MỤC LỤC
Chương 1: LÝ LUẬN VỀ QUẢN TRỊ CÔNG TY TỪ GÓC ĐỘ KINH TẾ HỌC
THỂ CHẾ
1.1 Khái niệm quản trị công ty
1.1.1 Định nghĩa quản trị công ty
1.1.2 Các nguyên tắc quản trị công ty
1.2 Khả năng áp dụng kinh tế học pháp luật trong nghiên cứu hoàn thiện
pháp luật quản trị công ty
1.2.1. Sự cần thiết hoàn thiện pháp luật quản trị công ty
1.2.2. Khả năng áp dụng kinh tế học pháp luật và kinh tế học thể chế trong
nghiên cứu hoàn thiện pháp luật quản trị công ty
1.3 Các lý thuyết của kinh tế học thể chế có thể áp dụng để nghiên cứu hoàn
thiện pháp luật quản trị công ty
1.2.1 Lý thuyết về các thể chế bên trong và bên ngoài
1.2.2 Lý thuyết về tổ chức kinh tế, chi phí tổ chức
1.2.3 Lý thuyết về quyền sở hữu và sự kiểm soát, lý thuyết ủy quyền – đại
diện
KẾT LUẬN CHƯƠNG I
Chương II: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ QUẢN TRỊ CÔNG TY TỪ
GÓC ĐỘ KINH TẾ HỌC THỂ CHẾ VÀ ĐỀ XUẤT HOÀN THIỆN
2.1 Thực trạng pháp luật về quản trị công ty từ góc độ kinh tế học thể chế
2.1.1 Thực trạng quy định về bảo đảm cơ chế quản trị hiệu quả từ góc độ
kinh tế học thể chế
2.1.2 Thực trạng quy định về minh bạch trong hoạt động của công ty từ góc
độ kinh tế học thể chế
2.1.3 Thực trạng quy định về trách nhiệm của những người quản lý, điều
hành công ty từ góc độ kinh tế học thể chế
2.2 Đề xuất hoàn thiện pháp luật về quản trị công ty từ góc độ kinh tế học
thể chế
1
2.2.1 Phương hướng hoàn thiện pháp luật về quản trị công ty từ góc độ kinh
tế học thể chế
2.2.2 Những đề xuất cụ thể hoàn thiện pháp luật về quản trị công ty từ góc
độ kinh tế học thể chế
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
2
BKS: Ban kiểm soát
CTCP: công ty cổ phần
CTĐC: công ty đại chúng
ĐHĐCĐ: Đại hội đồng cổ đông
HĐQT: Hội đồng quản trị
LDN: Luật Doanh nghiệp
QTCT: quản trị công ty
OECD: Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế
TGĐ: Tổng giám đốc
TNHH: Trách nhiệm hữu hạn
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
3
Ở Việt Nam, đề tài quản trị công ty đang trở thành vấn đề thời sự nóng hổi,
thu hút sự quan tâm của các nhà nghiên cứu, những nhà quản lý doanh nghiệp, của
nhà đầu tư và cổ đông. Tuy đang ngày càng thu hút sự quan tâm từ nhiều phía, khái
niệm quản trị công ty còn rất mới mẻ1.
Ở Việt Nam hiện nay, những vi phạm trong quản trị công ty có rất nhiều, từ
việc Chủ tịch Hội đồng quản trị (HĐQT) bỏ qua ý kiến cổ đông, Đại hội đồng cổ
đông được tổ chức qua loa, hình thức đến chuyện Chủ tịch HĐQT, Tổng giám đốc
(TGĐ) lấy tiền của công ty chi dùng cá nhân, đầu tư vào những dự án có lợi cho
gia đình mình…Điều đáng nói là, trong khi ở nhiều nước trên thế giới như Mỹ,
các nước trong Liên minh châu Âu và cả Trung Quốc đã có những quy định riêng
về các chuẩn mực quản trị công ty để hạn chế bớt vấn đề vi phạm lợi ích của cổ
đông thì pháp luật Việt Nam hầu như không có một điều luật nào quy định rõ ràng
về chế tài đối với các hành vi vi phạm lợi ích cổ đông. Vấn đề cơ bản trong quản trị
công ty ở Việt Nam, theo các nghiên cứu cho thấy, nằm ở sự mâu thuẫn lợi ích của
người đại diện cho toàn bộ cổ đông (Chủ tịch HĐQT, các thành viên HĐQT,TGĐ)
với chính các cổ đông trong công ty. Những người này có thể hành động vì lợi ích
của bản thân mình, gia đình mình hay vì lợi ích của một bộ phận cổ đông có thế
lực nào đó mà phương hại đến quyền lợi của một số cổ đông hay toàn bộ cổ đông
trong công ty.
Một trong số các mục tiêu hàng đầu của Luật Doanh nghiệp (LDN) 2005 là
tạo lập khung khổ pháp lý áp dụng thống nhất khung quản trị theo loại hình doanh
nghiệp không phân biệt nguồn gốc sở hữu; và đồng thời đổi mới cơ chế quản trị
đối với doanh nghiệp nhà nước theo nguyên tắc thị trường và thông lệ quốc tế 2.
Tuy vậy, việc triển khai áp dụng các nguyên tắc mới về quản trị doanh nghiệp nhà
nước chưa được thực hiện đầy đủ. Thực tế nói trên do nhiều nguyên nhân, trong đó
có nguyên nhân là những vấn đề đặc thù trong quản trị doanh nghiệp nhà nước
1
Theo một cuộc điều tra dành cho lãnh đạo 85 doanh nghiệp lớn ở Việt Nam do IFC/MPDF thực hiện, chỉ có 23%
số người được hỏi đã hiểu khái niệm và nguyên tắc cơ bản của “quản trị công ty”. Nhiều giám đốc được phỏng vấn
vẫn còn lẫn lộn giữa quản trị công ty với quản lý tác nghiệp (bao gồm điều hành sản xuất, quản lý marketing, quản
lý nhân sự, v.v...)
2
Điều 168 Luật Doanh nghiệp quy định 5 nguyên tắc chung của cơ chế quản trị mới đối với doanh nghiệp nhà nước.
4
chưa được quy định hoặc quy định chưa rõ ràng trong Luật Doanh nghiệp 3. Bởi
vậy, trong Dự thảo LDN (sửa đổi) (Dự thảo Luật) đã bổ sung Chương IV “Doanh
nghiệp nhà nước” quy định về nguyên tắc quản trị đối với doanh nghiệp nhà nước
sở hữu 100% vốn điều lệ, hoạt động dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn
một thành viên.
Thực trạng và bối cảnh nêu trên này đặt ra sự cần thiết và tính cấp bách của
việc nghiên cứu để hoàn thiện pháp luật về quản trị công ty – bao gồm quản trị
công ty đại chúng và doanh nghiệp nhà nước, trong đó việc sử dụng các cách tiếp
cận nghiên cứu pháp luật mới như kinh tế học pháp luật 4, kinh tế học thể chế sẽ
giúp làm rõ, giải quyết các vấn đề mà nếu chỉ bằng các công cụ, phương pháp
nghiên cứu như lâu nay vốn có của giới luật sẽ khó có lời giải đáp thỏa đáng.
Với những lý do vừa kể trên, tác giả chọn đề tài “Pháp luật quản trị công ty
nhìn từ góc độ kinh tế học thể chế” để làm luận văn tốt nghiệp Cao học Luật của
mình nhằm nghiên cứu, tiếp cận dưới góc độ các lý luận và mô hình của kinh tế
học thể chế để đánh giá pháp luật về quản trị công ty, để chỉ ra những điểm bất cập,
hạn chế từ đó đề xuất các giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật về quản trị công
ty ở Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đến nay, đã có một số luận văn Thạc sỹ Luật nghiên cứu pháp luật về quản trị
công ty như: “Chế độ pháp lý về quản trị công ty cổ phần theo Luật Doanh nghiệp”
do Trần Lương Đức thực hiện năm 2006 tại Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội;
“Chế độ pháp lý về quản trị công ty theo Luật Doanh nghiệp” do Châu Quốc An
thực hiện năm 2006 tại Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh; “Người quản lý
công ty – Những vấn đề lý luận và thực tiễn trong pháp luật Việt Nam” do Huỳnh
3
Xem: Chính phủ, Tờ trình về Dự án Luật Doanh nghiệp (sửa đổi), Số 86/TTr-CP ngày 10 tháng 4 năm 2014
4
Theo định nghĩa của Từ điển Black’s Law Dictionary, kinh tế học pháp luật là “một môn học chủ trương thực hiện
phân tích pháp luật dưới góc độ kinh tế theo đó mọi quy tắc pháp lý được phân tích bằng cách đánh giá chi phí/lợi
ích để quyết định xem liệu một sự thay đổi pháp luật từ trạng thái hiện tại có làm tăng hay giảm hiệu quả sử dụng và
phân bổ nguồn lực trong xã hội hay không” (Black’s Law Dictionary, 7th edition, 1999, p. 890, trích theo: Nguyễn
Văn Cương, Nguyễn Hồng Quang, Trường phái kinh tế học pháp luật và khả năng áp dụng tại Việt Nam, Tạp chí
Nghiên cứu Lập pháp số 5, tháng 3/2012 ).
5
Đỗ Phương Anh thực hiện năm 2010 tại Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh;
“Pháp luật về quản trị công ty đại chúng tại Việt Nam” do Đỗ Hà Thuận An thực
hiện năm 2012 tại Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh...
Liên quan tới đề tài quản trị công ty có các cuốn sách, những bài báo, công
trình khoa học như: “Công ty: vốn, quản lý và tranh chấp” của Nguyễn Ngọc Bích,
Nguyễn Đình Cung, NXB Tri Thức, 2009; “CEO và HĐQT” của Phạm Trí Hùng,
Nguyễn Trung Thẳng, NXB Lao động – Xã hội, 2012; “Học thuyết về đại diện và
mấy vấn đề của pháp luật công ty Việt Nam” của TS. Bùi Xuân Hải, Tạp chí Khoa
học pháp lý số 4 (41)/2007, Đề tài Khoa học và công nghệ cấp Trường năm 2013,
Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh “Sự phân tách giữa quyền sở hữu và quản
lý, điều hành trong công ty cổ phần đại chúng” do TS. Hà Thị Thanh Bình làm chủ
nhiệm…
Một số bài tham luận trong Hội thảo khoa học “LDN và Luật Phá sản trong
bối cảnh khủng hoảng kinh tế - Tiếp cận kinh nghiệm từ Đức, Pháp, Nhật” tổ chức
ở Hà Nội tháng 4/2013 có nêu một số vấn đề liên quan như tổng quan về quản trị
công ty ở Việt Nam, những phát triển chính trong Luật Công ty đương đại – một số
nhận xét về tranh luận quản trị doanh nghiệp…
Một số tham luận trong Hội thảo khoa học “Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn
thiện pháp luật ở Việt Nam” do Trường Đại học Kinh tế - Luật, Đại học Quốc gia
Tp. Hồ Chí Minh và Tạp chí Nghiên cứu lập pháp tổ chức tháng 5 năm 2014 có
nghiên cứu về tổ chức quản lý công ty, cấu trúc HĐQT, cơ chế quản trị công ty cổ
phần…
Các công trình trên chủ yếu đề cập những vấn đề liên quan đến quản trị công
ty với các cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu thông thường mà chưa sử
dụng góc nhìn kinh tế học thể chế.
Công trình “Về trường phái kinh tế học pháp luật” của Viện Khoa học pháp
lý, Bộ Tư pháp giới thiệu chung về trường phái kinh tế học pháp luật, đặc biệt về
khả năng ứng dụng và lợi ích của việc nghiên cứu kinh tế học pháp luật.
Về kinh tế học thể chế, đã có Tóm lược công trình được Giải thưởng Nobel
của Douglass C. North “Các thể chế, sự thay đổi thể chế và hoạt động kinh tế” và
cuốn sách “Kinh tế học thể chế: Trật tự xã hội và chính sách công” của Wolfgang
6
Kasper và Manfred E. Streit, NXB Edward Elgar được Lê Anh Hùng dịch ra tiếng
Việt có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo.
Tuy nhiên, các công trình này chỉ đưa ra những vấn đề mang tính lý luận
chung về kinh tế học pháp luật, kinh tế học thể chế, chưa có tiếp cận cụ thể về quản
trị công ty nói chung và phân tích về pháp luật quản trị công ty nói riêng.
Có tham luận5 trong Hội thảo “LDN và những vướng mắc trong thực thi” do
Khoa Luật Thương mại, Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh tổ chức tháng
4/2014 tiếp cận đóng góp cho Dự thảo LDN sửa đổi từ góc độ kinh tế học pháp
luật.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Luận văn đặt mục đích nghiên cứu làm rõ các vấn đề lý luận và thực tiễn về
pháp luật quản trị công ty từ góc độ các lý luận và mô hình kinh tế học thể chế;
đánh giá thực trạng pháp luật và thực trạng áp dụng pháp luật về quản trị công ty
ở Việt Nam từ góc độ kinh tế học thể chế; chỉ ra bất cập, hạn chế để trên cơ sở
đó đưa ra đề xuất hoàn thiện pháp luật quản trị công ty ở Việt Nam.
Với mục đích trên, Luận văn đặt ra các nhiệm vụ nghiên cứu sau đây:
- Làm rõ các vấn đề lý luận và thực tiễn về pháp luật quản trị công ty từ góc
độ các lý thuyết và mô hình của kinh tế học pháp luật, kinh tế học thể chế;
- Đánh giá đánh giá thực trạng pháp luật và thực trạng áp dụng pháp luật về
quản trị công ty ở Việt Nam từ góc độ kinh tế học thể chế để chỉ ra bất cập, hạn
chế;
- Đưa ra đề xuất hoàn thiện pháp luật quản trị công ty ở Việt Nam từ góc độ
kinh tế học thể chế.
Các quy định về quản trị doanh nghiệp nhà nước 6 mới chỉ đang được dự thảo
trong Dự thảo LDN (sửa đổi) nhưng Luận văn cũng đặt nhiệm vụ phân tích, bình
luận các quy định liên quan từ góc độ kinh tế học thể chế để đóng góp hoàn thiện
5
Phạm Trí Hùng, Đề xuất đóng góp cho Dự thảo Luật Doanh nghiệp từ góc độ kinh tế học pháp luật.
6
Có nhiều cách hiểu khác nhau về “doanh nghiệp nhà nước”. Theo Hướng dẫn của OECD về quản trị công ty trong
doanh nghiệp nhà nước, thuật ngữ “doanh nghiệp nhà nước” dùng để chỉ các doanh nghiệp mà nhà nước có quyền
kiểm soát thông qua sở hữu toàn bộ, đa số hay thiểu số quan trọng.
7
Dự thảo Luật.
4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu của đề tài và phương pháp nghiên cứu
4.1. Giới hạn phạm vi nghiên cứu của đề tài: trong khuôn khổ Luận văn tốt
nghiệp Thạc sỹ Luật, tác giả giới hạn phạm vi nghiên cứu của đề tài trong các vấn
đề pháp lý về quản trị công ty theo pháp luật Việt Nam, chủ yếu áp dụng đối với
công ty đại chúng và doanh nghiệp nhà nước - bởi ở hai hình thức tổ chức kinh
doanh này có điểm nổi bật là có sự tách biệt giữa quyền sở hữu và điều hành, có sự
điều chỉnh không chỉ bởi các thể chế bên ngoài mà còn bởi các thể chế bên trong,
có thể áp dụng hiệu quả kinh tế học thể chế để nghiên cứu.
Đề tài chỉ nghiên cứu các lý luận, mô hình của kinh tế học thể chế chủ yếu để
tiếp cận đánh giá, phân tích quy định của pháp luật Việt Nam về quản trị công ty.
4.2. Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp nghiên cứu chủ yếu của Luận văn là phương pháp kinh tế học
pháp luật.
Bên cạnh đó, Luận văn cũng sử dụng các phương pháp nghiên cứu truyền
thống như Phân tích luật viết, Phân tích, Tổng hợp.
5. Bố cục Luận văn:
Luận văn gồm Phần mở đầu, 02 Chương và Kết luận. Ở Chương 1 trình bày
những vấn đề lý luận về pháp luật quản trị công ty từ góc độ kinh tế học thể chế khái niệm và các nguyên tắc của quản trị công ty, khả năng áp dụng kinh tế học thể
chế và những lý thuyết của kinh tế học thể chế có thể áp dụng để nghiên cứu đóng
góp hoàn thiện pháp luật quản trị công ty. Chương 2 phân tích thực trạng pháp luật
quản trị công ty từ góc độ kinh tế học thể chế với các quy định cụ thể về bảo đảm
cơ chế quản trị hiệu quả, quy định về minh bạch trong hoạt động của công ty và
quy định về trách nhiệm của người quản lý, điều hành công ty. Ở Chương 2 cũng
đưa ra những đề xuất hoàn thiện pháp luật về quản trị công ty từ góc độ kinh tế học
thể chế.
8
Chương 1: LÝ LUẬN VỀ QUẢN TRỊ CÔNG TY TỪ GÓC ĐỘ KINH TẾ
HỌC THỂ CHẾ
Thể chế (institution) là những quy tắc tương tác của con người, ràng buộc
cách ứng xử khả dĩ cơ hội chủ nghĩa và thất thường của cá nhân, qua đó khiến cho
hành vi con người trở nên dễ tiên đoán hơn và tạo điều kiện cho sự phân công lao
động cùng hoạt động tạo ra của cải vật chất7.
7
Wolfgang Kasper – Manfred E.Streit, Kinh tế học thể chế - Trật tự và chính sách công, Lê Anh Hùng dịch.
9
Kinh tế học thể chế (institutional economics) là một trào lưu kinh tế học hiện
đại có đối tượng nghiên cứu là những quy ước xã hội, những quy định pháp lý ảnh
hưởng đến hành vi của chủ thể kinh tế và có phương pháp nghiên cứu là mô hình
hóa các hành vi kinh tế duy lý của chủ thể kinh tế trong môi trường đầy rủi ro
không xác định được. Kinh tế học thể chế bao hàm mối quan hệ hai chiều giữa
kinh tế học và các thể chế. Nó quan tâm đến ảnh hưởng của các thể chế đến nền
kinh tế cũng như quá trình phát triển của các thể chế trước những trải nghiệm về
kinh tế.
Các lý luận và mô hình chủ yếu của kinh tế học thể chế mới gồm lý luận chi
phí giao dịch, lý luận ủy thác và đại lý, lý luận về quyền sở hữu, lý luận thông tin
phi đối xứng, lý luận hành vi chiến lược, lý luận rủi ro đạo đức, lý luận tuyển chọn
ngược, chi phí giám sát, động cơ, mặc cả, hợp đồng, tự vệ, chủ nghĩa cơ hội, tính
duy lý giới hạn, v.v... Trên cơ sở các mô hình và lý luận này, kinh tế học thể chế
mới tập trung phân tích các hệ thống và chế độ kinh tế, quản trị công ty, giám sát
tài chính, chiến lược doanh nghiệp, v.v... Người khởi xướng trào lưu kinh tế học
thể chế là Ronald Coase (giải Nobel kinh tế học năm 1991) và những học giả kinh
tế nổi tiếng thuộc trào lưu này hay có liên quan tới trào lưu này gồm Gary S.
Becker (giải thưởng Nobel kinh tế học năm 1992), Douglass North (giải Nobel
kinh tế học năm 1993), Oliver E. Williamson (giải Nobel kinh tế học năm 2009),
Avner Greif, Claude Menard, Amartya Sen, v.v…8
Kinh tế học thể chế được định hình như một trường phái lý luận pháp luật từ
khoảng giữa thế kỷ 20. Tại thời điểm đó, trường phái này được coi là hướng
nghiên cứu pháp luật mới theo đó, các nhà nghiên cứu dùng tri thức, phương pháp
của khoa kinh tế học để phân tích quá trình hình thành, phát triển của pháp luật và
thiết chế pháp luật, đánh giá, lượng hóa tương tác giữa pháp luật với xã hội.
Để xem xét, đánh giá pháp luật quản trị công ty từ góc độ kinh tế học thể chế,
trước hết cần tìm hiểu khái niệm quản trị công ty với những nguyên tắc cơ bản của
8
Nguồn: Bách khoa toàn thư mở Wikipedia - />%8Dc_th%E1%BB%83_ch%E1%BA%BF_m%E1%BB%9Bi
10
nó để định hướng xem có thể sử dụng những lý thuyết, mô hình nào của kinh tế
học thể chế trong việc nghiên cứu, phân tích.
1.1 Khái niệm quản trị công ty
1.1.1 Định nghĩa quản trị công ty
Quan niệm và nội dung của QTCT ở các quốc gia khác nhau là rất khác nhau
do sự khác biệt về nguồn gốc thể chế luật pháp, đặc tính quốc gia, văn hóa và trình
độ phát triển của thị trường tài chính tại mỗi nước…từ đó ảnh hưởng đến quyền
của cổ đông, quyền của chủ nợ, và thực thi quyền tư hữu9.
QTCT là thuật ngữ dịch từ nguyên gốc tiếng Anh corporate governance.
Governance có gốc từ tiếng Hy Lạp nghĩa là lèo lái. Người ta hình dung corporate
– công ty như một con tàu cần phải được lèo lái để đến bến thành công với thuyền
trưởng và đoàn thủy thủ là những người điều hành và người lao động trong công
ty. Công ty là của chủ sở hữu (nhà đầu tư, cổ đông…) nhưng để công ty tồn tại và
phát triển phải có sự dẫn dắt của HĐQT, sự điều hành của TGĐ và sự đóng góp
của người lao động trong công ty mà những người này không phải lúc nào cũng có
chung ý chí và quyền lợi. Rõ ràng cần phải có một cơ chế để điều hành và kiểm
soát để nhà đầu tư, cổ đông có thể kiểm soát HĐQT, kiểm soát việc điều hành công
ty để đem lại hiệu quả cao nhất.
Quản trị công ty là hệ thống được xây dựng để điều khiển và kiểm soát các
doanh nghiệp. Cấu trúc quản trị công ty chỉ ra cách thức phân phối quyền và trách
nhiệm trong số những thành phần khác nhau có liên quan tới công ty cổ phần như
HĐQT, TGĐ, cổ đông, và những chủ thể khác có liên quan. Quản trị công ty cũng
giải thích rõ qui tắc và thủ tục để ra các quyết định liên quan tới vận hành công ty.
Bằng cách này, QTCT cũng đưa ra cấu trúc thông qua đó người ta thiết lập các mục
tiêu công ty, và cả phương tiện để đạt được mục tiêu hay giám sát hiệu quả hoạt
động10.
9
Nguyễn Trường Sơn, Vấn đề quản trị công ty trong các doanh nghiệp Việt Nam, Tạp chí Khoa học và công nghệ,
Đại học Đà Nẵng, Số 5 (40), 2010.
10
Các nguyên tắc quản trị công ty của OECD, 2004,
www.oecd.org/daf/ca/corporategovernanceprinciples/45034702.pdf
11
Quản trị công ty nhắm tới mục tiêu thúc đẩy sự công bằng doanh nghiệp,
tính minh bạch và năng lực chịu trách nhiệm. Quản trị công ty có thể được hiểu
theo nghĩa hẹp là quan hệ của một doanh nghiệp với các cổ đông, hoặc theo nghĩa
rộng là quan hệ của doanh nghiệp với xã hội... 11
Theo PGS-TS. Phạm Duy Nghĩa, QTCT được hiểu là quá trình nhận diện tác
nhân ảnh hưởng đến thực thi quyền lực trong công ty, thiết chế đại diện và dung
hòa các tác nhân đó sao cho quyền lực trong công ty được thực hiện một cách hợp
lý, vì lợi ích của cổ đông, của công ty và của xã hội. Với cách hiểu như trên, khái
niệm QTCT trước hết được áp dụng với các công ty quy mô lớn, thường là công ty
cổ phần, đặc biệt là công ty đại chúng, doanh nghiệp nhà nước với nét đặc trưng là
có sự phân tách giữa sở hữu và điều hành, vốn đa dạng và có trách nhiệm xã hội
rộng rãi. QTCT có ít ý nghĩa với doanh nghiệp quy mô nhỏ, mang tính đóng12.
Có thể đưa ra một định nghĩa chung, dung hòa được sự khác nhau trong cách
quan niệm về QTCT như sau: QTCT là một hệ thống các cơ chế và quy định, thông
qua đó, công ty được định hướng, điều hành và kiểm soát nhằm đáp ứng quyền lợi
của nhà đầu tư, người lao động và những người điều hành công ty.
Các công ty đại chúng, công ty niêm yết ở Việt Nam chịu sự điều chỉnh của
các quy định về quản trị công ty theo LDN năm 2005, Luật Chứng khoán năm
2006. Sau khi Luật Chứng khoán 2006 được ban hành, Bộ Tài chính đã ban hành
Quyết định số 12/2007/QĐ-BTC ngày 13/3/2007 ban hành quy chế quản trị công
ty áp dụng cho các công ty niêm yết (“Quyết định 12”) và sau đó là Quyết định số
15/2007/QĐ-BTC ngày 19/3/2007 ban hành điều lệ mẫu của công ty niêm yết
(“Quyết định 15”). Tuy nhiên, gần đây hai quyết định trên đã được thay thế bởi
Thông tư số 121/2012/TT-BTC. Khác với Quyết định 12 và Quyết định 15 quy
11
James D. Wolfensohn, Financial Times, June 21, 1999.
12
Xem: Phạm Duy Nghĩa, Tổng quan về quản trị công ty ở Việt Nam, Hội thảo khoa học “Luật Doanh nghiệp và
Luật Phá sản trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế - Tiếp cận kinh nghiệm từ Đức, Pháp, Nhật”, Hà Nội, Tháng
4/2013.
12
định về quản trị công ty niêm yết, Thông tư 121/2012/TT-BTC quy định về quản trị
công ty đại chúng (CTĐC) nói chung (rộng hơn khái niệm công ty niêm yết). Thay
đổi này là phù hợp với xu thế tăng cường quản lý hoạt động của CTĐC nói chung
(không phân biệt việc CTĐC đã được niêm yết hay chưa) và khuyến khích các
CTĐC niêm yết cổ phần trên các thị trường giao dịch tập trung để tăng cường tính
minh bạch và thuận lợi cho việc quản lý thị trường vốn ở nước ta. Ngoài việc quy
định những nội dung cơ bản trong việc quản trị CTĐC, Thông tư 121/2012/TTBTC cũng ban hành Điều lệ mẫu cho các công ty này. Trong khi Quyết định
15/2007/QĐ-BTC nêu rõ Điều lệ các CTCP niêm yết tối thiểu phải bao gồm các
quy định của Điều lệ mẫu (trừ điều 27) và có thể bao gồm các điều khoản khác thì
Thông tư 121/2012/TT-BTC không khẳng định tính chất ràng buộc của Điều lệ
mẫu được ban hành kèm theo. Khoản 2 Điều 5 Thông tư 121/2012/TT-BTC yêu
cầu CTĐC tham chiếu Điều lệ mẫu ban hành kèm theo Thông tư này để xây dựng
điều lệ của công ty.
Theo Quyết định 12, “quản trị công ty” là hệ thống các quy tắc để đảm bảo
cho công ty được định hướng, điều hành và được kiểm soát một cách có hiệu
quả vì quyền lợi của cổ đông và những người liên quan đến công ty. Như vậy ở
Việt Nam, định nghĩa chính thống nhấn mạnh quản trị công ty là hệ thống quy tắc,
đòi hỏi phải thiết lập các quy tắc cho tất cả các hoạt động của công ty với Bộ quy
tắc quản trị công ty. Trong định nghĩa này nhấn mạnh đến mục tiêu cân đối giữa
định hướng, kiểm soát (trách nhiệm của HĐQT ) và điều hành, quản lý các hoạt
động kinh doanh của công ty (trách nhiệm của Ban giám đốc) một cách hiệu quả.
Sứ mệnh cao nhất của quản trị công ty được đưa ra là vì quyền lợi của cổ đông và
những người có quyền lợi liên quan. HĐQT và Ban giám đốc có trách nhiệm tạo ra
những giá trị lâu dài cho các cổ đông và đại diện cho quyền lợi của những người có
quyền lợi liên quan đến công ty.
Giữa QTCT và quản trị kinh doanh (business management) có sự khác nhau
rất cơ bản: Quản trị kinh doanh là điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp do Ban giám đốc thực hiện. QTCT là một quá trình giám sát và kiểm
soát được thực hiện để bảo đảm cho việc thực thi quản trị kinh doanh phù hợp với
lợi ích của các cổ đông. QTCT nghĩa rộng còn hướng đến đảm bảo quyền lợi của
13
những người liên quan, không chỉ là cổ đông mà còn bao gồm cả các nhân viên,
khách hàng, nhà cung cấp, môi trường và các cơ quan nhà nước.
QTCT đề ra cách phân chia quyền hạn và nghĩa vụ giữa các nhóm lợi ích
trong một công ty bao gồm cổ đông, HĐQT, CEO và các bên có lợi ích liên quan
như người lao động, nhà cung cấp (đặc biệt là nhà cung cấp tài chính). Mục đích
chính của QTCT cần được xác định là để bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư, cổ đông
và để đảm bảo mối liên hệ giữa các nhóm lợi ích trong công ty. Khi QTCT tốt, giá
trị của công ty sẽ tăng và như vậy sẽ có lợi trước hết cho nhà đầu tư, cổ đông. Các
quy định của QTCT chủ yếu liên quan đến HĐQT, các thành viên HĐQT và CEO
chứ không liên quan đến việc điều hành công việc hàng ngày của công ty. QTCT
tốt sẽ có tác dụng làm cho các quyết định và hành động của CEO thể hiện đúng ý
chí và đảm bảo lợi ích của nhà đầu tư, cổ đông và những người có lợi ích liên
quan.
QTCT thường tập trung xử lý các vấn đề phát sinh trong mối quan hệ ủy
quyền trong công ty, ngăn ngừa và hạn chế những người quản lý lạm dụng quyền
và nhiệm vụ được giao sử dụng tài sản và cơ hội kinh doanh của công ty phục vụ
cho lợi ích riêng của bản thân hoặc của người khác, hoặc làm thất thoát nguồn lực
do công ty kiểm soát.
Tóm lại, QTCT là mô hình cân bằng và kiềm chế quyền lực giữa các bên
liên quan của công ty, nhằm đảm bảo sự phát triển dài hạn và bền vững của công
ty.
Theo chúng tôi, cần mở rộng khái niệm QTCT, áp dụng QTCT không
chỉ với các công ty đại chúng mà với các công ty cổ phần, các doanh nghiệp
nhà nước13. Khác với các quốc gia khác, ở Việt Nam quản trị doanh nghiệp nhà
nước cần được xem là trọng tâm của nghiên cứu về QTCT, bởi lẽ theo ước tính
doanh nghiệp nhà nước chiếm tới ít nhất 1/3 GDP của Việt Nam, kiểm soát hầu hết
các nguồn tài nguyên và cơ hội kinh doanh. Thiếu tri thức về quản trị doanh nghiệp
nhà nước dẫn tới các chính sách liên quan như chế độ chủ quản, thực hiện quyền sở
hữu tại doanh nghiệp nhà nước, giám sát điều hành và minh bạch thông tin về
13
Tác giả nhấn mạnh
14
doanh nghiệp nhà nước đôi khi luẩn quẩn, lạc hậu, không có chiến lược trong hơn
20 năm qua14.
Rà soát, đánh giá LDN đã phát hiện một số khiếm khuyết trong nội dung của
LDN như LDN chưa quy định một số vấn đề mà thực tiễn cho là cần thiết phải
thuộc phạm vi điều chỉnh của LDN cụ thể là những vấn đề đặc thù trong quản trị
doanh nghiệp nhà nước. Dự thảo LDN (sửa đổi) có bổ sung thêm Chương 4 về
doanh nghiệp nhà nước với những quy định về nguyên tắc quản trị đối với doanh
nghiệp nhà nước15.
1.1.2 Các nguyên tắc quản trị công ty
Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) đã đưa ra Bộ nguyên tắc
QTCT bao gồm: (i) Đảm bảo Cơ sở cho một Khuôn khổ Quản trị Công ty Hiệu
quả; (ii) Quyền của Cổ đông và các Chức năng Sở hữu Cơ bản; (iii) Đối xử Bình
đẳng đối với Cổ đông; (iv) Vai trò của các Bên có Quyền lợi Liên quan trong Quản
trị Công ty; (v) Công bố Thông tin và Tính minh bạch; (vi) Trách nhiệm của
HĐQT
Bộ nguyên tắc QTCT này như một thể chế bên ngoài, mang tính khuyến cáo
sử dụng, được đưa ra nhằm giúp đánh giá và hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, tổ
chức và quản lý cho QTCT và cung cấp các hướng dẫn và khuyến nghị cho quá
trình phát triển một thông lệ QTCT tốt với các yêu cầu cụ thể.
Theo Bộ nguyên tắc QTCT, khuôn khổ QTCT được Nhà nước (từ bên ngoài)
và doanh nghiệp (từ bên trong) hướng tới xây dựng cần thúc đẩy tính minh bạch và
hiệu quả của thị trường, phù hợp với quy định của pháp luật, và phân định rõ ràng
trách nhiệm giữa các cơ quan giám sát, quản lý và cưỡng chế thực thi.
Khuôn khổ QTCT cần được phát triển dựa trên quan điểm về tác động của
nó đối với hiệu quả kinh tế nói chung, tính toàn vẹn của thị trường và các cơ chế
14
Phạm Duy Nghĩa, Tổng quan về quản trị công ty ở Việt Nam, Hội thảo khoa học “Luật Doanh nghiệp và Luật Phá
sản trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế - Tiếp cận kinh nghiệm từ Đức, Pháp, Nhật”, Hà Nội, Tháng 4/2013.
15
Tờ trình Số: 1353/TTr- BKHĐT ngày 10/3/2014 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư về Dự án Luật Doanh nghiệp (sửa
đổi).
15
khuyến khích mà khuôn khổ này tạo ra cho các bên tham gia thị trường, và sự thúc
đẩy thị trường minh bạch và hiệu quả.
Các quy định pháp lý và quản lý tác động tới thông lệ QTCT cần phù hợp
với quy định của pháp luật, minh bạch và có khả năng cưỡng chế thực thi. Việc
phân định trách nhiệm giữa các cơ quan quản lý khác nhau phải được quy định rõ
ràng và đảm bảo phục vụ lợi ích của công chúng. Các cơ quan giám sát, quản lý và
cưỡng chế thực thi phải liêm chính, có đủ thẩm quyền, và nguồn lực để hoàn thành
chức năng của mình một cách chuyên nghiệp và khách quan. Hơn nữa, các quyết
định của những cơ quan này phải kịp thời, minh bạch và được giải thích đầy đủ.
Khuôn khổ QTCT phải bảo vệ và tạo điều kiện thực hiện quyền của cổ đông;
đảm bảo sự đối xử bình đẳng đối với mọi cổ đông, trong đó có cổ đông thiểu số và
cổ đông nước ngoài. Mọi cổ đông phải có cơ hội khiếu nại hiệu quả khi quyền của
họ bị vi phạm.
Khuôn khổ QTCT phải công nhận quyền của các bên có quyền lợi liên quan
đã được pháp luật hay quan hệ hợp đồng quy định và phải khuyến khích sự hợp tác
tích cực giữa công ty và các bên có quyền lợi liên quan trong việc tạo dựng tài sản,
việc làm và ổn định tài chính cho doanh nghiệp.
Khuôn khổ QTCT phải đảm bảo việc công bố thông tin kịp thời và chính xác
về mọi vấn đề quan trọng liên quan đến công ty, bao gồm tình hình tài chính, tình
hình hoạt động, sở hữu và QTCT. Khuôn khổ QTCT cần đảm bảo định hướng
chiến lược của công ty, giám sát có hiệu quả công tác quản lý của HĐQT và trách
nhiệm của HĐQT đối với công ty và cổ đông.
Thành viên HĐQT phải làm việc với thông tin đầy đủ, tin cậy, siêng năng và
cẩn trọng, và vì lợi ích cao nhất của công ty và cổ đông. Ở một số quốc gia, luật
pháp quy định HĐQT phải hoạt động vì lợi ích của công ty, quan tâm tới lợi ích
của cổ đông, người lao động và cộng đồng. Hoạt động vì lợi ích cao nhất của công
ty không cho phép ban lãnh đạo trở nên cách biệt, bảo thủ.
Nguyên tắc này ghi rõ hai yếu tố chính trong trách nhiệm được ủy thác của
thành viên HĐQT, đó là: trách nhiệm cẩn trọng và trách nhiệm trung thành. Trách
nhiệm cẩn trọng yêu cầu thành viên HĐQT hoạt động với thông tin đầy đủ, tin cậy,
mẫn cán và cẩn trọng. Một số quốc gia có chuẩn mực tham khảo cho hành vi mà
16
một người cẩn trọng thực hiện trong các tình huống tương tự. Ở hầu hết các quốc
gia, trách nhiệm cẩn trọng không bao gồm các sai sót trong đánh giá tình hình kinh
doanh miễn là thành viên HĐQT không quá sơ suất và quyết định được đưa ra với
sự mẫn cán cần thiết. Nguyên tắc này yêu cầu thành viên HĐQT hoạt động với
thông tin đầy đủ. Thông lệ tốt ở đây là họ cần phải cảm thấy hài lòng rằng các hệ
thống thông tin và tuân thủ chủ yếu của công ty về cơ bản là có hiệu quả và củng
cố vai trò giám sát của HĐQT như đề cập trong bộ Nguyên tắc này. Ở nhiều quốc
gia, điều này được coi là một yếu tố của trách nhiệm cẩn trọng, trong khi ở các
quốc gia khác việc này được quy định bởi các luật lệ về chứng khoán, chuẩn mực
kế toán v.v. Trách nhiệm trung thành có vai trò then chốt vì nó củng cố việc thực
hiện có hiệu quả các nguyên tắc khác trong bộ Nguyên tắc này, ví dụ, đối xử bình
đẳng với mọi cổ đông, giám sát giao dịch với các bên có liên quan, và xây dựng
chính sách thù lao phù hợp cho cán bộ quản lý cao cấp và thành viên HĐQT. Đây
cũng là một nguyên tắc chủ chốt đối với thành viên HĐQT đang làm việc trong
một tập đoàn: mặc dù một công ty có thể đặt dưới sự kiểm soát của một công ty
khác, trách nhiệm trung thành của thành viên HĐQT chỉ liên quan tới công ty đó
và tất cả cổ đông của nó mà không liên quan tới công ty kiểm soát tập đoàn16.
Các nguyên tắc quản trị công ty theo quy định của pháp luật Việt Nam cũng
theo hình mẫu của Bộ quy tắc QTCT mà OECD đưa ra, bao gồm: Đảm bảo một cơ
cấu quản trị hiệu quả; Đảm bảo quyền lợi của cổ đông; Đối xử công bằng giữa các
cổ đông; Đảm bảo vai trò của những người có quyền lợi liên quan đến công ty;
Minh bạch trong hoạt động của công ty; HĐQT và Ban kiểm soát (BKS) lãnh đạo
và kiểm soát công ty có hiệu quả17.
Nhìn chung, có thể thấy để giải quyết vấn đề phân tách giữa quyền sở hữu và
quản lý điều hành trong các công ty có sự phân tách này, pháp luật quản trị công ty
tập trung vào bốn nhóm vấn đề chính là: (i) các quy định về tổ chức quản trị công
ty; (ii) các quy định về trách nhiệm của những người quản lý, điều hành công ty;
16
Xem: Các nguyên tắc quản trị công ty của OECD, 2004
17
Mục a) Khoản 1 Điều 2 Quyết định 12. Quy chế Quản trị công ty của các công ty Việt Nam thường nhắc lại định
nghĩa và các nguyên tắc QTCT nêu ở đây.
17
(iii) các quy định về công bố thông tin; (iv) các quy định về giám sát giao dịch nội
gián. Phân tích, đóng góp cho pháp luật quản trị công ty từ góc độ kinh tế học thể
chế cũng có thể theo bốn nhóm vấn đề chính nêu trên và bám sát các nguyên tắc
QTCT, được tổng hợp trong ba đề mục chính: (i) quy định về bảo đảm cơ chế quản
trị hiệu quả; (ii) quy định về minh bạch trong hoạt động của công ty; (iii) quy định
về trách nhiệm của những người quản lý, điều hành công ty18.
Nhìn vào hoạt động của công ty, có thể thấy có một số giao dịch giữa công
ty và một số đối tượng nhất định có thể gây thiệt hại cho công ty và cổ đông vì vậy
QTCT đặc biệt nhằm vào điều chỉnh các giao dịch: khi công ty cho những người có
liên quan (thành viên HĐQT, Ban giám đốc, cổ đông lớn…) vay mượn; khi công ty
vay mượn của những người có liên quan; khi công ty đứng ra bảo lãnh cho những
người có liên quan; khi công ty bán tài sản cho những người có liên quan; khi công
ty mua tài sản từ cổ đông; khi công ty ký hợp đồng với các bên có liên quan; khi
công ty bán cổ phần cho cổ đông với giá thấp hơn giá thị trường; khi công ty mua
lại cổ phần từ cổ đông với giá cao hơn giá thị trường; khi có gian lận trong chuyển
nhượng tài sản của công ty; khi những người quản lý công ty nhận tiền hoa hồng.
Những vấn đề như cung cấp thông tin về tình trạng chung và tình trạng tài chính
của công ty, vấn đề thủ tục đưa ra các quyết định quan trọng trong công ty cũng
cần được điều chỉnh một cách rõ ràng trong khuôn khổ của QTCT19.
Ở đây, cần phân biệt và làm rõ mối quan hệ giữa QTCT và tổ chức quản lý
công ty (management organization). Theo Điều 1 LDN năm 2005: “Luật này quy
định về việc thành lập, tổ chức quản lý và hoạt động của công ty trách nhiệm hữu
hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh…”.
Mục tiêu cao nhất của sửa đổi LDN là làm cho doanh nghiệp trở thành một
công cụ kinh doanh rẻ hơn, an toàn hơn và hấp dẫn hơn cho các nhà đầu tư; qua đó
18
Các vấn đề còn lại của QTCT như bảo đảm quyền lợi của cổ đông, đối xử công bằng giữa các cổ đông, bảo đảm
vai trò của những người có quyền lợi liên quan đến công ty nếu xét từ góc độ kinh tế học pháp luật, kinh tế học thể
chế chủ yếu chỉ liên quan đến vấn đề chi phí giao dịch – các chi phí để bảo đảm các quyền của cổ đông và những
người có quyền lợi liên quan.
19
Xem: Diễn đàn doanh nghiệp Việt Nam – EU, Quản trị doanh nghiệp - Sổ tay hướng dẫn cho các giám đốc Việt
Nam, 2008
18
tăng cường thu hút và huy động hơn nữa mọi nguồn lực và vốn đầu tư vào sản
xuất, kinh doanh. Một trong các mục tiêu cụ thể mà dự án LDN (sửa đổi) nhằm
đạt được là tạo thuận lợi hơn, giảm chi phí cho tổ chức quản trị doanh nghiệp,
nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp20.
So với QTCT, có thể thấy: (i) khái niệm tổ chức quản lý công ty rộng hơn,
bao gồm tất cả những quy định liên quan đến tổ chức quản lý và hoạt động của
doanh nghiệp; (ii) quy định về tổ chức quản lý công ty áp dụng đối với tất cả các
doanh nghiệp; (iii) tổ chức quản lý công ty thiên về góc độ quản lý nhà nước đối
với doanh nghiệp – đưa ra một khung khổ chung, thống nhất tổ chức quản lý và
hoạt động của doanh nghiệp.
QTCT cũng nhằm bảo đảm tính hiệu quả của tổ chức quản lý và hoạt động
của doanh nghiệp, hiệu lực của quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp. So với tổ
chức quản lý công ty, (i) khái niệm QTCT hẹp hơn, chỉ bao gồm các quy định,
thông qua đó, công ty được định hướng, điều hành và kiểm soát nhằm đáp ứng
quyền lợi của nhà đầu tư, người lao động và những người điều hành công ty; (ii)
QTCT ở Việt Nam hiện tại chủ yếu được áp dụng với công ty đại chúng; (iii)
QTCT thiên về góc độ bảo đảm quyền lợi của chủ sở hữu và các bên có liên quan.
Pháp luật về QTCT đưa ra khung khổ chung, chủ yếu đưa ra một số quy
định về QTCT áp dụng cho các công ty đại chúng và chỉ là một phần của các cơ
cấu và quá trình cho định hướng và kiểm soát công ty. Tự các công ty sẽ phải xây
dựng Quy chế QTCT của riêng mình với những nét đặc thù riêng thể hiện cả trong
quá trình áp dụng Quy chế QTCT.
Một điểm cần lưu ý là Bộ nguyên tắc QTCT mà OECD đưa ra được khuyến
cáo là tập trung vào các công ty cổ phần đại chúng nhưng trong phạm vi có thể
cũng là công cụ hữu ích để nâng cao QTCT trong các doanh nghiệp tư nhân và đặc
biệt là trong các doanh nghiệp nhà nước. Bộ nguyên tắc QTCT tập trung vào các
vấn đề quản trị bắt nguồn từ việc tách rời quyền sở hữu và quyền kiểm soát mà
trong các doanh nghiệp nhà nước có thể thấy rất rõ việc tách rời các quyền này.
20
Tác giả nhấn mạnh. Tờ trình Số: 1353/TTr- BKHĐT ngày 10/3/2014 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư về Dự án Luật
Doanh nghiệp (sửa đổi).
19
QTCT trong doanh nghiệp nhà nước là một thách thức lớn ở nhiều nền kinh tế.
OECD cũng đã đưa ra Hướng dẫn về QTCT trong doanh nghiệp nhà nước21 để giúp
đánh giá và cải thiện các thức thực hiện quyền sở hữu trong các doanh nghiệp giữ
vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế này.
QTCT trong doanh nghiệp nhà nước là một vấn đề lớn ở nhiều nền kinh tế.
Doanh nghiệp nhà nước chiếm một phần quan trọng trong Tổng thu nhập kinh tế
quốc dân (GDP), lực lượng lao động và vốn. Doanh nghiệp nhà nước thường phổ
biến trong các ngành cung cấp dịch vụ công cộng và cơ sở hạ tầng như năng lượng,
giao thông và viễn thông - những ngành mà hiệu quả của nó rất quan trọng đối với
phần lớn dân số và các ngành kinh tế khác. Vì vậy, QTCT trong doanh nghiệp nhà
nước cần được đặc biệt chú trọng để bảo đảm đóng góp tích cực vào hiệu quả kinh
tế chung và tính cạnh tranh của quốc gia.
Về cơ bản, các nguyên tắc QTCT trong doanh nghiệp nhà nước cũng giống
các nguyên tắc QTCT theo hình mẫu của Bộ quy tắc QTCT mà OECD đưa ra – chỉ
có thay nguyên tắc về quyền của cổ đông và các chức năng sở hữu cơ bản thành
nguyên tắc về vai trò chủ sở hữu của nhà nước. Điểm khác biệt và thách thức lớn
nhất ở đây là tìm được sự cân bằng giữa thực thi tích cực chức năng sở hữu của
nhà nước, ví dụ đề cử và bầu HĐQT, với việc tránh can thiệp sâu quá mức vào
quản lý doanh nghiệp. Đồng thời cũng cần lưu ý tách bạch việc thực hiện quyền sở
hữu nhà nước với thực hiện các chức năng quản lý nhà nước.
1.2 Khả năng áp dụng kinh tế học thể chế trong hoàn thiện pháp luật
quản trị công ty
1.2.1. Sự cần thiết hoàn thiện pháp luật quản trị công ty
Nếu hiểu theo nghĩa rộng thì pháp luật về doanh nghiệp là tổng hợp các quy
phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình thành lập,
tổ chức hoạt động, chấm dứt sự tồn tại của doanh nghiệp. Các nhà nghiên cứu của
Việt Nam thường phân chia pháp luật về doanh nghiệp thành 02 nhóm lớn: 1) Pháp
luật về tổ chức doanh nghiệp (quy định về địa vị pháp lý của doanh nghiệp và
21
Xem: Hướng dẫn của OECD về Quản trị Công ty trong Doanh nghiệp Nhà nước,
www.oecd.org/daf/ca/SOEGuidelinesVietnamese.pdf
20
những người góp vốn vào doanh nghiệp; cơ cấu tổ chức quản lý, vốn, tài sản của
doanh nghiệp; quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp) và 2) Pháp luật về hoạt
động của doanh nghiệp (quy định về sử dụng lao động, thực hiện nghĩa vụ thuế và
tài chính khác, quy định về hợp đồng…). Quy định về tổ chức quản lý (nội bộ)
doanh nghiệp thường bao gồm các vấn đề: bộ máy quản lý nội bộ; các chức danh
quản lý quan trọng trong doanh nghiệp; quyền hạn, nghĩa vụ, trách nhiệm của các
bộ phận trong bộ máy quản lý, các chức danh quản lý, cách thức tổ chức hoạt động
cho các bộ phận/chức danh trong bộ máy quản lý; điều kiện, thủ tục xem xét, thông
qua các quyết định quản lý22.
Nếu chúng ta phân tích những phát triển mới nhất trong luật công ty đương
đại ở châu Âu, Hoa Kỳ và châu Á, đặc biệt là ở Cộng hòa Liên bang Đức, Cộng
hòa Pháp, Anh và Nhật Bản thì đối với công ty đại chúng hoặc niêm yết, có sự tập
trung vào việc điều chỉnh và cải cách nguyên trạng của luật công ty theo hướng cải
thiện chức năng kinh tế của công ty hiện đại, thuộc khía cạnh quản trị công ty,
nghĩa là cách thức để giải quyết xung đột ủy quyền – đại diện (principal – agent
relationship), giữa nhà đầu tư, cổ đông, chủ sở hữu của công ty (những người vốn
phải chịu rủi ro mất vốn đầu tư nhưng trong hầu hết các trường hợp lại không có
ảnh hưởng lớn đến quyết định quản lý) với những người điều hành hoạt động hàng
ngày của công ty (thể hiện sự tách bạch quyền sở hữu và quyền kiểm soát công ty
- separation of ownership and control)23. Hoàn thiện pháp luật QTCT là đóng góp
hoàn thiện các quy định về tổ chức quản lý doanh nghiệp, đặc biệt là để giải quyết
xung đột ủy quyền – đại diện.
Sự cần thiết hoàn thiện pháp luật QTCT ở Việt Nam trước hết xuất phát từ
tầm quan trọng và ý nghĩa của QTCT.
22
Xem: Phan Chí Hiếu, Cấu trúc pháp luật về doanh nghiệp ở Việt Nam, Hội thảo khoa học “Luật Doanh nghiệp và
Luật Phá sản trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế - Tiếp cận kinh nghiệm từ Đức, Pháp, Nhật”, Hà Nội, Tháng
4/2013.
23
Jurgen Kebler, Những phát triển chính trong Luật Công ty đương đại – một số nhận xét về tranh luận quản trị
doanh nghiệp, Hội thảo khoa học “Luật Doanh nghiệp và Luật Phá sản trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế - Tiếp
cận kinh nghiệm từ Đức, Pháp, Nhật”, Hà Nội, Tháng 4/2013.
21
Ở góc độ vi mô, QTCT tốt có thể làm tăng giá trị doanh nghiệp bằng cách
nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp thông qua quản lý hiệu quả, phân
bổ tài sản tốt hơn, các chính sách lao động tốt hơn cũng như các cải thiện hiệu suất
khác24. QTCT tốt góp phần vào phát triển kinh tế bền vững do cải thiện được hoạt
động của các công ty và nâng cao khả năng tiếp cận các nguồn vốn bên ngoài của
các công ty đó.
Ở góc độ vĩ mô, đối với các quốc gia có nền kinh tế thị trường mới nổi như
Việt Nam, việc tăng cường QTCT có thể phục vụ cho rất nhiều các mục đích chính
sách công quan trọng. QTCT tốt giảm thiểu khả năng tổn thương trước các khủng
hoảng tài chính, củng cố quyền sở hữu, giảm chi phí giao dịch và chi phí vốn. Một
khuôn khổ QTCT yếu kém sẽ làm giảm mức độ tin tưởng của các nhà đầu tư, và
không khuyến khích đầu tư từ bên ngoài25.
Sự cần thiết hoàn thiện pháp luật QTCT ở Việt Nam cũng gắn với quá trình
hoàn thiện sửa đổi pháp luật về doanh nghiệp. Rà soát, đánh giá LDN năm 2005 đã
phát hiện một số khiếm khuyết trong nội dung của Luật, ví dụ như: một số điều
khoản đã chứng tỏ là thiếu tính khả thi, gây cản trở và làm tăng thêm chi phí tuân
thủ đối với các nhà đầu tư và doanh nghiệp; mô hình quản trị đa hội đồng như hiện
nay không còn phù hợp thực tế đa dạng của doanh nghiệp về quy mô, tính chất sở
hữu và sự đa dạng của cách thức quản trị công ty; chưa quy định một số vấn đề đặc
thù trong quản trị doanh nghiệp nhà nước mà thực tiễn cho là cần thiết phải thuộc
phạm vi điều chỉnh của Luật Doanh nghiệp…
Với mục tiêu cao nhất là làm cho doanh nghiệp trở thành một công cụ kinh
doanh rẻ hơn, an toàn hơn và hấp dẫn hơn cho các nhà đầu tư; qua đó tăng cường
thu hút và huy động hơn nữa mọi nguồn lực và vốn đầu tư vào sản xuất, kinh
doanh, Dự thảo LDN sửa đổi (Dự thảo Luật) đã có những nội dung mới như xác
định rõ địa vị pháp lý, vai trò và bổn phận của người đại diện theo pháp luật của
24
S.Clasessens và B. Yurtoglu, Quản trị công ty và phát triển, 2012, trích theo: Chương trình tư vấn của IFC tại
Đông Á và Thái Bình Dương, Báo cáo Thẻ điểm Quản trị Công ty 2012.
25
Ngân hàng Thế giới, Đánh giá tình hình quản trị công ty ở Việt Nam, 2006,
www.worldbank.org/ifa/rosc_cg_vietnam_vnm.pdf
22
doanh nghiệp; bổ sung thêm mô hình quản trị doanh nghiệp theo mô hình quản trị
đơn hội đồng đối với công ty cổ phần; mở rộng nội dung cho phép công ty quy
định nguyên tắc quản trị doanh nghiệp cụ thể hơn, chi tiết hơn; quy định cụ thể về
tổ chức thực hiện quyền chủ sở hữu vốn nhà nước trong doanh nghiệp…26.
Thực hiện LDN 2005, hàng trăm tập đoàn kinh tế và tổng công ty nhà nước
đã chuyển đổi sang hoạt động theo mô hình công ty TNHH một thành viên. Tuy
nhiên, đến nay vẫn chưa có các quy định chặt chẽ về QTCT áp dụng với loại hình
công ty “siêu đại chúng” này. Văn bản đáng chú ý nhất đề cập đến việc quản lý các
các công ty TNHH một thành viên do Nhà nước làm chủ sở hữu là ngày 11/6/2012,
Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 706/QĐ-TTg phê duyệt Đề án
Đổi mới quản trị DN theo thông lệ kinh tế thị trường. Theo đó, Việt Nam cần
nghiên cứu, soạn thảo và ban hành Quy chế quản trị công ty TNHH một thành viên
do Nhà nước làm chủ sở hữu.
Như vậy, bên cạnh việc bổ sung những quy định mới trong LDN sửa đổi về
mô hình “nhóm công ty” để đáp ứng những đòi hỏi và yêu cầu bức xúc hiện nay
của mô hình tổ chức và hoạt động của các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước,
công ty nhà nước có quy mô lớn, cần thiết phải có riêng Quy chế quản trị công ty
TNHH một thành viên do Nhà nước làm chủ sở hữu dựa trên các hướng dẫn của
OECD về vấn đề này (áp dụng cho các DN mà Nhà nước nắm giữ 100% vốn)27.
Tuy nhiên về tổ chức quản lý công ty TNHH một thành viên do nhà nước
làm chủ sở hữu cũng có nhiều ý kiến khác nhau 28. PGS-TS. Dương Anh Sơn cho
26
Xem: Dự thảo Tờ trình của Bộ Kế hoạch và Đầu tư về Dự án Luật Doanh nghiệp (sửa đổi),
/>
27
Lê Minh Toàn, Quản trị công ty nhà nước, khoảng trống pháp lý
/>
28
Xem: Phan Huy Hồng, Về tổ chức quản lý công ty TNHH một thành viên do nhà nước làm chủ sở hữu trong Luật
Doanh nghiệp (sửa đổi), Kỷ yếu Hội thảo khoa học “Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật ở Việt Nam”,
Trường Đại học Kinh tế - Luật, Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh và Tạp chí Nghiên cứu lập pháp tổ chức, Tháng
5/2014
23
rằng, việc có thêm một chương có tên gọi “Doanh nghiệp nhà nước” vào LDN có
vẻ trái với xu hướng tự do hóa thương mại và có thể mang lại một số rủi ro nhất
định. Mặc dù Chương 4 có tên gọi “Doanh nghiệp nhà nước” nhưng thực chất các
quy định của Chương này chỉ đề cập đến loại hình công ty TNHH một thành viên
do nhà nước làm chủ sở hữu29.
1.2.2. Khả năng áp dụng kinh tế học thể chế trong nghiên cứu hoàn thiện
pháp luật quản trị công ty
Dù từ góc độ tổ chức quản lý và hoạt động nói chung hay từ góc độ QTCT
nói riêng, thì mục tiêu cuối cùng của công ty không là phải để thực hiện đúng
những quy định về tổ chức quản lý và hoạt động, quy định về QTCT mà công ty,
như một tổ chức kinh tế được thành lập để nhằm mục đích kinh tế, mục đích sinh
lợi.
Theo Báo cáo Thẻ điểm Quản trị Công ty 2012 của Chương trình tư vấn của
Công ty Tài chính quốc tế (IFC) tại Đông Á và Thái Bình Dương, một khuôn khổ
pháp lý về QTCT tốt cũng không bảo đảm được các thông lệ QTCT tốt được thực
thi trên thực tế nếu các công ty không chấp nhận và tuân thủ.
Trong Báo cáo Thẻ điểm Quản trị Công ty 2012, không doanh nghiệp nào
đạt kết quả đáng hài lòng vì toàn bộ điểm số Quản trị doanh nghiệp đều ở dưới
mức 60% và điểm bình quân của tất cả các doanh nghiệp chỉ đạt 42,530.
Bởi vậy, để điều chỉnh tổ chức quản lý và hoạt động công ty, hoàn thiện
pháp luật về QTCT để không thể chỉ dựa trên những quy định bên ngoài, những
quy định pháp luật mà có thể tham khảo thêm, tiếp cận nó từ quan điểm kinh tế học
pháp luật, kinh tế học thể chế.
Theo định nghĩa của Từ điển Black’s Law Dictionary, kinh tế học pháp luật
là “một môn học chủ trương thực hiện phân tích pháp luật dưới góc độ kinh tế theo
29
Dương Anh Sơn, Quyền tự do kinh doanh và giới hạn phạm vi áp dụng của Luật Doanh nghiệp, Kỷ yếu Hội thảo
khoa học “Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật ở Việt Nam”, Tlđd
30
Báo cáo về Thẻ điểm quản trị khác ở Châu Á có nội dung tương tự cho kết quả cao hơn nhiều. Trong đó, Thái Lan
đạt 77% năm 2011, Hong Kong 74% năm 2009, Philipin đạt 72% năm 2008.
24
đó mọi quy tắc pháp lý được phân tích bằng cách đánh giá chi phí/lợi ích để quyết
định xem liệu một sự thay đổi pháp luật từ trạng thái hiện tại có làm tăng hay giảm
hiệu quả sử dụng và phân bổ nguồn lực trong xã hội hay không” 31. Một cách đơn
giản nhất có thể hiểu kinh tế học pháp luật là một phương pháp phân tích pháp luật
ở trình độ cao và hữu hiệu, dựa trên việc đề cao tính hiệu quả/lợi ích trong hoạt
động xây dựng, hoàn thiện, thực thi hệ thống chính sách, pháp luật 32. Theo Giáo sư
D. Friedman, kinh tế học pháp luật quan tâm trả lời ba vấn đề chính: (i) Đánh giá
hệ quả tác động của các quy phạm pháp luật; (ii) Dự báo sự vận động của các quy
phạm pháp luật; (3) Đánh giá tính hiệu quả của các quy phạm pháp luật hiện
hành33.
Như vậy, có thể sử dụng kinh tế học pháp luật để phân tích pháp luật QTCT
dưới góc độ kinh tế, xem xét các quy định của pháp luật QTCT bằng cách đánh giá
chi phí/lợi ích để quyết định những thay đổi pháp luật từ trạng thái hiện tại có làm
tăng hay giảm hiệu quả sử dụng và phân bổ nguồn lực trong xã hội hay không. Cụ
thể, có thể dùng kinh tế học pháp luật để: (i) Đánh giá hệ quả tác động của các quy
định pháp luật về QTCT; (ii) Dự báo sự vận động của các các quy định pháp luật
về QTCT; (3) Đánh giá tính hiệu quả của các các quy định pháp luật về QTCT hiện
hành.
Một trong những xu hướng nghiên cứu chính của kinh tế học pháp luật hiện
đại là ứng dụng cách tiếp cận của trường phái kinh tế học thể chế mới (new
31
Black’s Law Dictionary, 7th edition, 1999, p. 890, trích theo: Nguyễn Văn Cương, Nguyễn Hồng Quang, Trường
phái kinh tế học pháp luật và khả năng áp dụng tại Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 5, tháng 3/2012.
32
Một điểm cần lưu ý là kinh tế học pháp luật chỉ là một trong những cách tiếp cận nghiên cứu pháp luật, nghiên cứu
về các thiết chế chính trị-xã hội, nó không phải và không có ý định trở thành trường phái độc tôn trong khoa học
pháp lý. Pháp luật, với tính đa chiều, đa diện của nó không thể chỉ được nhìn nhận từ một góc cạnh, một trường
phái. Kinh tế học pháp luật là trường phái lý luận có tính mở và động. Các nghiên cứu của trường phái này không có
ý định phủ định kết quả nghiên cứu của các trường phái khác mà cùng với các trường phái lý luận pháp luật khác
giúp cho các nhà nghiên cứu, các nhà hoạch định chính sách, những người hành nghề luật hiểu thêm về bản chất,
chức năng, vai trò và tác động của pháp luật đối với xã hội và ngược lại. Nguyễn Văn Cương, Nguyễn Hồng Quang,
Trường phái kinh tế học pháp luật và khả năng áp dụng tại Việt Nam, Đã dẫn.
33
Viện Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp, Về trường phái kinh tế học pháp luật, NXB Chính trị quốc gia, 2012, tr.
22,23.
25