở Hà Nội, Hải
Phòng, Sài Gòn...
Nạn mại dâm cũng được thực dân Pháp hợp thức công khai và trở nên
phổ biến ở các thành phố lớn. Pháp tuyên bố "bảo hộ An Nam" để giúp nước
này "khai hóa văn minh". Nhưng thực tế, các đề nghị nâng cao dân trí, cải tổ
toàn diện chính trị - xã hội, cải cách và phát triển giáo dục, cũng như hướng
đến nền chính trị dân chủ của các trí thức đương thời đều bị Pháp thờ ơ. Tiêu
biểu là Phong trào Duy Tân do Phan Châu Trinh phát động năm 1906 cho đến
năm 1908 thì kết thúc sau khi bị thực dân Pháp đàn áp. Một số lãnh đạo
phong trào bị kết án tử hình do có liên quan đến Phong trào chống sưu thuế
Trung Kỳ (1908), những người khác bị đày đi Côn Đảo trong số đó có Phan
Châu Trinh.
Tất cả những yếu tố trên đây đã tác động mạnh mẽ đến xã hội Việt
Nam, làm cho xã hội Việt Nam bị lay động đến nền tảng của nó. Từ một nước

15


phong kiến tuy lạc hậu nhưng là một nước độc lập, thống nhất, từ đây Việt
Nam trở thành một nước bị đô hộ, chia cắt thành 1 xã hội nửa thuộc địa, nửa
phong kiến.Có đổi mới nhưng không thực sự tiến bộ và cởi mở, ngược lại
ngày càng lệ thuộc vào thực dân Pháp.
Sau khoảng 20 năm(1897-1914), trong thời kì khai hóa của người Pháp,
Việt Nam đã thực sự trở thành một thị trường tiêu thụ hàng hóa và bổ sung
cho nền công nghiệp chính quốc. Bộ phận kinh tế thực dân đã không giúp cho

sự phát triển của kinh tế nước ta, mà ngược lại chúng còn ra sức vơ vét, bóc
lột của cải của nhân dân ta, chúng tìm cáh kìm hãm sự phát triển kinh tế của
ta. Nền kinh tế tư sản dân tộc non trẻ( kinh tế tư bản chủ nghĩa xâm nhập vào
nước ta nhưng không có điều kiện phát triển) phụ thuộc quá nhiều vào nền
kinh tế Pháp nên không có sự đột phá mạnh mẽ nào để giải phóng lực lượng
sản xuất.
Trong khi đó, đời sống văn hóa và giáo dục phản động của chính quyền
thực dân ngày càng được tăng cường. Vì thế, đời sống của nhân dân ta lâm
vào cuộc sống vật chất tinh thần nghèo nàn và tối tăm.
1.2. Việc trồng và buôn bán thuốc phiện của các nước thực dân
Từ thế kỉ XVII và nhất là thế kỉ XVIII các nước thực dân Phương Tây ra
sức chiếm đoạt thị trường thế giới. Ở Châu Á các nước Ấn Độ, ndonexia,
Malaysia, Myanma…. lần lượt bị các nước thực dân Phương Tây xâm
chiếm.Trung Quốc cũng được coi là miếng mồi béo bở, cái bánh ngọt để các
nước thực dân xâu xé, xâm chiếm chia phần. Trước sự xâm nhập của chủ
nghĩa thực dân, thì một số nước Châu Á thực hiện chính sách mở cửa,tiến
hành cải cách và thành công như Nhật Bản, Xiêm.Một số nước khác thì thực
hiện chính sách đóng cửa. Chẳng hạn như Trung Quốc. Để chống lại chính
sách đóng cửa của chính quyền Mãn Thanh thời bấy giờ, các nước thực dân
tìm mọi cách mở toang cánh cửa bằng việc buôn bán thuốc phiện, món hàng

16


mang lại lợi nhuận khổng lồ. Đầu tiên, người Bồ Đào Nha và Hà Lan bán
thuốc phiện cho Trung Quốc.Tác hại của thuốc phiện làm cho kinh tế Trung
Quốc sa sút, bạc trắng bị chảy ra ngoài khá nhiều, nạn thuốc phiện đã phá
hoại kinh tế và xã hội Trung Quốc một cách trầm trọng.Vào đầu năm 1799,
triều đại phong kiến Trung Quốc đã ban hành sắc lệnh cấm hút thuốc
phiện,song tình hình nghiện hút vẫn không suy giảm vì nguồn gốc thuốc

phiện chuyển từ Ấn Độ vào Trung Quốc ngày càng nhiều
Theo đà phát triển kinh tế thuộc địa, dòng di dân Trung Quốc ra nước
ngoài bắt đầu diễn ra với quy mô nhỏ vào cuối thế kỉ XVIII tăng dần vào giữa
thế kỉ XIX và trở thành một trào lưu ào ạt vào đầu thế kỉ XX. Phần lớn người
Hoa đến các nước Đông Nam Á, nơi rất dễ tìm công ăn việc làm. Thuốc phiện
và việc sử dụng thuốc phiện đã lan truyền rộng khắp thông qua mạng lưới
người Hoa di cư và mối liên hệ của họ với quê hương bản quán. Nguy cơ
càng lớn khi việc sử dụng thuốc phiện đã vượt ra khỏi cộng đồng người
Hoa.Đến cuối thế kỉ 19, những tiệm hút công quản trở nên phổ biến ở mọi
quốc gia và thuộc địa ở Đông Nam Á để đáp ứng một thị trường tiêu thụ ngày
càng lớn trong những cộng đồng người Hoa, Thái, Myanma, Việt Nam,
Malaysia.
Chính thực dân Anh là thủ phạm đem thuốc phiện vào đầu độc dân
chúng.Năm 1852, khi chiếm được vùng Hạ Miến Điện. Năm 1855 Anh làm
chủ toàn thể nước Miến và cũng từ đó đem cây thuốc phiện trồng khắp lãnh
thổ Miến và vùng Tam Giác Vàng, một địa danh khét tiếng khắp thế giới về
buôn bán và sản xuất thuốc phiện và heroin. Theo ghi nhận thì diện tích để
trồng thuốc phiện tại Tam Giác Vàng lên tới 67.000ha. Hằng năm sản lượng
thu hoạch được từ 12-15.000 tấn.Tại vùng này việc mua bán thuốc phiện được
công khai từ loại nguyên chất hay được tinh chế thành hêrôin. Thuốc phiện
được chuyển đi khắp thế giới qua các con đường Thái Lan, Ấn Độ, Trung

17


Cộng, Lào, Campuchia và Việt Nam. Sau đó mới phân phối sang Nhật, Đài
Loan , Úc, Liêu Âu, Trung Đông, Hoa Kì…Tại Miến Điện trung tâm mua bán
thuốc phiện là thị trấn Shans được coi là nơi giao dịch, chuyển hàng và phân
phối thuốc đi khắp thế giới bằng đủ mọi phương tiện gồm lừa, ngựa, người
thồ và cả xe cộ của quân đội Miến . Giá cả thuốc thì luôn tăng theo lũy thừa

tiến từ 70-90USD/1Kg tại chỗ tăng từ 20000USD Thái Lan tới 200000USD
tại Hoa Kì .
Lúc đầu người Anh chỉ mang thuốc phiện từ bên ngoài đem vào bán cho
tới năm 1886 mới cưỡng bức người Miến trồng thuốc phiện và vận chuyển tới
Trung Hoa để bán. Theo chân Anh , thực dân Pháp sau khi chiếm được Đông
Dương đã thỏa thuận với Anh biến ba nước Việt, Lào, Cao Miên thành con
đường vận chuyển thuốc phiện khắp thế giới. Sau đó thực dân Pháp đem cây
thuốc phiện vào trồng tại Bắc Việt và Lào
Tháng 4/1840 , quốc hội Anh thông qua ngân sách, tổ chức một đội
quân sang xâm lược Trung Quốc. Tháng 6/1840, đội quân viễn chinh Phương
Đông của Anh gồm 15.000 người và hơn 40 tàu chiến đến Quảng Đông bắt
đầu cuộc chiến tranh với Trung Quốc mà lịch sử gọi la cuộc chiến tranh
thuốc phiện lần thứ nhất(1840-1842) và cuộc chiến tranh thuốc phiện lần
2(1857-1860), lượng thuốc phiện tràn vào Trung Quốc ngày càng nhiều.Năm
1880 con số này đã lên 6.000 tấn.Trong các địa giới của tầng lớp phong kiến
và địa chủ quân phiệt đã bắt đầu trồng cây thuốc phiện nhằm tích lũy của cải.
Trung Quốc trở thành nước trồng cây thuốc phiện lớn nhất thế giới, sản lượng
thuốc phiện trung bình hàng năm trong thời gian từ 1904-1908 là khoảng
100.000 tấn. Cộng với số thuốc phiện nhập vào từ Ấn Độ, Iran là 300.000 tấn
một năm.Trung Quốc trở thành đất nước của những con nghiện. Ma túy đã
cuốn hút tất cả mọi tầng lớp, đủ mọi lứa tuổi, ở thành thị cũng như nông thôn
và vùng hẻo lánh.

18


Thực dân Anh còn thực hiện việc buôn lậu thuốc phiện để thu lợi nhuận.
Anh được hưởng rất nhiều lợi nhuận qua việc buôn lậu quốc tế về thuốc phiện
mà họ nắm giữ quyền khuynh đảo tới mức biến nó thành 1 thị trường của
riêng mình, một cách hợp pháp.

Ngày 14/5/1923, đại diện của nước Anh đã gửi lên Ủy ban tư vấn về
thuốc phiện của hội quốc liên 1 bản báo cáo tố cáo việc vận chuyển thuốc
phiện Trung Quốc của Vân Nam qua đường sắt của Pháp ở Bắc Kì. Đáng lẽ
việc mua và vận chuyển thuốc phiện quá cảnh này cần phải giữ kín nhưng lại
bị lộ để rồi trở thành một bằng chứng tố giác Pháp vì mục đích chính trị đã để
thuộc địa Đông Dương lẩn tránh không thực hiện những thỏa ước quốc tế về
thuốc phiện. Tức giận vì bị cơ quan phản giáng Anh bắt quả tang, làm cho
giới ngọai giao Pháp trở nên bối rối. Mặc dù quan hệ Anh-Pháp căng thẳng,
song mặt trận này vẫn tồn tại và vẫn triển khai kế hoạch chống lại sự tham
vọng của Hoa Kì muốn coi thuốc phiện như là 1sự hợp tác quốc tế.Ngoại giao
thuốc phiện trở thành một phần quan trọng trong chính sách đối ngoại của
Anh quốc . Nước Pháp có thể chấp nhận độc quyền của Anh Quốc khi nó liên
quan đến người nghiện hút ở các thuộc địa. Anh trở thành nước cung cấp
thuốc phiện cho Pháp.
Và phần lớn thuốc phiện của Anh được nhập cảng từ Ấn Độ
1.3. Nguồn gốc thuốc phiện xuất hiện ở Việt Nam
1.3.1. Nguồn gốc thuốc phiện xuất hiện ở Việt Nam
Thuốc phiện được biết tới ở Châu Á trước khi những người phương
Tây có mặt ở đây, thuốc phiện vốn sinh ra ở Thổ Nhĩ Kì được đưa vào Châu
Á là do những người Ả Rập đưa vào qua con đường buôn bán từ bờ biển Địa
Trung Hải tới bờ biển các nơi khác.
Vào thời kỳ cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỷ XX, hầu hết các quốc gia
ĐôngNam Á đều ngập chìm trong khói thuốc phiện.

19


×