1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Tô Hoài là cây bút văn xuôi sắc sảo, là nhà văn có vị trí quan trọng
trong nền văn học Việt Nam hiện đại. Sáng tác của Tô Hoài rất đa dạng và
phong phú với nhiều đề tài như: vùng quê ngoại thành Hà Nội, miền núi Việt
Bắc - Tây Bắc trong kháng chiến và xây dựng chủ nghĩa xã hội, sáng tác cho
thiếu nhi, chân dung và hồi ức. Các sáng tác của Tô Hoài có ý nghĩa khẳng
định sự nghiệp văn học của ông. Bên cạnh đó còn có ý nghĩa to lớn đối với sự
phát triển của nền văn học Việt Nam.
1.2. Sau cách mạng tháng Tám năm 1945, Tô Hoài viết nhiều đề tài
nhưng tiêu biểu nhất là miền núi. Miền núi Việt Bắc - Tây Bắc trở thành chủ
đề chính trong chặng đường sáng tác sau này của nhà văn. Từ tập truyện Núi
cứu quốc (1948) cho đến Nhớ Mai Châu (1989) là một quãng thời gian dài 40
năm viết về đề tài miền núi trong đời văn của Tô Hoài. Từ các giải thưởng cao
quý dành cho các tác phẩm viết về đề tài này, cộng với sự đón nhận nhiệt
thành của bạn đọc và giới nghiên cứu, chúng ta có thể nói sáng tác về đề tài
miền núi là một ưu thế đặc biệt của Tô Hoài.
1.3. Tác giả Tô Hoài có vị trí quan trọng nên được đưa vào giảng dạy ở
trong chương trình ngữ văn bậc phổ thông. Trước cách mạng tiêu biểu với Dế
Mèn phiêu lưu kí. Sau cách mạng có tác phẩm Vợ chồng A Phủ. Tác phẩm của
Tô Hoài đạt được những thành tựu đáng kể về giá trị trị nội dung cũng như
giá trị nghệ thuật. Trong tương lai, tôi sẽ là một giáo viên dạy văn nên việc
thực hiện đề tài này là một việc làm cần thiết, có ý nghĩa thực tiễn và ý nghĩa
khoa học. Những nghiên cứu của đề tài sẽ giúp tôi học tập, nghiên cứu và
giảng dạy tốt hơn về các tác phẩm của tác giả Tô Hoài.
Những lý do trên đây là động lực khiến chúng tôi muốn chọn đề tài
Phong tục tập quán của người miền núi qua tập “Truyện Tây Bắc” của Tô
Hoài làm đối tượng để nghiên cứu. Từ đó, giúp tôi có cái nhìn toàn diện về
2
những đóng góp của Tô Hoài đối với nền văn học Việt Nam hiện đại.
2. Lịch sử vấn đề
Tô Hoài là một trong những nhà văn tiêu biểu của nền văn học Việt
Nam hiện đại. Trong thời gian hơn 60 năm, ông viết mải miết với nhiều đề tài
và nhiều thể loại. Tô Hoài đã cho ra đời trên 170 đầu sách. Những tác phẩm
của Tô Hoài có giá trị rất to lớn và được nhiều bạn đọc đón nhận. Sáng tác
của Tô Hoài sớm được đông đảo các nhà phê bình, nhiên cứu quan tâm. Trong
đó đề tài viết về miền núi của Tô Hoài được khá nhiều người nghiên cứu và
được nhiều nhà phê bình văn học bàn tới.
Về tập truyện ngắn Núi cứu quốc (1948) - Tập truyện viết về miền núi
đầu tiên của Tô Hoài, nhà văn Nguyễn Đình Thi đã đưa ra nhận xét: “Tất cả
diễn lên bằng lời văn sinh động, đẹp chắc mà ta đã quen đọc Tô Hoài từ lâu.
Nhiều hình ảnh đẹp như thơ, nhất là khi nói về khung cảnh Việt Bắc”
[2,tr.217].
Đến năm 1953 tập Truyện Tây Bắc xuất bản được giới phê bình đánh
giá cao. Trong bài viết Tô Hoài và Truyện Tây Bắc, Hoàng Trung Thông chú
ý đến nghệ thuật viết truyện ngắn Mường Giơn từ cách dẫn truyện đến bút
pháp, ông chỉ ra: “Tô Hoài viết Mường Giơn dưới con mắt của một nhà thơ.
Phong cảnh và con người đẹp đẽ của Tây Bắc được ngòi bút của Tô Hoài vẽ
nên với sức rung động thơ”[2,tr228]. Còn tác giả Huỳnh Lý nhận xét:“Khi
miêu tả một cảnh đẹp, một cuộc vui, một không khí gia đình đầm ấm, không
ngại nói nhiều, ông đưa rất đúng lúc màu sắc, hình ảnh và nhạc điệu vào
khiến cho đoạn văn vừa như một khúc nhạc, một bức tranh, một bài thơ”
[2,tr241].
Đọc tác phẩm Vợ chồng A Phủ, tác giả Nguyễn Văn Long cho rằng:
“Nghệ thuật truyện của Tô Hoài còn thành công ở chỗ tác giả đã nắm bắt, lựa
chọn được những chi tiết chân thực, sinh động mà có sức khái quát
cao.”[2,tr256]. Còn trong bài viết Vợ chồng A Phủ của Nguyễn Quang Trung
có nhận xét: “Thật khiếm khuyết nếu bỏ qua những bức tranh phong tục và
3
thiên nhiên phủ một chất thơ trong đoạn trích”.[2,tr275]
Năm 1967, tiểu thuyết Miền Tây được xuất bản. Giáo sư Hà Minh Đức
trong bài viết Tiểu thuyết Miền Tây của Tô Hoài đã nói đến nghệ thuật dựng
người dựng cảnh, cụ thể “Tô Hoài lại chú ý miêu tả thiên nhiên theo nhiều
góc độ quan sát, khi thì của người kể chuyện, khi thì nhân vật. Dù ở trạng thái
nào, thiên nhiên cũng được miêu tả phù hợp với cảnh ngộ con
người…”[2,tr253]. Giáo sư Phan Cự Đệ trong bài Tô Hoài với Miền Tây cho
rằng: “Miền Tây phần nào thể hiện được đặc điểm phong cách Tô Hoài Bao
giờ cũng cố gắng gắn liền chất hiện thực với màu sắc lãng mạn, trữ tình thơ
mộng trong tác phẩm của mình”[2,tr341]. Khái Vinh đọc Miền Tây nhận thấy
rằng: “Đọc Miền Tây dường như người ta bị thiên nhiên thu hút hơn con
người và khi tiếp xúc với đời sống nhân vật thì phong tục, tập quán lại được
biểu hiện sinh động hơn là tâm trạng.”[2,tr360].
Năm 1971, Tô Hoài cho công bố tiểu thuyết Hoàng Văn Thụ. Năm
1984, tiểu thuyết Họ Giàng ở Phìn Sa được xuất bản nhưng ít có tiếng vang.
Số phận của tiểu thuyết Nhớ Mai Châu cũng vậy, ra đời trong sự thờ ơ của
độc giả. Mai Ngữ khẳng định: “Nhớ Mai Châu là một cuốn tiểu thuyết hay,
suất sắc trong đó bộc lộ phong cách và tài năng nhà văn rất nhiều.”[2,tr407].
Vân Thanh tiếp tục khẳng định giá trị của Nhớ Mai Châu khi viết: “Tô Hoài
vẫn luôn luôn cố gắng tìm cho mình một cách viết sáng tạo, mới mẻ về một
vấn đề quen thuộc - miền núi, vùng quê của anh” [2,tr410].
Qua những ý kiến của các nhà phê bình, nghiên cứu về các tác phẩm
của Tô Hoài nói chung và các tác phẩm viết về đề tài miền núi nói riêng cho
chúng ta thấy giá trị của những tác phẩm của Tô Hoài. Vì vậy, việc nghiên
cứu về là đề tài miền núi trong sáng tác của Tô Hoài là việc cần thiết để hiểu
rõ về tác giả Tô Hoài. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi đề cập đến yếu
tố phong tục tập quán của người miền núi qua tập Truyện Tây Bắc của Tô
Hoài với mong muốn tìm hiểu sâu hơn về đề tài miền núi cũng như nghệ
4
thuật viết truyện của tác giả Tô Hoài trong tập Truyện Tây Bắc.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là Phong tục tập quán của người miền
núi qua tập Truyện Tây Bắc của Tô Hoài.
3.2. Phạm vi tư liệu khảo sát
Trọng tâm khảo sát và nghiên cứu của đề tài là tập Truyện Tây Bắc
gồm 3 tác phẩm: Cứu đất cứu mường, Mường Giơn và Vợ chồng A Phủ.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tổng quan về tác giả Tô Hoài và đề tài miền núi.
- Nhiệm vụ trọng tâm là nghiên cứu về phong tục, tập quán của người
miền núi qua tập Truyện Tây Bắc.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi phối hợp sử dụng các phương pháp
nghiên cứu sau:
- Phương pháp khảo sát - thống kê
- Phương pháp so sánh - đối chiếu
- Phương pháp phân tích - tổng hợp
6. Cấu trúc của đề tài
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung chính
của đề tài được triển khai gồm ba chương:
Chương 1. Tổng quan về tác giả Tô Hoài và đề tài miền núi.
Chương 2. Vị trí của văn xuôi về đề tài miền núi của Tô Hoài trong nền
văn học Việt Nam hiện đại.
Chương 3. Nghệ thuật thể hiện các yếu tố phong tục, tập quán của
người miền núi qua tập Truyện Tây Bắc của Tô Hoài.
Chương 1
TỔNG QUAN VỀ TÁC GIẢ TÔ HOÀI VÀ ĐỀ TÀI MIỀN NÚI
1.1Vài nét về con người và cuộc đời của Tô Hoài
1.1.1 Cuộc đời tác giả Tô Hoài
Tô Hoài tên thật là Nguyễn Sen sinh ngày 07 – 9 - 1920 tại làng Nghĩa
Đô, phủ Hoài Đức - tỉnh Hà Đông (nay là phường Nghĩa Đô - quận Cầu Giấy
5
- Hà Nội) trong một gia đình thợ thủ công. Ông còn có nhiều bút danh khác
như: Mai Trung, Duy Phương, Mắt Biển, Hồng Hoa, Vũ Đột Kích…Quê
quán: xã Kim An - huyện Thanh Oai - tỉnh Hà Tây. Tuổi thanh niên, Tô Hoài
phải trải qua nhiều nghề khác nhau để kiếm sống như: dạy học tư, bán hàng,
làm kế toán cho hiệu buôn… Năm 1938, ông chịu ảnh hưởng của Mặt trận
Bình dân và tham gia hoạt động trong tổ chức Hội ái hữu thợ dệt và Thanh
niên dân chủ Hà Nội. Năm 1943, Tô Hoài gia nhập Hội văn hóa cứu quốc và
bắt đầu viết bài cho báo Cứu quốc và Cờ giải phóng. Sau Cách mạng tháng
Tám, Tô Hoài làm Chủ nhiệm báo Cứu quốc. Ông là một trong số những nhà
văn đầu tiên Nam tiến và tham dự một số chiến dịch ở mặt trận phía Nam
(Nha Trang, Tây Nguyên…). Năm 1946, ông được kết nạp vào Đảng. Năm
1950, ông về công tác tại Hội Văn nghệ Việt Nam. Từ năm 1957 đến năm
1980, Tô Hoài đã kinh qua nhiều chức vụ khác nhau trong Hội Nhà văn như:
Ủy viên Đảng Đoàn, Phó Tổng thư kí, Chủ tịch Hội Văn nghệ Hà Nội, Giám
đốc Nhà xuất bản Thiếu nhi.
Đến với con đường nghệ thuật từ cuối những năm ba mươi cho đến
nay, Tô Hoài đã sáng tác được một số lượng tác phẩm đồ sộ (hơn một trăm
năm mươi đầu sách) ở nhiều thể loại khác nhau như: tiểu thuyết, truyện ngắn,
kí, tiểu luận. Với những đóng góp to lớn cho nền văn học nước nhà, vào năm
1996 ông được nhà nước tặng giải thưởng Hồ Chí Minh.
1.1.2. Sự nghiệp sáng tác của Tô Hoài
Tô Hoài đến với nghề văn ở tuổi mười bảy, mười tám. Những sáng tác
đầu tay của ông được đăng trên Hà Nội tân văn và Tiểu thuyết thứ bảy. Tuy
xuất hiện ở giai đoạn cuối của thời kì 1930 - 1945 nhưng Tô Hoài đã sớm
khẳng định được vị trí của mình trong đội ngũ nhà văn thời kì này bằng một
loạt tác phẩm độc đáo, đặc sắc như: Dế mèn phiêu lưu kí (1941), Quê người
(1941), O chuột (1942), Trăng thề (1943) ,Nhà nghèo (1944 ). Từ các tác
phẩm này, người đọc dễ nhận thấy sức sung mãn dồi dào trong lao động nghệ
6
thuật của ông. Sau này, Tô Hoài đã bộc bạch chân thành qua Tự truyện về
việc ông đến với nghề văn, ông viết: “Tôi vào nghề văn có trong ngoài ba
năm trước Cách mạng tháng Tám, 1945 mà tôi viết như chạy thi được năm
truyện dài, truyện vừa, ba tập truyện ngắn, còn truyện thiếu nhi như Dế
mèn thì mấy chục truyện, cái in, cái chưa in, vương vãi lung tung tôi không
nhớ hết. Cũng chẳng có gì lạ. Viết để kiếm miếng sống lúc ấy tất phải cuốc
khỏe như vậy đấy”[5,tr30].
Tác phẩm của Tô Hoài trước cách mạng có thể phân thành hai loại
chính là: truyện về loài vật và truyện về nông thôn trong cảnh đói nghèo.
Qua những truyện về loài vật tiêu biểu như: O chuột, Gã chuột bạch,
Tuổi trẻ, Đôi ghi đá, Một cuộc bể dâu, Mụ ngan, Đực..., người đọc nhận thấy,
nhà văn thường viết về cái tốt đẹp, khẳng định cái thiện trong cuộc sống, bày
tỏ mong muốn một cuộc sống hạnh phúc, bình yên trong xã hội, một cuộc
sống tốt đẹp mang tính không tưởng.
Bên cạnh truyện viết về loài vật, mảng truyện viết về cảnh sống đói
nghèo cũng được nhà văn đã miêu tả chân thật và sinh động. Cuộc sống cùng
quẫn bế tắc của những kiếp người nghèo khổ, lang thang, phiêu bạt nơi đất
khách quê người, những người thợ thủ công bị phá sản xuất hiện dần qua từng
trang sách với tất cả niềm cảm thông chân thành của nhà văn. Đó là thân phận
của bà lão Vối trong truyện Mẹ già buộc lòng nhẫn nhục sống nương nhờ vào
con. Chỉ vì một con lợn sổng chuồng mà bà bị chính con gái mình chửi rủa
chì chiết đủ điều. Đó là số phận của chị Hối trong truyện “Ông cúm bà co”, bị
ốm nhưng không có thuốc men chữa chạy, rồi bệnh nặng dần vì kém hiểu biết,
mê tín, kết cục phải “ra đồng” bỏ lại mấy đứa con thơ dại. Đó còn là tấn bi
kịch của anh Gà Gáy trong truyện ngắn cùng tên. Từ đâu lưu lạc tới không ai
rõ, chịu khó làm ăn cho đến khi có một “gia đình nho nhỏ, đề huề sống yên
vui” ... Thế nhưng, vì cơn ghen vô cớ của anh khiến người vợ bỏ đi biệt tích.
Đứa con, niềm an ủi duy nhất đối với anh ngã bệnh, hết tiền chạy chữa, trong
lúc khốn cùng đành liều đi ăn trộm để rồi bị bắt, cùng lúc đó đứa con cũng
7
chết. Từ đó “Gà Gáy sống còm cõi một mình”. Cay đắng hơn là số phận của
bé Gái trong cảnh Nhà nghèo. Nó sinh ra trong gia đình nghèo khổ, túng thiếu
và nhiều lần chứng kiến cảnh cha mẹ cãi nhau. Nó bị rắn cắn chết trong khi
cùng với cha mẹ cố tìm miếng ăn cho gia đình:“người nó có bao nhiêu xương
sườn, giơ hết ra cả”. Cảnh đó thật xót xa, thê thảm.
Sau Cách mạng tháng Tám, Tô Hoài có sự chuyển biến mạnh mẽ về tư
tưởng và sáng tác. Tâm trạng trăn trở, phân vân định hướng không dừng lại
quá lâu ở Tô Hoài. Ông đã nhanh chóng chiếm lĩnh hiện thực cuộc sống và
sáng tạo thành công nhiều tác phẩm có giá trị ở các thể loại loại khác nhau.
Trong đó, các tác phẩm tiêu biểu của ông giai đoạn này gồm Miền Tây (tác
phẩm đạt giải thưởng Bông sen vàng của Hội Nhà văn Á Phi vào năm
1970), Một số kinh nghiệm viết văn của tôi, Tuổi trẻ Hoàng Văn Thụ, Họ
Giàng ở Phìn Sa, Nhớ Mai Châu, Mười Năm, Nhật kí vùng cao, Lên Sùng Đô,
Tôi thăm Campuchia, Thành phố Lênin, Hoa hồng vàng song cửa...
Trong sự nghiệp văn chương của mình, nhà văn Tô Hoài từng được nhà
nước trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học - Nghệ thuật (đợt 1 1996) cho các tác phẩm: Xóm giếng, Nhà nghèo, O chuột, Dế mèn phiêu lưu
ký, Núi Cứu quốc, Truyện Tây Bắc, Mười năm, Xuống làng, Vỡ tỉnh, Tào
lường, Họ Giàng ở Phìn Sa, Miền Tây, Vợ chồng A Phủ, Tuổi trẻ Hoàng Văn
Thụ. Điều đáng nói, một số tác phẩm về đề tài thiếu nhi của ông đã được dịch
ra nhiều ngôn ngữ và độc giả trẻ nhiều nước trên thế giới yêu mến. Truyện
dài “Dế Mèn phiêu lưu kí” được ông viết xong vào tháng 12 năm 1941 tại
Nghĩa Đô, ngoại ô Hà Nội. Đây là tác phẩm rất nổi tiếng của ông dành cho
thiếu nhi.
Tác phẩm gần đây nhất của ông là “Ba người khác”. Sách được viết
xong năm 1992 nhưng đến 2006 mới được phép in, nội dung viết về thời
kỳ cải cách ruộng đất miền Bắc Việt Nam đã gây tiếng vang lớn và có thể so
sánh với Dế Mèn phiêu lưu ký.
Trong số những sáng tác trên thì tập truyện Truyện Tây Bắc xứng đáng
8
là kiệt tác. Tập truyện Truyện Tây Bắc là sự thành công đặc sắc ở mảng đề tài
về miền núi Tây Bắc. Bằng tài năng nghệ thuật và vốn sống phong phú về Tây
Bắc, ông đã thể hiện được một cách chân thật, sinh động những nỗi đau
thương, khổ nhục của họ dưới ách áp bức nặng nề của kẻ thù thực dân phong
kiến. Tập Truyện Tây Bắc gồm ba truyện: Mường Giơn, Cứu đất cứu mường,
Vợ chồng A Phủ. Hình ảnh người lao động miền núi Tây Bắc nghèo khổ, mà
nhất là người phụ nữ trong tập truyện này được Tô Hoài miêu tả với tất cả
niềm cảm thông sâu sắc. Cảnh đời của Mị, một cô dâu gạt nợ chết dần, chết
mòn trong địa ngục trần gian của nhà thống lí Pá Tra, hay thân phận của cô
Ảng, từ cô gái có vẻ đẹp nổi tiếng ở Mường Cơi bị xem như món đồ chơi qua
tay nhiều quan châu, quan lang, chúa đất cho đến khi tàn tạ trở thành bà lão
Ảng ăn mày...đã để lại cho người đọc biết bao điều suy nghĩ về cuộc sống
đắng cay, tủi nhục của người phụ nữ Tây Bắc dưới sự đè nén áp bức nặng nề
của thực dân và phong kiến ở miền núi. Mặt khác, qua tập truyện trên, Tô
Hoài đã khẳng định, ngợi ca những phẩm chất tốt đẹp của người miền núi Tây
Bắc, cũng như lí giải thành công về con đường tất yếu họ phải tìm đến để
thoát khỏi cuộc sống bị đọa đày áp bức đó là con đường cách mạng. Có thể
nói Truyện Tây Bắc đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trên con đường
sáng tạo nghệ thuật, và bộc lộ sự nhận thức đúng đắn của Tô Hoài về mối
quan hệ giữa nghệ thuật với cách mạng.
1.2. Đề tài miền núi trong văn học Việt Nam
1.2.1. Thời kì trước cách mạng:
Nói về các tác phẩm viết về đề tài miền núi thì văn học các dân tộc
miền núi đã có lịch sử hình thành và phát triển lâu đời. Trước cách mạng
tháng tám, nhìn chung các dân tộc miền núi đều có sáng tác văn học, nhưng
chủ yếu vẫn là sáng tác dân gian truyền miệng như: tục ngữ, ca dao, dân ca,
thần thoại, truyện thơ, sử thi anh hùng…Trong đó, có các tác phẩm tiểu như:
tác phẩm Xống chụ xon xao (dịch Tiễn dặn người yêu), tác phẩm Tóng đón
9
am ca, thi tống (dân tộc Thái), tác phẩm Khảm hải ( dịch Vượt Biển) (dân tộc
Tày), tác phẩm Đam San, Đam Di (dân tộc Ê-đê), tác phẩm Xinh nhã (dân tộc
Giơrai)…
Các tác phẩm văn học viết và văn học dân gian viết về đề tài miền núi
chưa có ranh giới rõ ràng. Do trình độ xã hội còn quá thấp, một số dân tộc
chưa có chữ viết…nhưng không vì vậy mà các tác phẩm viết về đề tài miền
núi lại hạn chế, ngược lại nó rất phong phú và có nhiều nét độc đáo riêng biệt.
Trước cách mạng tháng tám 1945 cũng có một sốc tác giả viết về đề tài
miền núi như: Lan Khai, Thế Lữ…Và các tác phẩm của những tác giả này
cũng rất thành công trên cả phương diện nội dung và nghệ thuật.
1.2.2. Thời kì sau cách mạng
Sau cách mạng tháng tám, đề tài miền núi vẫn thu hút lượng lớn tác giả.
Các tác giả hướng ngòi bút của mình con người và cuộc sống đồng bào dân
tộc miền núi trong thời kì kháng chiến và trong xây dựng theo đường lối của
Đảng.
Sau cách mạng tháng tám, hàng loạt tác phẩm ra đời và những tác phẩm
này đã góp phần xây dựng nên kho tàng tư liệu viết về đề tài miền núi. Các
nhà văn viết về đề tài miền núi bằng lòng đam mê và trách nhiệm của mình.
Những yêu cầu cuộc sống và thực tiễn đã góp phần hình thành và phát triển
đề tài miền núi.
Chính vì vậy mà đề tài miền núi trong văn học Việt Nam đã tạo nên
những thành quả nhất định về mặt nội dung cũng như phong phú về thể loại,
tạo nên sự phong phú trong nền văn học hiện đại.
1.3. Vị trí của văn xuôi về đề tài miền núi của Tô Hoài trong nền
văn học Việt Nam hiện đại
Trong giáo trình Văn học hiện đại II của Nguyễn Văn Long - Trần
Đăng suyền (Đồng chủ biên) Nxb Đại học Sư phạm, khi nói về tác giả Tô
Hoài có đề cập đến: “Đối tương thẩm mỹ trong sáng tác của Tô Hoài giai
đoạn này là thế giới loài vật và cuộc sống, con người ở vùng quê nghèo làm
nghề thủ công ven thành. Sau cách mạng tháng Tám, tiếp tục viết về đề tài Hà
10
Nội, Tô Hoài còn sáng tác về đề tài miền núi và đã gặt hái những thành công
đáng kể”[1,tr142-144]. Hơn mười năm gắn bó với miền núi, Tô Hoài đã hiểu
nhiều về cuộc sống và phong tục người miền núi Tây Bắc. Bằng sự đam mê
và những trải nghiệm thực tế của mình, Tô Hoài đã viết nên những tác phẩm
ghi đậm dấu ấn trong lòng người đọc, từ tác phẩm Núi Cứu Quốc (1948) đến
Nhớ Mai Châu (1988).
Tác phẩm viết về đề tài miền núi đầu tiên của Tô Hoài là tập truyện
ngắn Núi Cứu Quốc. Tập truyện ngắn này đã phản ánh được cuộc sống miền
núi cứu quốc xa xôi với nhiều thay đổi nhờ cách mạng và cảnh sinh hoạt của
người dân địa phương hào hứng theo cách mạng. Tác phẩm này đã tạo cho
người đọc niềm tin vào cách mạng và sự thay đổi tích cực của đời sống đồng
bào miền núi Tây Bắc. Cùng với tác phẩm nhật kí Ở Rừng của Nam cao thì
tác phẩm Núi Cứu Quốc được xem là hai tác phẩm đầu tiên viết về đề tài miền
núi trong nền văn học Việt Nam, và chính hai tác phẩm này đã đưa Nam Cao
và Tô Hoài lên vị trí là những nhà văn khai phá về đề tài miền núi của văn học
cách mạng Việt Nam.
Tháng 8/1952, Tô Hoài theo bộ đội chủ lực vào miền Tây tham gia
chiến dịch Tây Bắc, sau chuyến đi này tác phẩm Truyện Tây Bắc đã dược ra
đời năm (1953). Tập Truyện Tây Bắc gồm ba tác phẩm : Cứu đất cứu mường,
Mường Giơn và Vợ chồng A Phủ. Tập truyện này đã thể hiện rõ nét đời sống
sinh hoạt và những phong tục, tập tục và tập quán của đồng bào các dân tộc
miền núi Tây Bắc. Cuộc sống đau thương và số phận bất hạnh của các dân tộc
vùng cao dưới ách thống trị của bọn thực dân pháp và bọn tay sai phong kiến.
Tác giả đã thể hiện sự đè nén chịu đựng áp bức, bi thảm của những con người
miền núi qua các nhân vật như: Cô Ảng, Mị, A Phủ cũng như Mát và Sạ…chịu
sự đè nén của các hủ tục lạc hậu và sự ức hiếp của bọn cường quyền như cha
con nhà Thống Lí Pá Tra, cha con Tri Châu Né, quan châu, quang lang…
Giáo sư Phong Lê khi đọc tập Truyện Tây Bắc có nhận xét rằng: “Những đau
11
thương dồn cho người phụ nữ, đó cũng là chuyện quen thuộc của văn học Việt
Nam. Thế nhưng đến Tô Hoài, với bức tranh miền núi, những đau thương của
người phụ nữ miền núi được nói lần đầu tiên. Và cũng lần đầu tiên ta thấy sự
thống khổ đè lên số phân con người như cả trái núi, từ lúc sinh ra cho lo đến
lớn lên, từ trẻ cho đên già, từ khiếp này sang kiếp khác”[2,tr32]. Và tập
Truyện Tây Bắc đã giành giải nhất của Hội Văn Nghệ Việt Nam năm 19551956.
......Tô Hoài không chỉ phản ánh đời sống khổ cực của đồng bào dân tộc
miền
núi mà qua đó còn khơi gợi tinh thần đoàn kết của các dân tộc anh em, mang
lại cho họ niềm tin về sự lãnh đạo của Đảng để cùng nhau đấu tranh giành độc
lập giải phóng con người thoát khỏi áp bức của bọn thực dân và bọn phong
kiến cường quyền. Vì những lí do trên mà tập Truyện Tây Bắc này được xem
là tác phẩm:“góp phần khẳng định sự trưởng thành của văn xuôi những năm
chống pháp.” [1,tr186]
Trong thời kì kháng chiến chống Mĩ, Tô Hoài đã sáng tác tiểu thuyết
Tuổi Trẻ Hoàng Văn Thụ. Cuốn tiểu thuyết này viết về những con người của
cách mạng, tầng lớp đi tiên phong trong công cuộc giải phóng dân tộc, đó là
những thanh niên dân tộc như: Hoàng Văn Thụ, Lương Văn Chi…Ngoài ra tác
phẩm Miền Tây cũng là sự tiếp nối trong loạt những tác phẩm viết về đề tài
miền núi của Tô Hoài. Tác phẩm này, đã phản ánh sự đổi đời của số phận con
người, những con người trong xã hội cũ đứng lên đấu tranh làm chủ quê
hương, đất nước. Và giải thưởng của hội nhà văn Á Phi năm 1972 dành cho
tiểu thuyết Miền Tây đã một lần nữa khẳng định giá trị của tác phẩm.
Vào những năm xây dựng chủ nghĩa xã hội miền Bắc, Tô Hoài cũng cho ra
đời những tác phẩm viết về miền núi như: Lên Sùng Đô (1969) và Nhật Kí
Vùng Cao (1969). Những tác phẩm này đã phản ánh rõ nét cuộc sống mới
trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền núi Tây Bắc. Năm 1988,
Tô Hoài viết tiểu thuyết Nhớ Mai Châu. Cuốn tiểu thuyết này đã dựng lên
12
khung cảnh xứ Mường trong sự giành giật xâu xé của Pháp, Nhật, Tưởng để
biến mảnh đất này thảnh căn cứ của chúng.
Tô Hoài có một vị trí rất lớn trong nền văn học Việt Nam qua những tác
phẩm nổi tiếng viết về đề tài miền núi. Trước cách mạng tháng Tám, Tô Hoài
viết về mảng truyện cho thiếu nhi và đề tài Hà Nội, sau cách mạng tháng
Tám đề tài miền núi đã giúp ông có được sự thành công và một vị trí quan
trọng trong nền văn học thơ ca thời cách mạng. Với những tác phẩm thành
công và đạt nhiều giải thưởng cao quí và chính các tác phẩm đã đưa Tô Hoài
có một chỗ đứng quan trọng trong nền văn học Việt Nam nói chung và đề tài
miền núi nói riêng.
Chương 2
YẾU TỐ PHONG TỤC, TẬP QUÁN CỦA NGƯỜI MIỀN NÚI
QUA TẬP “TRUYỆN TÂY BẮC” CỦA TÔ HOÀI
2.1. Khái niệm phong tục, tập quán
Phong tục tập quán là những nếp sống, phong tục do những người sống
trong xã hội tự đặt ra, nó được áp dụng vào đời sống và phục vụ cho mọi
người nhưng không mang tính chất vi phạm phạm luật. Phong tục cũng dần
được thay đổi khác đi để phù hợp với đời sống hiện tại của từng thời kỳ.
Trong đó: Phong tục là toàn bộ những hoạt động sống của con người đã được
hình thành trong quá trình lịch sử và ổn định thành nền nếp, được cộng đồng
thừa nhận và tự giác thực hiện, được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ
khác, tạo nên tính tương đối thống nhất của cộng đồng. Phong tục không
mang tính cố định và bắt buộc như nghi lễ, nghi thức, tuy nhiên nó cũng
không tuỳ tiện, nhất thời như hoạt động sống thường ngày. Nó trở thành một
tập quán xã hội tương đối bền vững. Phong tục của một dân tộc, một địa
13
phương, một tầng lớp xã hội, thậm chí của một dòng họ và gia tộc, thể hiện
qua nhiều chu kì khác nhau của đời sống con người. Hệ thống các phong tục
liên quan tới vòng đời của con người như phong tục về sinh đẻ, trưởng thành,
cưới xin, mừng thọ và lên lão, phong tục tang ma, cúng giỗ... Hệ thống các
phong tục liên quan đến chu kì lao động của con người, mà với cư dân nông
nghiệp là từ làm đất gieo hạt, cấy hái đến thu hoạch, với ngư dân là theo mùa
đánh bắt cá... Hệ thống các phong tục liên quan tới hoạt động của con người
theo chu kì thời tiết trong năm, phong tục mùa xuân, mùa hè, mùa thu và mùa
đông. Phong tục là một bộ phận của văn hoá, có vai trò quan trọng trong việc
hình thành truyền thống của một dân tộc, địa phương, nó ảnh hưởng, thậm chí
chế định nhiều ứng xử của cá nhân trong cộng đồng. Phong tục được tuân thủ
theo quy định của luật tục hay hương ước. Người vi phạm có thể bị phạt vạ.
Cùng với sự phát triển của xã hội, một số phong tục không còn phù hợp với
thời đại mới, bị đào thải, trong khi một số phong tục mới được hình thành. Ở
Việt Nam, cuộc vận động xây dựng gia đình, xóm làng, phường, khu dân cư
văn hoá mới nhằm loại trừ các phong tục lỗi thời, duy trì và phát triển các
phong tục tốt đẹp, bước đầu đã mang lại những kết quả tích cực trong việc
xây dựng đời sống văn hoá mới của các tầng lớp nhân dân.[3]
Tập quán là “những phương thức ứng xử và hành động đã định hình
quen thuộc và đã thành nếp trong lối sống, trong lao động ở một cá nhân, một
cộng đồng. Tập quán gần gũi với thói quen ở chỗ nó mang tính tĩnh tại, bền
lâu, khó thay đổi. Trong những tình huống nhất định, tập quán biểu hiện như
một hành vi mang tính tự động hoá. Tập quán xuất hiện và định hình một cách
tự phát, hoặc hình thành và ổn định thông qua sự rèn luyện và là kết quả của
quá trình giáo dục có định hướng rõ rệt”[3].
2.2. Các yếu tố phong tục, tập quán của người miền núi qua tập
“Truyện Tây Bắc” của Tô Hoài
2.2.1. Phong tục lễ hội
Tô Hoài được mệnh danh là nhà văn của phong tục. Ông có một nhãn
14
quan phong tục đặc biệt nhạy bén và sắc sảo. Những phong tục bao đời nay
của dân tộc ta vốn đã rất phong phú và độc đáo nhưng khi vào tác phẩm của
Tô Hoài, nó lại được miêu tả sinh động và lôi cuốn bội phần. Có thể nói, dù
viết về những người dân ngoại thành Hà Nội, về đồng bào miền núi cao Tây
Bắc hay về loài vật, Tô Hoài cũng khéo léo đưa vào đó những phong tục, tập
quán quen thuộc của con người Việt Nam. Phong tục, tập quán trong tác phẩm
tiêu biểu như : Vợ chồng A Phủ, Cứu đất cứu mường và Mường Giơn.
Vợ chồng A Phủ là tác phẩm tiêu biểu nhất của Tô Hoài viết về đề tài
miền núi. Mảng sáng tác về đề tài này được coi là một “đặc sản” của ông. Căn
cứ vào số lượng tác phẩm và hành trình sáng tác, có thể coi Tô Hoài là nhà
văn viết nhiều nhất, thủy chung nhất với đề tài miền núi. Chính những năm
tháng thâm nhập thực tế vùng núi cao Tây Bắc đã giúp Tô Hoài có một vốn
sống phong phú và sâu sắc về cuộc sống và con người đồng bào các dân tộc
vùng đất này. Bởi vậy, đọc Vợ chồng A Phủ, ngoài bức tranh hiện thực về đời
sống xã hội, người đọc còn bị thu hút bởi những trang miêu tả phong tục sinh
hoạt với màu sắc dân tộc đậm đà, với những chi tiết độc đáo, sinh động của
một cây bút có óc quan sát thông minh, tinh tế.
Tết của người vùng cao không giống tết ở miền xuôi. Người H'mông ăn
tết khi ngô lúa đã gặt xong, mùa xuân có niềm vui thu hoạch mùa màng. Cho
nên cái tết năm ấy đến Hồng Ngài giữa lúc "gió và rét rất dữ dội" nhưng cũng
không ngăn được niềm vui đang trỗi dậy trong tâm hồn những người dân ở
đây, đặc biệt là ở những đôi trai gái yêu nhau. Tô Hoài đã đặc tả không khí
ngày tết với những từ ngữ giàu chất tạo hình, qua đó hiện lên bức tranh ngày
tết miền núi tràn ngập màu sắc và âm thanh.
Khi viết về những ngày tết ở Hồng Ngài, nhà văn Tô Hoài cũng rất chú
ý miêu tả tiếng sáo. Sáo H’Mông có khả năng diễn tả ngôn ngữ của người
H’Mông, thay họ nói lên tình cảm trong lòng: "Anh ném pao, em không bắt.
Em không yêu, quả pao rơi rồi".[4,tr442] Đó là phương tiện giao duyên hữu
hiệu của các chàng trai đối với con gái trong bản làng.
15
Thời gian cứ tiếp nối, những ngày tết vùng cao và đêm tình mùa xuân
của ngày xưa và ngày sau dường như vẫn thế. Tiếng sáo gọi bạn tình vượt qua
thời gian, tồn tại vĩnh hằng trong trái tim biết bao chàng trai cô gái miền sơn
cước.
2.2.2 Phong tục hôn nhân
Ngoài miêu tả những phong tục lễ hội đặc sắc của người miền núi, Tô
Hoài còn nói đến phong tục hôn nhân cưới hỏi của một số dân tộc như : dân
tộc người Thái, người Mèo…
Trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ chúng ta biết đến phong tục “cướp
vợ” của người Mèo. Trai gái yêu nhau bằng lòng nhau, người con trai đêm
đến nhà người yêu “cướp vợ” và sáng hôm sau người con trai đến báo tin cho
bố mẹ người con gái. Nhưng ở trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ thì việc cướp
vợ ở đây là “cướp vợ” để gạt nợ, do cha Mị nợ tiền nhà thống lí Pá tra nên
cuộc hôn nhân và phong tục “cướp vợ” này đã mang đến sự nghiệt ngã cho số
phận của Mị khi phải làm con dâu gạt nợ cho nhà thống lì Pá tra. Và phong
tục “cướp vợ” cũng được Tô Hoài nhắc đến trong tác phẩm Mường Giơn
nhưng ở đây “cướp vợ” lại đem hạnh phúc cho hai người khi họ đã có tình
yêu thật sự và đến với nhau một cách tự nguyện.
Trong tác phẩm Mường Giơn Tô Hoài còn đề cập đến phong tục ở rể
của người dân tộc Thái. Theo tục này thì người con trai mỗi năm phải đem
nộp mười gánh lúc cho nhà vợ nếu không đủ phải đi ở rễ cho nhà vợ. Đây là
một phong tục lạc hậu, mang hình thức bóc lột người nghèo.
Phong tục hôn nhân phản ánh đời sống , của người dân tộc miền núi.
Bên cạnh những nét đặc sắc trong phong tục hôn nhân cưới hỏi cẩn gìn giữ,
thì vẫn còn những tục lệ mang tính chất ép buộc còn nhiều hạn chế do trình
độ dân trí còn thấp.
2.2.3 Một số phong tục tập quán, tập tục khác
Ngoài phong tục lễ hội, thì các phong tục tập tục khác của người miền
núi cũng được nhắc đến trong: Vợ chồng A Phủ, Cứu đất cứu mường và
Mường Giơn.
16
2.2.3.1 Tục cho vay nặng lãi
Tục cho vay nặng lãi ở miền núi thời phong kiến được thể hiện tập
trung ở nhân vật Mị. Số phận của Mị tiêu biểu cho số phận người phụ nữ
H’mông nghèo ngày trước: có đầy đủ phẩm chất để được sống hạnh phúc
nhưng lại bị đọa đày trong kiếp sống nô lệ.
Tục cho vay nặng lãi đã trói Mị vào món nợ truyền kiếp.Ngày xưa, bố
Mị lấy mẹ Mị, không đủ tiền cưới phải đến vay nhà thống lí, bố của thống lí
Pá Tra bây giờ. Mẹ Mị đã chết, bố Mị đã già mà món nợ mỗi năm phải trả lãi
một nương ngô vẫn còn. Năm đó, ở Hồng Ngài tết đến, A Sử con trai thống lí
Pá Tra lừa bắt cóc được Mị về làm vợ cúng trình ma. Mị trở thành con dâu gạt
nợ. Từ đây, Mị phải sống cuộc đời của người con dâu gạt nợ nhà thống lí Pá
Tra. Định mệnh bi thảm đã giáng xuống cuộc đời người thiếu nữ ấy, buộc chặt
cô vào số phận nô lệ không có lối thoát.
2.2.3.2.Tục cướp vợ trình ma
Trai gái H’mông yêu nhau, chàng trai thỏa thuận với người yêu tổ chức
cuộc “cướp” mang người con gái về nhà mình. Sau đó mới đến trình nhà vợ.
Thường mùa xuân ăn tết, con trai hay đi “cướp vợ”. Đây là phong tục thanh
niên rất thích và bây giờ vẫn còn.
Mị là cô gái đẹp, thổi kèn hay, nhiều người mê Mị “trai đến đứng nhẵn
cả chân vách đầu buồng Mị”[4,tr340]. Tết năm ấy, Mị bị A Sử - con trai thống
lí Pá Tra đánh lừa, lợi dụng tục này cướp cô về làm vợ. Tô Hoài đã miêu tả
cảnh cướp vợ rất chi tiết “Một đêm khuya Mị nghe tiếng gõ vách. Tiếng gõ
ván hẹn của ngườii yêu. Mị hồi hộp lặng lẽ giơ tay lên thì gặp hai ngón tay
lách vào khe gỗ, sờ một ngón tay đeo nhẫn. Người yêu Mị thường đeo nhẫn
ngón tay ấy. Biết hiệu Mị nhấc tấm ván gỗ. Một bàn tay dắt Mị bước ra. Mị
vừa bước ra, lập tức có mấy người chạy đến, nhét áo vào miệng Mị, bịt mắt
cõng Mị đi. Sáng hôm sau Mị mới biết mình đang ngồi trong nhà thống lý Pá
Tra”[4,tr438-439]. Xót xa thay, hắn đâu cưới Mị vì tình yêu, hắn và người nhà
hắn bắt Mị về ép duyên để gạt nợ: “Họ nhốt Mị vào buồng. Ngoài vách kia,
17
tiếng nhạc sinh tiền cúng ma đương rập rờn nhảy múa”[4,tr439]. Ngòi bút
hiện thực tỉnh táo của Tô Hoài đã phanh phui bản chất bóc lột giai cấp được
ẩn sau những phong tục tập quán. Cô Mị tiếng là con dâu nhưng thực chất chỉ
như một nô lệ, thứ nô lệ người ta không phải mua mà lại tha hồ được bóc lột,
hành hạ.
Hủ tục đã giết chết hạnh phúc của Mị. Suy nghĩ lạc hậu, mê tín dị đoan
– một phần trong tâm linh người dân tộc H’mông cũng là một phần nguyên
nhân khiến cuộc đời Mị rơi vào bi kịch. Tình cảnh của Mị là chứng cớ tố cáo
mãnh liệt nhất bọn cường hào cho vay nặng lãi. Vợ chồng A Phủ chính là bản
cáo trạng hùng hồn về những nỗi thống khổ của người phụ nữ miền núi –
những người vừa phải chịu gánh nặng của chế độ phong kiến, vừa bị trói chặt
trong xiềng xích của thần quyền.
2.2.3.3. Tục xử kiện, phạt vạ, trình ma người vay nợ
Sự xuất hiện của nhân vật A Phủ cũng góp phần thể hiện nhãn quan
phong tục của Tô Hoài. A Phủ có số phận bất hạnh, mồ côi cả cha lẫn mẹ, suốt
đời làm thuê làm mướn. Anh nghèo đến nỗi không thể nào lấy được vợ và
cũng không có nổi cái vòng bạc để đi chơi tết như bao chàng trai H’mông
khác. Chính những hủ tục “phép rượu”, “phép làng” và tục cưới xin nên A
Phủ trở thành tứ cố vô thân, không sao lấy được vợ.
Ngày tết, A Phủ rủ bạn đi chơi đánh pao. A Sử đến phá đám bị A Phủ
đánh. Cũng vì thế, A Phủ bị trói và bị mang đến nhà Pá Tra. Bằng ngòi bút
miêu tả chi tiết những phong tục, tập quán, Tô Hoài đã tái hiện sống động một
cuộc xử kiện quái lạ, từ đó vạch trần cách áp bức dã man, trắng trợn kiểu
trung cổ của bọn thống lí miền núi. Bằng nhãn quan phong tục sắc sảo, Tô
Hoài đã giúp người đọc hiểu thêm về những tục lệ kì quái, dã man của bọn
chúa đất, chúa rừng trước kia. Câu chuyện về A Phủ - người nô lệ gạt nợ đã
bổ sung cho câu chuyện về Mị - người con dâu gạt nợ để làm hoàn chỉnh bản
án về tội ác của bọn thống trị phong kiến đối với những người lao động lương
thiện ở miền núi trước Cách mạng.
18
Ngoài ra, trong tác phẩm Cứu đất cứu mường có tục lệ hàng năm tri
châu, lí trưởng bắt từng xã từng thôn phải đi làm công trước nhà cho họ. Tập
tục này được bọn thống trị lợi dung để bóc lột sức lao động, trói buộc cuộc
đời của người dân miền núi. Hay người Mường có tục lệ, mỗi khi có trẻ đẻ
hoang thì người mẹ phải nộp cho làng mười hai đồng bạc xòe, cô Ảng không
có tiền buộc phải bán con để có tiền nộp cho làng theo tục lệ. Số phận người
đàn bà như Cô Ảng không dừng lại ở những tục lệ đó mà nó còn bi thảm hơn
khi gặp tục lệ của người Mường là đàn bà và người khuyết tật không được
làng chia phần ruộng công vì thổ ti làng bảo những người không đi lính nên
không đươc chia ruộng.
Trong tác phẩm Mường Giơn số phận người phụ nữ cũng gặp biết bao
hủ tục tập tục khác như: tục không đi phu, đi lính thì quan xử theo luật
Mường. Theo quan niệm của người Thái thì người đàn bà tuyệt đối không
được đi bừa: “Đàn bà đi bừa người ta cười cho”[4,tr363]. Theo quan niệm của
người dân tộc Thái thì người đàn bà tuyệt đối không được đi bừa. Đàn bà ở
Mường Giơn xưa nay chỉ biết cấy gặt dệt vải, khâu chăn và đi chợ sắm tết
không ai biết cày biết bừa.
Tóm lại, với biệt tài miêu tả thiên nhiên và phong tục xã hội, Tô Hoài
đã tạo dựng được một bức tranh thiên nhiên hùng vĩ và thơ mộng, một không
gian nghệ thuật mang đậm màu sắc dân tộc độc đáo ở vùng cao Tây Bắc.
Thông qua những tác phẩm, người đọc có thêm những tri thức bổ ích về đời
sống, phong tục tập quán của dân tộc miền núi Tây Bắc, đó là tục cho vay
nặng lãi, tục cướp vợ trình ma, tục xử kiện, phạt vạ, trình ma người vay nợ, ở
rễ... Tất cả được Tô Hoài miêu tả với những tìm tòi, khám phá sâu sắc, không
phải bằng kiến thức dân tộc học khô khan mà là qua nhãn quan phong tục vô
cùng độc đáo và những trang viết thấm đẫm tình người.
19
Chương 3
NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN CÁC YẾU TỐ PHONG TỤC,
TẬP QUÁN CỦA NGƯỜI MIỀN NÚI
QUA TẬP “TRUYỆN TÂY BẮC” CỦA TÔ HOÀI
3.1. Nghệ thuật thể hiện phong tục các lễ hội
Với cảm quan hiện thực đời thường khiến Tô Hoài am hiểu nhanh
chóng và sâu sắc phong tục, phong cách sinh hoạt của đồng bào các dân tộc
miền núi. Ngòi bút của Tô Hoài đã vẽ nên khung cảnh sinh hoạt, lễ hội thật
sinh động qua từng lời văn, câu chữ. Những lễ hội của người miền núi trong
dịp đầu xuân thật rộn rã. Khi thời gian mùa vụ đã thu hoạch xong, mùa xuân
là mùa của ăn chơi, mùa lễ hội với những trò chơi như ném còn, múa xòe,
đánh pao…Mọi người từ trẻ con cho tới người lớn đều nô nức chuẩn bị vui
chơi trong những ngày đầu xuân tới.
Trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ cảnh xuân được thể hiện qua: “Những
chiếc váy hoa đem phơi trên mỏm đá xèo như con bướm sặc sỡ” [4,tr441].
Nét văn hóa Tây Bắc trong cách ăn mặc với các sắc màu như vàng tươi, vàng
đất, vàng rơm rồi da cam, tím, xanh. Với những sắc màu tươi thắm đó, phần
nào cũng tô điểm thêm khung cảnh mùa xuân trên vùng núi Tây Bắc. Đám trẻ
đợi tết, chơi quay, cười ầm trên sân chơi trước nhà". Ông cũng đặc biệt chú
trọng đến những phong tục lạ, ngộ nghĩnh qua con mắt tò mò, hóm hỉnh của
mình: "Trai gái kéo nhau lên núi chơi. Đi chơi trên núi từng đoàn", "Các chị
Mèo đỏ, váy thêu, áo khoác, khăn hoa chùm rực rỡ. Các chị Mèo trắng chít
khăn xếp phẳng lì, tóc mai cạo xanh nhẵn"[4,tr441].
Âm thanh rộn ràng, nhộp nhịp trong tiếng sáo, tiếng khèn, điệu xòe của
người Mèo: “Tết năm ấy, tết vui chơi, trai gái đánh pao, đánh quay rồi đêm
đêm rủ nhau đi chơi. Tiếng sáo gọi bạn yêu lơ lửng bay ngoài
đường”[4,tr442] với những khúc hát giao duyên say đắm:
20
“Anh ném pao, em không bắt
Em không yêu, quả pao rơi rồi…”[4,tr442].
Trong Vợ chồng A Phủ, ngòi bút Tô Hoài cũng tỏ ra rất thành công khi
lột tả được nét đặc trưng, lột tả được "cái hồn" của tiếng sáo: "Ngoài đầu núi
lấp ló đã có tiếng ai thổi sao rủ bạn đi chơi", "Tiếng sáo réo rắt suốt đêm
ngoài đầu núi tranh". Tiếng sáo còn là cách tỏ tình đặc biệt của người con trai
miền núi: "Suốt đêm, con trai đến nhà người mình yêu, đứng thổi sáo xung
quanh vách".
Khung cảnh mùa xuân còn thể hiện qua sự náo nhiệt trong nhà cũng
như ngoài cửa: “Nhà nhà tấp nập. Nhiều nơi đã mổ lợn, sấy thịt, trên ccá sân
khói bếp nấu rượi bốc nghi ngút. Hai chum rượi cần đứng bên cột đã để sẵn
bó ống trúc đơi vui tết. Chập tối, nhiều nhà treo đèn ra cây bưởi rồi đánh
trống đánh chiêng gọi người tập xòe, gái làng thi nhau may áo mới va tập xòe.
Ngày nào các anh chị cũng đi lấy lá thơm về gội đầu” [4,tr340].
Trong Mường Giơn phong tục người Thái cũng được thể hiện rõ:“Bây
giờ gặt hái đã xong, thóc tốt chắc chân đã xếp kín bờ ruộng, ngày ngày mọi
người phải sưởi lửa, đợi trời ấm mới đi kiếm ăn. Người Dao ở Phàng Chải
xuống suối đi hái rau má. Ngoài đồng thấp các làng Thái, các chị và các trẻ
em xách thuổng đeo giỏ kéo nhau di đào chuột, đào con rúi, nhặt
rau”[4,tr334]. Người dân tộc Thái còn có tục lệ săn nai đầu xuân: “Bắn được
con nai Tết này bộ đội về ăn tết với thì sung sướng quá. Trời xuống sương thế
này mà vào suối nước nóng tìm nai thế nào cũng gặp [4,tr340].
Các tập tục phong tục lễ hội của dân tộc miền núi được Tô Hoài thể
hiện rõ nét dưới ngòi bút sắc sảo của ông. Để có được những trang miêu tả
xác thực, tinh tế như vậy chính là nhờ chuyến đi thực tế của nhà văn. Có lần
Tô Hoài đã từng tâm sự: “Những lúc không có muối phải ăn thịt chó, thịt
ngựa nhạt, ăn rêu đá nướng, ăn bọ hung xào, tối ăn như bà con. Lại những
cảnh vác củi thổi sáo, bắt chuột, đào con rúi, bắt cá suối, đêm sáng trăng đi
theo thanh niên Mèo đi “cướp vợ” (một phong tục của người Mèo), rồi những
21
cảnh Tết với người Thái, tết người Mèo, mà tôi đã tả trong “Truyện Tây Bắc”
đều là những cảnh Tôi biết hoặc làm trong các địa phương” [5,tr161].
Qua đó cho thấy với vốn hiểu biết phong phú, khả năng quan sát sắc
sảo và năng lực dựng người, dựng cảnh tinh tế, tác giả đã phác họa được
những bức tranh thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ, thơ mộng, miêu tả sinh động
nhiều phong tục độc đáo của người dân tộc miền núi vùng Tây Bắc.
3.2. Nghệ thuật thể hiện các phong tục hôn nhân
Ngoài phong tục các lễ hội của người dân tộc vùng núi Tây Bắc, thì Tô
Hoài cũng khắc họa rõ nét phong tục hôn nhân cưới hỏi của người dân tộc
vùng cao trong Truyện Tây Bắc.
Trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ chúng ta biết đến phong tục “cướp
vợ” của người Mèo. Trai gái yêu nhau bằng lòng nhau, người con trai đêm
đến nhà người yêu “cướp vợ” và sáng hôm sau người con trai đến báo tin cho
bố mẹ người con gái là: “tôi cướp được con gái ông làm vợ”. Điều này được
Tô Hoài thể hiện rõ qua hành động cướp Mị về làm vợ của A Sử: “Một đêm
khuya Mị nghe tiếng gõ vách. Tiếng gõ ván hẹn của ngườii yêu. Mị hồi hộp
lặng lẽ giơ tay lên thì gặp hai ngón tay lách vào khe gỗ, sờ một ngón tay đeo
nhẫn. Người yêu Mị thường đeo nhẫn ngón tay ấy. Biết hiệu Mị nhấc tấm ván
gỗ. Một bàn tay dắt Mị bước ra. Mị vừa bước ra, lập tức có mấy người chạy
đến, nhét áo vào miệng Mị, bịt mắt cõng Mị đi. Sáng hôm sau Mị mới biết
mình đang ngồi trong nhà thống lý Pá Tra”[4,tr438-439].
Như vậy, qua phong tục cướp vợ dược thể hiện qua miêu tả của Tô
Hoài, chúng ta thấy được phong tục này là một phong tục truyền thống tốt đẹp
của một dân tộc, ông còn nói lên được sự lợi dụng phong tục này để áp bước
người nghèo của kẻ giàu. Thống lí Pá Tra lợi dụng gia cảnh nhà Mị đang nợ
tiền đã cùng A Sử bắt Mị về làm dâu gạt nợ. Mị về nhà Thống Lí Pá Tra làm
con dâu nhưng thực chất là nô lệ, thứ nô lệ không mất tiền mua và tha hồ bóc
lột, hành hạ. Sống trong nhà Thống lí Pá Tra nhưng: “Mị lầm lũi như con rùa
trong xó cửa” [4,tr440]. Kết quả sống lâu ngày trong cảnh khổ cực quen rồi,
22
Mị không còn nghĩ tới việc ăn lá ngón khi bố chết nữa.
Phong tục cướp vợ cũng được Tô Hoài nhắc đến trong tác phẩm
Mường Giơn nhưng ở đây “cướp vợ” lại đem hạnh phúc cho đôi trai gái khi
họ thực sự yêu nhau: “Đầu tiên trên vùng ở người đó, đêm nào anh ấy cũng
rình cướp các vách gỗ. Ông bố tưởng trộm liền hét lên. Anh ấy và cô con gài
ông cụ phân trần mãi, ông cụ không nghe cứ chửi, đòi trói lại. Mình đứng
nấp ở ngoài thấy rắc rối phải vào nói đỡ. Nói thế nào mà ông cụ hết giận,
bằng lòng cho anh kia cướp vợ về.”[4,tr333].
Trong tác phẩm Mường Giơn Tô Hoài còn đề cập đến phong tục ở rể
của người dân tộc Thái. “Sạ ở rễ nhà ông Mờng, Sạ lấy Mát nhưng Sạ nghèo
hơn Mát. Theo tục lệ mỗi năm Sạ không đủ mười gành lúa nộp cho nhà vợ, Sạ
phải đem sức đi đơ cho nhà vợ mười năm”[4,tr335]. Đây là một phong tục lạc
hậu, mang hình thức bóc lột người nghèo.
Như vậy, bằng khả năng quan sát thực tế của mình, Tô Hoài đã ghi lại
chân thật cảnh “cướp vợ” và “ ở rể” của đồng bào dân tộc miền núi Tây Bắc.
Với những cảm nhận chân thật của mình, tác giả đã thể hiện được những hiểu
biết của mình về phong tục tập quán hôn nhân cưới hỏi với nét đặc trưng của
dân tộc miền núi, phong tục này đem đến cho con người nhiều nỗi buồn hơn
niềm vui khi sống trong xã hội như thế.
3.3. Nghệ thuật thể hiện một số phong tục tập quán khác
Ngoài những phong tục lễ tết, hôn nhân thì còn có những phong tục lạc
hậu, tàn ác khác của các dân tộc miền núi cũng được Tô Hoài miêu tả rõ nét.
Trong Truyện Tây Bắc có các tục lệ như: cho vay nặng lãi, cướp vợ trình ma,
tục xử kiện, phạt vạ, trình ma người vay nợ…
Trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ, số phận của Mị bị bắt về nhà thống lí
Pá Tra cũng là một phần do tục lệ cho vay nặng lãi. Đi tìm nguyên nhân cho
số phận bất hạnh của cô Mị, người đọc có dịp hiểu về tục cho vay nặng lãi –
nỗi lo sợ hãi hùng của biết bao số phận người lao động nghèo khổ miền núi
trước Cách mạng. Ngày xưa, bố mẹ Mị lấy nhau không có đủ tiền cưới, phải
đến vay nhà thống lí, bố của thống lí Pá Tra bây giờ. Mỗi năm phải đem nộp
23
lãi một nương ngô. Rồi đến khi mẹ Mị chết, bố Mị đã già mà món nợ ấy vẫn
như một sợi dây oan nghiệt: “Chao ôi! Thế là cha mẹ ăn bạc của nhà giàu từ
kiếp trước, đến bây giờ người ta bắt con trừ nợ, không thể làm khác được
rồi”[4,tr340]. Mị muốn được làm chủ cuộc đời bằng sức lao động của chính
mình: “Con nay đã biết cuốc nương, làm ngô, con phải làm nương ngô giả nợ
thay cho bố. Bố đừng bán con cho nhà giàu”[4,tr340]. Nhưng đâu có được!
Tục cho vay nặng lãi đã trói Mị vào món nợ truyền kiếp. Từ đây, Mị phải
sống cuộc đời của người con dâu gạt nợ nhà thống lí Pá Tra. Định mệnh bi
thảm đã giáng xuống cuộc đời người thiếu nữ ấy, buộc chặt cô vào số phận nô
lệ không có lối thoát.
Trong tác phẩm Vợ Chồng A Phủ cướp vợ trình ma cũng là nguyên
nhân khiến Mị, một người con gái từ chỗ tự do mà phải về nhà thống lí Pá Tra
làm vợ A Sử. Mị là cô gái đẹp, thổi kèn hay, nhiều người mê Mị “trai đến
đứng nhẵn cả chân vách đầu buồng Mị”. Tết năm ấy, Mị bị A Sử - con trai
thống lí Pá Tra đánh lừa, lợi dụng tục này cướp cô về làm vợ. Xót xa thay, hắn
đâu cưới Mị vì tình yêu, hắn và người nhà hắn bắt Mị về ép duyên để gạt nợ:
“Họ nhốt Mị vào buồng. Ngoài vách kia, tiếng nhạc sinh tiền cúng ma đương
rập rờn nhảy múa”[4,tr341]. Ngòi bút hiện thực tỉnh táo của Tô Hoài đã phanh
phui bản chất bóc lột giai cấp được ẩn sau những phong tục tập quán. Cô Mị
tiếng là con dâu nhưng thực chất chỉ như một nô lệ, thứ nô lệ người ta không
phải mua mà lại tha hồ được bóc lột, hành hạ.
Ý thức phản kháng của Mị cũng dần tiêu tan chỉ vì ý nghĩ: mình đã bị
đem trình ma thì có chết cũng trở thành ma nhà thống lí, chết cũng không
được tự do. Hủ tục đã giết chết hạnh phúc của Mị. Suy nghĩ lạc hậu, mê tín dị
đoan - một phần trong tâm linh người dân tộc H’mông cũng là một phần
nguyên nhân khiến cuộc đời Mị rơi vào bi kịch.
Còn A Phủ thì số phận cũng không may mắn gì hơn Mị. Sự xuất hiện
của nhân vật A Phủ cũng góp phần thể hiện nhãn quan phong tục của Tô Hoài.
A Phủ có số phận bất hạnh, mồ côi cả cha lẫn mẹ, suốt đời làm thuê làm
24
mướn. Anh nghèo đến nỗi không thể nào lấy được vợ và cũng không có nổi
cái vòng bạc để đi chơi tết như bao chàng trai H’mông khác. Chính những hủ
tục “phép rượu”, “phép làng” và tục cưới xin nên A Phủ trở thành tứ cố vô
thân, không sao lấy được vợ.
Ngày tết, A Phủ rủ bạn đi chơi đánh pao. A Sử đến phá đám bị A Phủ
đánh. Cũng vì thế, A Phủ bị trói mang đến nhà Pá Tra. Bằng ngòi bút miêu tả
phong tục bậc thầy, Tô Hoài đã tái hiện sống động một cuộc xử kiện quái lạ,
từ đó vạch trần cách áp bức dã man, trắng trợn kiểu trung cổ của bọn thống lí
miền núi. Cuộc xử kiện diễn ra trong không gian của màu khói thuốc phiện
“xanh như khói bếp”, của mùi khói thuốc phiện ngào ngạt. Những kẻ tham gia
vào bộ máy xử kiện thì “nằm dài cả bên khay đèn”. Cứ hút xong một đợt
thuốc phiện, Pá Tra lại ra lệnh, trai làng lại thay nhau lạy tên thống lí lia lịa rồi
xông ra đánh A Phủ. Như vậy, cuộc xử kiện quái đản này thực chất chỉ là một
cuộc tra tấn người dã man của bọn chúa đất – những con nghiện: “suốt chiều,
suốt đêm, càng hút, càng tỉnh, càng đánh, càng chửi, càng hút”. Cuối cùng,
người con trai tự do của núi rừng như A Phủ cũng không thoát khỏi nanh vuốt
của lũ chúa đất. Từ đây, anh vĩnh viễn trở thành nô lệ cho nhà Pá Tra: “Cả tiền
phạt, tiền thuốc, tiền lợn, mày phải chịu một trăm bạc trắng… Bao giờ có tiền
giả thì tao cho mày về, chưa có tiền giả thì tao bắt mày ở làm con trâu, con
ngựa cho nhà tao. Đời mày, đời con, đời cháu mày tao cũng bắt thế, bao giờ
hết nợ tao mới thôi”[4,tr341]. Như vậy, bản chất của phạt vạ ở đây chỉ là để
thỏa mãn cho bọn thống quản ăn chơi, hút xách. Bằng nhãn quan phong tục
sắc sảo, Tô Hoài đã giúp người đọc hiểu thêm về những tục lệ kì quái, dã man
của bọn chúa đất, chúa rừng trước kia. Câu chuyện về A Phủ - người nô lệ gạt
nợ đã bổ sung cho câu chuyện về Mị - người con dâu gạt nợ để làm hoàn
chỉnh bản án về tội ác của bọn thống trị phong kiến đối với những người lao
động lương thiện ở miền núi trước cách mạng.
Tô Hoài còn miêu tả về những hủ tục mà bọn cai trị áp đặt lên người
25
dân trong chế độ thổ ty, lang đạo. Rõ nét nhất trong tác phẩm Cứu đất cứu
mường tác giả viết:“Lệ làng đây bắt người ta mỗi năm phải đi làm cuông, bắt
cả cuông đàn bà chao ôi! Những người con gái đẹp nhà quan thì đẹp cửa, đẹp
nhà quan hơn. Ảng phải di làm cuông cho tri châu Né” [4,tr317]. Đây là tục lệ
hàng năm tri châu, lí trưởng bắt từng xã từng thôn phải đi làm cuông trước
nhà cho họ. Tập tục này được bọn thống trị lợi dung để bóc lột sức lao động,
trói buộc cuộc đời của người dân miền núi. Sống dưới xã hội như vậy, số phận
người con gái coi như chấm dứt khi: “Con gái mười bảy phải đem thân nâng
gấu cho ông lão sáu mươi tuổi.” và “Tối ngày cô Ảng ngồi một xó, rót nước,
lấy rượu, nướng thịt, bưng xôi, bưng nước mắm con mắt mờ mịt không như
lúc nào mắt trong ra cho thấy được mùa nào đã về dưới cửa sổ[4,tr318].
Trở về từ nhà tri châu Né, cô Ảng trở thành người chuyền tay của các
quan châu, quan lang, chúa đất Mường Cơi, ở châu Mường Vạt, châu Mường
La. Cô phải hầu hạ chong chúng chịu bao nhiêu tủi nhục, mặc dù cô còn trẻ,
còn đẹp nhưng không ai lấy cô vì:“Người ta sợ quan, mà người ta cũng khinh
hạng đàn bà này là người thừa, người không biết làm gì”[4,tr318]. Và trong
những lần đi hầu các quan, cô Ảng sinh ra hai người con và không biết cha
chúng nó là ai. Tục lệ Mường, mỗi khi trẻ con đẻ hoang thì người mẹ phải
nộp cho làng mười hai đồng bạc xòe, cô Ảng không có tiền buộc phải bán con
để có tiến nộp cho làng theo tục lệ.
Số phận ngườn đàn bà như cô Ảng không dừng lại ở những tục lệ đó
mà nó còn bi thảm hơn khi gặp tục lệ của người Mường là đàn bà và người
khuyết tật không được làng chia phần ruộng công vì thổ ti làng đạo bảo những
người này không đi lính nên không đươc chia ruộng. Vì thế cuộc đời cô Ảng:
“Không có chồng, trong nhà không có đàn ông, thế thì phép quan cung không
chi cho đàn được phần ruộng để làm. Mẹ đành phải ôm con đi ra liếm vét cối
giã gạo ngoài suối” [4,tr310]. Bằng ngòi bút hiện thực, Tô Hoài viết lên
những lời văn ngắn gọn nhưng thể hiện đươc hết những nổi khổ cực ngày qua