Vẻ đẹp và ý nghĩa sâu sắc trong tranh dân gian tết Đông Hồ
A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do lựa chọn đề tài
Vẻ đẹp và ý nghĩa sâu sắc trong tranh tết Đông Hồ
Trong dòng chảy thời gian, xã hội ngày càng hiện đại với sự phát triển của
nhiều loại hình nghệ thuật, vui chơi giải trí đa dạng, phong phú, thu hút con người.
Cùng với đó, con người có cuộc sống hiện đại và nhịp sống nhanh hơn. Cũng chính
sự hiện đại và vội vã này mà nhiều giá trị truyền thống đang dần mai một. Một
trong những giá trị đó là thói quen treo tranh tết. Đó là những bức tranh dân gian
Đông Hồ được sử dụng làm tranh tết được người dân háo hức mua về trang trí nhà
cửa vào những ngày tết và gửi gắm vào đó bao tâm nguyện về một năm mới nhiều
khởi sắc.
Nhưng tết bây giờ không còn ai treo tranh tết làng Hồ nữa, nó đã thành quá
khứ. Thay vào đó là những ánh đèn nhấp nháy, là những loại hoa, cây cảnh đắt
tiền. Tôi thấy tiếc cho vẻ đẹp của một dòng tranh đậm đà tâm hồn Việt. Tôi tiếc
cho cái tết cổ truyền đang mất dần đi nét truyền thống. Các thế hệ học sinh của tôi,
chắc chắn một điều rằng chúng chưa bao giờ được thưởng thức vẻ đẹp của một
cái tết đậm đà bản sắc dân tộc với sự góp mặt của những bức tranh tết làng Hồ.
Là một giáo viên Mỹ thuật tại trường trung học tôi luôn mong muốn tìm
hiểu kĩ về dòng tranh này để truyền tải cho các em những kiến thức cơ bản về dòng
tranh dân gian Đông Hồ qua đó muốn tạo nên hứng thú tìm hiểu về các giá trị nghệ
thuật của nó. Vì thế tôi quyết định lựa chọn và viết về “ Vẻ đẹp và ý nghĩa sâu sắc
trong tranh tết Đông Hồ”.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài.
Nói đến tranh khắc gỗ dân gian Đông Hồ, mỗi con người Việt Nam không ai
chưa từng nghe đến, bởi nó mang trong mình những giá trị lớn lao của tâm hồn
Việt, giá trị nghệ thuật, giá trị xã hội, giá trị đạo đức nhân văn sâu sắc của các thế
hệ ông cha để lại.
Đã có nhiều tác giả nghiên cứu về tranh dân gian như: Nguyễn Thái Lai- làng
Đông Hồ, NXB Mĩ thuật -2002. Viết về làng tranh Đông Hồ tác giả có đề cập đến
lịch sử tranh Đông Hồ, các thể loại tranh và phân tích nội dung.Tác giả Chu Quang
Tử, Nguyễn Thái Lai, Phạm Thị Chỉnh trong Lược sử Mĩ thuật học – NXB Giáo
dục -1998 lại viết về tranh dân gian một cách khai lược, tổng hợp và có so sánh
những đặc điểm của từng dong tranh dân gian Việt Nam.
Học Viên: Mai Hồng Thương
Trang 1
3. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của tôi khi nghiên cứu tiểu luận là muốn nghiên cứu về vẻ đẹpvà ý
nghĩa sâu sắ trong các bức tranh tết của tranh dân gian Đông Hồ nhằm bổ sung
thêm kiến thức về tranh dân gian Đông Hồ phục vụ cho công tác giảng dạy Mĩ
Thuật.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tương nghiên cứu
“ Vẻ đẹp và ý nghĩa sâu sắc của tranh tết Đông Hồ”
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Tranh khắc gỗ dân gian Đông Hồ
5. Phương pháp nghiên cứu
-Thu thập thông tin, tiếp cận, so sánh cùng phương pháp tư duy logic, nghiên
cứu đánh giá dòng tranh đồng thời chỉ ra những yếu tố đặc sắc của dòng tranh này.
-Các phương pháp được áp dụng xử lý các thông tin khai thác để so sánh đối
chiếu trong khi trình bày tiểu luận.
- Phương pháp tổng kết đánh giá.
6. Những đóng góp mới của tiểu luận
Giúp cho bản thân hiểu hơn về vẻ đẹp đặc sắc và những triết lí sâu sắc của
những người nghệ sĩ dân gian gửi gắm vào trong các tác phẩm nghệ thuật của
mìnhtrong tranh thông qua các bức tranh tết làng Hồ
Cung cấp cho các thế hệ học sinh nói riêng và công chúng nói chung kiến thức,
kinh nghiệm để tiếp cận với nghệ thuật khắc gỗ Việt Nam, gìn giữ và phát triển
dòng tranh lớn nhất đang bị mai một này.
Học Viên: Mai Hồng Thương
Trang 2
Vẻ đẹp và ý nghĩa sâu sắc trong tranh dân gian tết Đông Hồ
7. Bố cục của tiểu luận
Chương I. Nguồn gốc tranh khắc gỗ dân gian Việt Nam
1. Vài nét về quá trình phát triển tranh dân gian Việt Nam
2. Nguồn gốc tranh dân gian Đông Hồ
Chương II. Vẻ đẹp đặc trưng và ý nghĩa sâu sắc trong tranh dân gian
Việt Nam
1. Khái niệm về tranh dân gian
2. Vẻ đẹp của không gian trong tranh dân gian ĐôngHồ
2.1.Vẻ đẹp của nét – mảng trong tranh dân gian Đông Hồ
2.2.Vẻ đẹp của màu săc trong tranh dân gian Đông Hồ
B. PHẦN NỘI DUNG
Chương I. Nguồn gốc tranh khắc gỗ dân gian Việt Nam
1.Vài nét về quá trình phát triển tranh khắc gỗ Việt Nam
Nghệ thuật khắc gỗ Việt Nam bắt nghuồn từ nghệ thuật nguyên thủy, nghệ thuật
tranh dân gian đã nảy sinh từ rất xa xưa... Xuất hiện từ thời Lý (1020 – 1025) đến
nhà Hồ (1400 – 1414) được duy trì phát triển tới thời Hậu Lê (1533 – 1789), song
song với việc in và phát tiền giấy cũng như cùng với đạo phật thịnh hành. Năm
1396 vào cuối thời Trần, Hồ Quý Li cho phát tiền giấy gọi là thông báo Hội Sao.
Các đồng bạc đều in hình vẽ khác nhau tùy theo giá trị của chúng:sóng, mây rùa,
lân, phượng và rồng, nghệ thuật vẽ tiền đạt đến sự điêu luyện.
Thế kỉ 17 tranh dân gian phát triển khá mạnh. Chẳng những được người thôn quê
ưa thích, tranh dân gian còn thâm nhập tự nhiên vào nhà quyền quý, khá giả ở kinh
thành. Trong bài thơ “ Tử thời khúc vịnh” nhà thơ Hoàng Sĩ Khải có ghi lại:
Chung quỳ khéo vẽ nên hình
Bùa đào cấm quỷ phòng linh ngăn tà
Tranh vẽ gà cửa treo thiếp yểm
Dưới thềm hoa điểm thọ dưng
Hình “Chung quỳ” và bức tranh “bùa đạo” mà nhà thơ nói đến ở đây là hai bức
vẽ thần Thân Thư và Uất Luật có thể xua đuổi tà ma theo quan niệm dân gian bấy
giờ. Về hình tượng, ý nghĩa có thể liên tưởng đến bức tranh “ Ông tướng” canh
Học Viên: Mai Hồng Thương
Trang 3
cổng sau này. Bức tranh “gà” cũng tưởng tượng cho quan niệm đó – gà gáy lên sẽ
xua tan đêm tối cùng tất cả ma quỷ giữ yên cho mọi nhà. Vì thế tranh “gà” rất phổ
biến trong các dòng tranh dân gian. Từ tranh Đông Hồ, Hàng Trống cho đến Kinh
Hoàng sang thế kỉ 18 tranh dân gian phát triển rất mạnh. Nhưng đến thời Pháp
thuộc, do ảnh hưởng của thời cuộc giấy gió không có, giấy báo cũng hết, tranh dân
gian phải in trên giấy sinh học số lượng ít lại xấu. Đến nay chỉ còn làng tranh Đông
Hồ (Bắc Ninh) còn giữ được nghề cho đến sau này với tính cách là một làng nghề
phụ thủ công chủ yếu làm tranh điệp và chủ yếu là hàng xuất khẩu.
2. Nguồn gốc tranh dân gian Đông Hồ
Tranh dân gian Đồng Hồ xuất hiện vào thời Lý (1020 – 1225) và Hồ (1400 –
1414) và phát triển nhất vào thời Hậu Lê (1533- 1789). Các nhà nghiên cứu cho
rằng thời kỳ hưng thịnh nhất là vào khoảng thế kỉ XVII đến cuối thế kỉ XIX. Tranh
Đông Hồ bắt nguồn từ làng Đông Hồ thuộc huyện Thuận Thành tỉnh Bắc Ninh
nằm bên bờ sống Đuống thơ mộng quanh năm bồi đắp phù ra màu mỡ cho nhân
dân hai bên bờ sông. Ở đó có dòng họ Nguyễn Đăng nối tiếng vẽ mẫu khắc ván.
Đây là nơi nổi tiếng có nghề in tranh bằng bản khắc gỗ. Vì lẽ đó nghề thủ công này
là một trong những thể loại tranh dân gian được người Việt coi như món ăn tinh
thần, người bạn gần gũi của họ là một dòng tranh có nghệ thuật độc đáo và mang
tính dân tộc bởi kĩ thuật in mẫu mực ổn định do trải qua nhiều thế hệ. Tranh dân
gian Đông Hồ nói riêng không hề có tên tác gia, nó trở thành vốn tài sản chung của
dân tộc và được rèn dũa, đúc kết qua tay của các nghệ nhân làng nghề truyền từ đời
này sang đời khác nên nó chắt lọc được những cái gì được gọi là tinh hoa, tinh túy
nhất và không ngừng được bồi đắp qua từng thế hệ.
Có thể nói tranh dan gian nói chung và tranh dân gian Đông Hồ nói riêng đã
chứng tỏ sự thống nhất, hoàn chỉnh trong nếp nghĩ và lao động của một dân tộc, đó
chính là tính sáng tạo của quần chúng nhân dân lao động, vì thế nó mang bản sắc
dân tộc đậm đà. Tuy nhiên, tranh dân gian cũng như các loại hình nghệ thuật có
nguồn gốc bản địa ăn sâu vào trong tâm hồn của người dân nhưng cần có sự giao
lưu văn hóa của khu vực, thế giới thì mới học tập thêm để nâng cao.
Học Viên: Mai Hồng Thương
Trang 4
Vẻ đẹp và ý nghĩa sâu sắc trong tranh dân gian tết Đông Hồ
Chương II: Vẻ đẹp đặc trưng và ý nghĩa sâu sắc trong tranh dân gian Đông
Hồ
1. Vẻ đẹp đặc trưng trong tranh dân gian Đồn Hồ
1.1 Vẻ đẹp về không gian-bố cục
Nếu hội họa phương Tây sử dụng phối cảnh không gian xa gần tạo ra bố cục theo
quy luật thị giác của thì đối với tranh Đông Hồ thì lại rất khác, nó không có đường
chân trời, không có tiền cảnh, hậu cảnh, không có chuyển sắc độ đậm nhạt v.v…
mà chỉ có những mảng màu đơn sắc, được bao bằng đường viền thô, dứt khoát, các
nhân vật được dàn lên hết mặt tranh. Bố cục của tranh thường được thể hiện đầy
đủ, trọn vẹn theo lối vẽ “đơn tuyến bình đồ”, do đó xem tranh dân gian Đông Hồ ta
thường bắt gặp cái thú vị ở những nét ngây ngô, đơn giản nhưng hợp lý hợp
tình.Một nét độc đáo nữa trong tranh dân gian Đông Hồ, đó là bên cạnh các hình
thể, trong tranh thường có chữ đề thơ, mảng chữ là một phần tạo nên sự chặt chẽ
và hoàn chỉnh trong bố cục không gian của tranh bên cạnh việc thể hiện rõ ý tưởng
về nội dung. Nét chữ cũng là nét vẽ trong tranh, hài hòa, ăn ý với nét vẽ ở các hình
thể khác. Vì thế, trong tranh dân gian Đông Hồ, với chỉ vài nhân vật được tạo hình
một cách đơn giản, không gian mang tính ước lệ cùng những chữ đề thơ nhưng
người xem vẫn cảm nhận hết ý vị của tranh, dễ dàng nắm bắt được ý nghĩa cũng
như tư tưởng mà nghệ nhân muốn truyền tải vào trong tác phẩm.
Không gian hai chiều trong tranh dân gian Đông Hồ là tổ hợp ngôn ngữ đồ hoạ
(màu sắc, đường nét, mảng đậm nhạt) để diễn tả vật trong tranh với hai chiều đó là
chiều cao và chiều rộng, chiều thứ ba được các hoạ sĩ nghệ nhân ước lệ bằng cách
sử dụng các thủ pháp ngôn ngữ đồ hoạ để tạo ra như vật ở trước đặt xuống dưới,
vật ở sau đặt lên trên. Không gian hai chiều còn gọi là không gian ước lệ
Hình 1: Đám cưới chuột - Nguồn: Internet.
Học Viên: Mai Hồng Thương
Trang 5
Đoàn đám cưới của họ nhà chuột được kéo dài kín bức tranh với hai lớp hình
trên – dưới (sau – trước). Đầu tiên là hình ảnh chú rể cùng đoàn cô dâu và hộ tống
được sắp xếp ở hàng dưới. Hình ảnh chú rể chuột đi đầu còn ngoái lại sau để xem
đại diện họ nhà chuột phía sau dâng lễ vật cho mèo có trót lọt hay không. Hình ảnh
họ nhà chuột đi phía sau được vẽ ở lớp trên của bức tranh và cuối cùng là Mèo đã
tạo ra bức tranh một không gian trải dài, rộng, bố cục tranh chặt chẽ tạo sự vui mắt
hứng thú cho người xem.
Hình 2: Em bé ôm cá
-Nguồn: Internet.
Hình 3: Hứng dừa
Nguồn: Internet.
1.2 Đường nét trong tranh dân gian Đông Hồ
Là sự tổng hợp nét cong uyển chuyển, cộng vào đó là không gian trong tranh
được cấu trúc nhịp nhàng mềm mại. Nét to khỏe của cây dừa khác với nét khắc
nhân vật tạo nên không như không gian cũng như miêu tả hình tượng trong tranh.
Đường nét không chỉ là định hướng ban đầu hay chặn hình giới hạn mà quan
trọng hơn là tạo ra không gian chiều râu cho tác phẩm. Xem kĩ các bức tranh của
Đông Hồ:
Hình 4: Gà mái - Nguồn: Internet.
Hình ảnh gà mái được thể hiện rất rõ nét. Đôi cánh gà mẹ được tả bằng cách
chấm xếp hàng đều đặn để tả lông nhỏ xốp mềm mà cũng là thay đổi phương án
Học Viên: Mai Hồng Thương
Trang 6
Vẻ đẹp và ý nghĩa sâu sắc trong tranh dân gian tết Đông Hồ
cho đỡ nhàm mắt. Tác giả gợi không gian đàn gà đông đúc thể hiện được nhiều góc
nhìn của đàn gà và sự phong phú của không gian.
Hình 5: Chăn trâu thổi sáo - Nguồn: Internet.
Các nghệ nhân Đông Hồ tả gai cọng sen bằng nét băm rất tài tình, một tập hợp
các nét băm ngắn xếp dài đều đặn vừa cho ta thấy gợi ý cọng sen có nhiều gai. Con
trâu dưới cằm nó có lớp lông tơ mềm mại bằng các nét băm song song đều nhau rất
uyển chuyển.
Hình 6: Tranh vinh hoa - phú quý
Nguồn: Internet.
Hình 7: Chăn trâu thả diều - Nguồn: Internet.
Học Viên: Mai Hồng Thương
Trang 7
Tranh (Phú quý), (Chăn trâu thả diều) ta cũng gặp nhiều nét băm này. Mỗi cách
tả nét lại cho thấy một hình dạng đa chiều trong không gian đồng thời tả chất của
hình tượng trong không gian.
Tranh đám cưới chuột (Hình 1) các con chuột đang khúm núm nét từ đuôi chạy
đến lưng bổng mở ra thành mảng rồi co lại để gồng mình, lên gân tay và cơ đùi, lấy
hết can đảm tiến đến hối lễ lão mèo khủng khiếp. Cách sử dụng nét đó tạo nên
không gian giữa hai vật Mèo và Chuột có một khoảng cách tâm lý đặc biệt.
Nét gợi khối trong tranh (Phú quý) cổ con vịt là hai đường chạy song song tạo
cảm giác bẹt nhưng cổ vịt được cài các nét ngắn hơi cong nhằm tả nét gấp khi cổ
vịt co lại. Một điều thú vị nữa về nét là hình ảnh mỗi em bé có một kiểu tóc khác
nhau trong tranh Đông Hồ: Thoạt nhìn ta nhìn hình ảnh em bé trong tranh chỉ là
một dù ôm vịt, gà, cóc, hay cá. Nhưng nhìn kĩ sẽ phải thán phục các nghệ sĩ dân
gian xưa. Mỗi bé một kiểu tóc, vẫn chỉ là một loại nét ngắn nhưng với cách sắp xếp
khác nhau cho ra cấu trúc tóc khác nhau. Tranh Đông Hồ phục vụ chủ yếu cho
người dân lao động nên nét vẽ có viền dứt khoát khỏe khoắn làm cho bức tranh
sinh động, chất đồ họa và chất biểu cảm cao. Có thể nói nét giữ vai trò vô cùng lớn
trong việc diễn tả không gian trong tranh. Nét không những diễn tả được khối,
không gian, tạo chất mà còn diễn tả được sự vận động tĩnh tại của sự vật, cao hơn
nó còn diễn tả được những trạng thái tình cảm của con người và thái độ của con
người đối với sự vật đó
1.3 Vẻ đẹp về màu sắc trong tran dân gian ĐôngHồ
Thuật sử dụng màu sách trong tranh dân gian Đông Hồ rất tài tình có thể nói đã
đạt đến chuẩn mực tuyệt mĩ, mỗi tranh mỗi vẻ. Màu sắc trong tranh Đông Hồ rất
đặc sắc và nguồn gốc cũng đặc biệt. Chỉ có ít màu nhưng được kết hợp rất tài tình,
thiên về ánh sáng hầu như không cần đến màu ghi trung gian. Những màu ấy dù in
hay vẽ đều rất khiêm tốn chỉ vài màu nhưng do cách chế biến, kĩ thuật in chồng, in
lệch tạo ra màu cổ truyền gọi là thước cái.
Học Viên: Mai Hồng Thương
Trang 8
Vẻ đẹp và ý nghĩa sâu sắc trong tranh dân gian tết Đông Hồ
Ví dụ: Son đỏ thắm được nghiền ra từ thứ đất đồi nung non. Màu đỏ vàng được
chiết xuất từ gỗ cây vang, màu vàng ấm được lấy từ hoa hòe, hay dành dành. Màu
xanh chàm lấy từ cây chàm. Màu đen xốp lấy từ than lá tre hay than rơm. Màu
trắng óng ánh lấy từ vỏ con điệp. Có thể nói đặc trưng ngôn ngữ đồ hoạ cũng được
thể hiện qua cách sử dụng màu sắc trong tranh Đông Hồ một cách rõ nét. Với
những chất liệu hoàn toàn tự nhiên tranh Đông Hồ có màu sắc gần gũi, ấm áp rất
đặc biệt mà có lẽ chỉ riêng Việt Nam mới có. Nói về vẻ đẹp tuyệt vời này nhà thơ
Hoàng Cầm trong bài thơ “Bên kia sông Đuống” từng viết:
“ Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong
Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp”
Chỉ với hai câu thơ đã khái quát lên được màu sắc của cả một dòng tranh được ví
như màu của dân tộc. Cái giỏi của màu sắc trong tranh Đông Hồ là ở chỗ chỉ với
bốn màu cơ bản: đen, vàng, đỏ, xanh các nghệ nhân đã làm nên những bức tranh
hết sức sống động, hài hoà và vô cùng độc đáo. Ta có thể thấy trong “Đám cưới
chuột” (hình1) hay đàn gà
Màu xanh được sử dụng trong tranh dân gian Đông Hồ rất nhiều, bởi màu
xanh là biểu trưng cho sự sinh sôi nảy nở, biểu tượng cho sự tươi tốt và những ước
mơ bình dị và tốt đẹp của con người. Hầu như trong bất kì bức tranh dân gian
Đông Hồ nào cũng thấy sự góp mặt củ màu xanh.
Chính sự tương phản của màu sắc, sự độc đáo trong sử dụng chất liệu đã tạo
nên giá trị thẩm mĩ độc đáo và khác biệt với cac dòng tranh dân gian khác. Cách sử
dụng màu sắc của tranh dân gian Đông Hồ cùn chứa đựng giá trị biểu trưng mang
tính triết lí của học thuyết ngũ hành như: màu trắng ứng với hành kim, màu xanh
ứng với hành mộc, màu đen ứng với hành thuỷ, màu đỏ ứng với hành hoả, màu
vàng ứng với hành thổ. Theo quan niệm của nghệ nhân Đông Hồ tiếp thu quan
niệm triết học phương đông “màu xanh được tượng trưng cho sự sống sinh sôi, là
màu của mùa xuân, màu hợp với mắt nhìn. Màu đỏ tượng trưng cho lửa, nhiệt
nóng, màu của mùa hạ. Màu vàng tượng trưng cho màu của đất, tượng trưng cho
mẹ của thiên nhiên… Cho nên trong các hành Đông Hồ thường xử lý màu vàng
làm nền cho mặt tranh, có ý nghĩa quan trọng trong tổng hoà các mối quan hệ của
bức tranh.
Ví dụ tranh ngũ hổ: Hình tượng 5 con hổ được bố trí 4 con 4 góc tượng trưng
cho bốn hành theo chiều tương khắc ngược kim đồng hồ. Màu trắng trong tranh
Đông Hồ thường được các nghệ nhân khai thác từ độ lấp lánh với bột họ tạo nên
mặt tranh tạo hiệu đằm thắm vừa có được cái hồn của dân tộc. Có nhà văn đã miêu
Học Viên: Mai Hồng Thương
Trang 9
tả như sau: “Tranh gà lợn đỏ như xôi gấc, vàng như cốm non, đổ như ngô già, nâu
như đất cày, vàng như lúa chín,xanh như lá mạ hay vàng như nghệ kho cá .. toàn
những màu sắc thân mến từ bao đời rồi. Những màu sắc ấy vào tâm trí người nông
dân từ thế hệ này đến thế hệ khác thành những màu dân tộc.
Thuật sử dụng màu sách trong tranh dân gian Đông Hồ rất tài tình có thể nói đã
đạt đến chuẩn mực tuyệt mĩ, mỗi tranh mỗi vẻ. Màu sắc trong tranh Đông Hồ rất
đặc sắc và nguồn gốc cũng đặc biệt. Chỉ có ít màu nhưng được kết hợp rất tài tình,
thiên về ánh sáng hầu như không cần đến màu ghi trung gian. Những màu ấy dù in
hay vẽ đều rất khiêm tốn chỉ vài màu nhưng do cách chế biến, kĩ thuật in chồng, in
lệch tạo ra màu cổ truyền gọi là thước cái.
Ví dụ: Son đỏ thắm được nghiền ra từ thứ đất đồi nung non. Màu đỏ vàng được
chiết xuất từ gỗ cây vang, màu vàng ấm được lấy từ hoa hòe, hay dành dành. Màu
xanh chàm lấy từ cây chàm. Màu đen xốp lấy từ than lá tre hay than rơm. Màu
trắng óng ánh lấy từ vỏ con điệp. Có thể nói đặc trưng ngôn ngữ đồ hoạ cũng được
thể hiện qua cách sử dụng màu sắc trong tranh Đông Hồ một cách rõ nét. Với
những chất liệu hoàn toàn tự nhiên tranh Đông Hồ có màu sắc gần gũi, ấm áp rất
đặc biệt mà có lẽ chỉ riêng Việt Nam mới có. Nói về vẻ đẹp tuyệt vời này nhà thơ
Hoàng Cầm trong bài thơ “Bên kia sông Đuống” từng viết:
“ Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong
Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp”
Chỉ với hai câu thơ đã khái quát lên được màu sắc của cả một dòng tranh được ví
như màu của dân tộc. Cái giỏi của màu sắc trong tranh Đông Hồ là ở chỗ chỉ với
bốn màu cơ bản: đen, vàng, đỏ, xanh các nghệ nhân đã làm nên những bức tranh
hết sức sống động, hài hoà và vô cùng độc đáo. Ta có thể thấy trong “Đám cưới
chuột” (hình1) hay đàn gà (Hình )
Màu xanh được sử dụng trong tranh dân gian Đông Hồ rất nhiều, bởi màu
xanh là biểu trưng cho sự sinh sôi nảy nở, biểu tượng cho sự tươi tốt và những ước
mơ bình dị và tốt đẹp của con người. Hầu như trong bất kì bức tranh dân gian
Đông Hồ nào cũng thấy sự góp mặt củ màu xanh.
Chính sự tương phản của màu sắc, sự độc đáo trong sử dụng chất liệu đã tạo
nên giá trị thẩm mĩ độc đáo và khác biệt với cac dòng tranh dân gian khác. Cách sử
dụng màu sắc của tranh dân gian Đông Hồ cùn chứa đựng giá trị biểu trưng mang
tính triết lí của học thuyết ngũ hành như: màu trắng ứng với hành kim, màu xanh
ứng với hành mộc, màu đen ứng với hành thuỷ, màu đỏ ứng với hành hoả, màu
vàng ứng với hành thổ. Theo quan niệm của nghệ nhân Đông Hồ tiếp thu quan
Học Viên: Mai Hồng Thương
Trang 10
Vẻ đẹp và ý nghĩa sâu sắc trong tranh dân gian tết Đông Hồ
niệm triết học phương đông “màu xanh được tượng trưng cho sự sống sinh sôi, là
màu của mùa xuân, màu hợp với mắt nhìn. Màu đỏ tượng trưng cho lửa, nhiệt
nóng, màu của mùa hạ. Màu vàng tượng trưng cho màu của đất, tượng trưng cho
mẹ của thiên nhiên… Cho nên trong các hành Đông Hồ thường xử lý màu vàng
làm nền cho mặt tranh, có ý nghĩa quan trọng trong tổng hoà các mối quan hệ của
bức tranh.
Ví dụ tranh ngũ hổ: Hình tượng 5 con hổ được bố trí 4 con 4 góc tượng
trưng cho bốn hành theo chiều tương khắc ngược kim đồng hồ. Màu trắng trong
tranh Đông Hồ thường được các nghệ nhân khai thác từ độ lấp lánh với bột họ tạo
nên mặt tranh tạo hiệu đằm thắm vừa có được cái hồn của dân tộc. Có nhà văn đã
miêu tả như sau: “Tranh gà lợn đỏ như xôi gấc, vàng như cốm non, đổ như ngô
già, nâu như đất cày, vàng như lúa chín,xanh như lá mạ hay vàng như nghệ kho
cá .. toàn những màu sắc thân mến từ bao đời rồi. Những màu sắc ấy vào tâm trí
người nông dân từ thế hệ này đến thế hệ khác thành những màu dân tộc.
Tứ Quý Lễ Trí – Nhân Nghĩa – Vinh Hoa – Phú Quý là bốn bức thường được treo cùng nhau
trong dịp năm mới. Bốn bức tranh này hoàn toàn là những sáng tạo đáng tự hào của người Việt,
truyền tải những ước mơ cao đẹp từ bao đời nay.
Hình 5: Múa lân - Nguồn: Internet.
Tranh mô tả hình ảnh múa lân quen thuộc trong ngày những Tết, phản ánh
không khí vui tươi hứng khởi dịp đầu xuân mới.
Học Viên: Mai Hồng Thương
Trang 11
Hình 6: Lí ngư vọng nguyệt - Nguồn: Internet.
Ý nghĩa sâu sắc trong tranh dân gian Đông Hồ Tranh Đông Hồ thường là
tranh Tết, là thú vui tao nhã, một phong tục đẹp của người Việt Nam xưa, đặc biệt
ở các vùng đồng bằng Bắc bộ. Cứ mỗi dịp Tết Nguyên Đán, các gia đình dù giàu
hay nghèo, ngoài bánh chưng, thịt mỡ, dưa hành cũng không thể thiếu câu đối đỏ
cùng những bức tranh tết. Những bức tranh dân gian màu sắc tươi tắn được dán lên
tường nhà làm không khí thêm phần rộn rã, ấm cúng. Tranh tết Đông Hồ không
phải là sự minh họa về ngày tết mà thông qua nội dung của các bức tranh này là sự
gửi gắm, là lời chúc phúc cho những gì tốt đẹp nhất cho một năm mới, một năm
phát tài, phát lộc bằng những hình ảnh biểu tượng dân dã, gần gũi nhưng lại chứa
đựng những thông điệp ẩn ngữ đầy tính nhân văn. Với sự phong phú, đa dạng cả về
mẫu mã, thể loại, chủ đề, tranh dân gian Đông Hồ phản ánh hầu như tất cả những
gì diễn ra trong đời sống bình dị của người lao động như: Chăn trâu thổi sáo, Hứng
dừa, Đấu vật, Đánh ghen… cho tới những ước mơ, khát vọng cuộc sống tốt đẹp
hơn như Lễ trí, Nhân nghĩa, Vinh hoa, Phú quý, Lợn đàn, Gà đàn… Cái hấp dẫn
của tranh dân gian Đông Hồ là không chỉ đề cập cuộc sống: thóc đầy bồ, gà đầy
sân, ước mong vinh hoa phú quý mà còn đề cập đến cuộc sống lứa đôi, vợ chồng
với cái nhìn hóm hỉnh mà sâu sắc. Tranh dân gian Đông Hồ càng xem càng cảm
nhận thấy ý nghĩa văn hóa sâu sắc, chứa đựng những ẩn ý, nhắc nhở, răn dạy chi
tiết, đầy đủ về mọi sự đúng sai, phải trái ở đời, mang đậm một cái nhìn lạc quan,
trìu mến và tha thiết đối với cuộc sống.
Đây là một trong những bức tranh Đông Hồ được nhiều gia đình chọn treo
vào dịp Tết, đặc biệt là ở những gia đình có coan cháu thi cử trong năm đó. Bức
tranh hàm ý hi vọng người học trò học hành chăm chỉ rồi sẽ đến lúc vượt vũ môn,
Học Viên: Mai Hồng Thương
Trang 12
Vẻ đẹp và ý nghĩa sâu sắc trong tranh dân gian tết Đông Hồ
thành công như “cá chép hóa rồng”.Theo văn hóa dân gian, cá chép là biểu tượng
cho ý thức, nghị lực vươn lên trong cuộc sống, trong thi cử, là ước nguyện trong
chốn quan trường với mong muốn “vượt vũ môn hóa rồng” (rồng là biểu tượng cho
vua chúa).
Trăng là biểu tượng của trí tuệ (ánh sáng trong đêm). Trên thực tế, không có bóng
trăng soi đáy nước, mà chỉ có bóng trăng soi mặt nước. Bóng trăng soi đáy nước
trong tranh chỉ là một hình tượng qui ước. Hình tượng bóng trăng đáy nước là biểu
tượng cho ảo ảnh của một giá trị đích thực của mặt trăng trên không gian. Hình
tròn của mặt trăng là biểu tượng của sự hoàn thiện, viên mãn. Con cá chép trong
tranh lại không tìm về giá trị đích thực của mặt trăng trên cao, mà lại tìm những ảo
ảnh của cuộc đời. Hàm ý của bức tranh muốn nhắn gửi “hãy tìm về sự hoàn thiện,
viên mãn của con người”.
Vẻ đẹp toát lên ngay từ hình tượng độc đáo với một bố cục rất ấn tượng nhưng hài hòa và
cân đối. Chính biểu tượng của bức tranh đã làm nên sự vi diệu, sâu lắng và sự minh triết trong
bức tranh này. Con cá chép được tả tỉ mỉ, trau chuốt đến từng ô vảy cho thấy sự hoàn thiện về
nhân cách và tài đức. Mặt trăng tròn vành vạnh biểu tượng của sự hoàn thiện, viên mãn đích
thực, là mục đích vươn tới của đời người.
Hình 7: Tiền tài - Nguồn: Internet.
Tranh tiền lộc vẽ Thần Tài chính là thể hiện của người xưa mong muốn có
nhiều tiền, nhiều lộc trong năm mới. Truyền thuyết kể rằng, có một người lái buôn
tên Âu Minh khi đi qua hồ Thanh Thảo được Thủy Thần ban cho một cô hầu là
Như Nguyệt. Âu Minh đem Như Nguyệt về nuôi và từ đó gia đình làm ăn phát đạt,
giàu có vô cùng. Một hôm vào ngày Tết, Như Nguyệt phạm lỗi bị Âu Minh đánh
nên sợ quá liền trốn vào đống rác rồi biến mất. Từ đó nhà Âu Minh sa sút dần.
Người ta nói Như Nguyệt là Thần Tài, thế nên từ đó có tục thờ Thần Tài cũng như
lệ kiêng đổ rác vào ngày Tết.
Tranh khai thác nét đẹp dũng mãnh, oai nghiêm từ những ánh mắt, chòm râu, vẻ
mặt, cùng khí thế toàn thân đều toát lên sức sống mãnh liệt của loài chúa sơn lâm
Học Viên: Mai Hồng Thương
Trang 13
trong các tư thế hổ đứng, hổ ngồi, hổ cưỡi mây lướt gió… như các vị thần chuyên
diệt trừ tà ma, điều xui xẻo.
Tranh Ngũ Hỗ
Tranh vẽ năm con hổ được bố cục chặc chẽ, cân đối trên mặt giấy. Màu sắc sử dụng trong
tranh mang tính triết lý của học thuyết ngũ hành phương Đông: Bốn chú hổ ở bốn góc bố trí các
màu trắng, đen, xanh, đỏ tượng trưng cho các hành Kim, Thuỷ, Mộc, Hỏa theo chiều tương khắc
ngược kim đồng hồ theo thuyết Ngũ hành phương Đông. Chú hổ còn lại được bố trí ngay chính
giữa tranh, được xử lý bằng gam màu vàng, là hành Thổ, tượng trưng cho mẹ của muôn loài.…
tranh Đông Hồ thường sử dụng màu vàng làm nền, có ý nghĩa quan trọng trong tổng hòa quan hệ
của bức tranh.
Hình 8: Công múa - Nguồn: Internet.
Theo quan niệm dân gian, chim công là một con vật tượng trưng cho cái đẹp
và phẩm cách cao quý. Ngoài ra, người xưa cũng tin rằng treo hình ảnh chim công
trong nhà sẽ giúp xua đuổi tà ma.
Học Viên: Mai Hồng Thương
Trang 14
Vẻ đẹp và ý nghĩa sâu sắc trong tranh dân gian tết Đông Hồ
Hình 9: Lợn đàn - Nguồn: Internet.
Tranh lợn đàn được treo nhiều trong ngày Tết là để thể hiện mong ước năm
mới thịnh vượng, phát tài phát lộc, đông con nhiều cháu. Theo quan niệm của
những người vẽ tranh Đông Hồ, con lợn là con vật đẹp nhất, tượng trưng cho sự
ấm no, sung túc. Hình ảnh xoáy âm dương trên mình lợn còn thể hiện sự sinh sôi,
nảy nở.
Tranh gà đàn
Ở đây tranh gà cũng theo triết lý âm dương và tín ngưỡng phồn thực như tranh lợn
như cách thể hiện hơi khác.
Gà mẹ và mười chú gà con được bố cục gọn ghẽ trong một hình chữ nhật
nằm ngang, mỗi chú gà con một vẻ, con nào cũng nghịch – đang rỉa lông rỉa cánh
hay đang nghỉ ngơi trên lưng mẹ – bỗng dỏng cổ sau tiếng cục cục của gà
mẹ, hướng về phía con mồi của mẹ. Cái “động” của gà con kết hợp với cái “tĩnh”
của gà mẹ, lại đặt trong cái tĩnh của hình chữ nhật. “Động” biểu thị cho “dương”,
“Tĩnh” biểu thị cho “âm”. Tông màu nóng (đỏ, vàng) là chủ đạo, khiến cho đàn gà
thêm rực rỡ trong bầu trời tràn ngập nắng. Tranh khai thác cái đẹp sum vầy hạnh
phúc.
Có thể nói tra nh dân gian Đông Hồ là một dòng tranh vô cùng nổi tiếng và luôn
sống mãi với sự phát triển ccuar dân tộc Việt Nam. Sở dĩ nói như vậy bơi tranh dân
gian mang trong nó những vẻ đep vô cùng thuần khiếtvà lung linh , bên cạnh đó là
Học Viên: Mai Hồng Thương
Trang 15
những giá tri triết lí sâu sắc về con người , xã hội, quan niệm sống , giá trị đạo đức
vô cùng lớn lao. Nó xứng đáng là một dòng tranh đại diên cho Việt Nam tự hào với
thế giới , là tâm hồn dân tộc Việt .
Nhìn khuôn mặt bầu bĩnh, rạng rỡ của các em bé và con gà, con ngan béo
mập, người xem đã hình dung ra cảnh được mùa, thóc đầy bồ, gà đầy sân của nhà
nông. Mong tăng thêm hạnh phúc cho họ, tác giả đề chữ “Vinh hoa, phú quý”. Bé
trai ôm con gà, bên cạnh là những bông cúc (kê – cúc) – ước nguyện một tươn
Bức tranh bé gái ôm vịt thể hiện ước mong người con gái dịu hiền, duyên
dáng, sinh nhiều. Bông hoa sen phía sau còn tượng trưng cho sự trong trắng tinh
khiết.
Bộ tranh Tứ Quý Lễ Trí – Nhân Nghĩa – Vinh Hoa – Phú Quý là bốn bức thường
được treo cùng nhau trong dịp năm mới. Bốn bức tranh này hoàn toàn là những
sáng tạo đáng tự hào của người Việt, truyền tải những ước mơ cao đẹp từ bao đời
nay.
Học Viên: Mai Hồng Thương
Trang 16
Vẻ đẹp và ý nghĩa sâu sắc trong tranh dân gian tết Đông Hồ
Bức tranh em bé ôm rùa thể hiện ước mong đứa trẻ sẽ có được cả hai chữ Lễ
(Lễ Nghĩa, Lễ Phép) và chữ Trí (Lý Trí, Trí Tuệ). Người xưa vẫn hay nói: Người
không có Lễ thì sẽ thành kẻ vô phép. Người không có Trí thì sẽ thành kẻ ngu ngốc.
Bức Lễ Trí chính là thể hiện bằng tranh của câu nói này. Ngoài ra, bức tranh còn có
tên dân dã là “Gái sắc bế rùa xanh”.Gia đình treo tranh này vào dịp Tết là mong
muốn đứa bé gái sẽ xinh đẹp, nhu mì, hiền dịu đảm đang như con rùa.
Cũng như bức Lễ Trí, dân gian thường ví von "Người không có Nhân thì sẽ
thành kẻ độc ác. Người không có Nghĩa thì sẽ thành kẻ bội bạc". Bức Nhân Nghĩa
với hình ảnh cậu bé ôm cóc – cậu Ông Trời thể hiện mong ước có được cái Nhân,
cái Nghĩa của cóc tía trong truyện cổ Cóc kiện trời. Bức tranh này còn được gọi
với tên dân gian “Trai tài ôm cóc tía”, đặt đối xứng với “Gái sắc ôm rùa xanh.”
Bức tranh Lý ngư vọng nguyệt vẻ đẹp toát lên ngay từ hình tượng độc đáo với một
bố cục rất ấn tượng nhưng hài hòa và cân đối. Chính biểu tượng của bức tranh đã
làm nên sự vi diệu, sâu lắng và sự minh triết trong bức tranh này. Con cá chép
được tả tỉ mỉ, trau chuốt đến từng ô vảy cho thấy sự hoàn thiện về nhân cách và tài
đức. Mặt trăng tròn vành vạnh biểu tượng của sự hoàn thiện, viên mãn đích thực, là
mục đích vươn tới của đời người.
Học Viên: Mai Hồng Thương
Trang 17
Lý Ngư Vọng NguyệtTheo văn hóa dân gian, cá chép là biểu tượng cho ý
thức, nghị lực vươn lên trong cuộc sống, trong thi cử, là ước nguyện trong chốn
quan trường với mong muốn “vượt vũ môn hóa rồng” (rồng là biểu tượng cho vua
chúa).
Trăng là biểu tượng của trí tuệ (ánh sáng trong đêm). Trên thực tế, không có bóng
trăng soi đáy nước, mà chỉ có bóng trăng soi mặt nước. Bóng trăng soi đáy nước
trong tranh chỉ là một hình tượng qui ước. Hình tượng bóng trăng đáy nước là biểu
tượng cho ảo ảnh của một giá trị đích thực của mặt trăng trên không gian. Hình
tròn của mặt trăng là biểu tượng của sự hoàn thiện, viên mãn. Con cá chép trong
tranh lại không tìm về giá trị đích thực của mặt trăng trên cao, mà lại tìm những ảo
ảnh của cuộc đời. Hàm ý của bức tranh muốn nhắn gửi “hãy tìm về sự hoàn thiện,
viên mãn của con người”.
Có thể nói tra nh dân gian Đông Hồ là một dòng tranh vô cùng nổi tiếng và luôn
sống mãi với sự phát triển ccuar dân tộc Việt Nam. Sở dĩ nói như vậy bơi tranh dân
gian mang trong nó những vẻ đep vô cùng thuần khiếtvà lung linh , bên cạnh đó là
những giá tri triết lí sâu sắc về con người , xã hội, quan niệm sống , giá trị đạo đức
vô cùng lớn lao. Nó xứng đáng là một dòng tranh đại diên cho Việt Nam tự hào với
thế giới , là tâm hồn dân tộc Việt .
Tiểu kết chương 2:
Tranh dân gian Việt Nam là bằng chứng của sự sáng tạo hài hòa trong tranh.
Nó phản ánh tính nhạy cảm về tinh thần thi vị của dân tộc Việt Nam. Người ta tìm
thấy trong tranh cái đẹp, bố cục mảng nét, không gian hài hòa có nhịp điệu.
Như chúng ta đã biết cái đẹp của tranh khắc gỗ dân gian Việt Nam là cảm
giác hài hòa do tư thế cân bằng của các yếu tố nét hình mảng, không gian màu sắc
và bố cục. Khi nghiên cứu về tranh dân gian ta rút ra bài học xây dựng cách nhìn
mới theo phong cách dân tộc. Chúng ta không ngừng phát huy và chọn lọc những
tinh hoa từ đó kế thừa và sáng tạo ra những bức tranh theo phong cách của riêng
mình. Khi xây dựng tranh ta quy hình vẽ vào những mảng lớn, mảng nhỏ, phân bố
Học Viên: Mai Hồng Thương
Trang 18
Vẻ đẹp và ý nghĩa sâu sắc trong tranh dân gian tết Đông Hồ
hài hòa trên mặt tranh tạo nhịp điệu, cấu trúc, hình thể, biểu đạt tư duy tả chất.
Không gian trong tranh được thể hiện phong phú với nhiều cách diễn đạt, trong đó
tiêu biểu chúng ta thấy rằng bức tranh Hàng Trống vẽ "Đám Cưới Chuột" không bị
ràng buộc bởi yêu cầu phải phân biệt giữa sự vật ở xa và ở gần, hoặc tính logic của
hình họa khi quan sát từ một vị trí cố định nào đó. Không gian trong bức Đám
Cưới Chuột là một không gian có tính trừu tượng cao. Nó không mô phỏng lại một
không gian cụ thể trong hiện thực. Tính cách điệu cao, gợi nhiều hơn tả, khiến
người xem dễ dàng liên tưởng tới một không gian xã hội, không gian văn hóa, thay
vì một không gian vật thể nào đó.
CHƯƠNG 3
GIÁ TRỊ NGHỆ THUẬT CỦA KHÔNG GIAN
TRONG TRANH DÂN GIAN VIỆT NAM
1. Giá trị nghệ thuật thẩm mỹ và triết lý Phương Đông
Trên tinh thần sáng tạo nghệ thuật dân gian được tích lũy từ đời này đến đời
khác, mang những tố chất nồng hậu, chân chất của nếp sống quê nhà của người
Việt Nam, ngoài ra tranh dân gian mang một giá trị biểu trưng giàu tính triết lý của
một lối tư duy đầy tính triết học của người Phương Đông.
Điều triết lí được khắc họa trong tranh không phải là một thứ triết học thuần
túy, mà là một sự quan niệm cuộc sống nhân sinh, và có những bức tranh được rút
ra từ các tư duy triết học của Phương Đông, từ thuyết ngũ hành, triết lí âm dương
của vũ trụ, điều đó cho chúng ta thấy rằng dòng tranh dân gian vẫn ảnh hưởng tư
duy hình tượng theo lối tư duy Phương Đông. Triết lí trong tranh dân gian thông
qua một số bức tranh như "Ngũ Hổ" là một tư duy nghệ thuật sắc bén, từ cấu tứ
bức tranh sử dụng màu sắc trong tranh và cách tạo nên tính tâm linh huyền diệu
tromg tranh.
Những tác phẩm biểu hiện triết lí như tranh thờ ngũ hổ, đàn lợn, đàn cá, tranh
trê và cóc, tam dương khai thái, chọi trâu, đại cát, lễ trí nhân nghĩa, vinh hoa, phú
quý, tứ quý, chăn trâu, nhất tượng phước lộc điền, mỗi bức tranh biểu hiện mang
một giá trị nội dung riêng biệt, tượng trưng cho một giá trị sinh động về mặt tư
tưởng và tính nhân văn của người Việt Nam. Chính những giá trị đó tạo dựng cho
đời sống mĩ thuật của người Việt Nam dưới một góc nhìn có tính tâm linh, dựa vào
các đề tài và những bức tranh đã thổi hồn vào đời sống của họ mang một giá trị
riêng biệt. Tranh thờ "Ngủ hổ" là một bức tranh biểu hiện tính minh triết tiêu biểu
Học Viên: Mai Hồng Thương
Trang 19
của dòng tranh gian gian đồng hồ. “Ngũ hổ có xuất xứ từ một nền minh triết nến
tảng là học thuyết của vũ trụ quan cổ là học thuyết của âm dương ngũ hành”
khẳng định cho điều đó biểu lộ trong tác phẩm ngũ hổ có những giá trị triết lí tồn
tại trong phương thức xây dựng hình tượng nhân vật trong tranh không phải như
dân gian. (H12) Người ta thường quan niệm hổ là hình tượng hung dữ là chúa tể
của sơn lâm mà người dân thờ cúng mà hình tượng chú hổ “ là một biểu tượng
được lựa chọn để thể hiện sự vật động của ngũ hành” như vậy hình tượng chú hổ
nằm trong niêm luật của sự vật động ngũ hành, cùng với hình tượng đó các nghệ
nhân phối hợp các họa tiết các hình tượng biểu trưng cho một quan niệm triết trong
hệ thống màu sắc, toàn bộ bức tranh là hệ thống hình vuông khép kín hình chữ
nhật, vây xung quanh bố cục là năm chú hổ, tượng trưng cho năm màu khác nhau,
màu đỏ tượng trưng cho hành hỏa, màu trắng tượng trưng cho hành kim, màu xanh
tượng trưng cho hành mộc, màu đen tượng trưng cho hành thủy và điều đặc biệt
ngay chính giữa bức tranh hổ bố trí chú hổ màu vàng tượng trưng cho hành thổ
“theo thuyết âm dương ngũ hành, hành thổ là sự quy tang của bốn hành kia trong
chu kỳ vận động của ngũ hành”, chính vì vậy chú hổ màu vàng được xây dựng lớn
hơn cả có vai trò quyết định của bức tranh. Sự tổng hòa các mối quan hệ màu sắc
trong tranh ngũ hổ là một sự hội tụ vũ trụ trong một bức tranh, chính yếu tố đó bức
tranh ngủ hổ vừa biểu hiện những giá trị tư tưởng triết lí, mà còn cho chúng ta thấy
tính thẩm mỹ dân gian có một giá trị hiện đại trong cách dùng màu, để tạo ra một
bảng màu tươi sáng rực rỡ.
Nằm trong mạch triết lí đó của tranh dân gian Đông Hồ bức tranh "Lợn đàn"
cũng mang ý nghĩa triết lí khác, các nghệ nhân đã khai thác từng chi tiết mang tính
biểu tượng sinh động “ bức tranh như một lời chúc lành cho một năm mới tốt đẹp”
ngoài ra bức tranh đàn lợn mang một ý nghĩa ý vị bằng sự khắc chạm hình tượng
vòng tròn âm dương trên cơ thể hình tượng của con lợn mang một giá trị triết lý
một tố chất giàu tính Phương Đông, sự khắc chạm đó biểu trưng cho một ý nghĩa
sinh động trên tinh thần cầu mong cho những ngày xuân vui tươi an lành ước muốn
mang lại cho cuộc sống sinh sôi nảy nở cháu con tràn đầy, hình tượng chú lợn mẹ
gợi lên cho người ta một sự liên tưỏng tốt về sự sung mảng và tràn đầy sức sống,
xung quanh hình tượng chú lợn mẹ vây quanh chú lợn mẹ, các chú lợn con vui đùa
ủn ỉn tạo ra một không khí vui tươi (H17).
Giá trị tiểu biểu trong tất cả hình tượng chú lợn sự khái quát với hình chữ
nhật và quy tụ tổng thể bức tranh cũng là cấu trúc hình chữ nhật, và chính điều đó
sự quan hệ với vòng xoáy âm dương tạo ra một sự vuông tròn hòa quyện vào nhau
Học Viên: Mai Hồng Thương
Trang 20
Vẻ đẹp và ý nghĩa sâu sắc trong tranh dân gian tết Đông Hồ
như đất trời vạn vật, mẹ con đang quyện hòa thành một thể thống nhất, tình yêu
thương mẫu tử như đang gắn chặt nhau. Không phải điều ngẩu nhiên các nghệ
nhân chỉ đưa các hình tượng âm dương vào trong tranh để trang trí cho bức tranh
mà chính điều đó mang một tinh thần triết lí có tính bí ẩn và "liên quan đến học
thuyết ngũ hành". Về mặt màu sắc trên tranh tạo ra sự hài hòa theo sự tương phản
các cặp màu xanh lục (mộc) đặt cạnh màu đỏ (hỏa) vàng (thổ) đặt cạnh xanh lục
(mộc)…chính yếu tố đó tạo ra sự va đập màu sắc tươi sáng rực rỡ, những đường
nét to khỏe chất phác tạo nên tố chất chân chất của người nông dân Việt Nam .
2. Giá trị về giáo dục
Nhìn nhận một cách tổng quát về giá trị điển hình của nghệ thuật trong tranh
dân gian tồn tại nhiều tầng thức thẩm mỹ, chứa đựng những tinh hoa và vốn quý của
dân tộc, đã được sàn lọc qua bao nhiêu thời gian, cho nên đã tạo nên những giá trị
riêng biệt không lẫn với bất cứ với dòng tranh nào trên thế giới.
Giáo dục nghệ thuật của chúng ta ngày nay có xu hướng hướng ngoại hơn là
hướng nội, chú trọng nghiên cứu những giá trị tiêu biểu của nhân loại làm nền tảng
đưa vào giảng dạy trong nhà trường đặc biệt trong chương trình đào tạo giáo viên
mỹ thuật cho các trường phổ thông, những môn học (học phần) như Hình họa,
Trang trí, Bố cục, Ký họa và những môn thường thức mỹ thuật… chỉ giải quyết về
vấn đề đào tạo kỹ năng thực hành vốn kiến thức cơ bản của chuyên ngành mình
nghiên cứu. Để thẩm thấu và mở mang tri thức và cảm nhận sâu về giá trị thẩm mỹ
nhằm khơi hứng sáng tạo trong dạy và học của thầy trong các trường phổ thông
cần phải nghiên cứu sâu những mảng kiến thức liên quan về nghệ thuật dân tộc,
đặc biệt là nghệ thuật dân gian. Chính sự quay trở về nghiên cứu những thành tựu
cha ông cho nên chúng ta có cơ hội sâu hơn và tiếp xúc với các hệ thống kiến thức
của các môn liên ngành làm cơ sở lí luận trong nhận định và đánh giá thẩm mỹ
trong học sinh phổ thông cơ sở. Những phân tích chuyên sâu về lượng kiến thức và
những giá trị nghệ thuật dân gian của tranh dân gian Việt Nam trên nhằm làm rõ
những giá trị và nét điển hình có tính minh triết của tư duy sắc bén của nghệ thuật
dân gian của cha ông chúng ta, là nền tảng cho mỗi chúng ta tiến sâu hơn kho tàng
mỹ thuật của dân tộc, làm hành trang trong giáo dục và đào tạo nghệ thuật hôm
nay.
Học Viên: Mai Hồng Thương
Trang 21
3. Giá trị phản ánh chân thực xã hội trong tranh dân gian
Trong toàn hệ thống tranh dân gian Việt Nam ngoài một số tranh mang tính
lịch sử chúc tụng phê phán thói hư tật xấu của người dân và còn phản ánh nên một
cuộc sống mới tinh thần mới trong bức tranh.
Yếu tố châm biếm trong tranh, được khắc họa vào những con người cụ thể
đặc biệt hệ thống quan lại của xã hội phong kiến Việt Nam, thì tranh dân gian Việt
Nam còn tồn tại nhiều bức tranh mang một giá trị triết lý sâu sắc như chăn trâu thổi
sáo, phú quý, ngũ hổ, đàn lợn, đàn cá, tam dương khai thái, chọi trâu, nhân nghĩa,
lễ trí, vinh hoa,…những tác phẩm đó mang một giá trị nghệ thuật và một giá trị tư
tưởng vô cùng sâu sắc và to lớn trong tư duy sáng tạo của người nông dân Việt
Nam. Từ đây chúng ta có một cái nhìn về quan niệm về tư duy triết của người
nông dân Việt Nam có một tầng thức suy nghĩ phán đoán trước những hiện tượng
cuộc sống và chính điều đó tác động vào tâm thức tạo hình của họ có một ý nghĩ về
tự nhiên về vũ trụ rất lớn lao. Chính điều đó tạo ra một giá trị nghệ thuật đặc sắc
của một dòng tranh tiêu biểu của dân tộc. Những giá trị ở đây mang một yếu tố
điển hình giá trị triết lý trong tranh dân gian Đông Hồ là một tư duy riêng biệt của
ý nghĩ biểu trưng một tư duy nông nghiệp, điều đó không trùng lặp với tranh thủy
mạc của Trung Quốc, hay tranh khắc gỗ của Nhật Bản, vừa mang ý nghĩ chất phác
vừa biểu hiện tinh thần chân chất của người nông dân Việt Nam.
Giá trị tiêu biểu về phản ánh chân thực xã hội đó là tranh thầy đồ cóc là một
tác phẩm tiêu biểu điển hình mang một giá trị đặc trưng trong các bức tranh dân
gian Đông Hồ. Bởi nó phản phất tinh thần văn hóa dân tộc có từ ngàn đời. Trong
dân gian con cóc là hình tượng thiên liêng mang tính tâm linh của người Việt Nam,
bởi "con cóc là cậu ông trời", hình tượng ấy cứ đi vào dân gian từ đời này sang đời
khác. Các hình tượng trong bức tranh là sự tổng thể các loại cóc nhái to nhỏ lớn bé
khác nhau, hình tượng chú cóc lớn (ông thầy đồ) đang ngồi chễm chệ trên bàn và
kiểm tra bài học trò của mình, còn các chú cóc, nhái xung quanh thay nhau làm
những công việc nhà, chính những công việc đó tạo nên tình cảm, một lối giáo dục
mang tính phong kiến của nếp giáo dục Việt Nam ( H18).
Qua bức tranh đó nói lên một cái nhìn châm biếm và có tính phê phán của
ông cha ta về một lối giáo dục mà tồn tại hằng ngàn năm. Nằm trong những bức
tranh mang tố chất đặc trưng và biểu hiện giá trị triết lý nổi bật nhất là bộ tranh lễ
trí, nhân nghĩa, vinh hoa phú quý, bốn bức tranh thể hiện bốn nội dung khác nhau
với những cầu chúc, khác vọng sự bụ bẫm cho những đứa bé, thể hiện sự phú túc
và ngay thơ thiên thần, ý nghĩa sâu xa cho những bức tranh này "nhận thấy một tư
Học Viên: Mai Hồng Thương
Trang 22
Vẻ đẹp và ý nghĩa sâu sắc trong tranh dân gian tết Đông Hồ
duy tiếp nối là hệ quả của thuyết vũ trụ quan cổ. Đó là thuyết ngủ hành âm dương"
bốn bức tranh tượng trưng cho bốn mùa là, tứ trụ, tứ bình, tứ bảo, tứ bất tử…điều
đó cũng là tượng trưng cho bốn mùa khác nhau trong năm. Hơn nữa bốn bức tranh
bốn hình tượng chú bé bầu tròn và ôm những con vật có tính ước lệ tượng trưng
dùng để biểu thị một ý nghĩa triết lý cho bức tranh như bức nhân nghĩa hình tượng
chú bé ôm cóc là con vật khó có thể gần gủi với đời sống của người dân những với
tư duy triết lí của người nông dân họ đã biến hình tượng mang tính biểu trưng ước
lệ trọng tâm thức người dân, hình tượng quen thuộc. Hay trong bức tranh lễ trí hình
tượng chú bé ôm rùa là một con vật có tính linh thiêng mang một giá trị văn hóa
cội nguồn từ thời xa xưa, qua đó nói lên một ý nghĩa biểu trưng về văn hóa có tính
văn hiến của dân tộc.
Tranh khắc gỗ Hàng Trống chuyên vẽ về đề tài đô thị, nó không chỉ là những
bức tranh chúc tụng nhau một cách đơn thuần, mà còn phản ánh sinh hoạt của nhân
dân thành phố (H19). Trong đó thể hiện ước mơ, quan niệm cuộc sống, cái nhận
thức vẻ đẹp của cha ông thủa trước. Hầu hết đều diễn tả theo một công thức và
cách điệu nhất định, tuy nhiên không gò bó và khuôn sáo quá đáng. Nét bút của
nghệ nhân nhìn chung phóng khoáng, mạnh bạo và có nét độc đáo, đáng để nghiên
cứu, học tập.
Sự hình thành và phát triển của tranh dân gian phản ảnh tư duy sáng tạo đặc
biệt của cộng đồng, tầng lớp đặc trưng của xã hội Việt Nam. Sự tinh xảo trong kĩ
thuật và chế tác tranh mang tính trí tuệ phản ảnh tư duy thành thị của người dân
qua những tác phẩm. Cộng đồng xã hội tạo nên những nét thẫm mĩ có giá trị . " Nó
có ý nghĩ vai trò quan trọng trong đời sống văn hoá của cộng đồng, nhu cầu không
thể thiếu vắng trong xã hội nó góp phần hình thành nhân cách con người, thúc đẩy
hăng say lao động, sáng tạo văn hoá, phát triển tư duy con người, sáng tạo ra
những sản phẩm mang tính văn hoá thể hiện tài năng, trí tuệ, tri thức hiểu biết,
thông minh tài hoa của nhân dân". Đem lại những giá trị bất hủ, thể hiện minh triết
tiêu biểu.
Thông qua những bức tranh Lưỡng nghi sinh tứ tượng "qua bức tranh mà
tự nó đã khẳng định tính minh triết trong cách xây dựng hình tượng và cách bố
cục và kí hiệu trên bức tranh. Trên tay hình tượng đứa bé cầm thái cực đồ biểu
tượng cho thái cực sinh lưỡng nghi lưỡng nghi sinh tứ tượng tứ tượng sinh bát
quái". Hơn nửa hình tượng hai chú bé có bốn thân hình biểu tượng của "tứ tượng",
bốn đứa bé kết cấu bố cục lại tạo thành hình vuông biểu tượng cho âm dương đối
đãi. Trên bức tranh lại khắc họa hình tượng con rùa tượng trưng cho nền văn hoá
Học Viên: Mai Hồng Thương
Trang 23
có chữ viết của Lạc Việt, sự kết cấu sắp xếp hình tượng chú bé đứng trên lưng rùa
là một dấu hiệu tượng trưng sắc sảo có ý đồ về nguồn gốc và dòng giống Lạc Việt.
4. Bài học của việc sử dụng ngôn ngữ đồ họa (tranh dân gian trong sáng tạo
nghệ thuật hiện đại)
Bước bên thềm của thế kỷ 21, Việt Nam đang phải đối mặt với những sự đổi
thay lớn lao trong hầu hết các lĩnh vực: kinh tế, văn hóa, chính trị. Các nhà nghiên
cứu về văn hóa cũng như những chuyên gia kinh tế - xã hội luôn trăn trở trước sự
thâm nhập của lối sống phương Tây ngày một sâu đậm và rõ nét hơn trong vòng
xoáy của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam. Bằng cách nào mà bản sắc văn hóa
Việt vẫn luôn được gìn giữ, mặc cho những năm tháng chiến tranh khốc liệt và
đầy nước mắt trong quá khứ, mặc cho sự phát triển của đất nước, đang ngày một
tiến sâu hơn vào xu thế toàn cầu hóa.
Trong thực tế mĩ thuật là sáng tạo tinh thần không có giới hạn không có khái
niệm chiều sâu, chuyên môn hóa như trong khoa học kỹ thuật. Nhưng mĩ thuật là
nhu cầu không thể thiếu đối với con người ở mọi thời đại. Con người luôn hướng
tới cái đẹp vì vậy mà mĩ thuật không ngừng đổi mới và phát triển, tạo ra nhiều thể
loại và chất liệu khác, phục vụ nhu cầu thẩm mỹ ngày càng cao của con người.
Song dù diễn tả chất liệu hay thể loại gì thì nó cũng không phải trừu tượng quá. Nó
phải phục vụ cho đời sống tinh thần của con người. Hay nó phục vụ cho tâm lý thị
giác.
Hiện đại thường được hiểu với nghĩa mới, hiện tại, thuộc về thời ngày nay
và mặc nhiên bao hàm phẩm chất tiến bộ. Không ai muốn bị xem là bảo thủ, cổ hủ,
"âm lịch" cả. Phương châm sáng tác mỹ thuật cũng là làm sao kết hợp được "tính
dân tộc và tính hiện đại". Tính hiện đại ở đây tạm được hiểu là dùng những yếu tố
kỹ thuật, chất liệu, hình thức… (có tính cách tân) Phương Tây để chuyển tải đề tài,
nội dung, tư tưởng tình cảm, "hồn dân tộc" của đời sống xã hội Việt Nam hiện tại
vào trong tác phẩm nghệ thuật. Và như vậy dù muốn hay không, những yếu tố chủ
nghĩa hiện đại Phương Tây có thể không được chấp nhận một cách công khai trong
toàn bộ bình diện xã hội nhưng lại được chấp nhận như những thủ pháp đơn lẻ ở
từng cá nhân, từng tác phẩm cụ thể để đi đến những sáng tác hội đủ tính chất "Dân
tộc - Hiện đại". Tuy nhiên, để đi đến sự nhận thức và dư luận xã hội chấp nhận
những yếu tố chủ nghĩa hiện đại hiện hữu trong sáng tác mĩ thuật là một quá trình
không đơn giản, đòi hỏi nỗ lực của bao thế hệ nghệ sĩ vật lộn trong sáng tạo, vượt
Học Viên: Mai Hồng Thương
Trang 24
Vẻ đẹp và ý nghĩa sâu sắc trong tranh dân gian tết Đông Hồ
qua thử thách của thời cuộc, định kiến… nhiều khi phải trả giá đắt cho những ước
vọng cách tân nghệ thuật.
Từ trong sự kế thừa tinh hoa nghệ thuật truyền thống, việc đưa cái đẹp vào
đời sống của cha ông vẫn luôn là những bài học cần được tìm hiểu và khám phá để
sáng tác, làm sao giữ gìn được cốt cách dân tộc nhưng luôn đổi mới. Thành công
của các họa sĩ Việt Nam, ngay từ những thập niên đầu thế kỷ XX đó là sử dụng
chất liệu đương đại đắp lên mình nó mảng nguyên liệu truyền thống. Tiếp nối
những thành tựu của cha ông, những họa sĩ của thế hệ sau này đã mạnh dạn tìm tòi
thể hiện tác phẩm của mình với nhiều cách nhìn mới mẻ, hiệu quả, xong vẫn giữ
được cốt cách của dân tộc trong tác phẩm của mình. Một họa sĩ tiêu biểu thời kỳ
đầu sử dụng chất liệu truyền thống và cánh tạo hình khác biệt để diễn tả vốn cổ
truyền thống của dân tộc đó là họa sĩ Nguyễn Tư Nghiêm, ông là người đi đầu
trong những thử nghiệm nghệ thuật và sự đa dạng phong cách tạo hình. Đây là hoạ
sỹ sớm chuyển dịch từ các đề tài lịch sử sang huyền sử
Nhờ có yếu tố dân gian, những hình tượng trong tranh có lẽ nó đã ngấm vào
trong dòng máu của con người Việt Nam chính vì vậy tranh đương đại nó đến gần
hơn với người thưởng thức tranh Việt. Yếu tố dân gian trở thành "của để dành" của
những họa sĩ Việt biết cách tiết chế, lồng ghép, pha trộn đầy bay bổng, sáng tạo.
Nhiều nhà sáng tạo nghệ thuật đã lấy các nội dung truyền thống làm nền tảng cho
sáng tạo nghệ thuật, nhiều tác phẩm đã thành công với bản chất gốc của nó lấy tư
liệu từ cuộc sống.
Tiểu kết chương 3
Nghệ thuật tranh dân gian Việt Nam là một loại hình đã gắn bó với đời
sống nhân dân ở nhiều vùng miền khác nhau. Nó đã góp phần cho cuộc sống
tinh thần của nhân dân. Tranh dân gian Việt Nam được quan tâm của các nhà
nghiên cứu, các họa sỹ sáng tác. Cùng với hội họa, nghệ thuật tranh dân gian Việt
Nam đã và đang tiến đến những tiêu chí mới mẻ hơn. Như vậy vấn đề nghiên cứu
về nó là không bao giờ hết. Nhìn nhận một cách tổng quát về giá trị điển hình của
nghệ thuật trong tranh dân gian tồn tại nhiều tầng thức thẩm mỹ, chứa đựng những
tinh hoa và vốn quý của dân tộc, đã được sàng lọc qua bao nhiêu thời gian, cho nên
đã tạo nên những giá trị riêng biệt không lẫn với bất cứ với dòng tranh nào trên thế
giới.
Học Viên: Mai Hồng Thương
Trang 25