Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

tác phẩm Bão biển của nhà văn chu văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (102.74 KB, 12 trang )

Tiểu thuyết Bão biển
- Chu Văn I. Tác giả Chu Văn (1922 – 1994)
- Chu Văn tên thật là Nguyễn Văn Chử, xuất thân trong một gia đình nhà nho,
quê ở xã Trực Nội, huyện Thái Ninh, nay là xã Đông Quang, huyện Đông Hưng,
tỉnh Thái Bình. Bố là một thầy đồ nho. Mười hai tuổi, bố mất, phải thôi học, trở
về làm ruộng. Năm 1940, ông tham gia phong trào thanh niên cứu quốc ở Nam
Định và Hải Phòng, rồi tham gia cách mạng tháng tám, làm cán bộ tuyên truyền
ở xã. Những năm tháng kháng chiến chống Pháp, ông làm các công tác tuyên
huấn, định vận ở Thái Bình và Liên khu III. Từ 1950, phụ trách tòa soạn báo
Cứu quốc, Liên khu III. Từ 1958, là Trường ty Văn hóa tỉnh Nam Định, Nam
Hà, rồi chủ tịch hội văn nghệ Hà Nam Ninh cho đến khi nghỉ hưu.
- Chu Văn thuộc lớp người viết đến với nghề từ trách nhiệm của người công
dân, cũng có thể nói ông thuộc lớp nhà văn sản phẩm của cách mạng tháng tám.
Giai đoạn đầu, văn nghệ trở thành một thứ vũ khí tuyên truyền. Chu Văn học
viết, xem nghề viết văn như 1 nhiệm vụ tuyên truyền. Trải qua bước đầu viết
báo, viết kịch, làm thơ, từ năm 1955, Chu Văn đi thẳng vào văn xuôi với những
truyện ngắn đầu tiên đăng tải trên các báo: Cứu quốc.
Cuộc đời và sự nghiệp văn chương của ông có nhiều đóng góp ý nghĩa cho cách
mạng Việt Nam.Với những công lao đóng góp cho cách mạng, cho văn họcnước
nhà, Chu Văn đã được tặng huân chương Độc lập hạng ba ( 1988 ). Ông
mấtngày 17/7/1994 tại Hà Nội.

II. Tác phẩm Bão biển
1. Hoàn cảnh ra đời
Bão biển được viết năm 1965, đến 1969 ra mắt bạn đọc. Tác phẩm ra đời trong
bối cảnh đất nước ta có nhiều biến cố lịch sử trọng đại, tác động sâu sắc tới mọi
mặt của đời sống xã hội và con người:
- Cách mạng tháng Tám và hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ,
cuộc cách mạng ruộng đất những năm 1953 – 1955.
- Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc với phong trào hợp tác hoá nông
nghiệp diễn ra rầm rộ vào những năm sáu mươi cùng với công cuộc xây dựng


đất nước theo mô hình chủ nghĩa xã hội(XHCN).
Đó là những biến đổi lịch sử quan trọng. Tất cả những sự kiện ấy đã tác động
mạnh mẽ đến đời sống tinh thần của Việt Nam.


- Đề cương văn hoá Việt Nam 1943 của Đảng cộng sản Đông Dương đã xác
định văn hoá là một mặt trận quan trọng của cuộc đấu tranh cách mạng. Phương
châm xây dựng nền văn hoá mới của Đảng ta là: Dân tộc, khoa học, đại chúng.
Văn hoá dân tộc, đặc biệt là các giá trị văn hoá của quần chúng lao động được
coi trọng và phát huy cùng với việc tiếp nhận văn hoá xã hội chủ nghĩa của Liên
Xô, Trung Quốc. Bão biển cũng là kết quả của việc thấm nhuần tư tưởng ấy của
Chu Văn.
- trong những năm 60 của thế kỷ XX, văn học Việt Nam phát triển mạnh mẽ
một phần là do được giao lưu với nền văn học của hệ thống xã hội chủ nghĩa
trên thế giới. Quan hệ giao lưu thường xuyên giữa văn học Liên xô và Việt Nam
đã trở thành một trong những đặc điểm chính của tiến trình văn học Việt Nam.
Điều đó thể hiện trước hết ở việc các nhà văn Việt nam tích cực tiếp nhận kinh
nghiệm sáng tác của các đồng nghiệp Liên xô. Kinh nghiệm của văn học Xô
Viết đã có ảnh hưởng quan trọng trong sự hình thành bộ mặt tinh thần và sáng
tạo của các nhà văn Việt Nam, thúc đẩy sự khẳng định những nguyên tắc tư
tưởng, nghệ thuật trong văn học Việt Nam. Sự tiếp nhận ấy là do nhu cầu nội tại
của bản thân văn học Việt Nam và do những đặc điểm vận động của nó.
=> Bão biển của Chu Văn đã ra đời đáp ứng nhu cầu tất yếu của xã hội, của đất
nước trong những năm đầu xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc .
- Bão biển gồm hai tập mỗi tập lại chia thành nhiều chương, phần khác nhau
phản ánh những sự kiện khác nhau trong đời sống hiện thực.
2. Tóm tắt
Tập 1 dài 667 trang chia làm 2 phần.
• Phần 1: Hai con đường thể hiện quá trình dẫn đến sự lựa chọn con đường
đi khác nhau của hai chị em Nhân – Ái gồm 20 chương.

Ở tập I, trung tâm của xung đột là việc đối phó với các hoạt động phá
hoại của hội Tận hiến, nhưng các hoạt động này đã bị phát giác, các thành
viên của nó bị bắt gọn, và cuốn truyện có thể kết thúc ngay ở đây, nếu căn
cứ vào yêu cầu cần giải quyết xung đột ta-địch trong tương quan cốt
truyện.
• Phần 2: Kẻ lành, kẻ dữ gồm 20 chương thể hiện những mâu thuẫn những
xung đột đối nghịch giữa một bên là cán bộ, chính quyền với một bên là
bọn phản động lợi dụng tôn giáo chống chính quyền. Sang tập II, xung
đột này lại được nhen nhóm dần dần, cho đến khi xuất hiện một tên biệt
kích và những đường dây nối nơi ẩn nấp của nó với tòa thánh xứ Bài


Chung. Sau một vụ đặt mìn, tên biệt kích tháo chạy, bị truy đuổi và bắn
chết.
Dung lượng tập 2 ngắn hơn tập 1,với 459 trang gồm 15 chương thể hiện
cuộc đấu tranh khốc liệt của con người chống lại thiên nhiên và cuộc chiến
chống thế lực phản động. Số lượng những sự kiện được phản ánh trên toàn
bộ tiểu thuyết rất lớn với sự tham gia của nhiều nhân vật .
3. Giá trị nội dung:
- Đề tài con đường xây dựng xã hội chủ nghĩa: tác giả đã xây dựng thành công
một bức tranh làng quê công giáo đang trong giai đoạn xây dựng xã hội chủ
nghĩa, trong những năm đầu xây dựng chính quyền mới và đưa nông dân vào
con đường làm ăn tập thể trong hợp tác xã.
Với đề tài này, tác giả đã thể hiện rõ hai khía cạnh:
+ Tập trung phản ánh những xung đột, sự va chạm giữa cái cũ và cái mới, giữa
lực lượng phản động với đường lối của cách mạng. Người dân chưa có sự kiên
định
Ví dụ: thầy San chủ trì một cuộc họp, có chánh trương, các ông quản, bà quản
trong hội đoàn, trùm kèn, trùm phường trắc, hội đồng của bảy xóm Sa Ngoại.
Ông phê bình mọi người bỏ bê việc đọc kinh, việc đi lễ. Đồng thời, ông cũng

dặn dò họ coi vấn đề tuyên truyền của nhà nước là những việc có lại cho Đạo,
nhằm kêu gọi mọi người chống lại các chính sách của nhà nước “Nói ra khôn
siết, nhưng cái địa ý là việc gì mà người ta tuyên truyền, lôi kéo, dù nghe như là
có lợi, vẫn phải nghĩ rằng có hại cho nhà Chúa. Mà việc gì họ ngăn cấm, ấy là
việc có lợi cho ta, liệu đó mà ăn ở…”
Thầy San là một nhân vật phản động, đã có va chạm, lộ mặt với chính quyền địa
phương.
“Làm sao cản được phong trào hợp tác xã nông nghiệp. Thì trước hết là phải
làm cho lúa, ngô, hoa màu phải sụt kém trước.
Muốn phá chính sách thu mua lương thực, phải làm cho mùa gặt này long đong,
không thu hết thóc, để lúa mọc mộng thối nát ngoài đồng.
Muốn cản trở việc sản xuất, phải tăng kiêng việc xác, tăng trầu lễ…”
Cái mới xung đột với cái cũ: Người dân vẫn không chịu bỏ đầu óc tư hữu .
“Mức ăn bình quân mười bảy, mười tám cân thì uống nước lã cầm hơi mà đi
cuốc ra thóc cho các ông à?... Dạ dày của các anh bằng quả quýt, cái ruột
bằng nõn rơm cho nên ăn thế mà chịu được. Chứ chúng tôi à một cân còn ít”.
Lề thói tư hữu từ ngày xưa vẫn còn in đậm trong tư tưởng của nhiều xã viên. Vì


vậy mới có chuyện “lạt xanh lạt đỏ”. Những tưởng hợp tác xã đã ăn sâu vào đời
sống người dân nhưng không phải vậy. “Hợp tác xã ở đâu thì không biết chứ ở
ta đây thì toàn là hợp tác xã vỏ thôi…trừ hai cái: hợp tác xã ông Thất và ông
Tiệp. Những cái khác chẳng qua làm ra để che mắt thế gian, chứ ruộng nào vẫn
hưởng riêng nhà nấy”
+Miêu tả những hoạt động của quần chúng trên mặt trận sản xuất và xây dựng
cuộc sống mới. Trong đó:
• Tái hiện lại những khó khăn trong công cuộc hợp tác xã nông nghiệp.
Ví dụ:
Ở xứ Sa Ngoại, nhiều người “không sốt sắng lắm với việc xây dựng chung”.
Hợp tác xã trong quá trình xây dựng gặp nhiều “cản trở”. “ Học tập mãi mà

người dân đưa đơn vẫn thưa thớt. Các tổ đổi công vốn đã yếu rồi huống chi là
hợp tác. Những tin hoang mang tung ra thì lại lan rất nhanh:
- Thời cải cách đấu tố địa chủ, phen này hợp tác sẽ đấu tố trung nông! Thằng
nào mà tỏ ra có “khả năng” là thằng ấy bỏ mẹ.”
Có nhiều nơi thành lập được nhưng “hết sức kém cỏi”, “nhiều người đã vào lại
xin ra. Nhiều xã viên giữ ruộng đất riêng chỉ góp một phần “gọi là có”. “Công
việc khó khăn như một người mang lưỡi cuốc cùn bổ từng nhát dầy chật xuống
nền đất của chiếc lô cốt ấy, gỡ từng mẩu gạch, thỏi sắt, tảng xi – măng, để có
một mảnh vườn đất thuần, trồng lên cây to, cây nhỏ. Ác thay, có những viên đá
quá sâu trong lòng đất không phải một lúc mà cuốc bật lên được…”.
Thậm chí, hiện tượng xin ra khỏi hợp tác xã không chỉ xảy ra với những người
nông dân bình thường mà ngay cả gia đình của cán bộ đứng đầu là chủ tịch Thất
cũng không tránh khỏi: vợ Thất xin ra khỏi hợp tác xã. “Hai mẹ con Nhài chia
ruộng, lấy lại 6 sào”.
Ngoài ra, đường lối đổi mới còn gặp phải sự chống phá của kẻ phản động
Khi có đoàn cán bộ, văn công, học sinh, tiểu đội bộ binh, về giúp xã Sa Ngọc
gặt lúa thì bọn “Trương Hạp, quản Ngật, thậm thụt đi từng nhà rỉ từng tai: phen
này, chính phủ thu mua lương thực gắt gao lắm, có thể hết nửa lúa chiêm”. Việc
này dẫn đến “các gia đình chán ngán muốn bỏ liều lúa ngoài đồng, chín rũ ra
không gặt”. Nó làm cho người dân hiểu nhầm tình nghĩa của đoàn về giúp dân
gặt lúa. Chúng lập ra hội Tận hiến, phát tờ rơi để nói xấu Đảng, khiến cho việc
xây dựng hợp tác xã ngày càng khó khăn.
• Phản ánh những thắng lợi của công cuộc hợp tác xã nông nghiệp: “lúa
gặt về, được chia theo đúng chính sách, phần cho ruộng đất, phần làm


nghĩa vụ và tích lũy”. Mọi người được ngang bằng nhau, tính theo công
điểm khiến cho ai cũng hớn hở, bởi người dân được đảm bảo ít nhất về
cái ăn. Hầu như toàn bộ những kẻ phản động, đội lốt thầy tu như già San,
xơ Khuyên bị sa lưới. Mẩy bị đi tù vì tội đánh người gây thương tích và

ăn trộm. Điểu bị giam vì tội phá hoại và phản tuyên truyền. Bọn côn đồ
và lưu manh đang ti toe cũng co vòi lại. Cha Quang – cha coi sóc việc
đạo ở Sa Ngoại, mặc dù “bực tức và lo ngại”, nhưng trước thành công,
kết quả đạt được trong việc xây dựng hợp tác xã đã không dám có hành
động phá hoại. Hầu hết người dân đều vào hợp tác xã. “Từ khi hợp tác xã
vào nền nếp nhân dân no đủ, lúa đồng đang lên, nhờ lớp phân bào rất
đặc, lúa xanh như mực…
• Bức tranh lao động của người dân vùng Sa Ngoại
Ví dụ: “Năm người cắt phía trước, tận gốc rạ. Một người thu cả năm tay lúa ấy,
xếp gọn thành một bó, đặt ngay xuống, lấy chân dận, rồi lừa liềm cực sắc
xuống dưới, kéo roạt một tiếng…. Thanh niên nam nữ dù chưa quen vai cũng
hăng hái xốc từng gánh trĩu nặng, quẩy dần về xóm. Lúa bó ôm, bó lượm, bó cò
bay, và lúa bỏ trong những quang sọt theo nhau như một đàn kiến that mồi.
Những nam nữ thanh niên này, có đến bảy tám mươi phần trăm chưa thạo công
việc đồng áng. Tuy ngỡ ngàng, vụng về đấy, nhưng họ vẫn cố gắng, và kết quả
công việc làm rất tốt…. Buổi gặt thứ hai đông hơn buổi trước, vì các hợp tác
xã, các hộ cá thể đã kéo nhau đi gặt đông….Không thể để ruộng hoang, càng
không thể để lúa thối.”=> những thanh niên lao động vô cùng hăng say, nhiệt
huyết, dù chưa thành thạo công việc, song họ vẫn cố gắng hết sức để hoàn thành
một cách tốt nhất. Chính sự hăng hái của họ đã khiến cho những người nông
dân khác bỏ qua những hiềm khích, ghen tị mà bắt tay vào công cuộc sản xuất.
- Mối quan hệ giữa cách mạng và tôn giáo: tác giả Chu Văn đã xây dựng câu
chuyện trên bối cảnh một vùng quê công giáo miền Bắc. Vấn đề tôn giáo trong
giai đoạn ấy bị coi là cấm kị, song với kinh nghiệp thực tế cùng tài năng nghệ
thuật, tác giả đã tái hiện vô cùng thành công cuộc sống của người dân công
giáo.
+ Chỉ ra những mặt tích cực của những người theo Đạo: khi xã hội có những
định kiến vô cùng khắt khe, gay gắt về những người theo công giáo thì tác giả
lại cho thấy rằng một bộ phận người dân công giáo – đã giác ngộ tư tưởng cách
mạng, họ trở thành một lực lượng quan trọng của cách mạng trong những vùng

tạm chiếm.
+ Phê phán những con người cuồng đạo, quá mê tín, trở thành đối tượng bị các
lực lượng phản động lợi dụng, đi theo đường lối sai lầm.


Ví dụ: Trong làng Sa Ngoại có 1 gia đình có 4 đứa con mạnh khỏe, mập mạp.
Tuy nhiên bố mẹ đều không vui vì không có đứa con nào chết để làm ma, làm
lễ. Khi đứa con út bị ốm, bố mẹ không cho thuốc thang, ăn uống gì mà chỉ ngồi
tụng kinh mong đứa trẻ chết.
4. Giá trị nghệ thuật
4.1. Nhân vật:
 Chu Văn đã xây dựng ở Bão biển ba tuyến nhân vật:
- Tuyến nhân vật chính diện (Tiệp, Ái, Vượng): là những nhân vật gắn
với tư tưởng tiến bộ cách mạng.
- Tuyến nhân vật phản diện (cha Phạm, cha Hoan …): gắn với tư tưởng
phản cách mạng, bảo thủ, lạc hậu.
- Tuyến nhân vật lưỡng tính, đa cực (Thất, Nhân …): gắn với niềm tin và
sức mạnh của sự cảm hóa.
 Cách thức xây dựng nhân vật:
- Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật: tác giả đã dựng lên một hệ thống
các sự kiện tác động đến tâm lý, số phận cuộc đời của từng nhân vật chính trong
tác phẩm. Từ cuộc đời, số phận các nhân vật, hình thành nên những tuyến sự
kiện riêng biệt tác động lên cuộc đời nhân vật và dẫn đến những biến đổi trong
tâm lý, tính cách , tư tưởng của họ.
Ví dụ: Nhân vật Tiệp
Tác giả đã giành nhiều bút lực để khắc họa nhân vật Tiệp - nhân vật chính
diện trung tâm của tác phẩm qua việc miêu tả hàng loạt các sự kiện tác động
tới cuộc đời, tâm lý, số phận nhân vật. Các sự kiện được sắp xếp theo hành
trình cuộc đời Tiệp và được thể hiện sinh động trong từng chi tiết. Anh sinh ra
và lớn lên ở Sa Ngọc. Tiệp cũng đã từng có một gia đình hạnh phúc bên

người vợ trẻ. Chiến tranh nổ ra, Tiệp lên đường chiến đấu. Hà ở nhà bị cha
Kham bắt “bán” cho quan tư Becgiê chỉ huy Sec tơ người Pháp, đứa con trai
mũn mĩm cũng bị bắt đi. Sự kiện đó gây lên nỗi đau xót trong cuộc đời Tiệp.
Mất người thân, Tiệp dồn tình thương cho cậu em nuôi là Trác. Nhưng Trác
lại hi sinh khiến anh đau khổ. Anh thề sẽ trọn đời noi gương em và hiến mình
cho sự nghiệp cách mạng. Trở về quê hương trước khó khăn thử thách trong
công việc xây dựng quê hương, xây dựng kinh tế tập thể. Tiệp hăng hái nhiệt
tình trong công tác những mong cho quê hương phát triển, người dân bớt khổ.
Nhưng việc thực hiện ước muốn của anh gặp nhiều khó khăn. Các sự kiện
xảy ra trong quá trình xây dựng hợp tác xã đã tác động đến Tiệp và quần


chúng nhân dân Sa Ngọc. Trong vụ gặt, vụ thu mua thóc của hợp tác xã,
nhiều sự kiện nối tiếp nhau xảy ra. Bọn phản động tăng “ngày kiêng việc
xác” để giáo dân không tham gia gặt gây cản trở sản xuất. Sự kiện thành lập
hội trống, việc thu mua lương thực không đủ, ban quản trị hợp tác xã Sa Bình
khai man diện tích, nhân khẩu...đã gây khó khăn cho cán bộ Sa Ngọc, trong
đó có những người tâm huyết như Tiệp. Trải mình trên các sự kiện, bản lĩnh,
phẩm chất của Tiệp dần dần được bộc lộ. Anh không lùi bước trước những
khó khăn. Sự kiện là môi trường để anh thể hiện tính cách, phẩm chất đạo
đức và tôi luyện cho anh bản lĩnh vững vàng. Qua những trang mô tả những
sự kiện đó mà phẩm chất, đạo đức, sự sáng suốt vững vàng của Tiệp được
bộc lộ rõ ràng hơn. Việc lạt xanh lạt đỏ, hợp tác xã vỏ được phát hiện khiến
Tiệp càng cố gắng vượt khó khăn và nêu cao tinh thần cảnh giác. Trong cuộc
họp phân công lại hợp tác xã. Thất xin thôi làm chủ tịch, Tiệp xin thành lập
hai hợp tác xã: Sa Thắng và Sa Tiến do mình và Thất là chủ nhiệm càng
chứng tỏ con người anh sẵn sàng vượt khó không sợ khó khăn, không vì
quyền lực, vụ lợi cá nhân mà chỉ vì việc chung, vì muốn làm việc có ích cho
nhân dân. Trở thành chủ nhiệm hợp tác xã Sa Thắng, quyết tâm xây dựng hợp
tác xã, anh đã làm cho dân yêu, dân tin bằng những hành động và việc làm cụ

thể. Từ sau những sự kiện xảy ra với Sa Ngọc, Tiệp đã chứng tỏ được phẩm
chất đạo đức, sự sáng suốt trong công việc. Anh đã gieo vào lòng những
người dân niềm tin vào chế độ mới, vào Đảng cộng sản và nâng cao ý thức
giác ngộ của họ. Sự kiện đắp đê lấn biển làm nổi bật sự sáng suốt, sự táo bạo
của Tiệp.
- Nhân vật được điển hình hóa, nhưng không phải đơn thuần, cứng nhắc
mà được xây dựng đa chiều.
- Miêu tả ngoại hình của nhân vật để bộc lộ tính cách:
Tiệp hiện lên từ ngoại hình cho đến tính cách, phẩm chất đạo đức cho đến
giá trị con người như mang nét chuẩn mực của một người đảng viên chân chính
“Anh ủy viên này không có dáng chậm chạp, đường bệ của ông Chủ tịch. Anh đi
nhanh quần quật như chạy gàn, đôi mắt rất sắc, quai hàm rắn cấc, bướng bỉnh.
Nhưng nụ cười trên đôi môi hơi dày, với hai hàm răng trắng đục, lại làm cho
ông ủy viên không kém vẻ dịu dàng”. Từ việc miêu tả ngoại hình “Tiệp có vẻ
phấn chấn. bộ tóc rễ tre vẫn rối bù, nhưng gọn gàng như vừa qua hàng thợ cạo
xong, mặt mũi nhẵn nhụi râu ria. Đôi quai hàm vuông như có gọn lên một chút.
Bộ cằm rộng có khía hơi choãi ra phía trước, đanh thép và bướng bỉnh”, người
đọc dễ dàng nhận ra Tiệp là một tính cách đầy sức sống, mang hơi thở thời đại.
Cuộc sống , suy nghĩ và hành động của Tiệp mang đậm những đặc điểm của chủ
nghĩa anh hùng cách mạng. Điều này được chứng minh qua hành động. Tiệp chỉ
huy đội gặt lúa, luôn vui vẻ cười nói, là con người tháo vát giao cắt công việc


gọn gàng “Đồng chí ủy viên tháo vát và vui thật .Tiệp cắt đội thanh niên của
Vượng ra làm bốn, phái đi cùng với các đoàn, đưa về bốn hợp tác xã nhận nhà,
nhận liềm hái và nhận ruộng… Tiệp không phải là con người bê tha, anh luôn
thúc đốc công việc, tiết kiệm thời gian để đảm bảo đúng kế hoạch đã dặt ra:
“Gặt có tốt thì lương thực mới tốt. Anh đi thôi. Mau về làm nga. Để lâu cứt trâu
hóa bùn đấy. Thóc gạo nó như ma…không cánh mà dễ bay lắm đấy”. Hành
động, việc làm của Tiệp đã chứng tỏ anh là một cán bộ xã gương mẫu, không xa

rời quần chúng.
- Nhân vật được đặt trong mẫu thuẫn giữa cái riêng tư và cái chung.
VD: Chu văn xây dựng hình ảnh Tiệp có một đời tư rất đau khổ nhưng
không phải vì vậy mà anh quên đi công việc của mình. Sau này khi có cảm tình
với Nhân anh đã đấu tranh với chính mình. Anh sợ dư luận xã hội, sợ người ta
nhìn anh với ánh mắt lạ lùng và anh cũng biết rằng vị trí công tác của anh không
cho phép anh “ lò mò tới một gia đình đàn bà vắng chồng”. Và anh đã xin
chuyển công tác để giải thoát.
4.2. Không gian và thời gian nghệ thuật:
a. Thời gian nghệ thuật
-Trong Bão biển là thời gian tuyến tính. Thời gian thực thể trong tác phẩm
diễn ra trong 2 năm trong sự so sánh với dung lượng tác phẩm là hơn 800 trang.
Để thể hiện được những dụng ý nghệ thuật của mình tác giả đã kéo căng thời
gian để đan cài các sự kiện.
-Thời gian được tính bằng các mốc thời gian nông lịch, mùa vụ đắp đổi, các
phiên chợ,… như: “gà lên chuồng”, “gió heo may nổi dậy”,... còn các yếu tố
thời gian co học thì xuất hiện ít hơn hẳn (trang 554, 567, 789).
-Ví dụ: Các trang viết về ngày lễ đầu dòng ở xứ Bài Chung: thời gian thực tế
chỉ là 2 ngày những được thể hiện trong 42 trang (từ 148 đến 190). Với 43
trang tác giả đã tái hiện được một cách chân thực bộ mặt của xã hội.
-Trong Bão biển thời gian bị dồn nén
Ví dụ: trong việc miêu tả việc quai đê, lấn biển ở bãi Mập đớp, thời gian thực tế
là khoảng 2 tháng nhưng khi thể hiện trên trang viết, chúng ta chỉ thấy nó được
thể hiện trọn vẹn chỉ trong 18 trang nhằm thể hiện, miêu tả sự khẩn trương, gấp
gáp trong cuộc chiến đấu với thiên nhiên của con người.
=> Nhìn chung có thể thấy rằng thời gian nghệ thuật thay thế thời gian thực thể
giúp tác giả thể hiện được quan niệm nghệ thuật của mình.


=> Thời gian trong Bão biển không dài nhưng bị kéo căng tột cùng với các sự

kiện, biến cố của lịch sử, xã hội. Đây có thể coi là đặc điểm của nền văn học
giai đoạn 1960-1975.
b. Không gian nghệ thuật
- Tiểu thuyết bão biển được xây dựng mang dấu ấn của không gian tiểu
thuyết sử thi đặc thù. Mọi sự kiện trong tác phẩm đều diễn ra trong bối cảnh
xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và đấu tranh chống bọn can thiệp Mĩ và
bè lũ tay sai ở miền Nam.
- Không gian làng quê vùng đồng bằng Bắc Bộ: hiện lên vô cùng sinh động,
muôn màu muôn vẻ.
+ Không gian làng quê:
“Trăng lên rồi. Trắng một đêm hè đầu tháng, cong cong hình quả chuối tiêu
vàng dịu treo chênh chếch phía Tây, hắt làn ánh sáng đục như sữa xuống cánh
đồng man mác. Tre làng vạch từng vệt đêm mờ, rì rào lắc lư dưới làn gió nam
thoáng nhẹ. Mái rạ những ngôi nhà thấp lè tè miền biển – trông xa như những
chiếc mai rùa, núp trong xó tối; gù lên hàng bướu lù lù. Đó đây, những ngôi
nhà thờ cao vút, tháp chuông chọc lên nền trời, mũi nhọn hoắt như mũi giáo
dựng ngược. Mùi khúc tần hăng hắc, mùi hoa cúc dại man mát, quyện trong
không khí nồng đặc hương lúa chiêm đến kỳ chín rộ. Ễnh ương, ếch nhái mừng
trận mưa rào ban sáng, kêu ồn ào khắp vệ cỏ, chân bãi. Một vài con đom đóm
vút ngang , vạch vệt dài, sáng xanh trên bụi cây đen xì”.
“ …Nhưng nhà cửa trong thôn không mấy nóc cao to- trừ một vài gia đình kì
hào, địa chủ có mấy dinh cơ kha khá, có mái ngói, tường hoa, sân gach. Hầu
hết những gian nhà lợp bồi, tường đất, kèo cột gỗ tạp, sàn rui tre nứa. Gió khơi
chiều chiều thổi mạnh, bão táp lại xảy ra luôn luôn, nên tất cả các nhà đều
dựng rất thấp, mái rạ gù lên như hình con trâu phủ phục. Nổi bật trên hết, vẫn
chỉ có nhà thờ, tường dài, mái rộng, sân ngang, sân dọc mênh mang, tháp
chuông hai ngọn sừng sững chọc thủng mây xanh…”
+ Không gian lao động:
“Trước bãi cỏ là cánh đồng, cánh đồng rộng ăn ra tận đê biển. Lúa đã vàng.
Mưa vừa đổ xuống quá nhiều, dâng nước ngập mênh mông. Những mảnh lúa

chiêm bầu cứng cây còn đứng, phơi bông mọng quả đẹp mắt. Nhưng các mảnh
sải đường, tép trắng, cây thấp, rạ bấy đã gục xuống, nơi treo đèn, nơi nằm rấp,
nước trên lúa dưới.”
“Như một mảnh biển vàng, cánh đồng chiêm rải mênh mông. Lúa chìa bông
từng đám, và nằm rệp xuống từng đám. Nước ngập đã non một tuần, lá lúa


cuống rơm đã bắt đầu mùn, bốc hơi, thum thủm. Đống lầy tanh tanh, mùi rạ
ướt., cỏ mục và hoa súng dại quyện theo gió quần, thoảng hơi mốc và ớn nực.
Sít kéo về từng đàn hôm qua, quần nát từng đám. Lúa chín rụng, làm mồi cho
cá rô, kéo đến ăn từng đàn lắc tắc dưới mặt nước.”
“ Lúa chín đã quá giấc. Hạt nảy căng. Những bông tép trắng nặng trĩu, gục
xuống, rơm đã ỉu xìu, hơi động mạnh là gãy. …Những con đỉa to nhỏ, ngoăn
ngoắt cái mình mảnh như sợi lạt vàng chóe, bơi ngoay ngoáy tìm mồi, xông vùn
vụt vào chỗ nước động.”
“ Mặt trời lên cao dần. Như một quả bưởi hồng ngâm nước nhô lên, bây giờ,
mảnh tròn ấy sáng rực như cục sắt vừa đúc trong lò ra, ánh sáng chói lọi và
gay gắt. Gió bốn bề vẫn quần, nồng sặc những hơi tinh lúa”.
- Không gian tôn giáo.
VD: Không gian nhà thờ được xuất hiện 8 lần
"Đã lâu nay, ít người nhắc đến công lao đổ mồ hôi chắt chiu đồng tiền bát gạo
để xây dựng công trình vĩ đại ấy như một niềm tự hào đáng khen ngợi. Một cái
gì rất cao, rất quý đã giảm đi: Còn lại những ràng buộc quen thuộc, và những
uy quyền đã có đôi phần nứt rạn. Dù sao, khi chiều đến, ba quả chuôngcất tiếng
gào inh ỏi, át cả tiếng gió biển, thì khối gạch vôi đồ sộ mốc mác ấy như vẫn
nghiêng ngả,lắc lư đè dần xuống đám máy tranh tấp lùn lụp sụp rải rác bốn
sung quanh". Nhà thờ là nơi chứa những thâm cung bí sử của đạo và đời, đằng
sau cách cử nhà thờ là một thế giới khác, cách hành xử khác: thật và không thật,
thống nhất và không thống nhất cả trong suy nghĩ, lời nói, hành động,…của
Đấng chăn chiên.

4.3 Ngôn ngữ và giọng điệu:
a. Ngôn ngữ
Ngôn ngữ đậm màu sắc dân gian, hài hước, quen thuộc, bình dị, tạo nên sự gần
gũi, hấp dẫn người đọc. Nhà văn đã sử dụng ngôn ngữ, hình ảnh của văn học
dân gian, chêm xen, đài cài thêm những ca dao, dân ca trong lời đối thoại của
nhân vật:
Ví dụ: Khi Vượng và Ái gặp lại nhau :
“Anh về thăm quán thăm quê
Thăm cha, thăm mẹ, hay về thăm ai

Con chim xanh đậu cành dâu biếc,


Em đi lấy chồng, anh tiếc lắm thay!
Vị gì một miếng trầu cay?
Sao anh chẳng hỏi những ngày còn không?
Bây giờ em đã có chồng
Như chim vào lồng, như cá cắn câu
Cá cắn câu biết đâu mà gỡ
Chim vào lồng biết thuở nào ra?”
Hoặc những câu vọng cổ như trong lời nói của các thanh niên Sa Ngọc:
“Em ơi! Một là duyên, hai là nợ, ba là tình, xui khiến gặp nhau đây, một mối
lương duyên cũng bởi nơi trời, có chi mà nàng e…ấp…ư ư.”
Bên cạnh ngôn ngữ mang đậm màu sắc dân gian như vậy, chúng ta còn thấy
ngôn ngữ mang tính hài hước đan cài trong lời nói của nhân vật làm tăng thêm
tính hấp dẫn cho tiểu thuyết:
Ví dụ:
“Cụ ba Bơ lại gần, nhìn kĩ đám người làm cỏ. Làm ăn gì mà thế kia nhỉ!.
Không khác ả chơi giăng. Đứa thì thỏng lưng như cái cột phướn, không chịu
cúi xuống lấy vài phân, làm sao để có sức nặng đè lên cán cào để răng nó cắm

sâu xuống đất. Đứa thì hai tay cứ thì thụt như kéo cưa, vừa không mạnh, vừa dễ
lỡ tay làm đứt tiệt gốc lúa. Ái chà! Lại tụi con gái nữa. Chúng đỏng đa đỏng
đảnh, làm thì ít, cười đùa thì nhiều, cứ ngặt nghẽo, thế kia thì hỏng bét cả. Có
cô cặp cán cào vào nách, một tay đu đưa, tay kia cứ chỉ chỉ trỏ trỏ. Ngữ ấy thì
thật tối ngày lấy việc…” (trang 512)
Sự hài hước, hóm hỉnh được thể hiện rõ nét trong lời nói của nhân vật cụ ba Bơ
– một người có tài kể chuyện, bịa chuyện hấp dẫn: “ Mỗi khi ông nói chuyện
chuyện thật cứ lẫn với chuyện bịa, chuyện bịa thường vui hơn chuyện thật…vô
lí rõ ràng mà người nghe cứ mê, truyền từ người này sang người khác”.
Những từ ngữ mang màu sắc chính trị như: chính phủ, cán bộ, đồng chí,… được
sử dụng nhiều góp phần nhấn mạnh, làm nổi bật đề tài của tác phẩm.
b. Giọng điệu: Nhà văn sử dụng giọng điệu đa dạng và phong phú. Với sự thay
đổi giọng điệu linh hoạt như vậy trong tác phẩm, các nhân vật mà nhà văn xây
dựng cũng hiện lên rõ nét và độc đáo hơn. Chúng ta có thể nhận thấy trong tiểu
thuyết có một số loại giọng điệu như: giọng sôi nổi, hào hùng, giọng suy tư trầm
lắng, giọng cảm thương.


Ví dụ 1:
“ Nhưng nghĩ đến chuyện tố cáo Lực trước chính quyền công an, Nhân lại càng
ngại vì chẳng nỡ. Chao ôi! Giữa hai người xưa kia đã có chút tình nghĩa vợ
chồng. Nó tin ở mình, đến với mình lúc cùng đường hết đất. Ai giết nó, Nhân có
thể không động lòng, nhưng tự tay mình giết nó, Nhân thấy gớm gớm tay”.
Đoạn trích trên cho thấy giọng điệu suy tư, cảm thương (thể hiện qua câu cảm
thán cùng với dòng suy nghĩ kế tiếp nhau).
Ví dụ 2:
“Ủy ban nhất định không cho phép giết lợn. Đối với việc lạm sát gia súc, Tiệp
nghiêm lắm. Có muốn giết con nào với tính chất “tự sản tiêu”, phải thuế sát
sinh, đừng lơ mơ. Gía là ăn xúi ăn vụng, thì họ làm bay hàng chục con. Nhưng
đằng này, phải đưa ra trước mặt làng nước, làm thế nào mà giấu giếm nổi tai

mắt cảu chính quyền”
Đọc đoạn trích trên, chúng ta thấy giọng điệu thể hiện sự chắc chắn, sự hiểu biết
cụ thể, rõ ràng của người kể chuyện về quy định giết mổ ở xã ( thể hiện qua từ
nhất định, phải (đây là những từ mang sắc thái khẳng định).
Ví dụ 3:
“Xin bà con bỏ lỗi cho tôi, tôi sẽ xin phục vụ cho kỳ hết. Nhưng cũng nên nói
thẳng rằng làm việc sản xuất trước. Nào! Gặt hái, thủy lợi, gieo mạ, chống
úng”.Có gì khó khăn? Hay có việc gì về xã hội? Ốm đau? Học hành?”
Đây là lời của Tiệp nói với người dân khi đến trụ sở ủy ban hành chính xã để
giúp người dân giải quyết các vấn đề. Với các câu hỏi dồn dập chúng ta thấy
được giọng điệu khẩn trương, sôi nổi nhưng không kém phần quyết đoán của
người cán bộ trước các vấn đề của người dân.
Ví dụ 4:
“ Đạn rít qua đầu Vượng đánh chíu. Vượng giơ khẩu súng trường. Hòa vẫn
nhắc: “Bắn dọa. Bắt sống…”
Đoạn trích cho thấy giọng điệu khẩn trương sôi nổi, điều này không thể hiện
qua hàng loạt những câu hỏi như ví dụ 3 mà được thể hiện qua những câu văn
ngắn kết hợp với những động từ mạnh.



×