BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ Y TẾ
ĐẠI HỌC Y DƯỢC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
----------
NGUYỄN ĐỨC DŨNG
ĐẶC ĐIỂM DỊCH TỄ VÀ LÂM SÀNG
Ở BỆNH NHÂN LAO PHỔI AFB (+)
CÓ VÀ KHÔNG CÓ HÚT THUỐC LÁ
TẠI BỆNH VIỆN PHẠM NGỌC THẠCH
LUẬN ÁN TỐT NGHIỆP CHUYÊN KHOA CẤP II
Tp. Hồ Chí Minh - 2015
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ Y TẾ
ĐẠI HỌC Y DƯỢC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
----------
NGUYỄN ĐỨC DŨNG
ĐẶC ĐIỂM DỊCH TỄ VÀ LÂM SÀNG
Ở BỆNH NHÂN LAO PHỔI AFB (+)
CÓ VÀ KHÔNG CÓ HÚT THUỐC LÁ
TẠI BỆNH VIỆN PHẠM NGỌC THẠCH
Chuyên ngành: LAO VÀ BỆNH PHỔI
Mã số:
Hướng dẫn khoa học:
Tp. Hồ Chí Minh - 2015
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi.
2
Tất cả dữ liệu và sự kiện trong nghiên cứu này là trung thực và chưa từng
được công bố trong các nghiên cứu khác.
Tác giả
NGUYỄN ĐỨC DŨNG
3
MỤC LỤC
Trang
4
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
AIDS
: Acquired Immune Deficiency Syndrome (Hội chứng suy giảm miễn
dịch mắc phải)
ĐTĐ
: Đái tháo đường
HBV
: Hepatitis B virus (virus viêm gan B)
HCV
: Hepatitis C virus (virus viêm gan C)
HIV
: Human Immunodeficiency Virus (Virus gây suy giảm miễn dịch ở
người)
HTL
: Hút thuốc lá
KTC95%
: Khoảng tin cậy 95%
OR
: Odd ratio (tỷ số số chênh)
WHO
: World Health Organization (Tổ chức Y tế Thế giới)
5
DANH MỤC BẢNG
Trang
6
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Trang
ĐẶT VẤN ĐỀ
Hiện nay, lao và hút thuốc lá (HTL) là hai vấn đề y tế công cộng quan trọng
mang tính toàn cầu, mặc dù lao chủ yếu vẫn xảy ra ở các đang phát triển. Đối với
HTL từ năm 1990 người ta thống kê được rằng có 3 triệu ca tử vong, và ước tính
đến năm 2020 sẽ có khoảng 8,4 triệu ca tử vong trên toàn thế giới. Lao là nguyên
nhân gây tử vong đứng hàng thứ hai sau HIV/AIDS, và hằng năm có 1,7 triệu ca
tử vong do lao [57]. Có đến 1/3 dân số thế giới bị nhiễm trực khuẩn lao nhưng
không biểu hiện thành bệnh [119].
Trước đây, mối quan hệ giữa HTL và lao chưa được quan tâm đúng mức.
Các nhà khoa học cho rằng các yếu tố khác như nghiện rượu, mật độ dân cư đông
đúc, nghèo đói v.v. là những yếu tố nguy cơ chính gây nhiễm lao và mắc bệnh lao.
Tuy nhiên, nhiều nghiên cứu trong vòng hai thập kỷ vừa qua đã chứng minh được
mối liên quan này. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng những người HTL có khả năng
nhiễm lao, mắc lao và tử vong do lao cao hơn so với người không HTL. Bên cạnh
đó, cơ chế gây lao ở người HTL cũng phần nào được hé mở khi các nghiên cứu
phát hiện khói thuốc làm giảm khả năng hệ thống miễn dịch của người HTL từ đó
làm tăng nguy cơ nhiễm và mắc bệnh lao. Mặc dù đã chứng minh được mối quan
hệ giữa lao và HTL nhưng những bằng chứng khoa học vẫn chưa thể khẳng định
một cách chắc chắn bởi vì mối quan hệ này vẫn còn bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố
7
khác như sử dụng rượu, nghèo đói, nhiễm HIV v.v. Các yếu tố này cùng với yếu tố
HTL tạo thành một phức hợp tương tác lẫn nhau cùng gây ra tình trạng nhiễm lao
và mắc lao ở bệnh nhân.
Sự hiểu biết về mối quan hệ giữa lao và HTL ngày nay đã góp phần làm
thay đổi các chiến lược trong phòng chống lao toàn cầu. Bên cạnh các chương
trình can thiệp vào các yếu tố như nghèo đói, dinh dưỡng kém, các quốc gia hiện
nay đã ban hành nhiều chính sách, chương trình phòng chống HTL trong cộng
đồng từ đó giảm thiểu số mắc cũng như số tử vong do lao tại quốc gia đó. Đối với
thầy thuốc điều trị bệnh lao, việc tìm hiểu, cập nhật các kiến thức về mối quan hệ
giữa lao và thuốc lá cũng hết sức quan trọng vì nó góp phần giúp người thầy thuốc
giáo dục và tư vấn những bệnh nhân lao HTL cách phòng ngừa và điều trị lao một
cách hiệu quả hơn thông qua việc từ bỏ thói quen hút thuốc lá có hại cho sức
khỏe. Chính vì vậy việc tìm hiểu đặc điểm dịch tễ học, đặc điểm lâm sàng của các
ca lao HTL là điều hết sức cần thiết đối với nhân viên y tế tại bất kỳ cơ sở điều trị
lâm sàng nào.
Câu hỏi nghiên cứu
Những bệnh nhân mắc lao AFB dương tính và hút thuốc lá có sự khác biệt
gì so với bệnh nhân mắc lao AFB dương tính nhưng không hút thuốc lá về các yếu
tố dịch tễ học cũng như đặc điểm lâm sàng?
Mục tiêu nghiên cứu
Mục Tiêu chung
So sánh sự khác biệt về đặc điểm dịch tễ học và lâm sàng giữa những bệnh
nhân mắc lao AFB dương tính và hút thuốc lá và bệnh nhân mắc lao AFB dương
tính nhưng không hút thuốc lá.
Mục tiêu cụ thể
8
1. Xác định sự phân bố các yếu tố dịch tễ học bao gồm tuổi, giới, tình trạng kinh
tế, tiền sử hút thuốc lá, tiền sử uống rượu ở hai nhóm bệnh nhân AFB (+) có và
không có HTL.
2. Xác định sự phân bố các đặc điểm lâm sàng bao gồm các triệu chứng lâm sàng,
kết quả xét nghiệm cận lâm sàng ở hai nhóm bệnh nhân AFB (+) có và không có
HTL.
9
DÀN Ý NGHIÊN CỨU
Đặc điểm lâm sàng
Triệu chứng lâm sàng
Dấu hiệu lâm sàng
Các xét nghiệm sinh học
Chụp X-quang phổi
Đặc điểm chung của bệnh nhân
Tuổi
Giới
BMI
Thu nhập gia đình
Nghề nghiệp
Tiền sử nhiễm HIV
Tiền sử mắc bệnh đi kèm
10
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Dịch tễ học lao và thuốc lá
1.1.1. Dịch tễ học lao
Tiền sử hút thuốc lá
Hiện nay, theo thống
củahút
tổ thuốc
chức lá
Y tế Thế giới (WHO) tỷ suất lao mắc
Thờikêgian
thuốc
lá dần theo thời gian. Vào giữa những năm
mới trên toàn thế giới có Số
xuđiếu
hướng
giảm
Loại thuốc lá
1990, tỷ suất lao mắc mới tăng lên 1,5% nhưng đến giai đoạn 2003 - 2004 thì tỷ
suất lao mắc mới giảm xuống còn 1%. Đến năm 2005 tỷ suất này giữ nguyên và
thậm chí giảm xuống tại một số khu vực trên thế giới. Tỷ suất lao mắc mới giảm
dần chủ yếu là do đại dịch HIV/AIDS được kiểm soát tốt tại nhiều quốc gia, đặc
biệt tại khu vực hạ Sahara [58].
Mặc dù tỷ suất lao mắc mới có giảm xuống nhưng số ca mắc mới lại tăng
lên với tốc độ khá chậm. Năm 2005, số lao mắc mới toàn cầu ước khoảng 8,8 triệu
ca và theo ước tính của WHO đến năm 2015 sẽ có khoảng 10 triệu ca lao mắc mới
[58, 148]. Đến năm 2007, số ca lao mắc mới đã là 9,27 triệu ca với 1,75 triệu ca tử
vong và 5% trong số này là các ca lao kháng thuốc. Tuy nhiên, số liệu mới nhất
trong báo cáo lao năm 2012 của WHO ước tính năm 2011 có tổng cộng 9 triệu ca
lao mắc mới và 1,4 triệu ca lao tử vong .
Mọi quốc gia trên thế giới đều bị tác động bởi bệnh lao, tuy nhiên hầu hết
các ca lao xảy ra ở Đông Nam Á và khu vực Châu Á Thái Bình Dương (chiếm
đến 60% số ca lao toàn cầu). Khu vực Châu Phi chiếm 24% số ca lao toàn cầu và
là khu vực có tỷ suất ca mắc và tử vong cao nhất.
11
Hiện nay thế giới cũng đang phải đối mặt với tình trạng lao đa kháng thuốc
ngày càng tăng cao ở nhiều nơi trên thế giới. Có khoảng 420.000 ca lao đa kháng
thuốc mỗi năm, trong đó bao gồm các ca điều trị mới và các ca đã điều trị trước
đó. Số ca lao kháng thuốc tại Trung Quốc, Ấn Độ, Nga và Nam Phi chiếm đến
60% số ca lao kháng thuốc toàn cầu. Tuy nhiên các quốc gia có tỷ lệ bệnh nhân
lao đa kháng thuốc cao nhất phải kể đến là các quốc gia ở khu vực Đông Âu và
Trung Á. Các số liệu thống kê cũng cho thấy tình trạng lao xảy ra ở người nhiễm
HIV cũng tăng cao. Có khoảng 10% số ca lao mắc mới là người nhiễm HIV và
80% số này sống tập trung tại Châu Phi.
1.1.2. Dịch tễ học thuốc lá
Hiện nay, trên toàn thế giới có khoảng 1,3 tỷ người HTL hoặc các sản phẩm
khác từ thuốc lá, trong đó có trên 900 triệu người HTL sống tại các nước đang
phát triển. Số hiện HTL toàn cầu là 29% dân số chung trong đó 47,5% là nam và
10,3% là nữ > 15 tuổi [146].
Thuốc lá là nguyên nhân gây tử vong đứng hàng thứ hai trên thế giới.
Thuốc lá có thể giết chết một nửa số người HTL suốt đời và một nửa số này chết
trong độ tuổi từ 35-69 tuổi. Các số liệu thống kê cho thấy cứ 10 đàn ông HTL thì
có 1 người tử vong, cứ 6,5 giây thì trên thế giới có 1 người HTL tử vong vì các
bệnh liên quan đến thuốc lá. Một thống kê số ca tử vong do thuốc lá vào năm
2000 cho thấy các bệnh liên quan đến thuốc lá gây ra khoảng 100 triệu ca tử vong
trong thế kỷ 20. Nếu xu hướng này vẫn tiếp tục thì sẽ có khoảng 150 triệu người
tử vong trong 1/4 đầu của thế kỷ 21 và 300 triệu người tử vong vào nửa đầu thế kỷ
21. Còn theo ước tính của WHO có khoảng 4,9 triệu người tử vong hằng năm do
HTL. Nếu không có các biện pháp hạn chế sử dụng thuốc lá thì số tử vong hằng
12
năm sẽ tăng lên 8,3 triệu người vào năm 2030, và 80% số này là ở các nước đang
phát triển [95].
1.2. Đặc điểm dịch tễ học của các ca lao có hút thuốc lá
1.2.1. Lao và thời gian hút thuốc lá
Kết quả của nhiều nghiên cứu cho thấy có mối quan hệ có ý nghĩa thống kê
giữa thời gian HTL và nhiễm lao. Cụ thể người HTL > 15 năm có thể có khả năng
nhiễm lao cao gấp 1,9 – 2,12 lần so với người không HTL hoặc HTL ít hơn 15
năm [43]. Một nghiên cứu khác cho kết quả những người HTL > 10 năm cũng có
khả năng mắc bệnh lao cao hơn (OR = 2.70, KTC95% = 1,04 - 6,97) [38]. Nghiên
cứu của Miguez-Burbano năm 2003 cho thấy những người HTL > 20 năm thì khả
năng bị bệnh lao tăng lên gấp 3 lần so với nhóm HTL ≤ 20 năm [100].
Về mức độ HTL, những người HTL với số lượng càng nhiều thì nguy cơ
nhiễm lao càng cao. Một nghiên cứu cho thấy những người hút 1-5 điếu
thuốc/ngày thì khả năng nhiễm lao tăng gấp 2,6 lần, hút 6-10 điếu thuốc/ngày thì
khả năng nhiễm lao tăng gấp 2,8 lần và nếu hút > 10 điếu thuốc/ngày thì khả năng
nhiễm lao tăng gấp 3,2 lần nếu so với những người không HTL [76].
Kết quả của các nghiên cứu cũng cho thấy những người hút số lượng thuốc
càng nhiều thì khả năng chuyển từ nhiễm lao sang các thể lao hoạt tính càng cao.
Cụ thể những người hút nhiều gói/năm có khả năng kết quả soi AFB trong đàm
dương tính cao gấp 1,01 lần so với những người hút với số lượng ít [46]. Những
người HTL trong thời gian dài và số lượng điếu thuốc cao có khả năng cho kết
quả soi AFB dương tính và cấy BK dương tính cao gấp 2,24 lần so với nhóm còn
lại[82]. Những người hút từ 1-9 điếu/ngày có khả năng mắc bệnh lao cao gấp 2,67
lần trong khi người hút từ ≥ 20 điếu/ngày có khả năng mắc bệnh lao cao gấp 6,26
13
lần so với nhóm còn lại. Những người HTL > 400 điếu/năm có khả năng mắc
bệnh lao gấp 2,17 lần so với nhóm hút ít.
1.2.1. Lao và hút thuốc lá thụ động
Đối với HTL thụ động, đối tượng chịu ảnh hưởng thường là trẻ em hoặc
những người lớn sống chung nhà hoặc cùng môi trường với người HTL. Một
nghiên cứu khảo sát mối quan hệ giữa HTL thụ động ở trẻ em và nhiễm lao cho
thấy trẻ em có tiếp xúc với người lớn HTL có mẫu đàm dương tính có khả năng
nhiễm lao cao hơn những trẻ tiếp xúc với người lớn không HTL có mẫu đàm
dương tính [10].
Những trẻ em HTL thụ động có khả năng mắc bệnh lao cao hơn so với
những trẻ không HTL thụ động (OR = 2,7 - 5,39). Một nghiên cứu khác chứng
minh được rằng những người HTL thụ động với thời gian tiếp xúc khói thuốc > 3
lần/tuần tại công sở hay hàng xóm có khả năng mắc lao cao hơn (OR 4,62,
KTC95% =1,47-14,51) những người không HTL thụ động [38]. Còn trong nghiên
cứu của Tekkel năm 2002 thì những người HTL thụ động ở nhà có khả năng mắc
lao cao gấp 2,31 lần so với người không HTL thụ động, tuy nhiên mối quan hệ
này chưa khử được tương tác với yếu tố HTL chủ động nên vẫn có thể ước lượng
lệch mối quan hệ này [132]. Còn một nghiên cứu của Tipayamongkholgul cho
thấy trẻ em HTL thụ động có khả năng mắc bệnh lao gấp 9,31 lần, tuy nhiên kết
quả nghiên cứu có thể bị ảnh hưởng bởi sai lệch gợi nhớ hay không thể quan sát
trực tiếp.
1.3. Đặc điểm lâm sàng của các ca lao có hút thuốc lá
Nhiều nghiên cứu trên thế giới đã tìm hiểu về ảnh hưởng của HTL lên các
đặc điểm lâm sàng của bệnh lao và các vấn đề liên quan đến quản lý ca bệnh như
sự chậm trễ trong việc đi khám chẩn đoán hoặc điều trị, tình trạng âm hóa đàm
14
của bệnh nhân, và mức độ nặng của bệnh. Ngoài ra các nghiên cứu còn khảo sát
mối liên quan giữa HTL và bỏ điều trị lao, cũng như tình trạng mắc lao kháng
thuốc ở bệnh nhân. Các nghiên cứu mặc dù cũng chỉ ra được mối liên quan giữa
HTL và các đặc điểm nêu trên, nhưng tính giá trị của chúng vẫn chưa có một
nghiên cứu phân tích dữ liệu nào kiểm chứng được.
1.3.1. Đặc điểm lâm sàng của các ca lao có hút thuốc lá
Một nghiên cứu của Ngô Thanh Bình được tiến hành từ 2009-2012 khảo sát
328 bệnh nhân nam mắc lao phổi chia thành hai nhóm HTL và không HTL. Các
đặc điểm lâm sàng của cả hai nhóm được so sánh trong nghiên cứu này. Nghiên
cứu cho thấy bệnh nhân nam lao phổi HTL có tỷ lệ các triệu chứng lâm sàng lao
phổi xảy ra nhiều hơn ở bệnh nhân nam lao phổi không HTL. Cụ thể là các triệu
chứng ho kéo dài, ho ra máu, đau ngực, khó thở, sốt về chiều và mệt mỏi ở bệnh
nhân lao HTL đều cao hơn có ý nghĩa thống kê (p < 0,05) so với bệnh nhân lao
không HTL .
Nghiên cứu của Trifunovic vào năm 2009 khảo sát mối liên quan giữa HTL
và bệnh lao tại Serbia. Kết quả cho thấy bệnh nhân HTL có nhiều tổn thương dạng
hang hơn so với bệnh nhân không HTL. Bệnh nhân HTL cũng bị suy giảm miễn
dịch và có chỉ số BMI cũng thấp hơn so với người không HTL [135].
Nghiên cứu của Slama tiến hành vào năm 2007 tìm hiểu mối kết hợp giữa
HTL và bệnh lao. Kết quả cho thấy người HTL bị lao phổi có các triệu chứng ho,
ho ra máu, tổn thương ngực vùng thùy trên, xuất hiện tổn thương hang và lao kê
nhiều hơn người không HTL nhưng lại ít tổn thương ngoài phổi độc lập so với
người không HTL [128].
Nghiên cứu của Altet-Gomez tiến hành vào năm 2005 nhằm mục đích tìm
hiểu mối liên quan giữa HTL và bệnh lao về các đặc điểm lâm sàng và đặc điểm
15
ca bệnh. Kết quả cho thấy, bệnh nhân HTL có khả năng mắc lao phổi cao hơn,
đồng thời có nhiều tổn thương dạng hang hơn so với người không HTL [35].
Còn trong nghiên cứu của Leung vào năm 2003 tìm hiểu mối liên quan giữa
thuốc lá và lao, mô hình hồi quy đa biến cho thấy HTL là một trong những yếu tố
tiên đoán trong mô hình dự đoán các triệu chứng của bệnh lao như ho (OR =
1,69), khó thở (OR = 1,84), tổn thương vùng trên phổi (OR = 1,67), tổn thương
hang (OR = 1,76), lao kê (OR = 2,77), nuôi cấy đàm dương tính (OR = 1,43)[85].
Như vậy, có thể thấy về đặc điểm lâm sàng bệnh nhân lao HTL luôn có
những biểu hiện lâm sàng nhiều hơn so với bệnh nhân không HTL, đặc biệt là các
tổn thương dạng hang tại phổi.
1.3.2. Chậm trễ trong điều trị của bệnh nhân lao có hút thuốc lá
Một nghiên cứu của Altet- Gomez được tiến hành vào năm 2005 khảo sát
tình trạng chậm trễ của bệnh nhân trong điều trị và chẩn đoán lao với tình trạng
HTL nhưng không chứng minh được sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa người
HTL và không HTL [36].
1.3.3. Tình trạng bỏ trị ở bệnh nhân lao có hút thuốc lá
Đối với mối quan hệ giữa HTL và bỏ điều trị lao, nghiên cứu của Chang
được tiến hành vào năm 2004 cho thấy bệnh nhân lao có HTL có khả năng bỏ điều
trị cao gấp 3 lần so với người không HTL, nhưng nghiên cứu này có điểm hạn chế
là không mô tả cách thu thập dữ kiện về tình trạng HTL của bệnh nhân [47].
Nghiên cứu của Salamin năm 2003 tại Nigeria so sánh những bệnh nhân lao phổi
tuân thủ và không tuân thủ điều trị với các yếu tố liên quan. Kết quả cho thấy giữa
HTL và bỏ điều trị lao có mối liên kết có ý nghĩa thống kê với OR = 1,6, tuy nhiên
mô hình hồi quy cuối cùng lại không có yếu tố HTL. Các tác giả tin rằng chính
nhu cầu xã hội hay nhu cầu của bản thân bệnh nhân có thể dẫn đến việc HTL trở
16
lại và uống rượu trước khi hoàn tất điều trị. Tuy nhiên nghiên cứu không làm rõ là
các bệnh nhân ngừng hút thuốc hoặc dừng uống rượu trong quá trình điều trị hay
không [117].
1.3.4. Tình trạng âm hóa đàm ở bệnh nhân lao HTL
Đối với mối liên quan giữa tình trạng âm hóa đàm và HTL, Abal và cộng sự
tiến hành một nghiên cứu khảo sát mối liên quan này và kết quả cho thấy nếu các
yếu tố nguy cơ khác ở bệnh nhân không thay đổi thì việc HTL không ảnh hưởng
đến tình trạng âm hóa đàm sớm ở bệnh nhân. Nghiên cứu cũng cho thấy có sự
khác biệt có ý nghĩa giữa người HTL và không HTL về số lượng trực khuẩn, các
tổn thương khi chụp phim X –quang, tuy nhiên các số liệu này lại không được
trình bày trong nghiên cứu [31]. Nghiên cứu của Leung và cộng sự năm 2003
được thực hiện với mục đích so sánh mức độ đáp ứng điều trị của 851 ca lao có
tình trạng HTL khác nhau (HTL nhiều/ít, HTL chủ động/thụ động) cho kết quả
giữa HTL và tình trạng âm hóa đàm khi soi lam trực tiếp hoặc nuôi cấy không có
mối liên quan có ý nghĩa thống kê [85]. Nghiên cứu của Gajalakshmi với mục tiêu
tìm hiểu khi tiêm M. vaccae vào cơ thể bệnh nhân thì hệ thống miễn dịch của bệnh
nhân có được tăng cường kích thích, nhờ đó rút ngắn thời gian âm hóa đàm hay
không. Kết quả nghiên cứu cho thấy tình trạng đã HTL làm cho thời gian âm hóa
đàm ở bệnh nhân kéo dài thêm và mối liên quan này có ý nghĩa thống kê [62].
1.3.5. Độ nặng của bệnh lao và hút thuốc lá
Đối với mối liên quan giữa HTL và mức độ nặng nhẹ của bệnh lao, AltetGomez tiến hành một nghiên cứu vào năm 2005 trên 13.000 bệnh nhân lao thấy
rằng HTL làm tăng các tổn thương dạng hang (OR = 1,9) và tăng nguy cơ nhập
viện ở bệnh nhân lao (OR = 1,8). Các kết quả này đều có ý nghĩa thống kê và đã
được hiệu chỉnh theo tuổi, giới, sử dụng rượu bia và vị trí tổn thương [36].
17
1.3.6. Lao kháng thuốc và hút thuốc lá
Đối với mối liên quan giữa HTL và lao kháng thuốc, nghiên cứu của
Barroso khảo sát lao kháng thuốc và tình trạng HTL cho thấy có rượu và HTL
tương tác với nhau làm tăng khả năng mắc lao kháng thuốc ở bệnh nhân. Tuy
nhiên giá trị của nghiên cứu không cao vì chưa định nghĩa rõ ràng về tình trạng
HTL và các thu thập dữ liệu cũng đặt ra nhiều nghi vấn. Nghiên cứu của Ruddy
nghiên cứu các yếu tố nguy cơ lao kháng thuốc tại Nga thì thấy HTL có liên quan
đến kháng isoniazid (OR =3,3) [113].
1.4. Các yếu tố gây nhiễu đối với mối quan hệ giữa lao và hút thuốc lá
Trong các nghiên cứu tìm hiểu về bất kì mối quan hệ nào giữa HTL và kết
cục của bệnh lao, các tác giả đều phải thực hiện một thủ thuật phân tích số liệu là
khử các yếu tố gây nhiễu có thể ảnh hưởng đến mối quan hệ đang nghiên cứu. Có
3 yếu tố gây nhiễu thường được khử trong hầu hết các nghiên cứu là sử dụng
rượu, nghèo đói và giới tính bởi vì ba yếu tố này thường đi kèm với tình trạng
HTL của bệnh nhân từ đó ảnh hưởng đến các kết cục của bệnh lao.
1.4.1. Rượu và hút thuốc lá
HTL thường kết hợp với sử dụng rượu bia, dẫn đến tiềm năng gây nhiễu
mối quan hệ giữa HTL và bệnh lao. Năm 1961, Brown và Campell thực hiện một
nghiên cứu khảo sát các yếu tố nguy cơ của bệnh lao thì nhận thấy đa số bệnh
nhân lao đều nghiện rượu nặng đi kèm với nghiện HTL. Họ kết luận rằng chính
nghiện rượu mới là yếu tố nguy cơ của bệnh lao và HTL chỉ là yếu tố tương tác
với nghiện rượu vì người nghiện rượu thường hay đi kèm với HTL nhiều. Năm
1963, Lewis và Chamberlain một lần nữa lại khẳng định quan điểm này trong một
nghiên cứu tiến hành tại Anh trên 100 ca lao và 2 nhóm chứng, mỗi nhóm gồm
100 ca chứng. Kết quả nghiên cứu của họ cho thấy tỷ lệ HTL ở cả 3 nhóm đều
18
như nhau trong khi đó tỷ lệ nghiện rượu ở nhóm bệnh lại cao hơn ở nhóm chứng.
Họ kết luận HTL không phải là một yếu tố nguy cơ đối với bệnh lao. Tuy nhiên,
các tác giả không để ý rằng tỷ lệ các bệnh liên quan đến thuốc lá ở nhóm bệnh lại
cao hơn rất nhiều so với nhóm chứng.
Quan điểm của Lewis và Chamberlain được chấp nhận rộng rãi trong suốt
giai đoạn thập niên 60 và được các nghiên cứu khác trích lục làm tài liệu tham
khảo rất nhiều. Tuy nhiên đứng dưới khía cạnh khoa học ngày nay, các nghiên cứu
trong giai đoạn này gặp phải một sai lầm rất nghiêm trọng. Cần lưu ý rằng trong
giai đoạn thập niên 60 và 70, tỷ lệ HTL trong dân số là rất cao. Năm 1960, tỷ lệ
HTL ở đàn ông tại nước Anh lên đến 60%, còn tại Úc là 58%, trong khi đó tỷ lệ
phụ nữ HTL thường thấp hơn đàn ông rất nhiều. Việc một người đàn ông có thể
hút > 80 điếu thuốc một ngày là chuyện rất phổ biến thời bấy giờ. Do đó, khi phân
tích mối liên quan giữa HTL và bệnh lao các tác giả thường chỉ quan tâm đến
nhóm HTL nặng còn những người HTL vừa hoặc ít (1-9 điếu/ngày) đều được xếp
vào nhóm không HTL. Đây là quan điểm sai lầm vì như chúng ta đã biết hiện nay
mức độ HTL nhiều hay ít có ảnh hưởng rất lớn đến mối quan hệ giữa HTL và
bệnh lao.
Đến thời điểm hiện nay, quan điểm của Lewis và Chamberlain đã bị bác bỏ
hoàn toàn khi một loạt các nghiên cứu mới cho thấy sử dụng rượu bia chỉ là yếu tố
tương tác với HTL và cần phải khử nhiễu khi phân tích mối liên quan giữa HTL
và bệnh lao. Một nghiên cứu hồi cứu y văn của WHO đã chứng minh được điều
này. Nghiên cứu này phân tích dữ liệu của 10 nghiên cứu về các yếu tố nguy cơ
của bệnh lao và thấy rằng mặc dù không khử nhiễu các yếu tố tương tác với HTL
trong đó có yếu tố sử dụng rượu bia thì kết quả phân tích vẫn cho thấy có mối liên
quan giữa HTL và bệnh lao. Nghiên cứu của WHO cũng phát hiện có 3 nghiên
19
cứu tìm hiểu về mối liên quan giữa sử dụng rượu bia và bệnh lao thì cả 3 nghiên
cứu đều cho kết quả là không có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa lao và sử
dụng rượu bia[147].
1.4.2. Nghèo đói và hút thuốc lá
Một yếu tố gây nhiễu khác thường được quan tâm khi phân tích mối quan
hệ giữa HTL và bệnh lao là tình trạng kinh tế xã hội kém hay nói cụ thể là tình
trạng nghèo đói của bệnh nhân. Bằng chứng quan trọng nhất chứng minh thuốc lá
không phải là một biểu hiện của nghèo đói mà là một yếu tố nguy cơ độc lập đối
với bệnh lao xuất phát từ sự thay đổi thực trạng HTL trong dân số chung. Trong
nghiên cứu của Hill và Doll, hai ông đã thống kê được rằng tỷ lệ HTL rất cao ở
nhóm bác sĩ, tức những người thuộc tầng lớp có điều kiện kinh tế cao trong xã
hội. Kết quả này cũng phản ánh thực trạng của xã hội giàu có giai đoạn thập niên
50 – 60 đó là HTL là một hành vi chỉ có ở những tầng lớp giàu có. Như vậy, các
nhà khoa học trong giai đoạn này cho rằng chính tình trạng nghèo đó thông qua sự
phân hóa quyết định việc một người có HTL hay không. Trải qua một thời gian
sau đó, việc HTL mới trở nên phổ biến và lan rộng sang những tầng lớp trung lưu
và thậm chí nghèo khổ trong xã hội giàu có lúc bấy giờ. Khi xu hướng này xảy ra,
tình trạng kinh tế không còn chi phối tình trạng HTL, dẫn đến bộc lộ được mối
quan hệ thực sự giữa HTL và lao.
Nghèo đói là một yếu tố dẫn dắt các giai đoạn trong nhiều bệnh nhiễm
trùng hô hấp trong đó có lao, do đó nó là một yếu tố rất quan trọng cùng với HTL
tác động trực tiếp đến các kết cục của bệnh lao. Trong các nghiên cứu hiện nay,
các chỉ số thường được dùng để đánh giá tình trạng kinh tế xã hội là trình độ học
vấn hoặc thu nhập của bệnh nhân. Ngoài ra nhiều nghiên cứu còn sử dụng các chỉ
số khác như loại nhà cửa, số lượng tài sản sở hữu, số người/phòng v.v. Trong
20
nghiên cứu hồi cứu y văn của WHO đã được đề cập ở trên, có 21 nghiên cứu khảo
sát mối quan hệ giữa HTL và lao đồng thời khảo sát mối quan hệ giữa các yếu tố
kinh tế xã hội và bệnh lao. Trong 21 nghiên cứu này thì có đến 15 nghiên cứu
chứng minh thấy có mối kết hợp giữa các yếu tố kinh tế xã hội và bệnh lao, và chỉ
có 6 nghiên cứu không tìm thấy được mối kết hợp có ý nghĩa thống kê giữa các
yếu tố kinh tế xã hội và bệnh lao[147].
1.4.3. Giới tính và hút thuốc lá
Trong nhiều nghiên cứu hiện nay, đàn ông luôn có tỷ lệ HTL cao hơn so với
phụ nữ và vì vậy có khả năng mắc lao cao hơn phụ nữ. Mặc dù hiện nay tỷ lệ HTL
ở nam và nữ không còn chênh lệch nhiều như các giai đoạn trước, nhưng tại các
nước lưu hành bệnh lao, nam giới vẫn chiếm tỷ lệ cao trong số những người HTL,
và thời gian HTL cũng như số lượng điếu thuốc hút cũng cao gấp nhiều lần so với
nữ giới. Tại một số quốc gia, sự khác biệt về tỷ lệ mắc lao theo giới tính có thể
thấy rõ ràng trong các nhóm tuổi khi những người nam trẻ bắt đầu HTL. Một
nghiên cứu gần đây đã đưa ra bằng chứng về giả thuyết sự khác biệt trong tỷ lệ lao
ở nam và nữ chịu ảnh hưởng bởi sự khác biệt về giới tính trong việc sử dụng
thuốc lá [147].
1.5. Cơ chế giải thích mối liên quan giữa thuốc lá và lao
Cơ chế chi phối sự liên kết giữa HTL và bệnh lao hiện nay vẫn chưa rõ mặc
dù có một số giả thuyết được đặt ra. Xét dưới khía cạnh miễn dịch, khói thuốc lá
ảnh hưởng nhiều đến hệ thống miễn dịch qua trung gian tế bào. Nhiều thử nghiệm
trên mô hình động vật đã chứng minh được rằng hệ miễn dịch qua trung gian tế
bào chẳng hạn các đại thực bào, các tế bào CD4+ và CD8+, các tế bào lympho T,
tự thực bào, các peptid kháng mycobacteria, các Interferon-c (INF-c), Interleukin12 (IL – 12) và các yếu tố hoại tử u hạt đóng vai trò rất quan trong trong việc giúp
21
cơ thể vật chủ chống lại sự xâm nhập của vi khuẩn lao. Trong nhiều thử nghiệm
cho thấy khói thuốc lá làm ức chế có chọn lọc việc sản xuất các IL-12 và TNF-a.
Chất nicotine có trong thuốc lá sẽ tương tác với thụ thể a7- nicotinic acetylcholine
trong nội bào làm tăng sản các vi sinh vật gây hại như các vi khuẩn legionella
đồng thời sẽ làm giảm sự sản xuất các TNF-a được tiết ra bởi các đại thực bào
[18, 72, 97].
Xét dưới khía cạnh tế bào học, khói thuốc lá sẽ làm giảm sự thanh thải và
giảm khả năng bắt giữa các tác nhân gây bệnh xâm nhập vào cơ thể thông qua hệ
thống niêm mạch dịch nhầy hô hấp. Khi đó quá trình viêm nhiễm có thể dễ dàng
xảy ra dẫn đến tình trạng xung huyết niêm mạc đường hô hấp và làm giảm sức đề
kháng đối với vi khuẩn lao [59].
22
CHƯƠNG 2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Thiết kế nghiên cứu
Đây là một nghiên cứu cắt ngang mô tả được tiến hành tại bệnh viện Phạm
Ngọc Thạch từ tháng 8/2014-8/2015.
2.2. Đối tượng nghiên cứu
2.1.1 Dân số mục tiêu
Bệnh nhân lao có AFB (+) đến khám và điều trị tại khoa B bệnh viện Phạm
Ngọc Thạch
2.1.2 Dân số chọn mẫu
Bệnh nhân lao có AFB (+) đến khám và điều trị tại khoa B bệnh viện Phạm
Ngọc Thạch trong thời gian từ 8/2014-8/2015.
2.3. Cỡ mẫu
Tất cả bệnh nhân lao có AFB (+) đến khám và điều trị tại khoa B bệnh
viện Phạm Ngọc Thạch trong thời gian từ 8/2014-8/2015 và thỏa các tiêu chí
đưa vào và loại ra đều được đưa vào nghiên cứu.
2.4. Tiêu chí chọn mẫu
2.4.1. Tiêu chí đưa vào
− Bệnh nhân được chẩn đoán xác định mắc lao AFB (+) mới theo tiêu chuẩn của
Bộ Y tế năm 2009 [5, 6] phải thỏa mãn một trong 3 tiêu chuẩn sau đây:
o Tối thiểu có 2 tiêu bản AFB (+) từ 2 mẫu đờm khác nhau.
23
o Một tiêu bản đờm AFB (+) và có hình ảnh lao tiến triển trên phim X -
quang phổi.
o Một tiêu bản đờm AFB (+) và nuôi cấy dương tính.
o Riêng đối với người bệnh HIV (+) cần có ít nhất 1 tiêu bản xét nghiệm
đàm AFB (+) được coi là lao phổi AFB (+).
− Bệnh nhân có độ tuổi ≥ 18 tuổi
− Bệnh nhân đồng ý tham gia nghiên cứu và ký vào bản đồng thuận tham gia
nghiên cứu.
− Bệnh nhân có đầy đủ tri giác và nhận thức để tham gia vào phỏng vấn điều tra.
2.4.2. Tiêu chí loại ra
− Bệnh nhân có các rối loạn về tâm thần hoặc suy giảm chức năng thể chất (câm,
điếc, mù) không thể tham gia trả lời các câu hỏi của điều tra viên.
2.5. Quá trình chọn mẫu
Bệnh nhân đến khám tại khoa B bệnh viện Phạm Ngọc Thạch sẽ được thăm
khám và làm các xét nghiệm cơ bản bao gồm chụp X-quang phổi thẳng, soi đàm
và cấy đàm tìn AFB và các xét nghiệm cận lâm sàng cần thiết khác. Những bệnh
nhân thỏa các tiêu chí đưa vào và loại ra và đồng ý tham gia nghiên cứu sẽ trở
thành đối tượng của nghiên cứu. Bệnh nhân sau đó sẽ được điều trị theo phác đồ
lao và được theo dõi kết quả điều trị cho đến khi bệnh nhân hoàn tất điều trị.
2.6. Các vấn đề liên quan đến thu thập số liệu
2.6.1. Kỹ thuật thu thập số liệu
Đối với các thông tin liên quan đến đặc điểm chung của bệnh nhân: các thông tin
như tuổi, giới, địa chỉ, tiền sử mắc bệnh có thể được thu thập dựa trên hồ sơ bệnh
án. Các thông tin như chiều cao và cân nặng sẽ được đo trực tiếp theo phương
24
pháp chuẩn. Các thông tin liên quan đến thu nhập gia đình, nghề nghiệp có thể
được thu thập dựa vào phỏng vấn trực tiếp bệnh nhân.
Đối với các thông tin về tiền sử hút thuốc lá: các thông tin này sẽ được thu thập
dựa trên phỏng vấn trực tiếp bệnh nhân.
Đối với các thông tin về đặc điểm lâm sàng của bệnh nhân: các thông tin này sẽ
được thu thập dựa trên hồ sơ bệnh án.
Đối với các thông tin về điều trị của bệnh nhân: các thông tin này sẽ được thu thập
dựa trên hồ sơ bệnh án.
2.6.2. Công cụ thu thập số liệu
Một bộ câu hỏi soạn sẵn được thiết kết dựa trên hồ sơ bệnh án và các
nghiên cứu trước đó. Bộ câu hỏi được chia thành 3 phần bao gồm: Phần 1. Đặc
điểm chung của bệnh nhân; Phần 2. Tiền sử hút thuốc lá của bệnh nhân; Phần 3.
Đặc điểm lâm sàng của bệnh nhân.
2.6.3. Người thu thập số liệu
Ba điều dưỡng công tác tại khoa B sẽ tham gia vào công tác thu thập số liệu
cho nghiên cứu. Trước khi thu thập số liệu, các điều dưỡng được tập huấn về các
phỏng vấn bệnh nhân, cách ghi chép dữ liệu từ hồ sơ bệnh án. Tác giả nghiên cứu
đóng vai trò người giám sát, kiểm tra lại thông tin của mỗi bản ghi để đảm bảo
tính chính xác của thông tin thu thập được.
2.6.4. Các biện pháp hạn chế sai lệch trong nghiên cứu
Nghiên cứu sử dụng phương pháp lấy mẫu toàn bộ, do đó không mắc sai
lệch khi chọn mẫu. Để hạn chế sai lệch trong thu thập thông tin trong nghiên cứu,
các dữ liệu đều được đo lường chính xác theo quy định chuẩn của bệnh viện. Việc
đo lường cân nặng, chiều cao đều được đo bằng cân chuẩn với phương pháp đo
chuẩn. Các xét nghiệm cận lâm sàng đều được thực hiện tại phòng xét nghiệm đạt
25