Mục lục
Câu 1: Nội dung cơ bản của triết học Phật giáo trong lịch sử triết học Ấn Độ cổ
trung đại. Liên hệ vai trò của Phật giáo ở Việt Nam.
* Thân thế, sự nghiệp của Phật Thích Ca
Phật giáo là một trào lưu triết học xuất hiện vào thế kỉ VI - TCN. Người sáng lập
Phật giáo là thái tử Tất Đạt Đa, họ Gôtama. Phật sinh ngày 8 tháng 4 năm 563
TCN, nhưng theo truyền thống Phật lịch là ngày rằm tháng tư (15/4) gọi là ngày
Phật Đản. Ông là con vua Tịnh Phạn, trị vì một xứ nhỏ ở trung lưu song Hằng là Ca tỳ
la vệ. Cuộc sống nơi cung đình đã tạo cơ hội cho ông chăm lo việc học hành, lễ bái,
yến tiệc và giải trí. Vì vậy, ông không hay biết những gì đen tối, cực nhọc, nỗi bất hạnh
diễn ra ngoài xã hội. Năm 17 tuổi, ông cưới vợ và sinh được một người con trai
đặt tên là La Hầu La. Sau bốn lần trực tiếp ra ngoài thành và tận mắt chứng kiến nỗi khổ của
kiếp người, ông quyết noi theo các đạo sĩ tu theo lối sống khổ hạnh.
Năm 29 tuổi, ông bỏ nhà ra đi để trở thành một ẩn sĩ. Sau 6 năm tu khổ hạnh,
ông chợt nhận thấy rằng, lối tu đó cũng không giải thoát con người khỏi nỗi đau
sinh, lão, bệnh, tử. Theo ông, tu khổ hạnh hay chủ trương khoái lạc cũng đều là những
cực đoan phi lý như nhau. Bằng sự kiên trì và nhạy cảm trí tuệ, cuối cùng ông đã phát
hiện ra con đường “trung đạo”, một con đường có thể dẫn con người đến sự giải
thoát. Bằng lối tu đó, sau 49 ngày chìm đắm trong những tư duy sâu thẳm, ông
tuyên bố đã đạt đến chân lí, đã hiểu được bản chất sự tồn tại của nhân sinh, Từ đó,
ông được gọi là Thích Ca Mâu Ni - tức người giác ngộ chân lí đầu tiên có họ là Thích
Ca. Ông bắt đầu sự nghiệp hoằng hóa của mình, thu nạp đệ tử, thành lập các tang đoàn
Phật giáo. Vào năm 483 TCN, ông tạ thế.
Xét về mặt triết học, Phật giáo được coi là triết lí thăng trầm về vũ trụ và con
người. Với mục đích giải phóng con người khỏi mọi khổ đau bằng chính cuộc sống
đức độ của con người. Phật giáo đã nhanh chóng chiếm được tình cảm và niềm tin
của đông đảo quần chúng lao động. Nó trở thành biểu tượng của lòng từ bi bát ái
trong đạo đức truyền thống của các dân tộc châu Á.
Kinh điển của Phật giáo rất đồ sộ, bao gồm 3 bộ phận gọi là Tam tạng kinh, đó là:
Tạng kinh (ghi lại những lời dạy của Phật Thích Ca, Tạng luật (những điều quy định mà
giáo đoàn Phật giáo phải tuân theo), Tạng luận (các tác phẩm luận giải về Phật giáo của
các học giả cao tăng về sau).
* Quan điểm của Phật giáo về thế giới quan
Quan điểm về thế giới quan của Phật giáo được thể hiện tập trung ở nội dung của 3
phạm trù là: vô ngã, vô thường và duyên.
- Quan điểm “vô ngã” (không có cái “ta”, cái “tôi” chân thực): Phật giáo cho rằng
thế giới xung quanh ta và cả con người không phải do một vị thần sáng tạo ra mà được
cấu thành bởi sự kết hợp của hai yếu tố vật chất và tinh thần. Vật chất gọi là “sắc”, là cái có
thể cảm giác được, nó bao gồm đất, nước, lửa, không khí. Tinh thần là “danh”, không có
hình chất mà chỉ có tên gọi, bao gồm thụ (cảm thụ), tưởng (sự suy nghĩ, tư tưởng), hành
(ý muốn thúc đẩy hành động), thức (sự nhận thức). Chính cái “danh” và cái “sắc” đó
kết hợp với nhau tạo thành “ngũ uẩn”. Ngũ uẩn tác động qua lại tạo nên vạn vật và con
người. Nhưng sự tồn tại chỉ là tạm thời, thoáng qua, không có sự vật riêng biệt nào tồn tại
mãi mãi. Do đó, không có cái “bản ngã” hay cái tôi chân thực.
1
- Quan điểm “vô thường” (vận động biến đổi không ngừng): qua điểm này
cho rằng thế giới là dòng biến đổi không ngừng, không nghỉ theo chu trình bất tận: sinh, trụ,
dị, diệt.Quan điểm “duyên” (điều kiện giúp nguyên nhân thành kết quả): Phật giáo cho
rằng, mọi sự vật hiện tượng trong vũ trụ, từ cái nhỏ nhất đến cái lớn nhất đều chịu sự chi
phối của luật nhân duyên. Trong đó, duyên là điều kiện giúp nguyên nhân thành kết
quả, kết quả ấy lại nhờ có duyên mà trở thành nguyên nhân khác, nhân khác lại nhờ có duyên
mà thành kết quả mới, cứ như vậy mà tạo nên sự biến đổi không ngừng của các sự vật. Ví
dụ: Hạt lúa là nguyên nhân, nhờ có duyên (đất, nước, ánh sáng, nhiệt độ, ...) mà có kết
quả là cây lúa.
Trong thực tế, quá trình nhân - quả là vô tận. Quá trình trước là cơ sở, nguyên nhân
cho quá trình sau. Ví dụ: Tốt nghiệp lớp 12 là kết quả của 12 năm học tập, đồng thời là
nguyên nhân cho vào đại học. Tuy nhiên, tốt nghiệp 12 đồng thời cũng là nguyên
nhân cho việc học cao học .
Như vậy, thong qua phạm trù vô ngã, vô thường và duyên, triết học Phật giáo đã bác
bỏ qua điểm duy tâm cho rằng Brahman sáng tạo ra con người và thế giới. Phật giáo
cho rằng con người và sự vật được cấu thành từ các yếu tố vật chất và tinh thần, các sự
vật của thế giới nằm trong quá trình biến đổi không ngừng. Đó là quan điểm duy vật
biện chứng về thế giới, mặc dù còn chất phác, mộc mạc nhưng rất đáng trân trọng.
*
Quan điểm của triết học Phật giáo về nhân sinh
Nội dung triết lí nhân sinh của Phật giáo được thể hiện tập trung trong thuyết “Tứ
diệu đế” tức là bốn chân lí tuyệt diệu mà đòi hỏi mọi người phải nhận thức được.
- Khổ đế: Cuộc đời của mỗi con người là một bể khổ, ít nhất có tám nỗi khổ (bát
khổ), đó là sinh, lão, bệnh, tử, thụ biệt (thương nhau mà phải xa nhau), oán tang hội
(ghét nhau mà phải gần nhau), sở cầu bất đắc (mong muốn mà không được), ngũ thụ
uẩn (do năm yếu tố tạo nên con người). Vậy con người ở đâu, làm gì cũng khổ.
- Nhân đế (tập đế): Giải thích nguyên nhân của sự khổ. Phật giáo cho rằng nỗi khổ
của con người là có nguyên nhân, có 12 nguyên nhân của sự khổ gọi là thuyết “thập nhị
nhân duyên”.
1. Vô minh: Không sáng suốt.
2. Duyên hành: Ý muốn thúc đẩy hành động.
3. Duyên thức: Tâm từ trong sáng trở nên u tối.
4. Duyên danh sắc: Sự hội tụ của các yếu tố vật chất và tinh thần sinh ra các cơ
quan cảm giác (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân thể và ý thức).
5. Duyên lục nhập: Quá trình xâm nhập của thế giới xung quanh vào các giác quan.
6. Duyên xúc: Sự tiếp xúc với thế giới xung quanh sinh ra cảm giác.
7. Duyên thụ: Sự cảm thụ, nhận thức trước sự tác động của thế giới bên ngoài.
8. Duyên ái: Sự yêu thích mà nảy sinh ham muốn dục vọng do cảm thụ thế giới bên
ngoài.
9. Duyên thủ: Do yêu thích mà muốn chiếm lấy, giữ lấy.
10. Duyên hữu: Sự tồn tại để tận hưởng cái đã chiếm đoạt được.
11. Duyên sinh: Sự ra đời, sinh thành do phải tồn tại.
12. Duyên lão tử: Già và chết vì có sự sinh thành.
Đó là 12 nguyên nhân và kết quả nối tiếp nhau tạo ra cái vòng lẩn quẩn của nỗi
đau nhân loại.
- Diệt đế: Phật giáo cho rằng mọi nỗi khổ đều có thể tiêu diệt được để đạt được
trạng thái Niết bàn.
- Đạo đế: Con đường tu đạo để hoàn thiện đạo đức cá nhân, đó cũng là
con đường giải thoát khỏi nỗi khổ để đạt đến hạnh phúc. Phật giáo đưa ra 8 con
đường chân chính gọi là “bát chính đạo”.
1. Chính kiến: Hiểu đúng đắn tứ diệu đế.
2. Chính tư duy: Suy nghĩ đúng đắn.
3. Chính ngữ: Nói năng đúng đắn.
4. Chính nghiệp: Giữ nghiệp một cách đúng đắn.
5. Chính mệnh: Giữ ngăn dục vọng đúng đắn.
6. Chính tinh tiến: Cố gắng nỗ lực đúng hướng.
7. Chính niệm: Tâm niệm tin tưởng vững chắc vào sự giải thoát.
8. Chính định: Kiên định, tập trung tư tưởng cao độ mà suy nghĩ về tứ diệu
đế, về vô ngã, vô thường.
Theo con đường bát chính đạo nói trên, con người có thể diệt trừ được vô
minh, đạt tới sự giải thoát, nhập vào Niết bàn là trạng thái hoàn toàn yên tĩnh, sáng suốt,
chấm dứt sinh tử luân hồi.
Ngoài tám con đường chính để diệt khổ, Phật giáo còn đưa ra năm điều răn
để mỗi người chủ động thực hiện nhằm đem lại lợi ích cho mình và cho mọi người. Đó
là bất sát (không được sát sinh), bất dâm (không được dâm dục), bất vọng ngữ
(không được nói năng thô tục, bậy bạ), bất ẩm tửu (không được rượu trà), bất đạo
(không được trộm cướp).
Như vậy, Phật giáo là một trào lưu triết học lớn của Ân Độ trung đại. Ở giai
đoạn đầu, học thuyết triết học ấy chứa đựng những yếu tố duy vật và tư tưởng biện
chứng về thế giới. Phật giáo nói lên được tiếng nói phản kháng chế độ đẳng cấp khắc
nghiệt, phê phán sự bất công, đòi tự do, bình đẳng xã hội. Đồng thời, nó cũng nêu lên khát
vọng giải thoát con người khỏi những bi kịch của cuộc đời, khuyên con người sống
lương thiện, từ bi, bát ái, góp phần hoàn thiện đạo đức cá nhân. Tuy nhiên, triết lí nhân
sinh của Phật giáo vẫn còn mang nặng bi quan không tưởng và duy tâm về mặt xã hội.
*
Liên hệ vai trò của Phật giáo ở Việt Nam
Phật giáo du nhập vào nước ta từ những năm đầu công nguyên. Với bản chất từ bi,
bát ái, hỷ xả, Phật giáo nhanh chóng tìm được chỗ đứng và dần dần bám rễ vững chắc trên
mảnh đất này. Phật giáo truyền vào nước ta bằng 2 con đường: từ Trung Hoa và từ
phía Nam. Do phù hợp với truyền thống, đạo đức của người Việt Nam nên Phật giáo
thâm nhập vào VN một cách tự nhiên.
Từ khi vào VN đến nay, PG đã tồn tại và phát triển phù hợp với truyền thống VN.
PG đã trở thành quốc giáo ở các triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần, góp phần kiến lập và bảo vệ
chế độ phong kiến vững mạnh, giữ vững độc lập dân tộc.
Trước đây, PG có công trong việc đào tạo tầng lớp trí thức cho dân tộc. Trong
đó có nhiều vị thiền sư, quốc sư có đức độ và tài năng giúp nước an dân như:
Ngô Chân Lưu, Pháp Nhuận, Vạn Hạnh, Viên Thiếu, Không Lộ, ... Bản chất từ bi hỷ xả
ngày càng thấm sâu vào đời sống tinh thần dân tộc, hướng nhân dân và vua quan
vào con đường thiện nghiệp, tu dưỡng đạo đức, vì dân vì nước.
Vào thời cực thịnh, PG là nền tảng tư tưởng trong nhiều lĩnh vực như kinh tế, chính
trị, văn hóa, khoa học, giáo dục, . N h i ề u tác phẩm văn học có giá trị, nhiều công
trình kiến trúc độc đáo, đậm đà bản sắc dân tộc, mang tầm quốc tế của VN được xây
dựng vào thời kì này. Từ cuối tk XIII cho đến nay, PG không còn là quốc giáo nữa
nhưng những giá trị tư tưởng tích cực của nó vẫn còn là nhu cầu, sức mạnh tinh thần của
nhân dân ta.
Câu 2: Phân tích quan điểm triết học Phật giáo về nhân sinh của phật giáo. Ý
nghĩa về quan điểm nhân sinh cảu phật giáo
1. Thân thế, sự nghiệp của Phật Thích Ca:
Phật giáo là trào lưu tôn giáo triết học xuất hiện vào khoảng thế kỉ thứ VI
tr.CN. Người sáng lập ra phật giáo là Tất Đạt Đa (Siddharta), họ là Gôtama, dòng họ
này thuộc bộ tộc Sakya. Ông là thái tử của vua Tịnh Phạn, vua một nước nhỏ ở Bắc Ân Độ
lúc đó (nay thuộc đất Nêpan) sáng lập.
Về năm sinh của phật hiện nay có nhiều tài liệu khác nhau nhưng nhìn chung
nhiều ý kiến cho rằng phật sinh vào năm 563 tr.CN. Ông sinh ngày 8/4 năm 563
tr.CN nhưng theo truyền thống phật lịch thì tính là ngày 15/4 ( rằm tháng tư ) gọi là
ngày phật đản.
Mặc dù sinh ra trong gia đình quý tộc dòng dõi Đế Vương, nhưng trước bối
cảnh xã hội phân chia đẳng cấp khắc nghiệt, với sự bất lực của con người trước
những khó khăn của cuộc đời và xã hội đã khiến ông sớm có ý định từ bỏ cuộc đời giàu
sang phú quý để đi tìm đạo lí cứu đời. Vì vậy năm 29 tuổi người đã rời bỏ hoàng
cung xuất gia tu đạo, đến năm 35 tuổi người đã đắc dạo tìm ra chân lí. Ông trở
thành người sáng lập ra tôn giáo mới gọi là phật giáo.
Từ đó người đi khắp nơi để truyền bá đạo lí của mình, sau này ông được suy
tôn với nhiều danh hiệu khác nhau: đức phật (Buddha), Người giác ngộ hay Thích Ca
- mâu ni (sakyamuni), Thánh thích ca (vị thánh dòng họ thích ca ). Xét về mặt triết học, phật
giáo được coi là triết lí thâm trầm sâu sắc về vũ trụ và con người.
Với mục đích nhằm giải phóng con người khỏi mọi khổ đau bằng chính cuộc
sống đức độ của con người, phật giáo nhanh chóng chiếm được tình cảm và niềm tin
của đông đảo quần chúng lao động. Nó đã trở thành biểu tượng của lòng từ bi bác
ái trong đạo đức truyền thống của các dân tộc Châu Á. Kinh điển của phật giáo rất đồ
sộ gồm ba bộ phận gọi là Tam tạng kinh bao gồm:Tạng kinh: ghi lại những lời dạy của phật
thích ca; Tạng luật: những điều quy định mà giáo đoàn phật giáo phải tuân theo;
Tạng luận: các tác phẩm luận giải về phật giáo của các học giả cao tăng về sau.
2.
Quan điểm về triết lý nhân sinh của phật giáo:
Nội dung triết lý nhân sinh của phật giáo được thể hiện tập trung trong thuyết “Tứ
diệu đế” tức là bốn chân lý tuyệt diệu mà đòi hỏi mọi người phải nhận thức được.
- Một là khổ đế: Là triết lý về cuộc đời và con người là bể khổ, ít nhất có tám
nỗi khổ. Đó là: sinh khổ, lão khổ, bệnh khổ, tử khổ, thụ biệt khổ (yêu thương nhau
mà phải xa nhau), oán tăng hội (ghét nhau mà phải gần nhau), sở cầu bất đắc (mong
muốn mà không được), ngũ thụ uẩn (do năm yếu tố tạo nên con người). Vậy con
người ở đâu, làm gì cũng
khổ.
- Hai là nhân đế (tập đế): Triết lý về nguyên nhân của sự khổ. Phật giáo cho
rằng nỗi khổ của con người là có nguyên nhân, phật giáo đưa ra 12 nguyên nhân
của sự khổ gọi là thuyết “thập nhị nhân duyên”.
1) Vô minh: Là không sáng suốt.
2) Duyên hành: Là ý muốn thúc đẩy hành động.
3) Duyên thức: Tâm từ trong sáng trở nên u tối.
4) Duyên danh sắc: Sự hội tụ của các yếu tố vật chất và tinh thần sinh ra các cơ
quan cảm giác (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân thể và ý thức).
5) Duyên lục nhập: Là quá trình xâm nhập của thế giới xung quanh vào các giác
quan.
6) Duyên xúc: Là sự tiếp xúc với thế giới xung quanh sinh ra cảm giác.
7) Duyên thụ: Là sự cảm thụ, sự nhận thức trước sự tác động của thế giới bên
ngoài.
8) Duyên ái: Là sự yêu thích mà nảy sinh ham muốn dục vọng do cảm thụ thế giới
bên ngoài.
9) Duyên thủ: Do yêu thích rồi muốn chiếm lấy, giữ lấy.
10) Duyên hữu: Là sự tồn tại để tận hưởng cái đã chiếm đoạt được.
11) Duyên sinh: Là sự ra đời, sinh thành do phải tồn tại.
12) Duyên lão tử: Là già và chết vì có sự sinh thành.
Đó là 12 nguyên nhân và kết quả nối tiếp nhau tạo ra cái vòng luẩn quẩn của
nỗi khổ đau nhân loại.
- Ba là diệt đế: Phật giáo cho rằng mọi nỗi khổ đều có thể tiêu diệt được để đạt tới
trạng thái niết bàn.
- Bốn là đạo đế: Là con đường tu đạo để hoàn thiện đạo đức cá nhân, đó
cũng là con đường giải thoát khỏi nỗi khổ để đạt tới hạnh phúc. Phật giáo đưa ra
tám con đường chân chính gọi là (bát chính đạo).
1) Chính kiến: Là hiểu biết đúng đắn tứ diệu đế.
2) Chính tư duy: Là suy nghĩ đúng đắn.
3) Chính ngữ: Nói năng phải đúng đắn.
4) Chính nghiệp: Giữ nghiệp một cách đúng đắn, không làm việc xấu, nên làm
việc
thiện.
5) Chính mệnh: Giữ ngăn dục vọng đúng đắn.
6) Chính tinh tiến: Cố gắng nỗ lực đúng hướng, không biết mệt mỏi.
7) Chính niệm: Là tâm niệm tin tưởng vững chắc vào sự giải thoát.
8) Chính định: Là kiên định, tập trung tư tưởng cao độ mà suy nghĩ về tứ
diệu đế, về vô ngã, vô thường.
Ngoài tám con đường chính để diệt khổ, phật giáo còn đưa ra năm điều
răn để mỗi người chủ động thực hiện nhằm đem lại lợi ích cho mình và cho mọi
người. Đó là: bất sát (không được sát sinh); bất dâm (không được dâm dục); bất
vọng ngữ (không được nói năng thô tục, bậy bạ); bất ẩm tửu (không được rượu
trà); bất đạo (không được trộm cướp).
3. Ý nghĩa về quan điểm nhân sinh cảu phật giáo
- Về mặt tích cực: phật giáo nói lên được tiếng nói phản kháng chế độ đẳng cấp
khắc nghiệt, phê phán sự bất công, đòi tự do bình đẳng xã hội. đồng thời nêu lên khát
vọng giải thoát con người khỏi những bi kịch của cuộc đời, làm cho con người
không ngừng tu dưỡng phẩm chất, đạo đức cá nhân.
Câu 3: Phân tích tư tưởng triết học Mạnh tử trong lịch sử triết học trung hoa
cổ?
- Về mặt tiêu cực: trong triết lý nhân sinh của phật giáo vẫn mang nặng tính bi quan
không tưởng và duy tâm về xã hội.
Mạnh Tử (327-289 trước Công Nguyên) tên thật là Mạnh Kha, tự là Dư, sinh ra tại
nước Lỗ, nay thuộc tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc. Ông là người kế thừa xuất sắc tư
tưởng trường phái Nho gia, thực chất là kế thừa quan điểm và tư tưởng của nhà triết
gia Khổng Tử. Ông đã hệ thống hóa triết học duy tâm của Nho gia trên phương diện
thế giới quan và nhận thức luận. Quan điểm triết học của Mạnh Tử thể hiện ở ba nội dung:
a. Quan điêm vê thê giới quan
Mạnh Tử phát triển tư tưởng “thiên mệnh” của Khổng tử và đẩy thế giới quan ấy
đến đỉnh cao của chủ nghĩa duy tâm. Ông cho rằng không có việc gì xảy ra mà không có
mệnh trời, mình nên tùy phận mà nhận lấy cái mệnh chính đáng ấy. Từ đó Mạnh Tử
đưa ra học thuyết “vạn vật đều có đủ trong ta nên chỉ cần tự tĩnh nội tâm là biết được
tất cả” nghĩa là không phải tìm cái gì ở thế giới khách quan mà chỉ cần tu dưỡng nội tâm là
biết được tất cả.
b. Quan điểm vê bản chất con người
Ông là người đi sâu vào việc lý giải bản chất con người, ông cho rằng con
người khi sinh ra vốn là thiện “nhân chi sơ, tính bổn thiện”. Tính thiện đó là do
thiên phú mà có chứ không phải là do con người chọn, nếu như con người biết
nuôi dưỡng, giữ gìn thì làm cho tính thiện ngày càng hoàn thiện hơn. Nếu như không
biết nuôi dưỡng, giữ gìn thì làm cho tính thiện ngày càng mai một đi, con người trở nên
xấu xa, nhỏ nhen, ti tiện không khác gì loài cầm thú.
Từ đó Mạnh Tử kết luận rằng bản chất con người là thiện nhưng trong hiện
thực thì con người có thể là ác. Đó là do xã hội rối loạn, luân thường đạo lý bị đảo
lộn.Cho nên để thiết lập quốc gia thái bình, thịnh trị thì phải lại con người tính thiện
bằng đường lối chính trị lấy con người làm gốc.
c. Quan điểm về chính trị xã hội
Trong học thuyết, quan điểm về chính trị - xã hội Mạnh Tử có nhiều tiến bộ, đặc biệt là
tư tưởng của ông về dân quyền, tức là quan điểm về quần chúng nhân dân. Ông là
người đầu tiên đề cao vai trò của người dân, ông cho rằng: “Dân vi quý, quân vi khinh, xã
tắc thứ chi”. Với tinh thần ấy, Mạnh Tử chủ trương xây dựng một chế độ “bảo dân,
dưỡng dân” - bảo vệ cho dân, nuôi dưỡng, chăm lo cho dân, phải tạo cho dân có
nhà cửa ruộng vườn. Vì vậy, ông chủ trương khôi phục lại chế độ “đinh điền” để
chia ruộng đất cho dân, để cho dân có tài sản, ông cho rằng dân có hằng sản thì mới
hằng tâm. Đồng thời ông khuyên các bậc vua chúa phải tiết kiệm chi tiêu, thu thuế của dân
có chừng mực. Đó là những quan điểm hết sức mới mẻ và tiến bộ của ông, khiến ông
mạnh dạn đưa vào đường lối chính trị của Nho gia hàng loạt vấn đề mới mẻ, toát lên tinh
thần nhân bản theo đường lối lấy dân làm gốc.
Câu 4: Nội dung quan điểm triết học duy vật của Đêmôcrit (460 - 370
tr.CN)
Đêmôcrit là một trong những nhà triết học duy vật vĩ đại trong thế giới cổ đại.
Ông sinh ra ở Apđe, một thành phố thương mại lớn nhất vùng Tơ - ra - xơ trong
một gia đình giàu có, có điều kiện để học tập và đi du lịch nhiều nơi, do vậy ông có
tầm hiểu biết rộng, nắm được hầu hết những kiến thức đương thời như: Triết học, Logic
học, Toán học, Vũ trụ học, Vật lý học, Sinh vật học, Tâm lý học, Đạo đức học, Mỹ học,
Ngôn ngữ học, ... Vì vậy, ông được coi là người có bộ óc bách khoa đầu tiên của Hy
Lạp. Quan điểm duy vật của ông được thể hiện ở những nội dung sau:
Quan điểm về thế giới
Đêmôcrit cho rằng, cơ sở đầu tiên cấu tạo nên mọi vật là nguyên tử. Nguyên tử
là phần tử nhỏ nhất không thể phân chia được nữa, không nhìn thấy được, không âm
thanh, không màu sắc, không mùi vị và tồn tại vĩnh viễn.
Theo quan điểm của Đêmôcrit, sự vật là do các nguyên tử liên kết lại với nhau
tạo nên. Tính đa dạng của các nguyên tử làm nên tính đa dạng của thế giới các sự
vật. Nguyên tử tự vận động nhưng khi kết hợp với nhau thành vật thể thì làm cho vật thể
và thế giới chuyển động không ngừng. Lần đầu tiên trong lịch sử Đêmôcrit nêu lên
khái niệm không gian là khoảng trống mà ở đó các nguyên tử vận động liên kết lại với
nhau. Ông là người đã thấy mối liên hệ ^ giữa vật chất, vận động và không gian. Ở
đây, Đêmôcrit đã thể hiện lập trường duy vật về tự nhiên.
Nét đặc sắc trong triết học duy vật của ông là tư tưởng quyết định luận, nghĩa là
ông giải thích mọi hiện tượng biến đổi theo quy luật nhân quả. Theo ông vũ trụ do vô số
thế giới tạo nên. Do những sự vật kết hợp khác nhau (tập trung và phân tán) của những
nguyên tử luôn vận động trong không gian và tuân theo quy luật của tự nhiên đã tạo nên
sự xuất hiện và diệt vong của vô số thế giới, hợp thành vũ trụ. Ông cho rằng sự sống là kết
quả của quá trình biến đổi dần dần từ thấp đến cao của tự nhiên. Sinh vật đầu tiên xuất
hiện ở môi trường nước là bùn, dưới tác động của nhiệt độ. Sinh vật đó sống dưới
nước, sau đó dần dần xuất hiện sinh vật có vú sống trên cạn, cuối cùng là con người trên
quả đất.
Sự thừa nhận tính quy luật, tính nhân quả trong triết học của Đêmôcrit là thành
quả có giá trị của triết học duy vật cổ đại Hy Lạp. Song, ông lại phủ nhận tính ngẫu nhiên
và cho rằng trong cuộc sống nếu chỉ dựa vào ngẫu nhiên thì chỉ làm cho con người thêm
lười biếng mà thôi. Ông bác bỏ quan điểm duy tâm, xem linh hồn là bản nguyên của thế
giới. Ông cho rằng linh hồn cũng được cấu tạo từ các nguyên tử hình cầu nó cũng chết
cùng với cái chết của cơ thể.
về lý luân nhân thức
Đêmôcrit là người có công đặt nền móng cho sự hình thành lý luận nhận thức
chủ nghĩa duy vật. Ông thừa nhận khả năng nhận thức của con người về thế giới. Ông
chia nhận thức ra làm hai dạng: Nhân thức cảm tính do các giác quan đem lại gọi là
nhận thức mờ tối, thực chất là trực quan sinh động và dạng nhận thức chân lý thông qua
phán đoán logic, thực chất là giai đoạn tư duy trừu tượng. Ông cho rằng dạng nhận
thức chân lý phản ánh được bản chất của sự vật và hai dạng nhận thức này có liên hệ chặt
chẽ với nhau và đều có vai trò quan trọng nhưng dạng nhận thức chân lý đáng tin cậy
hơn vì có khả năng phản ánh được bản chất của sự vật.
Đêmôcrit còn là người đặt nền móng cho sự ra đời của logic học với tư cách là
khoa học của tư duy. Ông là người đầu tiên trong lịch sử viết tác phẩm “Bàn về logic
học”. Ông coi logic học là một công cụ để nhận thức các hiện tượng của tự nhiên.
Ví dụ:
Từ những đặc điểm riêng - đến đặc điểm chung - đến khái niệm
+ Cây lúa có đặc điểm: Lá hình mác, thân thảo, rễ chùm. Cây xoài có đặc
điểm: Lá hình bầu dục, thân gỗ, rễ cọc. Cây mít có đặc điểm: Lá hình bầu dục, thân gỗ,
rễ cọc. Các cây này đều có đặc điểm chung là đều có lá, thân, rễ - Khái niệm “Cái
cây”.
+ Từ các đặc điểm: Động vật biết chế tạo công cụ lao động và có ý thức - Khái
niệm “Con người” vừa là thực thể sinh vật vừa là thực thể xã hội.
+ Từ các đặc điểm chung và các dạng vật chất vô cơ, vật chất hữu cơ, vật chất
xã hội là đều tồn tại khách quan, không phụ thuộc vào ý thức của con người - Khái niệm
“Vật chất”.
Trong lĩnh vực chính tri - xã hôi
Đêmôcrit phê phán mạnh mẽ tôn giáo. Ông cho rằng những thần thánh của tôn
giáo Hy Lạp chỉ là sự nhân cách hóa những hiện tượng của tự nhiên hay thuộc tính của
con người. Đêmôcrit là người đứng trên lập trường của tầng lớp chủ nô dân chủ
chống lại bọn chủ nô quý tộc.
Đêmôcrit có những quan điểm tiến bộ về mặt đạo đức. Theo ông, phẩm chất
con người không phải ở lời nói mà ở việc làm. Con người cần hành động có đạo
đức, còn hạnh phúc của con người là ở khả năng trí tuệ, ở khả năng tinh thần nói
chung và đỉnh cao hạnh phúc là trở thành nhà thông thái, trở thành công dân của thế giới.
Tóm lại, những quan điểm, tư tưởng triết học của Đêmôcrit còn mang tính
chất phát, mộc mạc, trực quan, song nó đã đưa triết học duy vật Hy Lạp cổ đại
lên bước tiến mới, đóng góp cho kho tàng triết học của nhân loại những thành
quả vô giá.Câu 5: Anh chị hãy phân tích nội dung quy luật chuyển hóa từ những
thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất và nêu ý nghĩa của quy luật?
Trong hoạt động nhận thức và thực tiễn thì bản chất anh chị vận dụng ý nghĩa đó như
thế nào?
; Khái niệm
- Chất là tính quy định vốn có của sự vật hiện tượng, là sự thống nhất hữu cơ của
các thuộc tính, các đặc trưng để phân biệt sự vật, hiện tượng này với sự vật
hiện tượng khác.
- Lượng là tính quy định bên trong vốn có của sự vật biểu hiện bằng con số của các
thuộc tính, tổng số những đại lượng, trình độ và quy mô phát triển của nó.
;
Mối quan hệ biện chứng giữa chất và lượng
- Chất và lượng của sự vật hiện tượng là 2 mặt thống nhất quy định lẫn nhau. Sự
thống nhất phụ thuộc lẫn nhau giữa chất và lượng được thể hiện trong quan hệ nhất
định và trong quan hệ đó chất và lượng cùng quy định sự tồn tại của sự vật thì
quan hệ đó gọi là độ của sự vật. Vậy, độ là giới hạn và trong giới hạn độ của mình
sự vật còn là nó chưa biến thành sự vật hiện tượng.
- Trong phạm vi một độ nhất định hai mặt chất và lượng liên hệ tác động lẫn nhau
làm cho sự vật vận động biến đổi, sự vận động biến đổi của sự vật bao giờ cũng
bắt đầu từ sự thay đổi vượt quá giới hạn độ dẫn đến sự thay đổi về chất. Sự
thay đổi về chất gọi là bước nhảy và ở thời điểm xảy ra bước nhảy gọi là điểm
nút.
- Bước nhảy là sự kết thúc một giai đoạn biến đổi về lượng, nó là sự gián đoạn
trong quá trình vận động liên tục của sự vật nhưng nó không chấm dứt sự vận
động nói chung mà chỉ chấm dứt một dạng tồn tại của sự vật
;
Ý nghĩa
- Quy luật lượng chất giúp ta hiểu được bước nhảy làm cho chất mới ra đời thay thế
chất cũ. Và chất chỉ thay đổi khi lượng thay đổi vượt quá giới hạn độ. Do đó
trong hoạt động nhận thức và thực tiễn để có sự thay đổi về chất phải quan
tâm đến quá trình tích lũy về lượng và khi lượng thay đổi vượt quá giới hạn
độ thì phải thực hiện bước nhảy. Đó là yêu cầu khách quan của sự vận động phát
triển của sự vật.
- Phải có thái độ khách quan khoa học và có quyết tâm thực hiện các bước nhảy:
quy luật của tự nhiên và quy luật của quy luật của đời sống xã hội đều có tính khách
quan. Song sự khác nhau giữa quy luật của giới tự nhiên và quy luật của đời sống
XH là ở chổ: quy luật trong giới tự nhiên diễn ra tự phát, còn quy luật của đời sống
XH chỉ được giải quyết thông qua hoạt động có ý thức của con người. Do đó,
trong hoạt động thực tiễn chẳng những chúng ta phải xác định được quy mô và
nhịp điệu bước nhảy khi điều kiện đã chín muồi, chủ động nắm bắt thời cơ thực
hiện kịp thời cơ thực hiện kịp thời các bước nhảy khi điều kiện cho phép.
;
Vận dụng
Trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn, bản thân em vận dụng ý nghĩa
đó vào trong học tập như sau:
Biển lớn tri thức nhân loại thật bao la vô tận. Con người, bên cạnh việc phát triển về thể
xác, tinh thần còn phải luôn tự mình tiếp thu những tri thức của nhân loại, trước hết là để
phục vụ cho bản thân. Ti thức tồn tài dưới nhiều hình thức đa dạng và phong phú, do vậy
con người có thể tiếp thu nó bằng nhiều cách khác nhau. Quá trình tích lũy tri thức, kinh
nghiệm diễn ra ở mỗi người khác nhau là khác nhau, tùy thuộc vào mục đích, khả năng,
điều kiện,... của mỗi người. Quá trình tích lũy tri thức của con người cũng không nằm
ngoài quyluật lượng chất. Bởi vì, dù nhanh hay chậm thì sớm muộn, sự tích lũy về tri thức
cũng sẽ làm con người có được sự thay đổi nhất định, tức là có sự biến đổi về chất.
Quá trình biến đổi này trong bản thân con người diễn ra vô cùng đa dạng và phong
phú, ở ví dụ này chúng tôi chỉ xin giới hạn việc làm rõ quy luật lượng chất thông qua quá
trình học tập và rèn luyện của học sinh, sinh viên và học viên.
Là sinh viên, ai cũng phải trải qua quá trình học tập ở các bậc học phổ thông kéo dài
trong suốt 12 năm. Trong 12 năm ngồi trên ghế nhà trường, mỗi học sinh đều
được trang bị những kiến thức cơ bản của các môn học thuộc hai lĩnh vực cơ bản là khoa
học tự nhiên và khoa học xã hội. Bên cạnh đó, mỗi học sinh lại tự trang bị cho mình
những kĩ năng, những hiểu biết riêng về cuộc sống, về tự nhiên, xã hội. Quá trình tích lũy
về lượng (tri thức) của mỗi học sinh là một quá trình dài, đòi hỏi nỗ lực không chỉ từ phía
gia đình, nhà trường mà còn chính tử sự nỗ lực và khả năng của bản thân người học.
Quy luật lượng chất thể hiện ở chỗ, mỗi học sinh dần tích lũy cho mình một lượng kiến
thức nhất định qua từng bài học trên lớp cũng như trong việc giải bài tập ở nhà. Việc
tích lũy kiến thức sẽ được đánh giá qua các kì, trước hết là các kì thi học kì và sau đó
là kì thi tốt nghiệp. Việc tích lũy đủ lượng kiến thức cần thiết sẽ giúp học sinh vượt qua
các kì thi và chuyển sang 1 giai đoạn mới. Như vậy, có thể thấy rằng, trong quá trình
học tập, rèn luyện của học sinh thì quá trình học tập tích lũy kiến thức chính là độ, các kì
thi chính là điểm nút, việc vượt qua các kì thi chính là bước nhảy làm cho việc tiếp thu tri
thức của học sinh bước sang giai đoạn mới, tức là có sự thay đổi về chất.
Trong suốt 12 năm học phổ thông, mỗi học sinh đều phải tích lũy đủ khối
lượng kiến thức và vượt qua những điểm nút khác nhau, nhưng điểm nút quan
trọng nhất, đánh dấu bước nhảy vọt về chất và lượng mà học sinh nào cũng muốn vượt
qua đó là kì thi đại học. Vượt qua kì thi tốt nghiệp cấp 3 đã là một điểm nút quan
trọng, nhưng vượt qua được kì thi đại học lại còn là điểm nút quan trọng hơn, việc
vượt qua điểm nút này chứng tỏ học sinh đã có sự tích lũy đây đủ về lượng, tạo nên
bước nhảy vọt, mở ra một thời kì phát triển mới của lượng và chất, từ học sinh chuyển
thành sinh viên.
Cũng giống như ở phổ thông, để có được tấm bằng đại học thì SV cũng phải
tích lũy đủ các học phần theo quy định. Tuy nhiên, việc tích lũy kiến thức ở bậc đại
học có sự khác biệt về chất so với học phổ thông, sự khác biệt nằm ở chỗ, sinh viên ko chỉ
tiếp thu kiến thức một cách đơn thuần mà phải tự mình tìm tòi nghiên cứu, dựa trên
những kĩ năng mà giảng viên đã cung cấp. Nói cách khác, ở bậc đại học, việc học tập
của sinh viên khác hẳn về chất so với học sinh ở phổ thông. Việc tiếp thu tri thức diễ n ra
dưới nhiều hình thức đa dạng và phong phú, từ cơ bản đến chuyên sâu, từ đơn giản đến
phức tạp, từ ít đến nhiều. Từ sự thay đổi về chất do sự tích lũy về lượng trước đó (ở
bậc học phổ thông) tạo nên, chất mới cũng tác động trở lại. Trên nền tảng mới, trình độ,
kết cấu cũng như quy mô nhận thức của sinh viên cũng thay đổi, tiếp tục hướng
sinh lên tầm tri thức cao hơn.
Cũng giống như ở bậc học phổ thông, quá trình tích lũy các học phần của sinh
viên chính là độ, các kì thi chính là điêmt nút và việc vượt qua các kì thi chính là
bước nhảy, trong đó bước nhảy quan trọng nhất chính là kì thi tốt nghiệp. Vượt qua kì
thi tốt nghiệp lại đưa sinh viên chuyển sang một giai đoạn mới, khác về chất so với
giai đoạn trước. Quá trình đó cứ liên tục tiếp diễn, tạo nên sự vận động và phát triển
không ngừng ngay trong chính bản thân con người, tạo nên động lực không nhỏ cho sự
phát triển của xã hội.
Việc nhận thức quy luật lượng chất trong quá trình học tập của học sinh sinh viên có
ý nghĩa rất to lớn trong thực tiễn, không chỉ với bản thân người học mà còn rất có ý nghĩa
với công tác quản lý và đào tạo. Thực tế trong nhiều năm qua, giáo dục nước ta đã
mắc phải nhiều sai lầm trong tư duy quản lý cũng như trong hoạt động đào tạo
thực tiễn. Việc chạy theo bệnh thành tích chính là thực tế đáng báo động của ngành giáo
dục bởi vì mặc dù sẹ tích lũy về lượng của học sinh chưa đủ nhưng lại vẫn được “tạo
điều kiện” để thực hiện
“thành công” bước nhảy, tức là không học mà vẫn đỗ, không học nhưng vẫn có bằng.
Kết quả là trong nhiều năm liền, giáo dục nước ta đã cho ra lò những lớp người
không “lượng” mà cũng chẳng có “chất”.
Xuất phát từ việc nhận thức một cách đúng đắn quy luật trên cho phép chúng ta
thực hiện những cải cách quan trọng trong giáo dục. Tiêu biểu là việc chống lại căn bệnh
thành tích
Câu 6: Trình bày nội dung, ý nghĩa của quy luật thống nhất và đấu tranh của
các mặt đối lập?
trong giáo dục ở bậc phổ thông và đào tạo đại học. Việc chuyển từ đào tạo niên
chế sang đào tạo tín chỉ và cho phép người học được học vượt tiến độ chính là
việc áp dụng đúng đắn quy luật lượng chất trong tư duy con người.
Đây là 1 trong 3 quy luật cơ bản của phép biện chứng, nói lên nguồn gốc động lực
của sự phát triển. Lê-nin gọi quy luật này là hạt nhân của phép biện chứng, nghĩa là nắm bắ t
được quy luật này sẽ là cơ sở để hiểu các quy luật khác và hiểu được nguồn gốc vận
động, phát triển của mọi hiện tượng.
1.
Nội dung của quy luật
1.1
Mâu thuẫn là hiện tượng khách quan, phổ biến
- Phép siêu hình: phủ nhận mâu thuẫn bên trong bản thân của sự vật, hiện tượng, cho
rằng chỉ có sự khác nhau giữa sự vật, hiện tượng này với sự vật, hiện tượng khác và trong
xã hội nếu có mâu thuẫn sẽ làm cho xã hội tan rã còn trong tư duy nếu có mâu thuẫn thì đó
là sự suy nghĩ sai lầm.
- Phép biện chứng duy vật:
+ Khẳng định mọi sự vật, hiện tượng đều có mâu thuẫn bên trong và mỗi sự vật,
hiện tượng là thể thống nhất của các mặt, các thuộc tính, các khuynh hướng đối lập
nhau. Các mặt đối lập liên hệ bài trừ, gạt bỏ lẫn nhau thì tạo nên mâu thuẫn.
+ Mâu thuẫn là một chỉnh thể trong đó có mặt đối lập vừa thống nhất, vừa đấu
tranh với nhau.
+ Mâu thuẫn chẳng những là hiện tượng khách quan mà còn phổ biến, mâu thuẫn tồn
tại một cách khách quan ở mọi sự vật, hiện tượng trong suốt quá trình của sự vật và không
có sự vật, hiện tượng nào không có mâu thuẫn, nếu không có mâu thuẫn này cũng sẽ có
mâu thuẫn khác, mâu thuẫn có trong tự nhiên, trong xã hội và trong tư duy.
*
Một số loại mâu thuẫn:
a) Mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài
- Mâu thuẫn bên trong: là mâu thuẫn xảy ra ngay bên trong bản thân của sự vật, hiện
tượng.
- Mâu thuẫn bên ngoài: là do sự tác động lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng.
b) Mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản:
- Mâu thuẫn cơ bản: là mâu thuẫn quyết định bản chất của sự vật, gắn liền với sự
vật và khi mâu thuẫn cơ bản được giải quyết thì sự vật cũ mất đi, sự vật mới ra đời.
- Mâu thuẫn không cơ bản: chịu sự chi phối của mâu thuẫn cơ bản, không giữ
vai trò quyết định bản chất của sự vật và hiện tượng nhưng nó cũng giữ một vai trò
nhất định đối với sự vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng.
c) Mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn ^ thứ yếu
- Mâu thuẫn chủ yếu: là mâu thuẫn nổi bật lên hàng đầu ở mỗi giai đoạn nhất
định của quá trình phát triển của sự vật. Nó có tác dụng quyết định đối với những mâu
thuẫn khác trong cùng một giai đoạn của quá trình phát triển của sự vật.
- Mâu thuẫn thứ yếu: là những mâu thuẫn không đóng vai trò quyết định.
d) Mâu thuẫn đối kháng và mâu thuẫn không đối kháng:
- Mâu thuẫn đối kháng: là mâu thuẫn giữa những giai cấp, những tập đoàn người,
những lực lượng xã hội có lợi ích cơ bản đối lập nhau không thể điều hòa được và đi
đến đấu tranh một mất một còn.
- Mâu thuẫn không đối kháng: là mâu thuẫn giữa những giai cấp, những tập đoàn
người, những lực lượng xã hội có lợi ích cơ bản thống nhất với nhau, còn mâu thuẫn chỉ
tạm thời cục bộ.
1.2
Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập
- Sự thống nhất của các mặt đối lập là sự nương tựa vào nhau tạo nên thế cân bằng
nhưng liên hệ phụ thuộc ràng buộc tác động lẫn nhau, mặt này lấy mặt kia làm tiền đề
để tồn tại cho mình và ngược lại nếu thiếu một trong hai mặt đối lập thì sự vật sẽ không tồn
tại.
- Sự đấu tranh của các mặt đối lập là sự phủ định bài trừ gạt bỏ lẫn nhau.
1.3
Đấu tranh của sự đối lập là nguồn gốc, động lực của sự vận động, phát
triển
- Phép biện chứng duy vật chỉ ra là muốn tìm nguồn gốc, động lực của sự vận động,
phát triển thì phải tìm ngay bên trong bản thân của sự vật, hiện tượng. Mọi sự vật, hiện
tượng là thể thống nhất trong các mặt đối lập, trong đó có 2 mặt đối lập cơ bản. Các
mặt đối lập vừa thống nhất, vừa đấu tranh với nhau. Chừng nào sự vật chưa mất đi thì
đấu tranh của các mặt đối lập còn diễn ra và đấu tranh của các mặt đối lập làm cho thể
thống nhất cũ mất đi, thể thống nhất mới cao hơn ra đời.
- Đấu tranh của các mặt đối lập là quá trình diễn ra phức tạp, nhất là trong lĩnh vực xã
hội, quá trình này có thể chia ra nhiều giai đoạn, mỗi giai đoạn có đặc điểm riêng
thông thường khi mới xuất hiện thì có 2 mặt đối lập chưa thể hiện sự xung đột gay
gắt và trong quá trình phát triển của mâu thuẫn thì đấu tranh của các mặt đối lập ngày càng
trở nên quyết liệt khi hội đủ những điều kiện cần thiết thì dẫn đến sự chuyển hóa lẫn
nhau, lúc đó mâu thuẫn được giải quyết, sự vật cũ mất đi, sự vật mới ra đời. Sự vật
mới là thể thống nhất của những mặt đối lập mới và đấu tranh của các mặt đối lập lại diễn
ra làm cho mâu thuẫn được giải quyết, sự vật cũ lại mất đi, sự vật mới cao hơn ra đời
và quá trình này được lặp đi lặp lại không ngừng làm cho con đường phát triển diễn ra
liên tục ngày càng cao. Điều đó chứng minh đấu tranh của các mặt đối lập là
nguồn gốc, động lực của sự vận động, phát triển.
2.
Ý nghĩa
Trong nhận thức cũng như trong hoạt động thực tiễn phải phát hiện sớm mâu
thuẫn để giải quyết kịp thời, phải phân loại mâu thuẫn để có biện pháp giải quyết thích hợp
và giải quyết mâu thuẫn bằng đấu tranh, mục đích của đấu tranh là thúc đẩy sự vật
phát triển.
- Đối với nhận thức: mâu thuẫn là khách quan phổ biến nên việc nhận thức mâu thuẫn
của sự vật là cực kỳ quan trọng. Khi phân tích mâu thuẫn, phải xem xét toàn diện các mặ t
đối lập, theo dõi quá trình phát sinh, phát triển của các mặt đó, phải phân biệt được các
loại mâu thuẫn để giải quyết kịp thời đưa sự vật phát triển tiến lên.
- Đối với hoạt động thực tiễn:
+ Phải xác định đúng trạng thái chín muồi của mâu thuẫn, tìm ra phương thức,
phương tiện và lực lượng có khả năng giải quyết mâu thuẫn và tổ chức thực tiễn để giải
quyết mâu thuẫn một cách thực tế.
+ Mâu thuẫn chỉ được giải quyết khi có đủ điều kiện chín muồi. Cho nên,
chúng ta không được giải quyết mâu thuẫn một cách vội vàng khi chưa có đủ điều
kiện, cũng không để cho việc giải quyết mâu thuẫn diễn ra một cách tự phát, chủ động
thúc đẩy sự chín muồi của mâu thuẫn.
Câu 7: Phân tích nội dung quy luật phủ định của phủ định và ý nghĩa của
phương pháp luận của quy luật này trong việc xây dựng nền văn hóa mới tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc ở nước ta hiện nay?
+ Mâu thuẫn được giải quyết bằng con đường đấu tranh (dưới những hình thức
cụ thể rất khác nhau). Đối với các mâu thuẫn khác nhau cần có phương pháp giải
quyết khác nhau. Phải có biện pháp giải quyết thích hợp với từng mâu thuẫn.
- Vị trí của quy luật: Đây là 1 trong 3 qui luật cơ bản của phép biện chứng duy
vật, nó phản ánh về khuynh hướng chung của sự vận động phát triển và tiến lên thông
qua 1 chu kì phủ định biện chứng thì sự vật hiện tượng mới sẽ ra đời thay thế cho sự vật
hiện tượng cũ nhưng ở trình độ cao hơn cái cũ.
- Khái niệm phủ đinh, phủ định biện chứng.
Phủ định: là sự thay thế bằng sự vật khác trong quá trình vận động và phát triển.
Phủ định biện chứng là phạm trù triết học dùng để chỉ phủ định tự thân, là mắt khâu
của quá trình dẫn đến ra đời sự vật mới, tiến bộ hơn sự vật cũ. Mọi quá trình vận động
và phát triển các lĩnh vực tự nhiên, xã hội hay tư duy diễn ra thông qua những sự thay
thế, trong đó có sự thay thế chấm dứt sự phát triển, nhưng cũng có sự thay thế tạo
ra điều kiện, tiền đề cho quá trình phát triẻn của sự vật. Những sự thay thế tạo ra điều
kiện, tiền đề cho qúa trình phát triển của sự vật thì gọi là phủ định biện chứng.
- Tính chất của phủ định.
Tính khách quan
Nguyên nhân của phủ định nằm trong bản thân sự vật, hiện tượng, nó là quá trình đấu
tranh, giải quyết mâu thuẫn tất yếu bên trong bản thân sự vật, tạo kả năng ra đời cái mới
thay thế cái cũ, nhờ đó tạo nên xu hướng phát triển của chính bản thân sự vật.
Tính kế thừa
Tính kế thừa của Phủ định được thể hiện mà trong đó cái mới hình thành và phát
triển tự thân thông qua quá trình chọn lọc, loại bỏ những mặt tiêu cực, lỗi thời, giữ lại những
nội dung tích cực.
Nội dung quy luật Phủ định của phủ định
Quy luật phủ định của phủ định biểu hiện sự phát triển của sự vật là do mâu thuẫn trong
bản thân sự vật quyết định. Mỗi lần phủ định là kết quả đấu tranh và chuyển hóa giữa các
mặt đối lập trong bản thân sự vật - giữa mặt khẳng định và phủ định.
Sự phủ định lần thứ nhất diễn ra là cho sự vật cũ chuyển thành cái đối lập với mình
(cái phủ định, phủ định cái bị phủ định, cái bị phủ định là tiền đề là cái cũ, cái phủ định là
cái mới xuất hiện sau cái phủ định là cái đối lập với cái bị phủ định. Cái phủ định sau khi
khi phủ định cái bị phủ định, cái phủ định định lại tiếp tục biến đổi và tạo ra chu kỳ phủ
định lần thứ hai) . Sự phủ định lần thứ hai được thực hiện dẫn tới sự vật mới ra đời. Sự
vật này đối lập với cái được sinh ra ở lần phủ định thứ nhất. Nó dường như lập lại
cái ban đầu nhưng nó được bổ sung nhiều nhân tố mới cao hơn, tích cực hơn.
Ý nghĩa quy luật phủ định của phủ định
Quá trình phủ định mang tính đi lên, vì vậy trong hoạt động thực tiễn cần phải có
niềm tin vào xu hướng của sự phát triển.
Chu kỳ sau bao giờ cũng tiến bộ hơn chu kỳ trước.trong sự thay thế đó có sự tác
động của các nhân tố chủ quan của con người, vì vậy trong hoạt động thực tiễn cần phải
phát huy tính năng động sáng tạo, phát hiện những cái mới thay thế những cái cũ lỗi
thời.
Phủ định mang tính kế thừa, vì vậy trong hoạt động thực tiễn cần phải kế thừa những
yếu tố tích cực. Kế thừa phát triển những tinh hoa văn hoá của dân tộc và tiếp thu
tinh hoa văn hoá nhân loại. Loại bỏ những hủ tục lạc hậu, những tư tưởng lỗi thời
mang tính bảo thủ.
Trong quá trình đổi mới của nước ta cùng đều diễn ra theo chiều hướng đó. Nền
kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa đặt dưới sự quản lý điều
tiết của nhà nước tạo tiền đề phủ định nền kinh tế tập trung, bao cấp đặt nền móng cho
xã hội phát triển cao hơn nó trong tương lai đó là xã hội xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên ở mỗi mô hình đều có đặc điểm riêng, do đó, chúng ta đã nhận thức
được vấn đề và đã có cách thức tác động phù hợp với sự phát triển của thực tiễn đất
nước, đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế và từng bước xóa bỏ đói nghèo
nhưng không vì thế mà chúng ta không trân trọng cái cũ.
Chúng ta đã biết giữ hình thức cải tạo nội dung, biết kế thừa và sử dụng đặc trựng tiến
bộ của nền kinh tế tập trung là tiền đề để phát triển nền kinh tế thị trường trên cơ sở
đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa.chính vì vậy mới có kết quả đáng mừng của 20
năm đổi mới.
Tuy nhiên để có thành công như hôn nay, trong hoạt động của chúng ta, cả
hoạt động nhận thức cũng như hoạt động thực tiến chúng ta phải vận dụng tổng hợp tất
cả những quy luật một cách đầy đủ sâu sắc, năng động, sáng tạo phù hợp với điều kiện
cụ thể. Chỉ có như vậy hoạt động của chúng ta, kể cả hoạt động học tập, mới có chất
lượng và hiệu quả cao.
Vận dụng quy luật
VD: Hạt thóc Cây mạ Cây lúa
Hạt thóc cho ra đời cây mạ (đây là phủ định lần 1)
Cây mạ cho ra đời cây lúa (đây là phủ định lần 2).
Cây lúa cho ra bông thóc (thóc lại cho ra thóc nhưng lần này không phải là 1 hạt mà
là nhiều hạt). Như vậy sau hai lần phủ định sự vật dường như quay trở lại cái cũ,
nhưng trên cơ sở mới cao hơn là đặc điểm quan trọng nhất của sự phát triển biện
chứng thông qua phủ định của phủ định.
Phủ định của phủ định làm xuất hiện sự vật mới là kết quả của sự tổng hợp tất cả nhân tố
tích cực đã có và đã phát triển trong cái khẳng định ban đầu và trong những lần phủ
định tiếp theo. Do vậy, sự vật mới với tư cách là kết quả của phủ định của phủ định có
nội dung toàn diện hơn, phong phú hơn, có cái khẳng định bạn đầu và kết quả của
sự phủ định lần thứ nhất. ^
Kết quả của sự phủ định của phủ định là điểm kết thúc của một chu kỳ phát triển và
cũng là điểm khởi đầu của chu kỳ phát triển tiếp theo. Sự vật lại tiếp tục phủ định biện
chứng chính mình để phát triển. Cứ như vậy sự vật mới ngày càng mới hơn.
Quy luật phủ định của phủ định khái quát xu hướng tất yếu tiến lên của sự vật - xu
hướng phát triển. Song phát triển đó không theo hướng thẳng mà theo đường "xoáy
ốc".
Sự phát triển "xoáy ốc" là sự biểu thị rõ ràng, đầy đủ các đặc trưng của quá trình phát
triển biện chứng của sự vật: tính kế thừa, tính lặp lại, tính tiến lên. Mỗi vòng củ a đường
xoáy ốc dường như thể hiện sự lặp lại, nhưng cao hơn, thể hiện trình độ cao hơn
của sự phát triển. Tính vô tận của sự phát triển từ thấp đến cao được thể hiện ở sự nối tiếp
nhau từ dưới lên của các vòng trong đường "xoáy ốc".
Ý nghĩa trong quá trình đổi mới ở nước ta *
Đặc điểm của phủ định trong đời sống xã
hội:
- Phủ định trong xã hội là hình thức và kết quả hoạt động của con người do vậy ngoài
những đặ trưng mà mọi phủ định biện chứng đều có thì phủ định biện chứng trong xã
hội có 2 đặc điểm riêng:
+ Quan điểm biện chứng và siêu hình về sự phủ định:
> Quan điểm siêu hình về phủ định trong xã hội xuất hiện khi xác định không đúng
đối tượng, thời điểm, phương thức phủ định.
> Tuyệt đối hoá mặt loại bỏ hoặc mặt giữ lại.
+Phủ định xã hội diễn ra bằng cơ chế khác căn bản với phủ định trong tự nhiên. * Vì
vậy, phương pháp luận rút ra từ quy luật phủ định của phủ định có ý nghĩa:
- Cho ta cơ sở lý luận để hiểu sự ra đời của các mới, cái mới ra đời từ cái cũ, kế
thừa những mặt tích cực của cái cũ do vậy cần chống thái độ phủ định sách
trơn.
Câu 8: Phân tích nôi dung của nguyên tắc toàn diện. Cho biết trong thực tiển , anh /chị
đã vận dụng nguyên tắc đó như thế nào ?
- Phải phát hiện và quý trọng cái mới, phải biết sàng lọc giữ lấy những cái tích cực có
giá trị của cái cũ.
- Chống lại thái độ bảo thủ, khư khư giữ những cái cản trở bước tiến của lịch sử
(TRANG 340)
Nguyên tắc toàn diện trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn là một trong
những nguyên tắc phương pháp luận cơ bản, quan trọng của phép biện chứng duy vật.
cơ sở lý luận của nguyên tắc toàn diện là nguyên lý về mối liên hệ phổ biến. Nguyên tắc
toàn diện đòi hỏi, muốn nhận thức được bản chất của sự vật hiện tượng chúng ta phải xem
xét sự tồn tại của nó trong mối liên hệ qua lại giữa các bộ phận, yếu tố, thuộc tính khác nhau
trong tính chỉnh thể của sự vật, hiện tượng ấy và trong mối liên hệ qua lại giữa sự vật hiện
tượng đó với sự vật, hiện tượng khác, tránh xem xét phiến diện một chiều.
Nguyên tắc toàn diện đòi hỏi phải xem xét, đánh giá từng mặt, từng mối liên
hệ, và phải nắm được đâu là mối liên hệ chủ yếu, bản chất quy định sự vận động, phát
triển của sự vật, hiện tượng. Trong nhận thức, nguyên tắc toàn diện là yêu cầu tất yếu của
phương pháp tiếp cận khoa học, cho phép tính đến mọi khả năng của vận động,
phát triển có thể có của sự vật, hiện tượng đang nghiên cứu, nghĩa là cần xem xét sự
vật, hiện tượng trong một chỉnh thể thống nhất với tất cả các mặt, các bộ phận, các yếu tố,
các thuộc tính, cùng các mối quan hệ của chúng.
Nguyên tắc toàn diện còn đòi hỏi để nhận thức được sự vật, hiện tượng chúng ta
cần xem xét nó trong mối liên hệ với nhu cầu thực tiễn của con người. Mối liên hệ giữa sự
vật, hiện tượng với nhu cầu của con người rất đa dạng.
Nguyên tắc toàn diện đối lập với cách nhìn phiến diện, một chiều; đối lập với chủ
nghĩa chiết trung và thuật ngữ ngụy biện.__________________________________________
Câu 9: Phân tích nôi dung của nguyên tắc lịch sử cụ thể. Cho biết trong thực tiễn,
anh /chị đã vận dụng nguyên tắc đó như thế nào ?
• Phân tích nôi dung:
Nguyên tắc lịch sử - cụ thể cũng là một trong những nguyên tắc phương pháp
luận cơ bản, quan trọng trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn. Đặc trưng
cơ bản của nguyên tắc này là xem xét sự hình thành, tồn tại và phát triển của sự vật, hiệ n
tượng trong điều kiện, môi trường cụ thể, hoàn cảnh lịch sử - cụ thể. Điểm xuất phát
của nguyên tắc lịch sử - cụ thể là sự tồn tại, vận động, phát triển của các sự vật, hiện tượng
diễn ra trong không gian, thời gian cụ thể. Không gian, thời gian, điều kiện, hoàn cảnh cụ
thể khác nhau thì các mối liên hệ và hình thức phát triển của sự vật, hiện tượng cũng khác
nhau, bởi vậy không chỉ nghiên cứu chúng trong suốt quá trình, mà còn nghiên cứu chúng
trong các không gian, thời gian, điều kiện, hoàn cảnh lịch sử - cụ thể khác nhau đó.
Theo triết học Mác - Lênin, lịch sử phản ánh tính biến đổi về mặt lịch sử của thế giới
khách quan trong quá trình lịch sử - cụ thể của sự phát sinh, phát triển, chuyển hóa của sự
vật, hiện tượng; biểu hiện tính lịch sử cụ thể của sự phát sinh và các giai đoạn phát
triển của sự vật, hiện tượng. Mỗi sự vật, hiện tượng đều có quá trình phát sinh, phát triển
và diệt vong của mình và quá trình đó thể hiện trong tính cụ thể, bao gồm mọi sự thay
đổi và sự phát triển diễn ra trong những điều kiện, hoàn cảnh khác nhau trong không gian
và theo thời gian khác nhau. Bởi vậy, nguyên tắc lịch sử cụ thể đòi hỏi, để nhận thức đầy
đủ về sự vật, hiện tượng, chúng ta phải xem xét sự vật, hiện tượng trong quá trình phát
sinh, phát triển, chuyển hóa trong các hình thức biểu hiện, với những bước quanh co, với
những ngẫu nhiên gây tác động lên quá trình tồn tại của sự vật, hiện tượng trong không
gian và thời gian cụ thể; gắn với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể mà trong đó sự vật, hiện
tượng tồn tại.
Nghiên cứu sự vật, hiện tượng trong sự vận động và phát triển trong từng giai
đoạn cụ thể của nó; biết phân tích mỗi tình hình cụ thể trong hoạt động nhận thức và hoạt
dộng thực tiễn là yếu tố quan trọng nhất trong các yếu tố của nội dung nguyên tắc lịch sử cụ thể. Nguyên tắc lịch sử - cụ thể được V.I.Lênin nêu rõ và cô đọng, “xem xét mỗi vấn đề
theo quan điểm sau đây: một hiện tượng nhất định đã xuất hiện trong lịch sử như
thế nào, hiện tượng đó đã trải qua những giai đoạn phát triển chủ yếu nào, và đứng
trên quan điểm của sự phát triển đó để xét xem hiện nay nó đã trở thành như thế
nào”. Bản chất của nguyên tắc này nằm ở chỗ, trong quá trình nhận thức sự vật, hiện tượng,
trong sự vận động, trong sự chuyển hóa qua lại của nó, phải tái tạo lại được sự phát triển
của sự vật, hiện tượng ấy, sự vận động của chính nó, đời sống của chính nó. Nhiệm vụ
của nguyên tắc lịch sử - cụ thể là tái tạo sự vật, hiện tượng xuyên qua lăng kính của
những ngẫu nhiên lịch sử, những bước quanh co, những gián đoạn, theo trình tự không
gian và thời gian. Nét quan trọng nhất của nguyên tắc lịch sử - cụ thể là mô tả sự kiện cụ thể
theo trình tự nghiêm ngặt của sự hình thành sự vật, hiện tượng. Giá trị của nguyên tắc
này là ở chỗ, nhờ đó mà có thể phản ánh được sự vận động lịch sử phong phú và
đa dạng của các hình thức biểu hiện cụ thể của sự vật, hiện tượng để qua đó, nhận
thức được bản chất của nó.
Nguyên tắc lịch sử - cụ thể yêu cầu phải nhận thức được vận động có tính phổ
biến, là phương thức tồn tại của vật chất, nghĩa là phải nhận thức được sự vận động làm
cho sự vật, hiện tượng xuất hiện, phát triển theo những quy luật nhất định và hình thức của
vận động quyết định bản chất của nó; phải chỉ rõ được những giai đoạn cụ thể mà nó
đã trải qua trong quá trình phát triển của mình; phải biết phân tích mỗi tình hình cụ thể trong
hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn thì mới có thể hiểu, giải thích được những
thuộc tính, những mối liên hệ tất yêu, những đặc trưng chất và lượng vốn có của sự vật,
hiện tượng.
Nguyên tắc lịch sử - cụ thể không chỉ yêu cầu nhận thức những thay đổi diễn ra
trong sự vật, hiện tượng, nhận thức những trạng thái chất lượng thay thế nhau, mà còn yêu
cầu chỉ ra được các quy luật khách quan quy định sự vận động, phát triển của sự vật,
hiện tượng, quy định sự tồn tại hiện thời và khả năng chuyển hoá thành sự vật, hiện
tượng mới thông qua sự phủ định; chỉ ra được rằng, thông qua phủ định của phủ đỉnh, sự
vật, hiện tượng mới là sự kế tục sự vật, hiện tượng cũ; là sự bảo tồn sự vật,hiện tượng cũ
trong dạng đã được lọc bỏ, cải tạo cho phù hợp với sự vật, hiện tượng mới. Như vậy, chỉ
khi đã tìm được mối liên hệ khách quan, tất yếu giữa các trạng thái chất lượng, tạo nên lịch
sử hình thành và phát triển của sự vật, hiện tượng đang nghiên cứu; tạo nên các
quy luật quy định sự tồn tại và chuyển hóa của nó, quy định giai đoạn phát triển này
sang giai đoạn phát triển khác cho tới trạng thái chín muồi và chuyển hóa thành trạng thái
khác, hay thành các mặt đối lập của nó, thì mới có thể giải thích các đặc trưng chất
lượng và số lượng đặc thù của nó, nhận thức được bản chất của nó.
Nguyên tắc lịch sử - cụ thể còn đòi hỏi phải xem xét các sự vật, hiện tượng trong các
mối liên hệ cụ thể của chúng. Việc xem xét các mặt, các mối liên hệ cụ thể của sự vật, hiện
tượng trong quá trình hình thành, phát triển cũng như diệt vong của chúng cho phép nhận
thức đúng đắn bản chất các sự vật, hiện tượng và từ đó mới có định hưóng đúng
cho hoạt động thực tiễn của con ngưòi. Đối với việc nghiên cứu quá trình nhận thức,
nguyên tắc lịch sử - cụ thể cũng đòi hỏi phải tính đến sự phụ thuộc của quá trình đó vào
trình độ phát triển của xã hội, trình độ phát triển của sản xuất và các thành tựu khoa học
trước đó.
Sự kiện tuy có vai trò quan trọng đối với nguyên tắc lịch sử - cụ thể nói riêng và
đối với các nguyên tắc khác nói chung, nhưng nguyên tắc lịch sử - cụ thể không kết hợp
các sự kiện riêng lẻ, mô tả các sự kiện, mà tái hiện sự kiện, chỉ ra mối liên hệ nhân quả giữa
các sự kiện với nhau, khám phá quy luật và phân tích ý nghĩa và vai trò củ a chúng để tạo
nên bức tranh khoa học về các quá trình lịch sử.
Nhận thức sự vật, hiện tượng theo nguyên tắc lịch sử - cụ thể là cần thấy các mối liên
hệ, sự biến đổi của chúng theo thời gian, cũng như trong những không gian tồn tại khác
nhau của mỗi mặt, mỗi thuộc tính, đặc trưng của sự vật, hiện tượng; tránh khuynh
hướng giáo điều chung chung, trừu tượng không cụ thể. Mặt khác, cũng cần đề phòng
khuynh hướng tuyệt đối hóa tính cụ thể, không thấy sự vật, hiện tượng trong cả quá trình
vận động, biến đổi. Trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn phải vừa thấy tính
cụ thể, vừa thấy cả quá trình phát triển của sự vật, hiện tượng là điều tất yếu.
• Vận dụng của bản thân
Với tư cách là những nguyên tắc phương pháp luận, quan điểm toàn diện,
quan điểm lịch sử- cụ thể góp phần định hướng, chỉ đạo hoạt động nhận thức và hoạt
động thực tiễn cải tạo hiện thực, cải tạo chính bản thân chúng ta. Song để thực hiện
được chúng, mỗi chúng ta cần nắm chắc cơ sở lý luận của chúng - nguyên lý về mối liên
hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển, biết vận dụng chúng một cách sáng tạo trong hoạt
động của mình. Đối với học viên, ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường, vẫn có thể sử
dụng các nguyên tắc phương pháp luận đó vào việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của
mình góp phần xây dựng đất nước ngày càng phồn vinh, xã hội ta ngày càng tươi
đẹp.
Chúng ta có thể áp dụng những quan điểm này trong cuộc sống:
Chúng ta hiện nay đều là những tân học viên, khi mới nhập học hầu như là không
quen biết nhau. Khi nhìn thấy 1 bạn nào đấy, chắc chắn chúng ta đều có những ấn
tượng đầu tiên về ngoại hình, tính cách của bạn đó. Nhưng nếu chỉ qua 1 vài lần gặp
mặt mà chúng ta đã đánh giá bạn là người xấu hoặc tốt, dễ tính hay khó tính.
Cách đánh giá như vậy là phiến diện, chủ quan trái với quan điểm toàn diện.Điều có
thể làm cho chúng ta có những quyết định sai lầm . Chẳng hạn như khi nhìn thấy một
người có gương mặt ưa nhìn, ăn nói nhỏ nhẹ đã vội vàng kết luận là người tốt và
muốn làm bạn, còn khi nhìn thấy một người ít nói, không hay cười thì cho là khó tính
không muốn kết bạn. Qua một thời gian kết bạn mới nhận ra người bạn mà mình chọn có
những đức tính không tốt như lợi dụng bạn bè, ích kỷ. Còn người bạn ít nói kia thực ra rất
tốt bụng, hay giúp đỡ bạn bè. Ân tượng đầu tiên chỉ quyết định đến quá trình giao
tiếp về sau. Quan điểm toàn diện dạy cho ta biết rằng khi xem xét, đánh giá một sự
vật, hiện tượng phải xem xét đánh giá một cách toàn diện, mọi mặt của vấn đề để
hiểu được bản chất thật sự của sự vật hiện tượng. Chúng ta không thể chỉ nhìn bề ngoài mà
phán xét về phẩm chất, đạo đức của người đó.Vẻ bề ngoài không nói lên được tất
cả, có thể bạn đó có gương mặt lạnh lùng nhưng tính bạn rất cởi mở, hòa đồng, dễ
gần. Vì vậy muốn đánh giá 1 con người cần phải có thời gian tiếp xúc lâu dài, nhìn
nhận họ trên mọi phương diện, ở từng thời điểm,từng hoàn cảnh khác nhau.
Trong quan hệ giữa con người với con người, chúng ta phải biết ứng xử sao cho phù
hợp với từng con người. Đối với những người bề trên như ông,bà,bố,mẹ, thầy cô...
thì chúng ta cần có thái độ cư xử lễ phép, tôn trọng họ. Đối với bạn bè thì có những
hành động, thái độ thoải mái, tự nhiên. Ngay cả quan hệ với một con người nhất định ở
những không gian khác nhau hoặc thời gian khác nhau, chúng ta cũng phải có cách giao tiếp,
cách quan hệ phù hợp như ông cha đã kết luận: “đối nhân xử thế”. Ví dụ như khi xưa
anh ta là người xấu, tính cách không tốt hay vụ lợi không nên giao tiếp chơi thân, nhưng
hiện nay anh ta đã sửa đổi tính cách tốt hơn biết quan tâm mọi người không như xưa,
chúng ta cần nhìn nhận anh ta khác đi, có thể cư xử khác trước, có thể giao tiếp,
kết bạn với anh ta.
Hay khi xem xét nguyên nhân của một vấn đề nào đó để giải quyết, chúng ta cần xem
xét chúng trong các mối liên hệ để xem nguyên nhân từ đâu để có cách giải quyết, xử lý
tốt . Khi ta học kém đi, điểm số giảm cần tìm nguyên nhân do đâu khiến ta như vậy.
Do lười học, không hiểu bài, không làm bài tập hay không có thời gian học. Nếu tìm được
nguyên nhân cụ thể, chủ yếu, thì sẽ tìm được cách giải quyết đúng đắn.
Chúng ta có thể áp dụng những quan điểm này trong việc học tập:
Trong học tập bao giờ cũng xác định mục tiêu, động cơ, thái độ đúng đắn thì
mới có kết quả cao hơn. Việc vận dụng quan điểm toàn diện và lịch sử cụ thể trong học
tập sẽ giúp định hướng học tập sâu hơn và cao hơn, quan điểm toàn diện và lịch
sử cụ thể là thế giới quan của mỗi con người.
Để vận dụng quan điểm trên chúng ta cần phân tích, xem xét các mặt của việc học
một cách cụ thể, toàn diện, phù hợp với từng thời điểm :
- Học tập là suốt đời, học bằng cái gì: bằng mắt, bằng tai, bằng tay, bằng da, bằng mũi,
bằng miệng, học cái gì trước, cái gì sau, học cái gì để biết, cái gì để làm, học để tồn tại, học
để chung sống với con người, với vạn vật, với muôn loài...
- Người học phải biết khiêm tốn, học phải hỏi, học ở mọi người.
- Nhiều thứ con người muốn học, nhưng muốn hiểu kỷ và sâu sắc thì phải tốn
nhiều thời gian, kiên trì, kiên nhẫn. ví dụ như người trồng lúa: học biết các giống lúa, loại
nào phù hợp vùng đất nào, thời tiết nào, những điều kiện và cách chăm bón đúng
cách để đạt năng suất, khi phát hiện có sâu rầy phải giải quyết thế nào...
- Học phải gắn với hành thì việc học có kết quả nhanh hơn. Người xưa vẫn dạy
rằng: “Trăm hay không bằng tay quen”. Lao động thời nào cũng vậy, phải luôn ý
thực là lí thuyết hay cũng không bằng thực hành giỏi. Vai trò của thực hành được đề cao
là điều hiển nhiên.
Ngày nay với đà phát triển của xã hội, quan niệm lí thuyết và thực hành được hiểu
khác hơn, học và hành lúc nào cũng đi đôi, không thể tách rời nhau. Trước hết
ta cần hiểu : “học” là tiếp thu kiến thức đã được tích luỹ trong sách vở, là nắm vững lí luận
đã được đúc kết trong các bộ môn khoa học, đồng thời tếp nhận những kinh nghiệm của
cha anh đi trước. “Học” là trau dồi kiến thức, mở mang trí tuệ, từng lúc cập nhật hóa sự
hiểu biết của mình, không để tụt lùi, lạc hậu. “Học” là tìm hiểu, khám phá những tri thức
của loài người nhằm chinh phục thiên nhiên, chinh phục vũ trụ. Còn “hành” nghĩa là làm,
là thực hành, là ứng dụng kiến thức, lí thuyết vào thực tiễn đời sống. Cho nên học và hành
có mối quan hệ rất chặt chẽ với nhau. Học và hành là hai mặt của một qua trình thống nhất,
nó không thể tách rời mà phải luôn gắn chặt với nhau làm một.
Chúng ta cần hiểu rõ “hành” vừa là mục đích vừa là phương pháp học tập. Một
khi đã nắm vững kiến thức, đã tiếp thu lí thuyết mà ta không vận dụng vào thực tiễn, thì
học cũng trở nên vô ích. Có nhiều bạn trẻ khi rời ghế nhà trường vào một nhà máy, một
cơ quan... Lúng túng không biết phải làm công việc mà chuyên môn mình đã được
học như thế nào? Dẫn đến gặp rất nhiều khó khăn, nhiều khi là sự hoang mang, chán
nản. Nguyên do dẫn đến việc “học” mà không “hành” được là do học không thấu
đáo, khi còn ngồi trên ghế nhà trường không thật sự chuyên tâm, rèn luyện, trau dồi kiến
thức hoặc thiếu môi trường hoạt động.