Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

tiểu luận ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN TRONG DẠY HỌC CÁC BÀI CÔNG DÂN VỚI ĐẠO ĐỨC (GDCD lớp 10)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (233.91 KB, 30 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM, ĐẠI HỌC HUẾ
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
___֍֍֍___

HỌC PHẦN
ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN
VIỆT NAM

BÀI TIỂU LUẬN
ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN
VIỆT NAM VỚI CÔNG CUỘC CÔNG NGHIỆP HÓA
ĐẤT NƯỚC
Giảng viên hướng dẫn: TRẦN NHƯ HIỀN
Sinh viên thực hiện

: PHAN THỊ THU HƯƠNG

Mã sinh viên

: 17S5021035

Huế 05/2019
1


MỤC LỤC
DANH SÁCH CÁC CHỮ VIẾT TẮT
A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
2. Mục đích nghiên cứu
3. Phạm vi nghiên cứu


4. Phương pháp nghiên cứu
B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: Quan điểm và đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về cách
mạng công nghiệp hóa đất nước
1.1. Cách mạng công nghiệp hóa trên thế giới và tại Việt Nam
1.1.1. Cách mạng công nghiệp hóa, hiện đại hóa
1.1.1.1. Khái niệm công nghiệp hóa
1.1.1.2. Lịch sử công nghiệp hóa
1.1.2. Cách mạng Công nghiệp hóa tại Việt Nam
1.1.2.1. Công nghiệp hóa tại Việt Nam là gì?
1.1.2.2. Lịch sử công nghiệp hóa tại Việt Nam
1.2. Đường lối công nghiệp hóa của Đảng Cộng sản Việt Nam
1.2.1. Định nghĩa
1.2.2. Quan điểm về công nghiệp hóa
1.2.3. Mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa
1.2.4. Quan điểm công nghiệp hóa, hiện đại hóa
1.2.5. Nội dung và định hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát
triển kinh tế tri thức
1.2.5.1. Nội dung
2


1.2.5.2. Định hướng phát triển các ngành và lĩnh vực kinh tế trong quá trình
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức
1.2.6. Kết quả và ý nghĩa của việc thực hiện đường lối
CHƯƠNG 2: Đánh giá về đường lối xây dựng công nghiệp hóa đất nước của
Đảng Cộng sản Việt Nam
2.1. Những tồn tại và thách thức
2.2. Hạn chế và nguyên nhân
2.3. Tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước

C. KẾT LUẬN
D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
E. LỜI CẢM ƠN

3


DANH SÁCH CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa – CNH, HĐH
Đảng Cộng sản Việt Nam - ĐCSVN

4


A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Lịch sử công nghiệp hóa thế giới cho đến nay đã trải qua hơn 200 năm, kể từ cuộc
cách mạng công nghiệp cuối thế kỷ thứ XVIII ở nước Anh. Cuộc cách mạng công
nghiệp này sau đó nhanh chóng lan rộng sang các nước Tây Âu và các nước khác
như một trào lưu phát triển mới của thế giới. Khi đó, theo cách hiểu đơn giản, công
nghiệp hóa đơn thuần chỉ là quá trình thay thế lao động thủ công bằng lao động sử
dụng máy móc, nhằm biến một nước nông nghiệp lạc hậu thành một nước công
nghiệp phát triển. Tuy nhiên, tùy thuộc vào đặc điểm kinh tế, chính trị , xã hội mà
quá trình phát triển công nghiệp hóa ở mỗi quốc gia có những sự khác biệt. Ở Việt
Nam, đường lối công nghiệp hóa có thể chia ra làm 2 thời kỳ chính, trước và sau
khi đổi mới ( Đại hội Đảng VI -1986).
Ngày nay, trong xu thế toàn cầu hóa, cách mạng số hóa 4.0 ra đời, thì việc đổi mới
đi theo tiến trình của thế giới chính là điều tất yếu. Trong giai đoạn đất nước Việt
Nam đang phấn đấu đi lên nằm trong nhóm các nước đang phát triển trên thế giới,
công cuộc đổi mới đi theo CNH, HĐH là vô cùng quan trọng. Nhằm hướng tới

mục tiêu đưa Việt Nam “sánh vai với các cường quốc năm châu” như lời Chủ tịch
Hồ Chí Minh chỉ dạy, thì điều đáng quan tâm hiện nay là làm sao cho Việt Nam có
thể không bị bỏ lại trên con đường Công nghiệp hóa, Hiện đại hóa của Thế giới ở
hiện tại và thậm chí là trong tương lai. Đó là lý do tôi lựa chọn đề tài này để nghiên
cứu và thảo luận.
2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của nghiên cứu nhằm đi sâu vào tìm hiểu tiến trình xây dựng Công
nghiệp hóa, hiện đại hóa của Đảng ta, và chỉ rõ tầm quan trọng của công cuộc đổi
mới đất nước trong thời kỳ hội nhập và phát triển hiện nay.
3. Phạm vi nghiên cứu
Trong phạm vi nghiên cứu và xây dựng của đường lối Công nghiệp hóa mà Đảng
Cộng sản Việt Nam đề ra và thực hiện.
5


4. Phương pháp nghiên cứu
Với phương pháp luận là quan điểm của ĐCSVN đi tìm hiểu sâu giúp cho tư duy
và góc độ nghiên cứu luôn đi đúng hướng và hiệu quả. Kết hợp với phương pháp
phân tích tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp liên ngành là ba phương
pháp nghiên cứu chính khi nghiên cứu đề tài này.

6


B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: Quan điểm và đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về cách
mạng công nghiệp hóa đất nước
1.1. Cách mạng công nghiệp hóa trên thế giới và tại Việt Nam
1.1.1. Cách mạng công nghiệp hóa, hiện đại hóa
1.1.1.1. Khái niệm công nghiệp hóa

Công nghiệp hóa là quá trình nâng cao tỷ trọng của công nghiệp trong toàn bộ các
ngành kinh tế của một vùng kinh tế hay một nền kinh tế. Đó là tỷ trọng về lao
động, về giá trị gia tăng, v.v..
Đây là quá trình chuyển biến kinh tế - xã hội ở một cộng đồng người từ nền kinh tế
với mức độ tập trung tư bản nhỏ bé (xã hội tiền công nghiệp) sang nền kinh tế công
nghiệp. Công nghiệp hóa là một phần của quá trình hiện đại hóa. Sự chuyển biến
kinh tế-xã hội này đi đôi với tiến bộ công nghệ, đặc biệt là sự phát triển của sản
xuất năng lượng và luyện kim quy mô lớn. Công nghiệp hóa còn gắn liền với thay
đổi các hình thái triết học hoặc sự thay đổi thái độ trong nhận thức tự nhiên. Dầu
vậy, những thay đổi về mặt triết học là nguyên nhân của công nghiệp hóa hay
ngược lại thì vẫn còn tranh cãi.
1.1.1.2. Lịch sử công nghiệp hóa
Đa phần các xã hội tiền công nghiệp có mức sống không cao hơn mức tự cung tự
cấp là mấy. Có nghĩa là phần đông dân cư tập trung vào sản xuất những vật phẩm
cơ bản nhất để tồn tại. Ví dụ, ở Châu Âu thời Trung Cổ, 80% lao động hoạt động
trong lĩnh vực nông nghiệp tự cung tự cấp. Một số nền kinh tế tiền công nghiệp,
như Hy Lạp cổ đại, đã có các hoạt động trao đổi, thương mại phát triển nhờ đó đạt
được sự thịnh vượng vượt trên mức sinh hoạt cơ bản nhất. Nạn đói xảy ra thường
xuyên ở các xã hội tiền công nghiệp. Song các nước như Hà Lan và Anh ở thế kỷ
17, 18, các thành quốc Italia ở thế kỷ 15 và Hy Lạp, La Mã cổ đại đã thoát khỏi
quy luật trên nhờ trao đổi và buôn bán sản phẩm nông nghiệp. Theo ước tính, trong
thế kỷ 17, nguồn ngũ cốc của Hà Lan có tới 70% từ nhập khẩu. Người Hy Lạp cổ
đại ở thế kỷ 5 trước Công nguyên nhập khẩu 75% nguồn lương thực.
7


Anh là nước tiến hành công nghiệp hóa đầu tiên. Đây cũng là quê hương của Cách
mạng công nghiệp và thành phố công nghiệp đầu tiên trên thế giới là Manchester.
Nhiều nước thuộc Thế giới thứ ba bắt đầu các chương trình công nghiệp hóa dưới
sự ảnh hưởng của Hoa Kỳ hoặc Liên Xô trong Chiến tranh Lạnh nửa cuối thế kỷ

20. Nỗ lực này ở một số nước Đông Á thành công hơn ở các nơi khác trên thế giới
(ngoại trừ các quốc gia tiến hành công nghiệp hóa muộn mằn châu Âu, dẫu vậy
tiến trình của các nước này đã bắt đầu từ trước Chiến tranh thế giới thứ hai).
Theo báo cáo của Quỹ tiền tệ quốc tế, Hoa Kỳ là quốc gia có sản lượng công
nghiệp đứng đầu thế giới năm 2005, tiếp sau nó là Nhật Bản và Trung Quốc.
Cơ chế phát triển chủ đạo hiện nay theo các tổ chức tổ chức phát triển quốc tế
(Ngân hàng thế giới, OECD, các tổ chức của Liên hợp quốc và các tổ chức tương
tự quốc tế khác) là giảm nghèo. Cơ chế này vẫn nhấn mạnh vào sự tăng trưởng
kinh tế, nhưng tin rằng các chính sách công nghiệp hóa truyền thống không mang
lại hiệu quả dài hạn. Việc tạo ra và hỗ trợ những ngành công nghiệp nội địa kém
hiệu quả là vô ích trong một thế giới tự do thương mại hiện nay.
1.1.2. Cách mạng Công nghiệp hóa tại Việt Nam
1.1.2.1. Công nghiệp hóa tại Việt Nam là gì?
Công nghiệp hóa ở Việt Nam là quá trình chuyển đổi nền kinh tế Việt Nam từ dựa
vào nông nghiệp và thủ công sang máy móc công nghiệp là chính. Quá trình công
nghiệp hóa tại Việt Nam bắt đầu từ thời Pháp thuộc khi người Pháp xây dựng
những cơ sở công nghiệp đầu tiên tại Việt Nam và kéo dài cho đến ngày nay. Dù có
một lịch sử công nghiệp hóa lâu dài nhưng đến ngày nay nền công nghiệp Việt
Nam vẫn chưa hoàn chỉnh và lạc hậu so với thế giới, tỷ trọng công nghiệp vẫn
chưa chiếm ưu thế trong tổng thu nhập quốc gia nên vẫn được xem là một nước
nông nghiệp.
1.1.2.2. Lịch sử công nghiệp hóa tại Việt Nam
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ ngày 7 tháng 5 năm 1954 và hiệp định Geneve
tháng 7 năm 1954 thì Việt Nam bị chia làm hai vùng tập trung quân sự, sau đó do
không có tổng tuyển cử theo hiệp định nên quốc gia bị chia cắt làm hai miền. Miền
8


Bắc Việt Nam một mặt đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội và mặt khác trợ giúp Mặt
trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam tiến hành cuộc kháng chiến chống

Mỹ. Trong khi đó, Miền Nam Việt Nam thành lập chính phủ riêng với trợ giúp tài
chính và quân sự từ Mỹ và quốc tế, tiến hành xây dựng nền kinh tế theo hướng thị
trường ở miền Nam Việt Nam.
Tại miền Bắc, việc xây dựng chủ nghĩa xã hội gặp rất nhiều khó khăn và thách
thức. Gần 100 năm đô hộ của Pháp đã làm cho nền kinh tế của Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa ở miền Bắc có xuất phát điểm rất thấp. Sự phát triển kinh tế thời chiến
gặp nhiều khó khăn do các chiến dịch ném bom của Mỹ. Hơn nửa triệu người chết,
các thành phố, các cơ sở công nghiệp, hệ thống cơ sở hạ tầng, làng mạc ruộng
đồng bị tàn phá nặng nề. Trong khi đó, Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định
muốn thực hiện cuộc kháng chiến trường kỳ nhằm thống nhất Việt Nam đồng thời
công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa miền Bắc. Miền Bắc thực hiện Kế hoạch 5 năm
lần thứ I nhằm xây dựng nền tảng công nghiệp cho nền kinh tế, phát triển nông
nghiệp đủ sức đáp ứng nhu cầu của xã hội. Trong thời kỳ này miền Bắc chú trọng
phát triển công nghiệp nặng bằng cách đầu tư vào các ngành điện, cơ khí, luyện
kim, hoá chất, vật liệu xây dựng... Các chiến dịch ném bom của Mỹ làm gián đoạn
quá trình phát triển kinh tế của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Sau Sự kiện Vịnh Bắc
Bộ ngày 2/8/1964 Mỹ bắt đầu ném bom miền Bắc Việt Nam. Hội nghị lần thứ 11
Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam tháng 3/1965 nhận định
"trong cuộc chiến tranh cách mạng yêu nước của nhân dân cả nước chống đế quốc
Mỹ, miền Nam vẫn là tiền tuyến lớn, miền Bắc vẫn là hậu phương lớn, những
nhiệm vụ của miền Bắc là vừa xây dựng, vừa trực tiếp chiến đấu, vừa chi viện cho
tiền tuyến miền Nam... Hướng tích cực nhất để làm thất bại âm mưu của địch là tập
trung lực lượng của cả nước để đánh bại hoàn toàn địch ở miền Nam". Ngày
2/3/1965 Mỹ bắt đầu Chiến dịch Sấm Rền ném bom phá hủy cơ sở hạ tầng, các cơ
sở công nghiệp, các lực lượng phòng không của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa kéo
dài cho đến ngày 1/11/1968. Trong suốt thời gian này nền kinh tế miền Bắc chịu
thiệt hại nặng nề, không thể tiếp tục phát triển. Sau khi Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa chấp nhận đàm phán với Mỹ để kết thúc Chiến tranh Việt Nam, Mỹ chấm dứt
ném bom. Nền kinh tế miền Bắc bước vào giai đoạn phục hồi. Cơ sở hạ tầng được
xây dựng lại, các nhà máy được sửa chữa và tiếp tục hoạt động, sản xuất nông

nghiệp cũng được khôi phục.

9


Tại miền Nam, chính quyền Việt Nam Cộng hòa dưới sự lãnh đạo của Tổng thống
Ngô Đình Diệm thực hiện các kế hoạch kinh tế 5 năm nhằm phát triển công nghiệp
để giảm nhập khẩu, tăng xuất khẩu, tiết kiệm ngoại tệ. Trọng tâm của chính sách
công nghiệp Việt Nam Cộng hòa là chế tạo những sản phẩm tiêu thụ thông dụng
bằng cách phát triển công nghiệp nhẹ để cung cấp cho thị trường trong nước và
công nghiệp chế biến nông sản. Sau khi Ngô Đình Diệm bị lật đổ, từ năm 1965,
đường lối sản xuất thay thế nhập khẩu bị gác lại. Việt Nam Cộng hòa từ bỏ việc
phát triển kinh tế theo kế hoạch để thay thế bằng chính sách kinh tế tự do, nhà
nước can thiệp một cách hạn chế vào nền kinh tế. Một số ngành công nghiệp non
trẻ như dệt, sản xuất đường bỗng dưng không được bảo hộ nữa nên gặp khó khăn.
Nhưng một số ngành khác lại có cơ hội phát triển đa phần là các ngành nhanh có
lợi nhuận và dễ thực hiện. Số lượng các cơ sở sản xuất nhỏ, ít vốn nhưng có tỷ suất
lợi nhuận cao hoạt động bằng cách nhập khẩu nguyên liệu từ nước ngoài về chế
biến phát triển mạnh làm nguồn ngoại tệ của Việt Nam Cộng hòa bị hao hụt và nền
kinh tế Việt Nam Cộng hòa hoàn toàn phụ thuộc vào nguyên liệu nhập khẩu. Muốn
nhập khẩu cần có ngoại tệ mà nguồn ngoại tệ chủ yếu là viện trợ Mỹ vì xuất khẩu
của Việt Nam Cộng hòa không đủ bù đắp cho nhập khẩu do đó nền kinh tế Việt
Nam Cộng hòa ngày càng phụ thuộc vào viện trợ. Chính sách tự do hóa nền kinh tế
đã thất bại trong việc xây dựng nền tảng công nghiệp quốc gia khiến nền kinh tế
Việt Nam Cộng hòa ngày càng phụ thuộc vào bên ngoài vì không có một chương
trình phát triển công nghiệp, không tận dụng được nội lực, thương mại phát triển
mạnh hơn công nghiệp. Nhìn chung, công nghiệp vẫn tăng trưởng, trừ năm 1968
và sau đó là năm 1972 bị giảm sút do tác động của chiến tranh.
Sau ngày đất nước thống nhất (1975), Việt Nam tiếp tục thực hiện công nghiệp hóa
xã hội chủ nghĩa để trở thành một nước công nghiệp hóa. Sau 10 năm thực hiện Kế

hoạch 5 năm lần thứ II và Kế hoạch 5 năm lần thứ III Việt Nam vẫn chưa xây dựng
được nền tảng công nghiệp quốc gia trong khi nhiều quốc gia khác đã công nghiệp
hóa thành công bằng mô hình kinh tế kế hoạch. Sự sụp đổ của Liên Xô khiến Việt
Nam phải thực hiện Đổi mới vào năm 1986 để chuyển hướng sang kinh tế thị
trường. Đảng Cộng sản Việt Nam chọn con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội bằng
cơ chế thị trường có sự điều tiết của nhà nước và đặt mục tiêu đến năm 2020 sẽ
đưa Việt Nam cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Tuy nhiên mục tiêu này
không thành công. Việt Nam vẫn chưa có một nền công nghiệp hoàn chỉnh. Việt
Nam tiếp tục đặt mục tiêu trở thành nước công nghiệp vào năm 2030.
10


1.2. Đường lối công nghiệp hóa của Đảng Cộng sản Việt Nam
1.2.1. Định nghĩa
Nghị quyết TW khoá VII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đưa ra định nghĩa về
công nghiệp hóa, hiện đại hóa như sau: công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình
chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản
lý kinh tế - xã hội, từ sử dụng sức lao động thủ công là chính sang sử dụng một
cách phổ biến sức lao động với công nghệ, phương tiện, phương pháp tiên tiến hiện
đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học công nghệ, tạo ra
năng suất lao động xã hội cao.
1.2.2. Quan điểm về công nghiệp hóa
Giữ vững độc lập tự chủ, đi đôi với hợp tác, mở rộng, hợp tác quốc tế, đa phương
hóa, đa dạng hóa quan hệ kinh tế quốc tế. Dựa vào nguồn lực trong nước là chính,
đi đôi với tranh thủ tối đa nguồn lực từ bên ngoài, xây dựng một nền kinh tế mở
cửa hội nhập hướng mạnh về sản xuất cho xuất khẩu, đồng thời thay thế sản phẩm
nhập khẩu cho có hiệu quả.
Công nghiệp hóa - hiện đại hóa là sự nghiệp của toàn dân, được mọi thành phần
kinh tế tham gia, trong đó nền kinh tế nhà nước là chủ đạo.
Lấy việc phát huy yếu tố con người làm chủ đạo, tăng trưởng kinh tế gắn liền với

cải thiện đời sống người dân, tăng cường dân chủ, thực hiện tiến bộ công bằng xã
hội.
Khoa học công nghệ là động lực của công nghiệp hóa - hiện đại hóa, kết hợp công
nghệ truyền thống và công nghệ hiện đại, tranh thủ đi nhanh vào công nghệ hiện
đại ở những khâu có tính chất quyết định.
Lấy hiệu quả kinh tế - xã hội tổng thể là tiêu chuẩn cơ bản để xây dựng phương án
phát triển, lựa chọn dự án đầu tư phát triển và công nghệ, đầu tư có chiều sâu để
khai thác tối đa nguồn lực hiện có, trong phát triển mới ưu tiên phát triển quy mô
vừa và nhỏ, công nghệ tiên tiến, tạo nhiều việc làm, thu hồi vốn nhanh, đồng thời
xây dựng một số công trình quy mô lớn thật cần thiết và có hiệu quả.
Kết hợp chặt chẽ toàn diện, phát triển kinh tế quốc phòng.

11


1.2.3. Mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Mục tiêu lâu dài của công nghiệp hóa, hiện đại hóa là cải biến nước ta thành một
nước công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý,
quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất,
mức sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng – an ninh vững chắc, dân giàu
nước mạnh xã hội công bằng dân chủ văn minh.
Để thực hiện mục tiêu trên, ở mỗi thời kỳ phải đạt được những mục tiêu cụ thể. Đại
hội X xác định mục tiêu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa là đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức để sớm đưa nước ta ra
khỏi tình trạng kém phát triển; tạo nền tảng để đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản
trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Cụ thể, đến năm 2020, Việt Nam cơ bản trở thành một nước công nghiệp với tỷ
trọng trong GDP của nông nghiệp chiếm 16-17%, công nghiệp khoảng 40-41%,
dịch vụ chiếm 42-43%, tỷ trọng lao động trong tổng lao động xã hội, lao động
công nghiệp và dịch vụ là 50%, nông nghiệp là 50%.

1.2.4. Quan điểm công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Một là, công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa và công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn
với phát triển kinh tế tri thức.
Hai là, công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế.
Ba là, lấy phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh
và bền vững.
Bốn là, coi phát triển khoa học và công nghệ là nền tảng, là động lực công nghiệp
hóa, hiện đại hóa.
Năm là, phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững; tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực
hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường tự nhiên, bảo tồn đa dạng sinh
học.
1.2.5. Nội dung và định hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát
triển kinh tế tri thức
12


1.2.5.1. Nội dung
Đại hội X của Đảng chỉ rõ: “Chúng ta cần tranh thủ các cơ hội thuận lợi do bối
cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng, lợi thế của nước ta để rút ngắn quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa gắn với phát
triển kinh tế tri thức. Phải coi kinh tế tri thức là yếu tố quan trọng của nền kinh tế
và công nghiệp hóa, hiện đại hóa”.
Nội dung cơ bản của quá trình này là:
Phát triển mạnh các ngành và sản phẩm kinh tế có giá trị gia tăng cao dựa nhiều
vào tri thức, kết hợp sử dụng nguồn vốn tri thức của con người Việt Nam với tri
thức mới nhất của nhân loại.
Coi trọng cả số lượng và chất lượng tăng trưởng kinh tế trong mỗi bước phát
triển của đất nước, ở từng vùng, từng địa phương, từng dự án kinh tế xã hội.
Xây dựng cơ cấu kinh tế hiện đại và hợp lý theo ngành, lĩnh vực và lãnh thổ.

Giảm chi phí trung gian, nâng cao năng suất lao động của tất cả các ngành lĩnh
vực, nhất là các ngành, lĩnh vực có sức cạnh tranh cao.
1.2.5.2. Định hướng phát triển các ngành và lĩnh vực kinh tế trong quá trình
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức
Một là, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn giải
quyết đồng bộ các vấn đề nông nghiệp, nông thôn, nông dân.
Về công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp.
Vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân là một vấn đề lớn của quá trình công
nghiệp hóa đối với tất cả các nước tiến hành công nghiệp hóa trên thế giới, bởi vì
công nghiệp hóa là quá trình thu hẹp khu vực nông nghiệp, nông thôn và gia tăng
khu vực công nghiệp, xây dựng dịch vụ và đô thị. Nông nghiệp là nơi cung cấp
lương thực, nguyên liệu và lao động cho công nghiệp và thành thị, là thị trường
rộng lớn của công nghiệp và dịch vụ. Nông thôn chiếm đa số dân cư ở thời điểm
khi bắt đầu công nghiệp hóa. Vì vậy, quan tâm đến nông nghiệp, nông dân và nông
thôn là một vấn đề có tầm quan trọng hàng đầu của quá trình công nghiệp hóa. Ở
nước ta, trong những năm qua, vấn đề công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp

13


và nông thôn được đặt ở vị trí quan trọng. Trong những năm tới, định hướng phát
triển cho quá trình này là:
Chuyển dịch mạnh cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn theo hướng tạo ra giá
trị gia tăng ngày càng cao, gắn với công nghiệp chế biến và thị trường; đẩy nhanh
tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ sinh học vào sản xuất, nâng cao năng suất,
chất lượng và sức cạnh tranh của nông sản hàng hóa, phù hợp đặc điểm từng vùng,
từng địa phương.
Tăng nhanh tỷ trọng giá trị sản phẩm và lao động các ngành công nghiệp và dịch
vụ, giảm dần tỷ trọng sản phẩm và lao động nông nghiệp.
Về quy hoạch phát triển nông thôn:

Khẩn trương xây dựng các quy hoạch phát triển nông thôn, thực hiện chương trình
xây dựng nông thôn mới. Xây dựng các làng, xã, ấp, bản có cuộc sống no đủ, văn
minh, môi trường lành mạnh.
Hình thành các khu dân cư đô thị với kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội đồng bộ như
thủy lợi, giao thông, điện nước, cụm công nghiệp, trường học, trạm y tế, bưu điện,
chợ…
Phát huy dân chủ ở nông thôn đi đôi với xây dựng nếp sống văn hóa, nâng cao
trình độ dân trí, bài trừ các tệ nạn xã hội, hủ tục, mê tín dị đoan, bảo đảm an ninh,
trật tự an toàn xã hội.
Về giải quyết lao động, việc làm ở nông thôn:
Chú trọng dạy nghề, giải quyết việc làm cho nông dân, trước hết ở các vùng sử
dụng đất nông nghiệp để xây dựng các cơ sở công nghiệp, dịch vụ, giao thông, các
khu đô thị mới. Chuyển dịch cơ cấu lao động ở nông thôn theo hướng giảm nhanh
tỷ trọng lao động làm nông nghiệp, tăng tỷ trọng lao động làm công nghiệp và dịch
vụ. Tạo điều kiện để lao động nông thôn có việc làm trong và ngoài khu vực nông
thôn, kể cả lao động nước ngoài.
Đầu tư mạnh hơn cho các chương trình xóa đói giảm nghèo, nhất là ở các vùng
sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, vùng đồng bằng dân tộc thiểu số.

14


Mục tiêu đề ra là phấn đấu đến năm 2010 giảm tỷ lệ lao động nông, lâm, ngư
nghiệp xuống dưới 50% tổng số lao động xã hội và nâng cao tỷ lệ thời gian sử
dụng lao động ở nông thôn lên khoảng 85%.
Hai là, phát triển nhanh hơn công nghiệp, xây dựng và dịch vụ.
Tính quy luật của công nghiệp hóa, hiện đại hóa là tỷ trọng của nông nghiệp giảm
còn công nghiệp, dịch vụ thì tăng lên. Vì vậy, nước ta chủ trương phát triển nhanh
hơn công nghiệp, xây dựng và dịch vụ.
Đối với công nghiệp và xây dựng:

Khuyến khích phát triển công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp chế tác, công
nghiệp phần mềm và công nghiệp bổ trợ có lợi thế cạnh tranh, tạo nhiều sản phẩm
xuất khẩu và thu hút nhiều lao động; phát triển một số khu kinh tế mở và đặc khu
kinh tế, nâng cao hiệu quả của các khu công nghiệp, khu chế xuất. Khuyến khích
và tạo điều kiện để các thành phần kinh tế tham gia phát triển các ngành công
nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu; sản xuất tư liệu sản xuất quan
trọng theo hướng hiện đại; ưu tiên thu hút đầu tư của các tập đoàn kinh tế lớn nước
ngoài và các công ty lớn xuyên quốc gia.
Tích cực thu hút vốn trong và ngoài nước để đầu tư thực hiện các dự án quan trọng
để khai thác dầu khí, lọc dầu và hóa dầu luyện kim, cơ khí chế tạo, hóa chất cơ
bản, phân bón, vật liệu xây dựng. Có chính sách hạn chế xuất khẩu tài nguyên thô.
Thu hút chuyên gia giỏi, cao cấp của nước ngoài và trong cộng đồng người Việt
định cư ở nước ngoài.
Xây dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng kỹ thuật kinh tế - xã hội nhất là các sân bay
quốc tế, cảng biển, đường cao tốc, đường ven biển, đường đông tây, mạng lưới
cung cấp điện, hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội ở các đô thị lớn, hệ thống thủy
lợi, cấp thoát nước. Phát triển công nghiệp năng lượng gắn với công nghệ tiết kiệm
năng lượng. Tăng nhanh năng lực và hiện đại hóa bưu chính viễn thông.
Đối với dịch vụ:
Tạo bước phát triển vượt bậc của các ngành dịch vụ, nhất là những ngành có chất
lượng cao, tiềm năng lớn và có sức cạnh tranh, đưa tốc độ phát triển của ngành
15


dịch vụ cao hơn tốc độ tăng GDP. Tận dụng tốt thời cơ hội nhập kinh tế quốc để
tạo bước phát triển ngành “công nghiệp không khói” này. Tiếp tục mở rộng và
nâng cao chất lượng các ngành dịch vụ truyền thống như vận tải, thương mại, ngân
hàng, bưu chính viễn thông, du lịch. Phát triển mạnh các dịch vụ phục vụ sản xuất
nông, lâm, ngư nghiệp, phục vụ đời sống ở khu vực nông thôn.
Đổi mới căn bản cơ chế quản lý và phương thức cung ứng các dịch vụ công cộng.

Nhà nước kiểm soát chặt chẽ độc quyền và tạo hành làng pháp lý, môi trường
thuận lợi cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia và cạnh
tranh bình đẳng trên thị trường dịch vụ.
Ba là, phát triển kinh tế vùng.
Cơ cấu kinh tế vùng là một trong những cơ cấu cơ bản của nền kinh tế quốc dân.
Xác định đúng đắn cơ cấu vùng có ý nghĩa quan trọng, nó cho phép khai thác có
hiệu quả các lợi thế so sánh của từng vùng, tạo ra sự phát triển đồng đều giữa các
vùng trong cả nước. Để phát triển mạnh mẽ kinh tế vùng trong những năm tới cần
phải:
Có cơ chế, chính sách phù hợp để các vùng trong cả nước cùng phát triển nhanh
hơn trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh, hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý của mỗi
vùng và liên vùng, đồng thời tạo ra sự liên kết giữa các vùng nhằm đem lại hiệu
quả cao, khắc phục tình trạng chia cắt, khép kín theo địa giới hành chính.
Xây dựng ba vùng kinh tế trọng điểm ở miền Bắc, miền Trung, miền Nam thành
những trung tâm công nghiệp lớn có công nghệ cao để các vùng này đóng góp
ngày càng lớn cho sự phát triển chung của cả nước. Trên cơ sở phát triển các vùng
kinh tế trọng điểm, tạo ra động lực và sự lan tỏa đến các vùng khác và trợ giúp các
vùng khó khăn, đặc biệt các vùng biên giới, hải đảo, Tây Nguyên, Tây Nam, Tây
Bắc. Có chính sách trợ giúp nhiều hơn về nguồn lực để phát triển các vùng khó
khăn. Bổ sung chính sách khuyến khích các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần
kinh tế và doanh nghiệp nước ngoài đến đầu tư, kinh doanh tại các vùng khó khăn.
Bốn là, phát triển kinh tế biển.

16


Xây dựng và thực hiện chiến lược phát triển kinh tế biển toàn diện, có trọng tâm,
trọng điểm. Sớm đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về kinh tế biển trong khu
vực, gắn với bảo đảm quốc phòng – an ninh và hợp tác quốc tế.
Hoàn chỉnh quy hoạch và phát triển có hiệu quả hệ thống cảng biển và vận tải biển,

khai thác, khai thác và chế biến dầu khí, khai thác và chế biến hải sản, phát triển du
lịch biển, đảo. Đẩy mạnh phát triển ngành công nghiệp đóng tàu biển, đồng thời
hình thành một số hành lang kinh tế ven biển.
Năm là, dịch chuyển cơ cấu lao động, cơ cấu công nghệ.
Để chuyển dịch cơ cấu lao động và cơ cấu công nghệ trong quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa gắn liền với phát triển kinh tế tri thức cần phải:
Phát triển nguồn nhân lực, đảm bảo đến năm 2010 có nguồn nhân lực với cơ
cấu đồng bộ và chất lượng cao, tỷ lệ lao động trong khu vực nông nghiệp còn dưới
50% lực lượng lao động xã hội.
Phát triển khoa học và công nghệ phù hợp với xu thế phát triển nhảy vọt của
cách mạng khoa học và công nghệ. Lựa chọn và đi ngay vào công nghệ hiện đại ở
một số ngành, lĩnh vực then chốt. Chú trọng phát triển công nghệ cao để tạo đột
phá và công nghệ sử dụng nhiều lao động để giải quyết việc làm. Đẩy mạnh nghiên
cứu và ứng dụng thành tựu khoa học và công nghệ, tạo bước đột phá về năng suất,
chất lượng và hiệu quả, trong từng ngành, lĩnh vực của nền kinh tế.
Kết hợp chặt chẽ giữa hoạt động khoa học và công nghệ với giáo dục và đào
tạo để thực sự phát huy vai trò quốc sách hàng đầu, tạo động lực đẩy nhanh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển kinh tế tri thức. Thực hiện chính sách trọng
dụng nhân tài, các nhà khoa học đầu ngành, tổng công trình sư, kỹ sư trưởng, kỹ
thuật viên lành nghề và công nhân kỹ thuật có tay nghề cao.
Đổi mới cơ bản cơ chế quản lý khoa học và công nghệ đặc biệt là cơ chế tài
chính phù hợp với đặc thù sáng tạo và khả năng rủi ro của hoạt động khoa học và
công nghệ.
Sáu là, bảo vệ, sử dụng, hiệu quả tài nguyên quốc gia, cải thiện môi trường tự
nhiên
17


Xuất phát từ yêu cầu phát triển bền vững của đất nước trong quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức, vấn đề bảo vệ, sử dụng tài

nguyên và cải thiện môi trường tự nhiên được xác định.
Tăng cường quản lý tài nguyên quốc gia, nhất là các tài nguyên đất, nước,
khoáng sản và rừng. Ngăn chặn các hành vi hủy hoại và gây ô nhiễm môi trường,
khắc phục tình trạng xuống cấp môi trường ở các lưu vực song, đô thị, khu công
nghiệp, làng nghề, nơi đông dân cư và có nhiều hoạt động kinh tế. Quan tâm đầu tư
cho lĩnh vực môi trường, nhất là các hoạt động thu gom, tái chế và xử lý chất thải,
phát triển và ứng dụng công nghệ sạch hoặc công nghệ ít gây ô nhiêm môi trường.
Hoàn chỉnh luật pháp, tăng cường quản lý nhà nước về bảo vệ và cải thiện môi
trường tự nhiên. Thực hiện nguyên tắc người gây ô nhiễm phải xử lý ô nhiễm hoặc
chi trả cho việc xử lí ô nhiễm.
Từng bước hiện đại hóa công tác nghiên cứu, dự báo khí tượng – thủy văn, chủ
động phòng chống thiên tai, tìm kiếm, cứu nạn.
Xử lý tốt mối quan hệ giữa tăng dân số, phát triển kinh tế và đô thị hóa với bảo
vệ môi trường, bảo đảm phát triển bền vững.
Mở rộng hợp tác quốc tế về bảo vệ môi trường và quản lý tài nguyên thiên
nhiên, chú trọng lĩnh vực quản lý, khai thác và sử dụng tài nguyên nước.
1.2.6. Kết quả và ý nghĩa của việc thực hiện đường lối
Sau hơn 20 năm đổi mới, đất nước ta đã thu được những thành tựu to lớn, trong đó
có những thành tựu nổi bật của công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Một là, cơ sở vật chất - kỹ thuật của đất nước được tăng cường đáng kể, khả năng
độc lập tự chủ của nền kinh tế được nâng cao. Từ một nền kinh tế chủ yếu là nông
nghiệp lạc hậu, cơ sở vật chất yếu kém đi lên, đến nay cả nước đã có hơn 100 khu
công nghiệp, khu chế xuất tập trung, nhiều khu hoạt động có hiệu quả, tỉ lệ ngành
công nghiệp chế tác, cơ khí chế tạo và nội địa hóa sản phẩm ngày càng tăng.
Ngành công nghiệp sản xuất tư liệu như luyện kim, cơ khí, vật liệu xây dựng, hóa
chất cơ bản, khai thác và hóa dầu đã và đang có những bước phát triển mạnh mẽ.
Một số sản phẩm công nghiệp đã cạnh tranh được trên thị trường trong và ngoài
nước. Ngành xây dựng tăng trưởng nhanh, bình quân thời kỳ 2001 - 2005 đạt
16,7% /năm, năng lực xây dựng tăng nhanh và có bước tiến đáng kể theo hướng
18



hiện đại. Việc xây dựng đô thị, nhà ở đạt nhiều hiệu quả. Hàng năm đưa thêm vào
sử dụng hàng triệu m2 nhà ở (bình quân thời kỳ 2001-2005, tăng mỗi năm 20 triệu
m2). Công nghiệp nông thôn và miền núi có bước tăng trưởng cao hơn tốc độ trung
bình của cả nước. Nhiều công trình quan trọng thuộc kết cấu hạ tầng được xây
dựng, sân bay, cảng biển, đường bộ, cầu, nhà máy điện, bưu chính - viễn thông….
theo hướng hiện đại.
Hai là, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã
đạt được những kết quả quan trọng: tỷ trọng công nghiệp và xây dựng tăng, tỷ
trọng nông, lâm nghiệp và thủy sản giảm (giai đoạn 2001-2005, tỷ trọng công
nghiệp và xây dựng tăng từ 36,7% năm 2000 lên 41% năm 2005; còn tỷ trọng của
nông, lâm nghiệp và thủy sản giảm từ 24,5% năm 2000 xuống 20,9% năm 2005).
Trong từng ngành kinh tế đều có sự chuyển dịch tích cực về cơ cấu sản xuất, cơ
cấu công nghệ theo hướng tiến bộ, hiệu quả, gắn với sản xuất, với thị trường.
Cơ cấu kinh tế vùng đã có điều chỉnh theo hướng phát huy lợi thế so sánh của từng
vùng. Các vùng kinh tế trọng điểm phát triển khá nhanh đóng góp quan trọng vào
sự tăng trưởng và là đầu tàu của nền kinh tế.
Cơ cấu thành phần kinh tế tiếp tục dịch chuyển theo hướng phát huy tiềm năng của
các thành phần kinh tế và đan xen nhiều hình thức sở hữu.
Cơ cấu lao động đã có sự chuyển đổi tích cực gắn liền với quá trình chuyển dịch cơ
cấu kinh tế. Từ năm 2000 - 2005, tỷ trọng lao động trong công nghiệp và xây dựng
tăng từ 12,1% lên 17,9%; dịch vụ tăng từ 19,7% lên 25,3%, nông lâm nghiệp và
thủy sản giảm từ 68,2% xuống còn 56,8%; lao động qua đào tạo tăng từ 20% lên
25%.
Ba là, những thành tựu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã góp phần quan trọng
đưa nền kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng khá cao, bình quân từ năm 2000 đến nay đạt
trên 7,5%/năm. Điều đó đã góp phần quan trọng vào công tác xóa đói giảm nghèo.
Thu nhập đầu người bình quân hàng năm tăng lên đáng kể. Năm 2005, đạt 640
USD/người, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân tiếp tục được cải thiện.

Những thành tựu trên có ý nghĩa rất quan trọng; là cơ sở để phấn đấu đạt mục tiêu:
sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển và cơ bản trở thành nước công
nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020 mà Đại hội X của Đảng nêu ra trở thành
hiện thực.
19


CHƯƠNG 2: Đánh giá về đường lối xây dựng công nghiệp hóa đất nước của
Đảng Cộng sản Việt Nam
Với đường lối đề ra và thực hiện mục tiêu xây dựng Việt Nam trở thành nước công
nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, quan hệ cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ
sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống
vật chất, tinh thần cao, an ninh quốc phòng vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đảng ta đã lập nên nhiều thành tích đáng nể
trong những năm qua. Tuy nhiên, song hành cùng những kết quả đạt được, ta cũng
có thể thấy những hạn chế cũng như tồn tại và thách thức.
2.1. Những tồn tại và thách thức
Quá trình công nghiệp hóa đòi hỏi đầu tư khổng lồ của nhà nước và xã hội để tạo
lập cơ sở hạ tầng, trung tầng và thượng tầng để phục vụ công nghiệp hóa. Trong
khi các địa phương lại có xu hướng hiểu một cách đơn giản và máy móc và cố
gắng thành lập nhiều khu công nghiệp để mong rằng mục tiêu công nghiệp hóa
sớm đạt thành. Trong khi đó các khu công nghiệp chỉ là một phần nhỏ của cơ sở hạ
tầng, thì các cơ sở trung tầng (giáo dục đào tạo kỹ thuật, thương mại, ngân hàng,
ngoại thương, ngoại hối, tài chính công...) và cơ sở thượng tầng (luật pháp, hệ
thống tư pháp, chính sách kinh tế, môi trường, chính sách đất đai...) phát triển
không đồng bộ. Nhà nước Việt Nam rất chú trọng việc thu hút vốn đầu tư nước
ngoài bằng cách ban hành nhiều chính sách ưu đãi về thuế, đất đai... Họ xem vốn
đầu tư nước ngoài là nguồn lực quan trọng để Việt Nam công nghiệp hóa, hiện đại
hóa.
Tuy nhiên, việc thu hút vốn đầu tư của nước ngoài không thể tạo ra nền tảng công

nghiệp quốc gia vì các công ty nước ngoài vào Việt Nam chỉ để tận dụng chi phí
nhân công và môi trường thấp của Việt Nam. Khi khai thác hết những lợi thế này
thì họ sẽ rút khỏi Việt Nam khiến nền công nghiệp Việt Nam quay về điểm xuất
phát.
Vốn đầu tư nước ngoài chỉ có tác dụng tích cực với nền công nghiệp bản địa khi
công ty có vốn đầu tư nước ngoài chuyển giao công nghệ cho công ty Việt Nam.
Việt Nam cũng không có chính sách rõ ràng để tận dụng tối đa hiệu ứng chuyển
giao công nghệ của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Khả năng tiếp thu công
nghệ nước ngoài lại phụ thuộc vào chất lượng nhân lực mà điều này lại phụ thuộc
20


vào chất lượng của nền giáo dục. Việt Nam có lực lượng lao động đông do cơ cấu
dân số trẻ nhưng lại thiếu kỹ năng do không được đào tạo tốt. Hơn nữa một nền
công nghiệp trưởng thành phải có khả năng phát triển công nghệ chứ không thể cứ
phụ thuộc vào công nghệ nước ngoài. Khả năng nghiên cứu phát triển ra công nghệ
mới phụ thuộc vào trình độ khoa học - kỹ thuật của quốc gia mà điều này phụ
thuộc vào chất lượng của nền giáo dục, năng lực của các cơ sở nghiên cứu và mức
độ đầu tư cho khoa học. Trong khi đó chất lượng của nền giáo dục Việt Nam được
xem là chưa đáp ứng được nhu cầu của nền kinh tế các cơ sở nghiên cứu thiếu
năng lực còn đầu tư cho khoa học chỉ ở mức thấp so với các nước khác. Chính vì
vậy mức độ chuyển giao công nghệ của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài chưa đạt
như kỳ vọng trong khi đó Việt Nam lại thiếu khả năng nghiên cứu phát triển ra
công nghệ mới. Những lý do này góp phần làm cho quá trình công nghiệp hóa tại
Việt Nam không như mong muốn.
Tuy có sự thống nhất về quan điểm phát triển giữa trung ương và địa phương,
nhưng địa phương đã thi hành các kế hoạch phát triển theo phong cách riêng đặc
thù của địa phương, hoặc áp dụng sao chép máy móc mô hình của các địa phương
khác thành công trong việc thu hút vốn nước ngoài để phát triển công nghiệp như
Bình Dương, Đồng Nai, Vĩnh Phúc... đã khiến quá trình phát triển bị phân tán tài

nguyên và nhân lực. Các địa phương trở thành các đối thủ cạnh tranh với nhau
trong việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài dẫn đến sự thiếu liên kết giữa các địa
phương ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế quốc gia. Tuy nhiên điều này cũng có mặt
tích cực là các địa phương phải tự nâng cao năng lực quản lý nhà nước để có thể
thu hút được vốn đầu tư nước ngoài trong sự cạnh tranh với các địa phương khác.
Khả năng tập trung các nguồn lực của nền kinh tế vào khu vực sản xuất công
nghiệp cũng là một yếu tố ảnh hưởng đến quá trình công nghiệp hóa. Tỷ trọng đầu
tư vào công nghiệp trong tổng đầu tư xã hội càng lớn thì công nghiệp phát triển
càng nhanh. Các nước công nghiệp hóa thành công nhất đều cố gắng đưa ra những
chính sách khuyến khích đầu tư vào công nghiệp như các nước Đông Bắc Á, thậm
chí sử dụng biện pháp cưỡng ép tiết kiệm để tập trung đầu tư vào công nghiệp như
Liên Xô. Trong khi đó tại Việt Nam các nguồn lực trong nền kinh tế chưa tập trung
vào các ngành công nghiệp. Thương mại phát triển mạnh hơn công nghiệp. Các
công ty tư nhân lớn ở Việt Nam là các công ty thương mại và địa ốc. Các hoạt động
đầu cơ chiếm ưu thế chứ không phải đầu tư để tạo ra giá trị gia tăng. Năng suất lao
động trong các ngành sản xuất công nghiệp thấp hơn khu vực và thế giới trong khi
21


khả năng sinh lời của các ngành tài chính, địa ốc lại cao hơn mức trung bình của
thế giới. Chính vì những lý do này Việt Nam không thể công nghiệp hóa nhanh
chóng, nền kinh tế Việt Nam phát triển không tương xứng với lượng vốn mà Việt
Nam nhận được.
Hiệu quả đầu tư nhà nước còn rất kém (thể hiện nơi chỉ số ICOR của Việt Nam khá
cao so với quy mô nền kinh tế) do nhiều nguyên nhân: quản lý kém, không minh
bạch và tệ nạn tham nhũng còn đang hoành hành. Nếu hiệu quả đầu tư quá kém
(nghĩa là nhà nước đổ vốn rất nhiều nhưng thành quả thu được không tương xứng)
thì quá trình công nghiệp hóa ở Việt Nam sẽ rất tốn kém. Theo đó, chi phí để hoạt
động, vận hành và duy trì một nền kinh tế công nghiệp hóa của Việt Nam cũng sẽ
rất cao nếu các tồn tại và thách thức trên không được giải quyết. Chi phí cao sẽ

khiến sản phẩm của Việt Nam phải bán giá thành cao hơn các nước khác và vì thế
sẽ làm giảm khả năng cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam trên thị trường quốc tế.
Do không thể giảm chi phí, để giảm giá thành thì không còn cách nào khác là phải
tiếp tục duy trì chi phí nhân công ở mức thấp và dịch vụ chất lượng kém. Điều này
góp phần trầm trọng hóa vấn đề "khoảng cách thu nhập" giữa công nhân và giới
quản lý, giới chủ và tạo tiền đề bất ổn xã hội.
Một thách thức khác mà quá trình công nghiệp hóa ở Việt Nam phải đối mặt là quá
trình này kết thúc quá sớm và chuyển sang phát triển dịch vụ do hàng công nghiệp
bản địa không cạnh tranh nổi với hàng công nghiệp nước ngoài cũng như tỷ trọng
vốn đầu tư vào công nghiệp trong tổng vốn đầu tư xã hội giảm. Ngoài ra còn nhiều
nguyên nhân khác như chi phí nhân công tăng khiến đầu tư nước ngoài vào công
nghiệp giảm và hàng nội địa ngày càng khó cạnh tranh với hàng nước ngoài, chất
lượng lao động không đáp ứng nổi đòi hỏi ngày càng cao của nền công nghiệp hiện
đại. Việt Nam vừa mới trở thành nước thu nhập trung bình thấp đã phải đối diện
với nguy cơ này sẽ làm tốc độ phát triển chậm lại vì năng suất lao động trong dịch
vụ thường thấp hơn công nghiệp nhất là với những nước thiếu lao động có trình độ
cao để phát triển các ngành dịch vụ có giá trị gia tăng cao như Việt Nam.
2.2. Hạn chế và nguyên nhân
Bên cạnh những thành tựu to lớn đã đạt được, công nghiệp hóa, hiện đại hóa thời
gian qua ở nước ta vẫn còn nhiều hạn chế, nổi bật là:

22


Tốc độ tăng trưởng kinh tế vẫn thấp so với khả năng và thấp hơn nhiều nước
trong khu vực thời kỳ đầu công nghiệp hóa. Tăng trưởng kinh tế chủ yếu theo
chiều rộng, vào các ngành công nghệ thấp, tiêu hao vật chất cao, sử dụng nhiều tài
nguyên, vốn và lao động. Năng suất lao động còn thấp so với nhiều nước trong khu
vực.
Nguồn lực của đất nước chưa được sử dụng có hiệu quả cao, tài nguyên, đất đai

và các nguồn vốn của Nhà nước còn bị lãng phí, thất thoát nghiêm trọng. Nhiều
nguồn lực trong dân chưa được phát huy.
Cơ cấu kinh tế chuyển dịch còn chậm. Trong công nghiệp các sản phẩm có hàm
lượng tri thức cao còn ít. Trong nông nghiệp sản xuất chưa gắn kết chặt chẽ với thị
trường. Nội dung công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn còn thiếu
cụ thể. Chất lượng nguồn nhân lực của đất nước còn thấp. Tỷ trọng lao động qua
đào tạo còn thấp, lao động thiếu việc làm và không việc làm còn nhiều.
Các vùng kinh tế trọng điểm chưa phát huy được thế mạnh để đi nhanh vào cơ cấu
kinh tế hiện đại. Kinh tế vùng chưa có sự liên kết chặt chẽ, hiệu quả thấp và chưa
được quan tâm đúng mức.
Cơ cấu thành phần kinh tế phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, chưa tạo
được đầy đủ môi trường hợp tác, cạnh tranh bình đẳng và khả năng phát triển của
các thành phần kinh tế.
Cơ cấu đầu tư chưa hợp lý. Công tác quy hoạch chất lượng thấp, quản lý kém, chưa
phù hợp với cơ chế thị trường.
Kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội chưa đáp ứng yêu cầu phát triển. Nhìn chung,
mặc dù đã cố gắng đầu tư, nhưng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội vẫn còn lạc hậu,
thiếu đồng bộ chưa đáp ứng được yêu cầu, làm hạn chế sự phát triển kinh tế xã hội
Những hạn chế trên do nhiều nguyên nhân, nhưng chủ yếu là nguyên nhân chủ
quan như:
Nhiều chính sách và giải pháp chưa đủ mạnh để huy động và sử dụng được tốt
nhất các nguồn lực, cả nội lực và ngoại lực vào công cuộc phát triển kinh tế - xã
hội.

23


Cải cách hành chính còn chậm và kém hiệu quả, công tác tổ chức, cán bộ chậm
đổi mới, chưa đáp ứng được yêu cầu.
Chỉ đạo và tổ chức thực hiện yếu kém.

Ngoài các nguyên nhân chung nói trên, còn có các nguyên nhân cụ thể, trực tiếp
như: Công tác quy hoạch chất lượng kém, nhiều bất hợp lý dẫn đến quy hoạch
“treo” khá phổ biến gây lãng phí nghiêm trọng; cơ cấu đầu tư bất hợp lý làm cho
đầu tư kém hiệu quả, công tác quản lý yếu kém gây lãng phí, thất thoát, tệ tham
nhũng nghiêm trọng.
2.3. Tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
Tiếp tục thực hiện tốt chủ trương và có chính sách phù hợp để xây dựng, phát triển
các ngành công nghiệp theo hướng hiện đại, tăng hàm lượng khoa học – công nghệ
và tỉ trọng giá trị nội địa trong sản phẩm, tập trung vào những ngành có tính nền
tảng, có lợi thế so sánh và có ý nghĩa chiến lược đối với sự phát triển nhanh, bền
vững, nâng cao tính độc lập, tự chủ của nền kinh tế; có khả năng tham gia sâu, có
hiệu quả vào mạng sản xuất và phân phối toàn cầu.
Phát triển có chọn lọc một số ngành công nghiệp chế biến, chế tạo, công nghiệp
công nghệ cao, công nghiệp sạch, công nghiệp năng lượng, cơ khí, điện tử, hoá
chất, công nghiệp xây dựng, xây lắp, công nghiệp quốc phòng, an ninh. Chú trọng
phát triển các ngành có lợi thế cạnh tranh; công nghiệp hỗ trợ; công nghiệp phục
vụ nông nghiệp, nông thôn; năng lượng sạch, năng lượng tái tạo và sản xuất vật
liệu mới; từng bước phát triển công nghệ sinh học, công nghiệp môi trường và
công nghiệp văn hoá.
Xây dựng nền nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá lớn, ứng dụng công nghệ
cao, nâng cao chất lượng sản phẩm, giá trị gia tăng, đẩy mạnh xuất khẩu.
Đẩy mạnh phát triển khu vực dịch vụ theo hướng hiện đại, đạt tốc độ tăng trưởng
cao hơn các khu vực sản xuất và cao hơn tốc độ tăng GDP. Tập trung phát triển
một số ngành dịch vụ có lợi thế, có hàm lượng tri thức, công nghệ cao.
Phát triển mạnh kinh tế biển nhằm tăng cường tiềm lực kinh tế quốc gia và bảo vệ
chủ quyền biển, đảo. Chú trọng phát triển các ngành công nghiệp dầu khí, đánh bắt
xa bờ và hậu cần nghề cá, kinh tế hàng hải (kinh doanh dịch vụ cảng biển, đóng và
24



sửa chữa tàu, vận tải biển), du lịch biển, đảo. Tập trung đầu tư, nâng cao hiệu quả
hoạt động các khu kinh tế ven biển.
Thống nhất quản lý tổng hợp chiến lược, quy hoạch phát triển trên quy mô toàn bộ
nền kinh tế, vùng và liên vùng. Phát huy tiềm năng, thế mạnh từng vùng, ưu tiên
phát triển các vùng kinh tế động lực, tạo sức lôi cuốn, lan toả phát triển đến các địa
phương trong vùng và đến các vùng khác.
Đổi mới cơ chế, chính sách, kiểm soát chặt chẽ quá trình phát triển đô thị theo quy
hoạch và kế hoạch. Từng bước hình thành hệ thống đô thị có kết cấu hạ tầng đồng
bộ, hiện đại, thân thiện với môi trường, gồm một số đô thị lớn, nhiều đô thị vừa và
nhỏ liên kết và phân bố hợp lý trên các vùng; chú trọng phát triển đô thị miền núi,
phát triển mạnh các đô thị ven biển. Nâng cao chất lượng, tính đồng bộ và năng lực
cạnh tranh của các đô thị; chú trọng phát huy vai trò, giá trị đặc trưng của các đô
thị động lực phát triển kinh tế cấp quốc gia và cấp vùng.
Đẩy mạnh huy động và sử dụng hiệu quả nguồn lực xã hội để tiếp tục tập trung đầu
tư hình thành hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội tương đối đồng bộ với một
số công trình hiện đại. Ưu tiên và đa dạng hoá hình thức đầu tư cho các lĩnh vực
trọng tâm là: hạ tầng giao thông đồng bộ, có trọng điểm, kết nối giữa các trung tâm
kinh tế lớn và giữa các trục giao thông đầu mối; hạ tầng ngành điện bảo đảm cung
cấp đủ điện cho sản xuất và sinh hoạt, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội;
hạ tầng thuỷ lợi đáp ứng yêu cầu phát triển nông nghiệp và ứng phó với biến đổi
khí hậu, nước biển dâng; hạ tầng đô thị lớn hiện đại, đồng bộ, từng bước đáp ứng
chuẩn mực đô thị xanh của nước công nghiệp.

25


×