Tải bản đầy đủ (.doc) (127 trang)

CHƯƠNG TRÌNH TRUYỀN HÌNH TIẾNG H’MÔNG CHO ĐỒNG BÀO DÂN TỘC H’MÔNG VÙNG TÂY BẮC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.72 MB, 127 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
******************

LÊ THỊ HỒNG HẠNH

CHƯƠNG TRÌNH TRUYỀN HÌNH TIẾNG H’MÔNG
CHO ĐỒNG BÀO DÂN TỘC H’MÔNG VÙNG TÂY BẮC

LUẬN VĂN THẠC SĨ BÁO CHÍ

Hà Nội - 2019


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
**********************

LÊ THỊ HỒNG HẠNH

CHƯƠNG TRÌNH TRUYỀN HÌNH TIẾNG H’MÔNG
CHO ĐỒNG BÀO DÂN TỘC H’MÔNG VÙNG TÂY BẮC
Luận văn thạc sĩ chuyên ngành: Báo chí học
Mã ngành: 60 32 01 01

Người hướng dẫn khoa học

PGS.TS DƯƠNG XUÂN SƠN

Chủ tịch hội đồng


PGS.TS NGUYỄN THỊ THANH HUYỀN

Hà Nội - 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan : Luận văn này là công trình nghiên cứu thực sự của
cá nhân tôi, được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của : PGS.TS Dương
Xuân Sơn.
Các số liệu, những kết luận nghiên cứu được trình bày trong luận văn
này trung thực và chưa từng được công bố dưới bất kỳ hình thức nào.
Tôi xin chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình.
Hà Nội, ngày tháng năm 2019
Tác giả

Lê Thị Hồng Hạnh


LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện đề tài, tôi đã nhận được sự giúp đỡ tận tình
của các thầy cô, gia đình, bạn bè và đồng nghiệp. Tôi xin chân thành cảm ơn
sự giúp đỡ quý báu đó.
Trước hết, tôi xin được bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc tới
PGS.TS Dương Xuân Sơn, người đã trực tiếp hướng dẫn tận tình cũng như
định hướng về phương pháp làm việc, phương pháp nghiên cứu và tạo mọi
điều kiện để tôi hoàn thành luận văn này.
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới các thầy cô giáo trong chuyên
ngành Báo chí, các thầy cô trong Khoa Báo chí và Truyền thông, Trường Đại
học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội đã tạo điều kiện
cho tôi trong suốt những năm học vừa qua.Tôi xin cảm ơn sự giúp đỡ, tạo

điều kiện của lãnh đạo, ban biên tập của Kênh VTV5, Đài Phát thanh - Truyền
hình các tỉnh Hà Giang, Nghệ An.
Cuối cùng, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn với gia đình, người thân và bạn bè
về sự động viên giúp đỡ trong suốt quá trình học tập và hoành thành luận văn.
Tôi rất mong nhận được sự góp ý, xây dựng của các nhà khoa học, các bạn đồng
nghiệp để luận văn này thực sự là một công trình nghiên cứu có giá trị.
Hà Nội - 2019
Tác giả

Lê Thị Hồng Hạnh


BẢNG CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
CT-VH
DT
DTTS
Đài THVN
KHKT
KHXH&NV
PT-TH
PS
VTV
XĐGN

Chính trị văn hóa
Dân tộc
Dân tộc thiểu số
Đài Truyền hình Việt Nam
Khoa học kỹ thuật
Khoa học xã hội và nhân văn

Phát thanh truyền hình
Phóng sự
Đài truyền hình Việt Nam
Xóa đói giảm nghèo


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU..............................................................................................1
1. Lý do lựa chọn đề tài.....................................................................................1
2. Tình hình vấn đề nghiên cứu.........................................................................4
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu....................................................................7
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.................................................................8
5. Phương pháp nghiên cứu...............................................................................9
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài..........................................................9
7. Kết cấu của luận văn...................................................................................10
Chương 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ TRUYỀN HÌNH VÀ CHƯƠNG
TRÌNH TRUYỀN HÌNH TIẾNG DÂN TỘC.............................................11
1.1. Các khái niệm về truyền hình và chương trình truyền
hình chuyên biệt.....................................................................................11
1.1.1. Truyền hình............................................................................................11
1.1.2. Chương trình truyền hình........................................................................11
1.1.3. Báo chí chuyên biệt và chương trình truyền hình chuyên biệt....................12
1.1.4 Chương trình truyền hình tiếng H’mông................................................14
1.2. Vài nét về dân tộc thiểu số và cộng đồng người H’mông vùng Tây Bắc. 15
1.2.1 Vài nét chung về dân tộc, dân tộc thiểu số.................................................15
1.2.2 Vài nét về dân tộc H’mông.......................................................................16
1.3 Chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước danh
cho đồng bào DTTS.............................................................................19
1.4 Vai trò của chương trình truyền hình tiếng H’mông đối với đồng bào dân
tộc H’mông......................................................................................................21

Tiểu kết chương 1............................................................................................22
Chương 2. THỰC TRẠNG CHƯƠNG TRÌNH TRUYỀN HÌNH TIẾNG
H’MÔNG DÀNH CHO ĐỒNG BÀO DÂN TÔC H’MÔNG....................23


2.1. Vài nét về kênh truyền hình tiếng dân tộc (VTV5 – Đài truyền hình Việt
Nam, Đài PT – TH Hà Giang, Đài PT – TH Nghệ An)..................................23
2.1.1 Vài nét về kênh VTV5 – Đài THVN...........................................................23
2.1.3 Vài nét về Đài PT – TH Nghệ An...........................................................32
2.2 Khảo sát, đánh gia những nội dung chính trong chương trình truyền
hình tiếng Hmông..........................................................................................34
2.2.1 Nhóm nội dung thông tin về đời sống xã hội, kinh tế, khoa học kỹ thuật.....36
2.2.2 Nhóm thông tin chính trị tập trung phản ánh sinh hoạt chính trị ở địa
phương.............................................................................................................48
2.2.3 Nhóm thông tin văn hóa nổi bật với việc tuyên truyền các giá trị văn
hóa truyền thống..............................................................................................51
2.2.4 Nhóm thông tin kinh tế với nhiều chỉ dẫn kiến thức.............................55
2.2.5 Nhóm thông tin về các vấn đề “nóng”...................................................58
2.3 Về hình thức thể hiện các chương tình truyền hình tiếng H’mông....63
2.3.1 Thể loại...................................................................................................63
2.3.2 Ngôn ngữ, lời bình..................................................................................66
2.3.3 Hình ảnh.................................................................................................69
2.3.4 Âm Thanh...............................................................................................71
Tiểu kết chương 2............................................................................................73
Chương 3. THÀNH CÔNG, HẠN CHẾ VÀ GIẢI PHÁP ĐỐI VỚI
VIỆC ĐỔI MỚI CHƯƠNG TRÌNH TRUYỀN HÌNH TIẾNG
H’MÔNG DÀNH CHO ĐỒNG BÀO DÂN TỌC H’MÔNG VÙNG
TÂY BẮC HIỆN NAY.................................................................................75
3.1. Đánh giá những thành công và hạn chế của chương trình truyền hình
tiếng H’mông.................................................................................................75

3.1.1 Thành công.............................................................................................75
3.1.2 Hạn chế..................................................................................................76
3.2. Nguyên nhân cho những thành công cũng như những hạn chế nói trên 80


3.3. Yêu cầu đổi mới với chương trình truyền hình tiếng H’Mông dành
cho đồng bào dân tộc H’mông vùng Tây Bắc.............................................82
3.3.1 Đổi mới về nội dung...............................................................................83
3.3.2 Đổi mới về hình thức..............................................................................84
3.3.3 Giữ gìn và phát triển tiếng H’mông.......................................................86
3.4. Mục tiêu, giải pháp đối với chương trình truyền tiếng H’mông dành
cho đồng bào dân tộc H’mông vùng Tây Bắc.............................................86
3.4.1 Mục tiêu chung.......................................................................................86
3.4.2 Mục tiêu cụ thể.......................................................................................87
3.4.3 Các nhóm giải pháp...............................................................................87
3. 5. Một số đề xuất kiến nghị.......................................................................93
3.5.1. Đề xuất về mặt nghiên cứu, lý luận.......................................................93
3.5.2. Kiến nghị về chương trình.....................................................................96
3.5.3. Kiến nghị về chính sách........................................................................97
Tiểu kết chương 3............................................................................................98
KẾT LUẬN....................................................................................................99
TÀI LIỆU THAM KHẢO..........................................................................101
PHỤ LỤC.....................................................................................................104


PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do lựa chọn đề tài
Chương trình PT-TH dành cho đồng bào DTTS được thực hiện
trong nhiều năm ở Đài THVN và Đài Tiếng nói Việt Nam. Mục tiêu của

các chương trình là kênh phổ biến đường lối, chủ trương, chính sách pháp
luật của Đảng và Nhà nước dành cho đồng bào DTTS. Từ trước đến nay,
được Đảng và Nhà nước hết sức quan tâm kênh VTV5 – Đài THVN đã
phát hơn 20 thứ tiếng trên 63 tỉnh, thành phố. Thời lượng phát sóng liên
tục. Tuy nhiên, việc sản xuẩt chương trình này còn nặng về tuyên truyền,
phổ biến, chưa có cách thức đổi mới để sản xuất chương trình chuyên biệt
dành cho đồng bào DTTS. Vì vậy, trong vấn đề nghiên cứu đổi mới nội
dung cũng như hình thức là một yêu cầu cấp bách và cần thiết nhằm mang
lại hiệu quả và nâng cao chất lượng chương trình.
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người H’mông ở Việt
Nam có 1.068.189 người, đứng thứ 8 trong bảng danh sách các dân tộc Việt
Nam và thường cư trú tập trung tại các tỉnh Hà Giang, Điện Biên, Sơn La, Lào
Cai, Yên Bái, Cao Bằng, Nghệ An… Đồng bào H’mông có vị trí, vai trò quan
trọng trong thành phần dân số của các tỉnh vùng Tây Bắc nói riêng và cả nước
nói chung. Từ xưa đến nay, trong thời kỳ dựng nước, cũng như trong giai đoạn
đấu tranh bảo vệ chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, đồng bào DT H’mông
g luôn đóng góp công lao to lớn đối với sự nghiệp gìn giữ và phát triển Tổ
quốc. Ngày nay, một bộ phận không nhỏ trí thức của đồng bào DT H’mông
đang giữ những vị trí lãnh đạo quan trọng của Đảng và Chính phủ.
Người H’mông cư trú ở nhiều vị trí chiến lược quan trọng trên cả nước,
tập trung chủ yếu ở các tỉnh Tây Bắc như Hà Giang , Yên Bái, Lai Châu, Sơn
La v.v…Do địa bàn cư trú ở vùng núi có độ cao từ 1.000m trở lên, giao thông
đi lại khó khăn, khả năng nói và hiểu tiếng phổ thông (tiếng Việt) còn hạn

1


chế, cuộc sống mang tính tự cấp tự túc kéo dài, nên người H’mông thường
sống khép kín, ít giao du với các dân tộc khác. Tuy vậy, tinh thần đoàn kết
dân tộc của người Mông rất cao, cho dù sinh sống ở nhiều địa phương khác

nhau nhưng mối quan hệ dân tộc rất gắn bó. Kinh tế của đồng bào Mông chủ
yếu là làm nương rẫy và chăn nuôi. Tỷ lệ hộ nghèo và cận nghèo rất cao, có
những thôn bản lên tới trên 95% như thôn Phiêng Lủng (xã Bộc Bố), Phia
Bay, Lủng Nghè (xã Cổ Linh), thôn Khuổi Đẩy (xã Bình Trung), Lũng Noong
(xã Nam Cường), thôn Tà Han, Cốc Slông (xã Xuân Lạc) thuộc tỉnh Bắc Kạn
v.v..
Về cơ bản, trình độ dân trí của người H’mông còn nhiều hạn chế. Bà
con ở các thôn bản xa xôi, hẻo lánh nên lớp học ở thôn bản chỉ hết cấp 1,
muốn học cao hơn các em phải ra trường chính ở trung tâm xã, trong khi
đường đi vừa xa, vừa khó khăn. Vì vậy, số học sinh người Mông có trình độ
hết cấp 3 rất ít, số người tái mù chữ còn cao. Đây cũng là yếu tố làm cho
người Mông nhiều nơi bị tuyên truyền, lôi kéo đi theo kẻ xấu hòng phục vụ
mục đích chính trị của chúng
Với lịch sử phát triển lâu năm, công đồng người H’mông đã xây dựng
được cho mình một nền văn hóa riêng đặc trưng, góp phần làm phong phú đa
dạng sắc màu văn hóa chung của dân tộc Việt Nam. Đặc biệt, người H’mông
còn có tiếng nói và chữ viết riêng, trong những năm gần đây, chữ H’mông
được công nhận là một trong tám chữ viết DTTS được phép tổ chức dạy và
học ở nước ta. Như vậy có thể thấy người H’mông là cộng đồng DTTS lâu
đời có nhiều vai trò quan trọng trên mọi phương diện chính trị, kinh tế, văn
hóa, xã hội.
Do là cộng đồng lớn, có nhiều đóng góp trong sự phát triển nói chung,
nên việc truyền thông tương tác giữa Đảng và Nhà nước đến người H’mông
được đặc biệt quan tâm. Hoạt động thông tin nhằm giúp đồng bào DT
H’mông ổn định tư tưởng, thấm nhuần đường lối đúng đắn của Đảng và Nhà

2


nước để yên tâm chăm lo phát triển kinh tế, giữ vững an ninh chính trị, trật tự

an toàn xã hội. Đồng thời, nhờ những thông tin mà các cơ quan báo chí tuyên
truyền trên truyền hình, bà con DT H’mông tiếp cận được với những tiến bộ
KHKT, học hỏi kinh nghiệm làm giàu lẫn nhau, có thêm kiến thức về phát
triển kinh tế, từng bước nâng cao chất lượng cuộc sống.
Với vai trò của mình, người H’mông là đối tượng được Đảng và Nhà
nước quan tâm trên mọi phương diện đời sống, tuy nhiên người H’mông vùng
Tây Bắc lại càng cần được quan tâm hơn cả. Bởi người H’mông sinh sống trải
dài trên khắp cả nước nhưng tập trung gần 2/3 tổng sống người H’mông ở Tây
Bắc và là dân tộc chiếm tới 1/3 dân số toàn vùng. Tây Bắc lại là vùng có vị trí
chiến lược quan trọng, có nhiều tiềm năng phát triển kinh tế - xã hội nhưng hiện
nay vẫn là vùng có đời sống khó khăn, mặt bằng trình độ dân trí còn thấp, việc
tiếp nhận thông tin vẫn còn nhiều bất cập. Chính vì thế, việc đầu tư nâng cao
chất lượng đời sống cho người H’mông là rất cần thiết, đặc biệt trên phương
diện truyền thông.
Hiện nay, đã có nhiều phương tiện truyền thông được Đảng và Nhà
nước tạo điều kiện hỗ trợ phục vụ cho bà con như báo in miễn phí, các
chương trình PT - TH tiếng dân tộc. Trong đó, truyền hình với ưu thế đặc
trưng của mình đang được coi là một trong những phương tiện hiệu quả nhất
đối với đồng bào H’Mông. Truyền hình với vai trò là một kênh thông tin quan
trọng đáp ứng yêu cầu thúc đẩy sự nghiệp phát triển KT, VH, XH, an ninh,
quốc phòng của các tỉnh vùng Tây Bắc. Các chương trình truyền hình nói
chung và truyền hình tiếng H’mông nói riêng đã và đang có nhiều đóng góp
tích cực trong việc tuyên truyền chủ trương, đường lối chính sách của Đảng
và Nhà nước đến với đông đảo người H’mông, góp phần nâng cao đời sống
của đồng bào về mọi mặt, chống lại những luận điệu sai trái của các thế lực
thù địch, phản cách mạng đang lợi dụng chống phá Đảng, gây ảnh hưởng xấu,
cản trở sự phát triển KTXH của vùng.

3



Mặc dù có nhiều ưu điểm nhưng cũng phải thừa nhận các chương trình
truyền hình tiếng H’mông vẫn còn hạn chế như nội dung chưa phong phú đa
dạng, tính thời sự chưa cao, hình ảnh đôi khi chưa đẹp mắt làm giảm chất
lượng chương trình, chưa phát huy hết hiệu quả của truyền thông đối với DT
H’Mông. Chính những hạn chế đó là vấn đề cần được nghiên cứu và đưa ra
giải pháp để khắc phục kịp thời nhằm mang đến những chương trình truyền
hình chất lượng và hấp dẫn cho khán giả là người H’mông.
Việc đổi mới phương thức sản xuất chương trình truyền hình tiếng
H’mông cho đồng bào dân tộc H’mông là hoạt động cấp thiết cần quan tâm
thực hiện. Các đơn vị cần tổ chức sản xuất những chương trình có nội dung
thiết thực, cách truyền tải phù hợp, phục vụ tốt hơn bộ phận công chúng
người H’mông. Tuy nhiên, tới thời điểm hiện tại chưa có công trình nghiên
cứu khoa học nào chuyên sâu về chương trình truyền hình tiếng H’mông dành
cho đồng bào H’mông vùng Tây Bắc. Chính vì thế tác giả chọn đề tài “
Chương trình truyền hình tiếng H’mông cho đồng bào dân tộc H’mông
vùng Tây Bắc” để nghiên cứu, với mong muốn đưa ra những đánh giá đúng
thực trạng, tìm ra nguyên nhân của những hạn chế, đề xuất được những giải
pháp nhằm phát huy được hiệu quả của chương trình truyền hình tiếng
H’mông dành cho đồng bào dân tộc H’mông vùng Tây Bắc nói riêng và đồng
bào dân tộc H’mông ở Việt Nam nói chung.
2. Tình hình vấn đề nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, khảo sát tài liệu, tác giả nhận thấy từ trước
đến nay đã có nhiều công trình khoa học chứa nội dung liên quan đến vấn đề
mà chúng tôi đang nghiên cứu và thực hiện ở luận văn này.
Trong sách và giáo trình nghiên cứu về chương trình truyền hình có
một số tài liệu như: Sản xuất chương trình truyền hình của tác giả Trần Bảo
Khánh, Nxb Văn hóa – Thông tin - 2003; Giáo trình báo chí truyền thông của
PGS.TS Dương Xuân Sơn, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội – 2009; sách


4


Truyền thông đại chúng của tác giả Tạ Ngọc Tấn, NXB Chính trị Quốc gia –
2001… Đây đều là những cuốn sách, giáo trình hết sức quen thuộc với những
người được học, tiếp xúc và nghiên cứu về báo chí. Trong những tác phẩm
này đều chứa kiến thức nền tảng, cơ bản về truyền hình, cách thức tổ chức sản
xuất chương trình truyền hình, việc vận dụng các thể loại vào trong sáng tạo
các tác phẩm truyền hình nhằm mang lại chất lượng tốt cho người xem.
Nhóm tài liệu liên quan đến DTTS ở miền núi phía Bắc có thể kể đến
như: Các dân tộc thiểu số Việt Nam (Nhiều tác giả, NXB Văn Hóa, 1959);
Tìm hiểu tính cách dân tộc, tác giả Nguyễn Hồng Phong (NXB học và kỹ
thuật. 1963); của nhóm tác giả Nguyễn Chí Huyên – Hoàng Hoa Toàn –
Lương Văn Bảo ( NXB Văn hóa dân tộc, 2000); bài viết Các DTTS Việt Nam
thế kỷ XX ( NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001)…. Trong các tài liệu trên,
các tác giả đã chỉ ra nguồn gốc, vai trò quan trọng của đồng bào DTTS ở nước
ta, trong đó có người H’mông.
Bên cạnh các công trình kể trên, còn có nhiều đề tài nghiên cứu về vai
trò, chức năng của báo chí, việc tổ chức sản xuất tác phẩm báo chí cho đồng
bào DTTS, trong đó có cả người H’mông đã được bảo vệ thành công trước hội
đồng khoa học .
Trong lĩnh vực truyền hình có thể kể tới một số tài liệu tiêu biểu sau:
Luận văn Nâng cao chất lượng chương trình truyền hình tiếng H’mông của
Đài PT - TH Yên Bái của tác giả Hoàng Mạnh Hà năm 2013. Đề tài đã làm
sáng tỏ các luận điểm về công chúng truyền hình tiếng v, vai trò của truyền
hình đối với đồng bào H’mông, quy trình sản xuất chương trình và một số giải
pháp nâng cao chất lượng chương trình truyền hình tiếng H’mông. Tuy nhiên,
trong đề tài tác giả chỉ giới hạn phạm vi nghiên khảo sát ở đài PT – TH Yên
Bái;
Luận văn Chương tình dân tộc và miền núi trên sóng VTV1 ở Đài

THVN của tác giả Cao Thị Thanh Hà đề cập tới nhiều khía cạnh thông tin

5


quan trọng về các chương trình truyền hình dành cho đồng bào DTTS. Tuy
nhiên, đề tài mới chỉ đề cập tới đối tượng là đồng bào DTTS chung chung chứ
không đi sâu vào cụ thể dân tộc nào.
Trong lĩnh vực phát thanh có luận văn Chất lượng chương trình phát
thanh DTTS trên sóng đài PT - TH Yên Bái của tác giả Đỗ Thị Giang năm
2013; Luận văn Nâng cao chất lượng chương trình phát thanh tiếng dân tộc
tại các tỉnh miền núi phía Bắc của tác giả Nguyên Thị Lệ Thủy (năm 2013).
Trong lĩnh vực Báo in có thể đề cập đến công trình nghiên cứu khoa
học sau: luận văn Nâng cao chất lượng báo in phục vụ đồng bào DTTS của
tác giả Lữ Thị Ngọc năm 2010; luận văn Một số vấn đề về các ấn phẩm báo
chí cấp phát cho đồng bào DTTS và miền núi hiện nay của tác giả Trần Thị
Thanh Phương (2011)..
Các đề tài nghiên cứu về hoạt động của báo chí phạm vi địa lý thuộc
khu vực Tây Bắc gồm: luận văn Báo chí vùng Tây Bắc với vấn đề chăm sóc
bảo vệ và nâng cao sức khỏe cho đồng bào DTTS ở địa phương của tác giả
Trần Thị Anh năm 2014; luận văn Đổi mới tổ chức sản xuất chương trình
truyền hình cho đồng bào DTTS trên kênh VTV5 – Đài THVN của tác giả Lê
Thị Hồng Thu (2015) đã giới thiệu chi tiết về kênh VTV5 mang đến một bức
tranh toàn cảnh về cách tổ chức sản xuất chương trình cho đồng bào DTTS.
Tuy nhiên, vấn đề nghiên cứu là chung cho tất cả các chương trình dành cho
đồng bào DTTS cứ không đi sâu vào dân tộc nào trong phạm vi địa lý cụ
thể…
Các đề tài trên cho thấy các tác giả đã góp phần làm sáng tỏ các luận
điểm, tầm quan trọng của báo chí truyền hình trong giai đoạn hiện nay đối với
công tác thông tin, tuyên truyền cho đồng bào DTTS, trong đó có đồng bào

H’mông. Tuy nhiên, chưa có công trình dành riêng nghiên cứu các chương

trình truyền hình tiếng H’mông cho đồng bào dân tộc Hmông vùng Tây Bắc –
nơi tập trung phần lớn dân tộc H’Mông ở nước ta.

6


Vì vậy, đề tài “ Chương trình truyền hình tiếng H’mông cho đồng
bào dân tộc H’mông vùng Tây Bắc” sẽ kế thừa những vấn đề mang tính lý
luận trước đó, đồng thời có những khảo sát, nghiên cứu mới về các chương
trình truyền hình tiếng H’Mông từ Trung ương (cụ thể là trên kênh VTV5)
đến địa phương (cụ thể 2 Đài PT - TH Hà Giang, Đài PT -TH Nghệ An) để từ
đó đánh giá được hoạt động thực tiễn của các chương trình truyền hình tiếng
H’Mông cho đồng bào dân tộc H’Mông vùng Tây Bắc, trên cơ sở đó đề xuất
những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng chương trình trong tương lai.
Vì vậy, có thể nói, cho đến nay đề tài “Chương trình truyền hình tiếng
H’mông cho đồng bào dân tộc H’mông vùng Tây Bắc” (khảo sát chương
trình truyền hình tiếng H’mông trên VTV5, Đài PT - TH Hà Giang, Đài PTTH Nghệ An trong thời gian 1 năm từ tháng 1/2017 đến tháng 1/2018) là đề
tài mới và không trùng lặp với đề tài nào đã được công bố trước đó.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở hệ thống hóa lý luận về truyền hình, luận văn khảo sát thực
trạng chương trình truyền hình tiếng H’mông của kênh VTV5, Đài PT- TH Hà
Giang, Đài PT – TH Nghệ An trong thời gian 1 năm từ tháng 1/2017 đến
tháng 1/2018, nhằm chỉ ra thành công và hạn chế của chương trình trong việc
đáp ứng như cầu thông tin của đồng bào H’mông, từ đó đề xuất các giải pháp
thiết thực để nâng cao chất lượng chương trình.
- Phân tích những điểm mạnh, những hạn chế về chương trình
truyền hình tiếng H’mông ở Đài PT&TH Hà Giang, Đài PT – TH Nghệ An.

- Khảo sát và phân tích nội dung thông điệp trong chương trình TH
tiếng H’mông trên các nội dung : phát triển kinh tế, VH-XH, an ninh quốc
phòng, bảo vệ mội trường
- Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng các chương
trình, nâng

cao

hiệu

quả

truyền

7

thông

cho

đồng

bào

H’mông.


- Đề xuất với trung ương và địa phương ban hành các chính sách phù hợp
nhằm nâng cao dân trí, đấu tranh với các luận điệu xuyên tạc của thế lực ổn
định tình hình an ninh trật tự trong vùng, giúp đồng bào an tâm, tập trung phát

triển kinh tế, xóa đói, giảm nghèo.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
+ Xây dựng hệ thống lý luận về dân tộc thiểu số và vai trò báo chí
truyền thông
+ Hệ thống hóa các công trình nghiên cứu báo chí có liên quan để làm
cơ sở cho việc nghiên cứu đề tài.
+ Tìm hiểu chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước về việc đầu
tư cho việc phát triển báo chí truyền thống nói chung và truyền hình nói riêng
cho đồng bào dân tộc H’mông.
+ Khảo sát và phân tích nội dung, hình thức thông điệp trong chương
trình truyền hình tiếng H’mông trên kênh VTV5, Đài PT – TH Hà Giang, Đài
PT – TH Nghệ An trong thời gian 1 năm từ tháng 1/2017 đến tháng 1/2018.
+ Từ việc nghiên cứu, khảo sát thực trạng trên đề xuất một số giải pháp
nhằm đổi mới nâng cao chất lượng chương trình truyền hình tiếng H’mông
cho đồng bào dân tộc H’mông vùng Tây Bắc.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: luận văn nghiên cứu đổi mới nội dung và hình
thức các chương trình truyền hình tiếng H’mông cho đồng bào dân tộc
H’mông vùng Tây Bắc.
Phạm vi nghiên cứu: Đề tài sẽ tập trung khảo sát chương trình truyền
hình tiếng H’Mông trên kênh VTV5 - Đài THVN, Đài PT – TH Hà Giang,
Đài PT – TH Nghệ An.
Thời gian khảo sát: từ tháng 1/2017 đến tháng 1/2018.

8


5. Phương pháp nghiên cứu
5.1 Cơ sở phương pháp luận
Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở hệ thống lý luận và quan điểm

học thuyết của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về hoạt động
của báo chí với các phương pháp nghiên cứu .
5.2 Các phương pháp cụ thể:
+ Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Hệ thống hóa các giáo trình, tài liệu
liên quan đến lý luận và thực tiễn cho đề tài nghiên cứu đồng thời kế thừa và
phát huy các tài liệu trước nhằm làm sáng tỏ vấn đề nghiên cứu của đề tài.
Phương pháp nghiên cứu tài liệu thứ cấp, nghiên cứu văn bản, chủ trương,
đường lối, chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước .
+ Phương pháp phân tích nội dung thông điệp: khảo sát nội dung và
hình thức các chương trình truyền hình tiếng H’Mông trên kênh VTV5- Đài
THVN, Đài PT – TH Hà Giang, Đài PT – TH Nghệ An từ tháng 1/2017 đến
tháng 1/2018.
+ Phương pháp phỏng vấn sâu: thực hiện phỏng vấn Phó Trưởng ban
Truyền hình tiếng dân tộc - VTV5, nhà báo thực hiện chương trình truyền
hình tiếng H’Mông tại Đài PT – TH Hà Giang, nhà báo thực hiên chương
trình truyền hình tiếng H’Mông tại Đài PT – TH Nghệ An, người dân tại các
tỉnh Hà Giang, Nghệ An để tìm hiểu sâu về đề tài nghiên cứu.
+ Phương pháp phân tích, tổng hợp: được dùng để phân tích, đánh giá
và tổng hợp những kết quả nghiên cứu nhằm đưa ra những luận cứ, luận điểm
và khái quát về những nội dung trong đề tài.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Luận văn là công trình nghiên cứu đề cập một cách cụ thể đến chương
trình truyền hình tiếng H’mông g dành cho đồng bào H’mông vùng Tây Bắc.
Hy vọng những kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ làm phong phú thêm hệ

9


thống lý luận báo chí nước ta về chương trình truyền hình dành cho đồng bào
DTTS nói chung và đồng bào H’mông nói riêng.

Luận văn cũng sẽ là một tài liệu tham khảo hữu ích, tin cậy cho những
ai quan tâm, nghiên cứu những vấn đề có liên quan.
Đóng góp mới của đề tài nghiên cứu là góp phần làm rõ thực trạng hoạt
động, hiệu quả của chương trình truyền hình tiếng H’mông cho công tác
thông tin, tuyên truyền đến đồng bào dân tộc H’mông. Trên cơ sở đó rút ra
những bài học kinh nghiệm về việc tổ chức thực hiện chương trình truyền
hình tiếng H’mông; qua đó, đề xuất những giải pháp cần thiết nâng cao sự hấp
dẫn, hiệu quả của các chương trình.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, luận văn sẽ được kết
cấu bởi các phần chính như sau :
Chương 1: Lý luận chung về truyền hình và chương trình truyền hình
Chương 2 : Thực trạng chương trình truyền hình tiếng H’mông cho
đồng bào H’mông trên kênh sóng Truyền hình.
Chương 3 : Những vấn đề đặt ra và các giải pháp nâng cao chất lượng
chương trình truyền hình tiếng H’mông cho đồng bào H’mông vùng Tây Bắc.

10


Chương 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ TRUYỀN HÌNH VÀ CHƯƠNG
TRÌNH TRUYỀN HÌNH TIẾNG DÂN TỘC
1.1. Các khái niệm về truyền hình và chương trình truyền hình chuyên biệt
1.1.1. Truyền hình
Xã hội ngày càng phát triển thì nhu cầu thông tin càng lớn. Do
nhu cầu thông tin, giao tiếp của đời sống xã hội con người nên có sự ra đời
của báo chí. Ngày nay, nói đến báo chí người ta thường nhắc tới bốn loại hình
báo chí cơ bản là: báo in, báo nói (phát thanh), báo hình (truyền hình) và báo
điện tử.
Xuất hiện từ đầu thế kỉ thứ XX và phát triển với tốc độ như vũ bão nhờ

sự phát triển của khoa học công nghệ, truyền hình tạo ra một kênh thông tin
quan trọng trong đời sống xã hội. Khác với báo in, người đọc chỉ tiếp nhận
thông tin bằng con đường thị giác, khác với phát thanh, công chúng tiếp cận
thông tin bằng con đường thính giác, người xem truyền hình tiếp cận sự việc
bằng cả thị giác và thính giác. Do vậy truyền hình trở thành một phương tiện
cung cấp thông tin rất lớn, có độ tin cậy cao, có khả năng làm thay đổi nhận
thức của con người trước sự kiện. Hiện nay, với sự hỗ trợ của các thiết bị
công nghệ, công chúng xem truyền hình không phải cứ ngồi trước tivi mới
xem được mà có thể xem trên máy tính hoặc qua các thiết bị di động v.v...
Chương trình truyền hình cũng không còn đơn giản chỉ là những hình
ảnh, âm thanh, chữ viết mà trong mỗi sản phẩm truyền hình đã tích hợp rất
nhiều hình thức thể hiện khác nhau với vô vàn những hiệu ứng, kĩ xảo sinh
động của kỉ nguyên truyền hình kĩ thuật số.
1.1.2. Chương trình truyền hình
Trong thực tế hiện nay có rất nhiều cách thể hiện thông tin trên truyền
hình khiến người ta có rất nhiều cách để hình dung về diện mạo một chương
trình truyền hình. Đưa ra định nghĩa đầy đủ về chương trình truyền hình cũng

11


trở nên khó khăn hơn. Toàn bộ quá trình từ lúc bắt đầu xuất hiện hình hiệu mở
đầu chương trình của phát thanh viên hay bảng chữ ghi tên người thực hiện,
đơn vị thực hiện thì có thể coi là bắt đầu một chương trình truyền hình. Tuy
nhiên, quá trình thông tin này có thể lại nằm trong một chuỗi các thông tin
khác và khi đó nó lại trở thành thông tin thành phần của một chương trình
truyền hình lớn hơn.
Trong cuốn Cơ sở lý luận báo chí do Nhà xuất bản Lao động ấn hành
năm 2012, PGS.TS Nguyễn Văn Dững cho rằng: “Truyền hình là kênh truyền
thông chuyển tải thông điệp bằng hình ảnh động với nhiều sắc màu vốn có từ

cuộc sống cùng với lời nói, âm nhạc, tiếng động”[8,Tr 35]
Đồng thời, theo Giáo trình truyền hình của tác giả Dương Xuân Sơn
thì : “Chương tình truyền hình là sự liên kết, sắp xếp, bố trí hợp lý các tin
bài, bảng biểu tư liệu hình ảnh và âm thanh, được mở đầu bằng lời giới thiệu,
nhạc hiệu, kết thúc bằng lời chào tạm biệt, đáp ứng yêu cầu tuyên truyền của
cơ quan báo chí truyền hình, nhằm mang lại hiệu quả cao nhất cho khán
giả”.[3,Tr8]
1.1.3. Báo chí chuyên biệt và chương trình truyền hình chuyên biệt
Sự phát triển để trở thành đa dạng hóa thông tin đồng thời với chuyên
biệt hóa đối tượng tiếp nhận thông tin vừa là kết quả có tính lô-gíc của việc
tăng nhanh số lượng, chủng loại sản phẩm báo chí truyền thông, vừa là hệ quả
tất yếu của những tác động của các yếu tố kinh tế, chính trị, xã hội và kỹ thuật
- công nghệ trong quá trình thực hiện chính sách đổi mới ở Việt Nam.
Sự ra đời của Luật Báo chí năm 1990 và đường lối của Đảng Cộng sản
Việt Nam "phát triển đi đôi với quản lý báo chí" đã tạo ra hành lang pháp lý
cùng một không gian tự do rộng lớn cho sự phát triển mở rộng phạm vi và
năng lực thông tin của hệ thống báo chí truyền thông quốc gia. Đến lượt nó,
chính sự phát triển báo chí lại đặt ra yêu cầu, khuyến khích và thúc đẩy việc

12


mở rộng nguồn thông tin - một điều kiện vô cùng quan trọng trong tác nghiệp
của người làm báo.
Trên phạm vi quốc tế, sự mở rộng các quan hệ kinh tế, chính trị, ngoại
giao nhà nước cũng như nhân dân kéo theo việc mở rộng khai thác, trao đổi
thông tin báo chí dưới nhiều hình thức khác nhau như: thông qua trao đổi tin
tức thông tấn, mở thêm mạng lưới phóng viên thường trú nước ngoài, trao đổi
các đoàn nhà báo đi thăm quan, nghiên cứu, trao đổi các sản phẩm báo chí,
các chương trình phát thanh, truyền hình v.v..

Sự mở rộng nguồn tin tất yếu dẫn đến sự đa dạng hóa thông tin chuyển
tải trên hệ thống báo chí. Trên các trang báo, tạp chí, trong các chương trình
phát thanh, truyền hình, các trang thông tin điện tử, lượng thông tin bao quát
toàn diện kể từ không gian địa lý, các lĩnh vực đời sống xã hội, đến các chiều
hướng, tính chất, các tầng nấc ý nghĩa chính trị - xã hội.
Đối với từng sản phẩm cụ thể, chiều hướng phát triển chung là ngày
càng chuyên biệt hóa, thích ứng với nhu cầu, thị hiếu của từng loại đối tượng
cụ thể. Việc phân biệt các loại đối tượng vẫn theo những tiêu chí chung như:
lứa tuổi, nghề nghiệp, địa lý, trình độ văn hóa, đặc điểm thị hiếu, tuy nhiên
được tính tới những yếu tố, điều kiện, yêu cầu, mục đích tác động thông tin.
Theo chiều hướng đó, ở mức độ nhất định đã xuất hiện hiện tượng cạnh tranh
và trên thực tế đã có nhiều sản phẩm báo chí đã tự điều chỉnh mô hình thông
tin để tìm kiếm khai thác công chúng, tạo cơ sở cho sự tồn tại, phát triển
Ngày nay, nhu cầu thông tin của công chúng truyền hình đã và đang
tách thành các cụm, nhóm công chúng khác nhau. Theo đó, mỗi nhóm công
chúng có nhu cầu, sở thích xem các chương trình truyền hình theo hướng
chuyên biệt phù hợp với nhu cầu thông tin của mình. Vì thế các Đài truyền
hình hiện nay, ngoài sản xuất các chương tình có tính quảng bá chung đã theo
kịp sự thay đổi nhu cầu trên của công chúng bằng cách sản xuất các chương
trình truyền hình có nội dung chuyên biệt.

13


Hiện nay ở Việt Nam, từ đài trung ương đến địa phương đã có nhiều
chương trình truyền hình, kênh truyền hình chuyên biệt theo nhóm nội dung
về văn hóa, giao dục, kinh tế hay những chương trình theo nhóm đối tượng
khác nhau như thiếu nhi, thanh thiếu niên, người cao tuổi, DTTS, dành cho
đồng bào ở nước ngoài...
Cụ thể, VTV - Đài THVN hiện nay có kênh VTV2 chuyên về Khoa học

giáo dục, kênh VTV6 là kênh truyền hình cho giới trẻ, Kênh VTV5 là kênh
truyền hình dành cho đồng bào DTTS, kênh VTV4 dành cho đồng bào xa tổ
quốc... Đối với các Đài PT –TH địa phương, các tỉnh cũng có những chương
trình truyền hình dành riêng cho các đối tượng khác nhau ví dụ như Đài PT –
TH Nghệ An có chương trình truyền hình tiếng Thái, Tiếng H’mông, Đài PT –
TH Tuyên Quang có chương trình truyền hình tiếng Dao, Tiếng Thái, tiếng
H’mông...
Như vậy, chương tình truyền hình chuyên biệt là chương trình truyền hình có
nội dung đi theo một chủ thể nhất định và phục vụ cho nhóm đối tượng cụ thể.
1.1.4 Chương trình truyền hình tiếng H’mông
Theo như các thông tin, định nghĩa từ luận điểm trên, có thể thấy:
Chương trình truyền hình H’mông có thể hiểu là loại chương trình chuyên
biệt, sử dụng ngôn ngữ là tiếng H’Mông để truyền tải thông tin phục vụ
cho đồng bào dân tộc H’mông là chủ yếu.
Qua đây, có thể thấy chương trình truyền hình tiếng H’mông là một
chương trình truyền hình có đối tượng khán giả chuyên biệt. Chương
trình sử dụng ngôn ngữ là tiếng H’mông làm ngôn ngữ chính, chứ không phải
ngôn ngữ nào khác.
Theo đó, chương trình truyền hình tiếng H’mông phải đáp ứng một số
yêu cầu sau:
Thứ nhất: Mang bản chất, đặc điểm chung của các chương trình truyền
hình. Trong đó có một số yếu tố quan trọng như chủ đề, thời lượng, nội dung,
hình thức thể hiện, tính định kỳ.

14


Thứ hai: Sử dụng tiếng H’mông là ngôn ngữ chính trong toàn bộ
chương trình: Từ lời dẫn của phát thanh viên đến lời bình trong chương trình,
nội dung các phát biểu của nhân vật.

Chương trình hình tiếng H’mông hướng đến đối tượng công chúng là
người dân tộc H’mông là chính. Qua chương trình nhằm cho công chúng
người H’mông dễ dàng tiếp nhận được được thông tin, giải trí cũng như
những thông điệp mà cơ quan báo chí muốn truyền tải.
1.2. Vài nét về dân tộc thiểu số và cộng đồng người H’mông vùng Tây Bắc
1.2.1 Vài nét chung về dân tộc, dân tộc thiểu số
*Khái niệm “dân tộc”
Cũng như nhiều hình thức công đồng khác, dân tộc là sản phẩm của
một quá trình phát triển lâu dài của xã hội loài người. Trước khi dân tộc xuất
hiện, loài người đã trải qua những hình thức cộng đồng từ thấp đến cao: thị
tộc, bộ lạc, bộ tộc. Cho đến nay, khái niệm dân tộc được hiểu theo nhiều
nghĩa khác nhau, trong đó có hai nghĩa được dùng phổ biến nhất.
Một là: Dân tộc chỉ một cộng đồng người có mối liên hệ chặt chẽ, bền
vững, có sinh hoạt kinh tế chung, có ngôn ngữ riêng và những nét văn hóa đặc
thù, xuất hiện sau bộ lạc, bộ tộc. Với nghĩa này, dân tộc là bộ phận của quốc
gia. Một quốc gia có thể có nhiều dân tộc.
Hai là: Dân tộc chỉ cộng đồng người ổn định hợp thành nhân dân một
nước, có lãnh thổ, quốc gia, nền kinh tế thống nhất, có chung ngôn ngữ và có
ý thức về sự thống nhất quốc gia của mình, gắn bó với nhau bởi lợi ích chính
trị, kinh tế, truyền thống văn hóa và truyền thống đấu tranh chung trong suốt
quá trình lịch sử lâu dài dựng nước và giữ nước. Với nghĩa này, dân tộc là
toàn bộ nhân dân của quốc gia đó – Quốc gia dân tộc.
*Dân tộc thiểu số
Đây là một khái niệm khoa học được sử dụng phổ biến trên thế giới
hiện nay. Các học giả phương Tây quan niệm rằng đây là một thuật ngữ

15


chuyên ngành dân tộc học dùng để chỉ những dân tộc có dân số ít. Trong một

số trường hợp, người ta đồng ý ý nghĩa “DTTS” với “dân tộc lạc hậu”; “dân
tộc chậm tiến”.... Có nhiều nguyên nhân, trong đó có sự chi phối bởi quan
điểm chính trị của gia cấp thống trị trong mỗi quốc gia.
Trên thực tế, khái niệm “dân tộc thiểu số” chỉ có ý nghĩa biểu thị tương
quan về dân số trong một quốc gia dân tộc. Theo quan điểm của chủ nghĩa
Mac – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và xuất phát từ nguyên tắc bình đẳng
dân tộc, khái niệm “DTTS” không mang ý nghĩa phân biệt địa vị, trình độ
phát triển của các dân tộc. Bởi địa vị, trình độ phát triển của dân tộc không
phụ thuộc ở số dân nhiều hay ít, mà nó được chi phối bởi những điều kiện KT
– CT – XH và lịch sử của mỗi dân tộc.
1.2.2 Vài nét về dân tộc H’mông
Dân tộc H’mông cư trú tập trung ở miền núi vùng cao thuộc các tỉnh
Hà Giang, Yên Bái, Sơn La, Điện Biên, Lai Châu, Cao Bằng, Nghệ An....
[ Nguồn trang web của Ủy ban dân tộc ].
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người H’mông ở Việt
Nam có dân số 1.068.189 người, đứng thứ 8 trong bảng danh sách các dân tộc
ở Việt Nam, cư trú tại 62 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố.
Người H’mông cư trú tập trung đông nhất tại một số tỉnh: Hà Giang
(231.464 người, chiếm 31,9% dân số toàn tỉnh và 21,7% tổng số người
H’mông tại Việt Nam), Điện Biên (170.648 người, chiếm 34,8% dân số toàn
tỉnh và 16,0% tổng số người H’mông tại Việt Nam), Sơn La (157.253 người,
chiếm 14,6% dân số toàn tỉnh và 14,7% tổng số người H’mông tại Việt Nam),
Lào Cai (146.147 người, chiếm 23,8% dân số toàn tỉnh và 13,7% tổng số
người H’mông tại Việt Nam), …
Nguồn sống chính của đồng bào H’mông là làm nương rẫy, trồng ngô,
trồng lúa, ở một vài nơi có ruộng bậc thang. Cây lương thực chính là ngô và
lúa nương. Trang phục của người H’mông chủ yếu may bằng vải lanh tự dệt.

16



Một bộ y phục cổ truyền của phụ nữ gồm có: váy, áo xẻ ngực, tạp dề trước và
sau, xà cạp quấn chân.
Đồng bào H’mông cho rằng những người cùng dòng họ là anh em cùng
tổ tiên, có thể đẻ và chết trong nhà nhau, phải luôn luôn giúp đỡ nhau trong
cuộc sống, cưu mang nhau trong nguy cơ hoạn nạn. Mỗi dòng họ cư trú quây
quần thành một cụm, có một trưởng họ đảm nhiệm công việc chung. Hôn
nhân của người H’mông theo tập quán tự do kén chọn bạn đời. Những người
cùng dòng họ không được lấy nhau... Tết cổ truyền của người H’mông tổ
chức vào tháng 12 dương lịch.
Nằm trong một quốc gia đa dân tộc, dân tộc H'mông được coi là một
thành viên quan trọng trong cộng đồng các dân tộc thiểu số ở Việt Nam. Cùng
với 53 dân tộc anh em, người H’mông luôn là một phần của sự thống nhất
khối đại đoàn kết dân tộc và góp phần làm phong phú cho nền văn hóa các
dân tộc Việt Nam.
Dân tộc H’mông thuộc nhóm ngôn ngữ: H’mông - Dao. Người H’mông
(từ Quí Châu - Vân Nam - Quảng Tây - Trung Quốc) di cư vào Việt Nam cách
nay khoảng 300 năm, bằng nhiều đợt, rải rác suốt thời gian dài cho tới cuối
thế kỷ XIX. Người H’mông vào Việt Nam là do nguyên nhân: trong lịch sử
các triều đại phong kiến Trung Hoa đã gây ra nhiều cuộc chiến tranh tàn bạo
và đẫm máu, đàn áp nhiều tộc người (trong đó có dân tộc H’mông), để giành
quyền cai trị đất nước, làm người H’mông phải di cư đi khắp nơi.
Dân tộc H'mông cư trú gồm hầu hết các tỉnh miền núi phía Bắc trong
một địa bàn khá rộng lớn, dọc theo biên giới Việt - Trung và Việt - Lào từ
Lạng Sơn đến Nghệ An, trong đó tập trung chủ yếu ở các tỉnh thuộc Đông và
Tây bắc Việt Nam như: Hà Giang, Lào Cai, Lai Châu, Sơn La... Do tập quán
du mục nên một số người H'mông trong những năm 1980, 1990 đã di dân vào
tận Tây Nguyên, sống rải rác ở một số nơi thuộc Gia Lai và Kon Tum.

17



×