ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------
SỰ CÔ ĐƠN Ở NGƯỜI TRƯỞNG THÀNH TRẺ TUỔI
HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC
Hà Nội - 2018
1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------
SỰ CÔ ĐƠN Ở NGƯỜI TRƯỞNG THÀNH TRẺ TUỔI
HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ TÂM LÝ HỌC
Mã số: 60 31 04 01
Người hướng dẫn khoa học: PGS. Nguyễn Văn Lượt
Hà Nội - 2018
2
LỜI CẢM ƠN
Đề tài “Sự cô đơn ở người trưởng thành trẻ tuổi hiện nay” là nội dung tôi chọn
để nghiên cứu và làm luận văn tốt nghiệp sau hai năm theo học chương trình cao học
chuyên ngành Tâm lý học tại trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn.
Trước tiên, tôi muốn gửi lời cảm ơn sâu sắc đến PGS. Nguyễn Văn Lượt,
người thầy hướng dẫn đã rất nhiệt tình chỉ bảo và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình
thực hiện luận văn tốt nghiệp.
Xin chân thành cảm ơn các thầy, các cô trong khoa Tâm lý học, trường Đại
học Khoa học Xã hội và Nhân văn đã dạy dỗ và truyền đạt cho tôi nhiều tri thức quý
báu trong suốt thời gian học tập, giúp tôi có nền tảng vững chắc thực hiện luận văn
tốt nghiệp này.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến những người bạn trên mạng đã nhiệt tình
chia sẻ bảng hỏi và giúp đỡ tôi trong quá trình hoàn thành thực hiện khảo sát.
Những tâm sự và chia sẻ của họ là nguồn tư liệu rất lớn giúp nghiên cứu đi đến
được những kết quả có giá trị khoa học.
Cuối cùng, tôi muốn bày tỏ lòng cảm ơn chân thành nhất tới gia đình, bạn bè
của tôi, những người luôn sát cánh, cổ vũ và ủng hộ tôi trong suốt quá trình học tập
và hoàn thiện luận văn tốt nghiệp này.
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự
hướng dẫn của PGS. Nguyễn Văn Lượt - Trường Đại học Khoa học Xã hội và
Nhân văn Hà Nội. Các số liệu, tài liệu trong luận văn là trung thực và chưa từng
được ai công bố trong bất kỳ một công trình nào khác.
Hà Nội, ngày tháng năm
Học viên
MỤC LỤC
DANH MỤC TÊN VIẾT TẮT
VIẾT TẮT
CHỮ ĐẦY ĐỦ
Tp.
Thành phố
ĐTB
Điểm trung bình
ĐLC
Độ lệch chuẩn
MS
Mã số
DANH MỤC BẢNG
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cô đơn là một trạng thái cảm xúc gần như bất kỳ ai cũng từng trải nghiệm
trong đời. Sự cô đơn không phải bệnh lý nên hầu hết mọi người đều có khả năng tự
vượt qua. Tuy nhiên, đây vẫn là một loại cảm xúc âm tính khiến chất lượng đời
sống tinh thần giảm sút, nếu kéo dài ở mức độ thường xuyên thì còn có thể gây tổn
hại lớn cả về thể chất lẫn tinh thần.
Ngày nay, xã hội công nghệ càng phát triển, cách tương tác giữa người với
người ngày càng dễ dàng, đơn giản hơn; tuy nhiên, mặt trái của nó là sự lệ thuộc
vào công nghệ nhiều hơn, nghiện cuộc sống ảo, hạn chế giao tiếp tương tác trực
tiếp, v.v dẫn tới mối liên kết giữa con người trở nên mờ nhạt, thiếu chân thực, khiến
con người ngày càng cảm nhận sự cô đơn nhiều hơn.
Khi nhắc đến cô đơn, người ta có xu hướng nghĩ đến đối tượng thiếu niên và
người cao tuổi. Độ tuổi thiếu niên dậy thì, với sự thay đổi về tâm sinh lý, trẻ có xu
hướng tách xa mọi người để tự đi sâu vào phân tích bản thân, vì vậy nên tâm lý xuất
hiện cảm xúc cô đơn – những nỗi buồn không hiểu nổi. Ở người cao tuổi, giai đoạn
này họ phải đối mặt với những vấn đề như xung đột khoảng cách thế hệ với người
thân trong gia đình, con cháu bận rộn thiếu quan tâm, sự ra đi của người bạn đời, v.v
nên thường có cảm xúc cô đơn. Tuy nhiên, sự cô đơn đang dần trở thành một vấn
nạn trong xã hội hiện đại, khi con người trở nên thực dụng hơn, lựa chọn sống một
mình, lệ thuộc vào công nghệ và thiếu kết nối thật. Thực tế, tình trạng cô đơn diễn
ra ở tất cả mọi nơi trên thế giới, nhiều quốc gia trên khắp thế giới đang phải đối mặt
với "bệnh dịch cô đơn", thậm chí ở Anh quốc còn phải bổ nhiệm một bộ trưởng Bộ
cô đơn để giải quyết tình trạng cư dân sống cô độc.
Đề tài “Sự cô đơn ở người trưởng thành trẻ tuổi” thực hiện nghiên cứu là
những người trưởng thành trẻ tuổi trong khoảng 20-30 tuổi. Đây được xem là độ
tuổi đẹp nhất của cuộc đời vì những người ở giai đoạn này có sức khỏe, có tuổi trẻ,
lại có tri thức, có tự do không còn bị lệ thuộc quá nhiều vào gia đình, bắt đầu khả
năng độc lập tự làm chủ cuộc sống về mọi mặt. Tuy nhiên, họ lại bị áp lực là sự thay
9
đổi môi trường sống từ nhà trường ra xã hội, họ phải mất một thời gian dài thiết lập
sự nghiệp cho bản thân, bắt đầu phải suy nghĩ về quan hệ tình cảm nghiêm túc để
tiến tới hôn nhân, những nghĩa vụ trách nhiệm với mọi người xung quanh cũng
nặng nề hơn… Đây là độ tuổi rèn luyện các kỹ năng ở “trường đời”, xác định vị trí
của bản thân trong gia đình, trong xã hội. Trước áp lực cuộc sống, những người
trưởng thành trẻ tuổi cũng phải chịu nhiều cảm xúc âm tính tương đương, và cô đơn
cũng là một trong số đó. Những người trưởng thành trẻ tuổi là đối tượng lao động
chính trong xã hội, sự quan tâm đến đời sống tinh thần cho nhóm người này là cần
thiết vì khi con người đạt trạng thái tâm lý tốt, ổn định, sẽ tạo động lực phấn đấu,
phát triển bản thân tốt hơn về nhiều mặt.
Sự cô đơn là mầm mống gây ra nhiều vấn đề tâm lý, căn bệnh trầm cảm, thậm
chí là nguy cơ dẫn đến tự tử. Thay vì chờ đợi nó diễn biến thành bệnh lý trầm trọng,
để lại nhiều hậu quả đáng tiếc, con người nên tìm cách đối phó ngay từ khi mới chỉ là
một cảm xúc thông thường. Các nghiên cứu về sự cô đơn đã được thế giới thực hiện
nhiều nhưng lại chưa phổ biến ở Việt Nam. Đề tài “Sự cô đơn ở người trưởng
thành trẻ tuổi hiện nay” sẽ cho cái nhìn tổng quát về cảm xúc cô đơn ở bộ phận
những người trẻ tuổi thời hiện đại, từ đó đề xuất được các ý kiến đóng góp để cải
thiện đời sống tâm lý cho con người trở nên khỏe mạnh, tích cực hơn.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu thực trạng sự cô đơn của người trưởng thành trẻ tuổi ở Việt Nam
hiện nay. Bên cạnh đó, đi tìm các yếu tố ảnh hưởng sự cô đơn để từ đó đề xuất một
số kiến nghị nhằm cải thiện, nâng cao chất lượng cuộc sống của con người.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Xây dựng hệ thống cơ sở lý luận về sự cô đơn về: nguồn gốc, các yếu tố
ảnh hưởng, biểu hiện, hệ quả, cách ứng phó.
- Khảo sát thực trạng sự cô đơn, các yếu tố ảnh hưởng tới cảm xúc cô đơn
của người trưởng thành trẻ tuổi hiện nay.
- Đề xuất các biện pháp ứng phó nhằm giúp những người trưởng thành trẻ
tuổi vượt qua cảm xúc cô đơn, cải thiện chất lượng đời sống tinh thần.
10
4. Đối tượng, khách thể, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Sự cô đơn ở những người trưởng thành trẻ tuổi.
4.2. Khách thể nghiên cứu
Đây là một nghiên cứu định lượng kết hợp định tính theo lát cắt ngang.
Khách thể nghiên cứu là 437 người Việt Nam trưởng thành được lựa chọn ngẫu
nhiên ở độ tuổi từ 20-30 tuổi.
4.3. Phạm vi nghiên cứu
4.3.1. Phạm vi không gian
Phạm vi nghiên cứu tiếp cận tất cả những người Việt Nam ở trong và ngoài
nước, tuy nhiên tập trung nhiều nhất ở đô thị, thành phố lớn, đặc biệt là Hà Nội và
Tp. Hồ Chí Minh. Đó là trung tâm kinh tế, văn hóa, giải trí, giáo dục quan trọng
nhất của đất nước nên tập trung dân cư đông đúc, đặc biệt thu hút nhiều người đang
ở trong độ tuổi trưởng thành tới đây để tìm kiếm cơ hội việc làm, phát triển sự
nghiệp.
Nghiên cứu sử dụng phương pháp thu thập thông tin bằng bảng hỏi online
thay vì phát bảng hỏi trực tiếp. Chính vì vậy, về mặt không gian, đề tài sẽ bị giới
hạn do khả năng tiếp cận bảng hỏi chỉ dừng lại ở những người có sử dụng internet,
mạng xã hội và tập trung ở những thành phố lớn có trình độ dân trí tiếp cận được
công nghệ.
4.3.2. Phạm vi thời gian
Đề tài được thực hiện nghiên cứu bắt đầu từ 1/5/2017 đến ngày 31/11/2018.
Các số liệu được sử dụng trong đề tài được tổng hợp trong phạm vi thời gian từ
ngày 23/10/2018 đến ngày 5/11/2018.
5. Câu hỏi nghiên cứu
- Thực trạng mức độ cô đơn của người trưởng thành trẻ tuổi hiện nay như thế nào?
- Những yếu tố nào có ảnh hưởng đến sự cô đơn ở người trưởng thành trẻ
tuổi và mức độ ảnh hưởng của từng yếu tố như thế nào?
- Có sự khác biệt về sự cô đơn giữa các nhóm mẫu nghiên cứu xét theo giới
tính, độ tuổi, trình độ… hay không?
11
6. Giả thuyết nghiên cứu
- Những người trưởng thành trẻ tuổi hiện nay thường xuyên có cảm xúc cô
đơn trong cuộc sống hàng ngày cho dù xung quanh có nhiều mối quan hệ.
- Các yếu tố đặc điểm cá nhân như giới tính, trình độ, tính cách, môi trường
sống, v.v có ảnh hưởng lớn đến trải nghiệm sự cô đơn ở mỗi người.
- Áp lực cuộc sống, sự thay đổi về những quan điểm sống, sự lạm dụng công
nghệ, hạn chế tương tác trực tiếp có ảnh hưởng lớn tới cảm xúc cô đơn ở con người.
7. Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp được sử dụng trong đề tài:
•
•
•
•
•
•
12
Phương pháp nghiên cứu và phân tích tài liệu
Phương pháp quan sát
Phương pháp phỏng vấn sâu
Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
Phương pháp sử dụng thang đo
Phương pháp phân tích số liệu bằng thống kê toán học
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Sơ lược về vấn đề nghiên cứu
1.1.1. Vài nét về lịch sử nghiên cứu sự cô đơn
•
Trên thế giới
Tất cả chúng ta đều nhận thấy sự cô đơn là một phần luôn tồn tại trong thế
giới cảm xúc của con người; tuy nhiên, lịch sử nghiên cứu về trạng thái cô đơn lại
có lịch sử phát triển tương đối ngắn so với các chủ đề nghiên cứu tâm lý khác.
- Erik Erikson là một trong số những nhà tâm lý nghiên cứu về nỗi cô đơn
khá sớm. Theo Lý thuyết về các giai đoạn phát triển của Erik Erikson, giai đoạn
trưởng thành từ 19-20 đến 35-40 tuổi là giai đoạn mâu thuẫn giữa sự gần gũi và cô
lập. Ở giai đoạn này, con người tìm kiếm các mối quan hệ có sự gắn bó lâu dài với
người nào đó ngoài gia đình. Những người trẻ tuổi có khả năng gần gũi thân tình sẽ
có xu hướng thiết lập các mối quan hệ thân thiết với bạn bè, mối quan hệ lãng mạn
với người khác giới và cuối cùng là hướng tới hôn nhân. Quan hệ gần gũi ở đây
không chỉ là sự gần gũi thể xác giữa hai người mà theo cách hiểu của Erikson, đó là
khả năng quan tâm, chia sẻ với người khác toàn bộ bản thân mình mà không đánh
mất mình [5], [7].
Ngược lại với quan hệ tình cảm gần gũi là sự cô đơn. Những người không có
khả năng đạt đến sự hòa quyện với người khác thì thường cảm thấy cô đơn. Họ cảm
thấy rất khó khăn để thiết lập mối quan hệ thân tình, không có khả năng hiểu suy
nghĩ và tình cảm của người khác. Nguyên nhân của sự cô đơn có thể là do không
biết chấp nhận người khác, cũng có thể do bản sắc cá nhân quá yếu nên dễ dàng
đánh mất chính mình trong mối quan hệ với mọi người xung quanh. Kết quả là phần
lớn thời gian họ chỉ ở một mình, không có hoặc có rất ít bạn bè. Trên thực tế, kết
quả của việc thiết lập các quan hệ gần gũi này phụ thuộc vào việc giải quyết các vấn
đề ở các giai đoạn trước. Những ai tin tưởng mọi người xung quanh, tự tin, sáng tạo,
yêu lao động, hình thành được cái Tôi thống nhất thì sẽ dễ dàng tạo lập các mối
quan hệ gắn bó thân tình [5].
13
- John Bowlby – nhà tâm lý học người Anh được xem là người đầu tiên đưa
khái niệm “sự gắn bó” vào tâm lý học. Lý thuyết về sự gắn bó (Attachment theory)
ra đời năm 1969 định nghĩa sự gắn bó như là “những liên kết tâm lý bền vững giữa
con người với con người”. Bowlby cho rằng vào thời thơ ấu chơi đùa đóng vai trò
quan trọng trong việc hình thành sự gắn bó và những trải nghiệm đầu đời có thể tác
động đến các mối quan hệ mà con người hình thành sau này trong cuộc sống.
Những sự gắn bó đầu đời mà chúng ta hình thành với cha mẹ và những người chăm
sóc khác, đó có lẽ là lý do tại sao Bowlby tin rằng sự gắn bó là một thành tố tiến
hóa mạnh mẽ. Những sự gắn bó đầu đời với những người chăm sóc giữ cho trẻ sơ
sinh được an toàn và an ninh, do đó bảo tồn sự sống còn cho trẻ. Nhu cầu gắn bó
không phải là nhu cầu thứ phát như quan điểm của phân tâm học mà mang tính chất
bản năng, có nghĩa là bẩm sinh con người đã luôn có khuynh hướng tìm kiếm kết
nối với những người gần gũi xung quanh [20].
Lý thuyết gắn bó của John Bowlby có thể được xem là tiền thân cho các lý
thuyết đương đại về sự cô đơn. Bowlby cho rằng, trải qua giai đoạn tiến hóa, loài
người đã phát triển nỗi sợ hãi cô đơn một cách bản năng, đặc biệt là khi sống trong
những nơi lạ lẫm, tối tăm, nguy hiểm hay khi chúng ta mệt mỏi, bị thương hay đau
ốm. Nỗi sợ hãi này khiến chúng ta thèm khát sự bảo vệ và chăm sóc từ người khác,
nhất là những người quan tâm đến sự tồn tại và phát triển của chúng ta. Nỗi thèm
khát này đặc biệt được thể hiện rõ ràng ngay từ những năm tháng đầu đời của mỗi
người và khi không được đáp ứng thì xuất hiện cảm xúc cô đơn, cô độc là điều tất
yếu [20].
- Chủ đề về sự cô đơn lần đầu tiên được nghiên cứu chính thức bởi Sullivan
(1953) – một nhà tâm thần phân tâm học. Ông cho rằng cô đơn là một trải nghiệm khó
chịu và căng thẳng liên quan đến sự không thỏa mãn các nhu cầu về tình cảm. Tuy
nhiên, nghiên cứu của Sullivan không được coi trọng trong thời kỳ đó. Đến tận năm
1973, Robert S. Weiss - một học giả người Mỹ đi theo Thuyết gắn bỏ của Bowlby, đã
công bố một bài báo có tựa đề "Sự cô đơn: kinh nghiệm về cô lập tình cảm và xã hội".
Trong bài báo, Weiss đã lập luận rằng sự cô đơn là cảm giác tâm lý chủ quan hoặc kinh
14
nghiệm xảy ra khi một cá nhân cảm thấy thiếu một mối quan hệ thỏa đáng và cảm thấy
khoảng trống giữa việc kết nối với mọi người xung quanh [41].
- Năm 1984, nhóm nghiên cứu thực nghiệm gồm Russell, Cutrona, Rose và
Yurko đã dựa trên ý tưởng của Weiss (1973) để xây dựng và phát triển Thang đo Cô
đơn của Đại học California tại Los Angeles (UCLA) để kiểm tra sự khác biệt về trải
nghiệm chủ quan của cô đơn xã hội và cô đơn cảm xúc. Nghiên cứu cho thấy sự cô
đơn về cảm xúc và sự cô đơn xã hội là những trải nghiệm riêng biệt, mặc dù chúng
có cốt lõi chung là những trải nghiệm. Cô đơn cảm xúc được tìm thấy có mối tương
quan với sự thiếu quan tâm. Trong khi đó, thiếu thốn sự bền vững và cảm giác đáng
tin cậy lại là yếu tố dự báo về mức cô đơn xã hội so với sự thiếu hòa nhập xã hội.
Russell và các đồng nghiệp đã kết luận rằng sự cô đơn xã hội "liên quan đến một số
loại thiếu hụt, thiếu kết nối mạng lưới xã hội". Tuy nhiên, cũng có một số khác biệt
trong mô hình lý thuyết của Weiss và Russell. Ban đầu, Weiss dự đoán cô đơn cảm
liên quan tới cảm giác lo lắng, nhưng kết quả lại cho thấy cô đơn xã hội mới là yếu
tố gây ra sự lo lắng. Quan điểm của Russell và các đồng nghiệp thì cho rằng, cô đơn
xã hội có liên quan đến sự lo lắng và trầm cảm, trong khi cô đơn về cảm xúc chỉ
liên quan đến trầm cảm [26].
- John Cacioppo là một nhà tiên phong trong lĩnh vực khoa học thần kinh xã
hội có 21 năm nghiên cứu về nguyên nhân, ảnh hưởng của sự cô đơn tới con người.
Trong cuốn Sự cô đơn: Con người và nhu cầu kết nối xã hội (2008) do ông làm tác
giả đã trình bày nghiên cứu mang tính chất đột phá, lật đổ một trong những trụ cột
của y học hiện đại và tâm lý học: tập trung vào cá nhân như là đơn vị điều tra [31].
Một số nghiên cứu não bộ trong phòng thí nghiệm đã thực sự khẳng định
mong muốn kết nối được “lập trình” sẵn trong bản năng con người. Nhu cầu được
hợp tác và nhu cầu được thỏa mãn ăn uống đều kích hoạt cùng một vùng não bộ.
Kết quả chụp cộng hưởng từ cho thấy, khi không được thỏa mãn nhu cầu kết nối,
não bộ phát sáng ở cùng khu vực thể hiện sự đau đớn về thể xác. Tỷ lệ chết sớm ở
những người chưa từng kết hôn cũng cao hơn 65.9% so với những người đã từng
kết hôn trong đời, và cao hơn 220% so với những người đang có vợ chồng [50].
15
Nghiên cứu của Cacioppo đã chỉ ra được sự tồn tại độc lập giữa cảm xúc cô
đơn với số tương tác liên lạc xã hội mà một người có thể có. Một người với 3.000
địa chỉ liên hệ trên Facebook có thể cảm thấy cô đơn hơn một người không sử dụng
các phương tiện truyền thông xã hội. Bên cạnh đó, nghiên cứu này cũng cho thấy
rằng cô đơn có thể là sự di truyền kết hợp với các yếu tố xã hội. Bằng cách sử dụng
quét não, theo dõi huyết áp và phân tích chức năng miễn dịch, ông đã chứng minh
ảnh hưởng áp đảo của bối cảnh xã hội - một yếu tố mạnh mẽ đến mức nó có thể làm
thay đổi quá trình sao chép ADN. Ông định nghĩa hội chứng “cô đơn mãn tính” là
cảm giác cô độc về xã hội làm gián đoạn nhận thức, hành vi và sinh lý học của
chúng ta, trở thành “cái bẫy” không chỉ củng cố sự cô lập mà còn dẫn đến nguy cơ
tử vong sớm. John đã chỉ ra sự hợp tác xã hội thực ra là đặc tính xác định của con
người [24], [31].
Như vậy, có thể thấy sự cô đơn là một đề tài đã được nhiều nhà tâm lý học
trên thế giới nghiên cứu trên nhiều khía cạnh đa dạng. Những kết luận của các công
trình trên được sử dụng để tham khảo, làm nền tảng và định hướng phát triển nghiên
cứu cho đề tài “Sự cô đơn ở người trưởng thành trẻ tuổi hiện nay”.
•
Ở Việt Nam
Tâm lý học ở Việt Nam là một ngành mới, khi nói đến mắc các vấn đề tâm
lý, mọi người có xu hướng nghĩ đến các vấn đề bệnh lý nặng như tâm thần, trầm
cảm, tự kỷ… các vấn đề về cảm xúc thông thường mà bất kỳ ai cũng trải qua rất ít
được quan tâm. Khái niệm “cô đơn” chỉ được xem là một khía cạnh nhỏ trong
nghiên cứu tâm lý của các đối tượng trong xã hội. Một số nghiên cứu về xã hội
người già, trẻ em, trẻ vị thành niên hay người yếu thế cũng có đề cập đến sự cô đơn,
tuy nhiên chưa đi sâu vào chi tiết và đưa ra được các số liệu hay những kết luận cụ
thể về các khía cạnh của nỗi cô đơn ở những nhóm khách thể này.
Bài viết “Cảm nhận cô đơn của sinh viên và mối liên hệ giữ cảm nhận cô
đơn với tự đánh giá bản thân, tiêu điểm kiểm soát bên ngoài” của tác giả Cao Quốc
Thái là tài liệu Việt Nam duy nhất nghiên cứu tiếp cận được trong quá trình thực
hiện. Bài viết là kết quả nghiên cứu tìm hiểu mối liên hệ có ý nghĩa giữa những sinh
16
viên tự cảm nhận mình cô đơn với xu hướng đánh giá thấp bản thân và đánh giá cao
sự chi phối của các yếu tế bên ngoài. Khảo sát thực hiện trên 310 sinh viên (24.6%
nam, 74.3% nữ) đang học tập tại các trường đại học khác nhau trên địa bàn Hà Nội
(gồm ĐH Quốc gia Hà Nội, ĐH Kiến trúc, ĐH Kinh tế quốc dân, Học viện Quản lý
giáo dục, Học viện Nông nghiệp). Nghiên cứu sử dụng ba thang đo gồm: thang đo
Cô đơn UCLA III (Russell D.W, 1996), thang đo Tự đánh giá của Rosenberg
(1979), thang đo Tiêu điểm kiểm soát của Hana Levenson (1981). Độ tin cậy
Alpha’s Cronbach của các thang đo trong nghiên cứu này lần lượt là 0.85, 0.72,
0.83. Sau khi sàng lọc phiếu điều tra, chỉ còn 265 sinh viên đáp ứng với mô hình
phân bố chuẩn để thực hiện phân tích. Kết quả cho thấy mức độ cô đơn của sinh
viên Việt Nam cao hơn mức điểm trung bình của một số nghiên cứu khác trên thế
giới (ĐTB = 45.77, ĐLC = 8.85). Tác giả nhận thấy có sự tương quan giữa mức độ
cô đơn với khả năng tự đánh giá bản thân (r = - 0.38, p < 0.01), và với niềm tin vào
quyền lực của các yếu tố bên ngoài (r = 0.17, p < 0.05). Nói cách khác, những sinh
viên có mức độ cô đơn càng cao thì càng tự đánh giá bản thân thấp, và có xu hướng
lệ thuộc cao vào những người có quyền lực bên ngoài (bố mẹ, giáo viên, sếp…) [8].
Sự cô đơn được biết đến là một cảm xúc để sáng tạo nghệ thuật. Trong các
cơ chế phòng vệ của con người, “thăng hoa” là quá trình những xung lực bản năng
không được thoả mãn trực tiếp được “đầu tư” vào những hoạt động được xã hội đề
cao như nghệ thuật, khoa học, sự nghiệp xã hội, tôn giáo… Cảm xúc cô đơn cũng
xuất hiện khi nhu cầu được gắn bó, quan tâm bị thiếu hụt, và với những người nhạy
cảm về cảm xúc, họ tìm cách chuyển chúng sang một dạng khác để được giải tỏa và
tự thỏa mãn bản thân. Đó là lý do cơ chế thăng hoa có thể thấy ở nhiều nhà văn, nhà
thơ, họa sĩ, nhạc sĩ lớn trên thế giới, họ đem những vấn đề của bản thân không thể
giải tỏa trong cuộc sống bình thường vào văn thơ, tranh ảnh, âm nhạc, tạo nên các
tác phẩm nghệ thuật có giá trị. Đặc biệt, những nhà văn, nhà thơ là những người có
khả năng dùng ngôn ngữ miêu tả cảm xúc cô đơn đa dạng nhất.
Sự cô đơn cũng là một chủ đề được các quan điểm Phật giáo nhắc đến. Trong
cuốn Nói với tuổi 20 của Thích Nhất Hạnh, chương II Cô đơn có lý giải sự cô đơn
17
xuất phát từ những xung đột khi người trẻ hiện nay bị mắc kẹt vào những thứ mình
không thích. Ghét trường học nhưng vẫn phải học, không thích bằng cấp vẫn phải
cố có bằng mọi giá, ghét cuộc sống công nhân viên chức tẻ nhạt nhưng “vẫn phải lê
mòn gót chân đi tìm công việc như bất cứ một người thất nghiệp nào”. Sự xung đột
văn hóa trong các gia đình hiện đại, áp lực cuộc sống cạnh tranh khiến con người
mất dần kết nối với đồng loại, lựa chọn tự chui vào “chiếc vỏ” cô đơn để bảo vệ bản
thân. Thích Nhất Hạnh đã nói về sự cô đơn thế này: “Cảm xúc cô đơn là do những
vụng dại, ngu dốt và kém cỏi của chúng ta tạo ra: đó là một chứng bệnh của con
người, hơn là một cái gì nằm trong bản chất của con người. Vì thiếu bản lĩnh, thiếu
khôn ngoan, ta đã tạo ra những đường nứt, những chiếc vỏ cứng, những bức tường
chia cách cao vút, ngay giữa những người thân yêu và có cảm tưởng rằng ta với
những người khác không được cùng làm bằng một chất, do đó, không thể nào có sự
cảm thông”. Bên cạnh đó, thiền sư cũng về nói sự lây lan của cảm xúc cô đơn, bắt
đầu bằng những câu chuyện chán chường, dẫn tới cử chỉ chán chường, dần dần nếp
sống sẽ trở nên chán chường thật sự. Ông khẳng định: “Con người yếu đuối và dễ bị
nhiễm độc, dễ bị ảnh hưởng”. [4]
Trong cuốn Hiểu về trái tim, sư thầy Minh Niệm cũng dành 1 chương để bàn
về sự cô đơn. Thầy đã nhận ra sự cô đơn có thể xuất hiện kể cả khi con người sống
giữa người thân gia đình và có nhiều bạn bè xung quanh. Tự con người xây nên
những bức tường bằng tính cách, sở thích, kiến thức, quan điểm sống, địa vị, sự
nghiệp… gây ngăn cách mình với mọi người. Bên cạnh đó, thầy Minh Niệm cũng
đề cập đến lối sống cá nhân, hưởng thụ trong xã hội hiện đại khiến con người trở
nên ích kỷ, cạnh tranh, càng lên tới đỉnh cao danh vọng thì càng tách biệt, cô lập với
mọi người; vậy nhưng con người lại than vãn không ai chịu thấu hiểu, quan tâm
mình. Thầy khẳng định “nguyên nhân đưa tới sự cô đơn chính là do thái độ sống
của ta”, vì vậy, nếu muốn thoát khỏi nỗi cô đơn thì con người cần học cách mở lòng
với mọi người. [2]
Sự cô đơn có ảnh hưởng tới chất lượng cuộc sống của con người. Con người
tìm thấy sự đồng cảm trong các tác phẩm nghệ thuật văn học, nhạc họa… liên quan
18
đến cô đơn. Con người cũng có thể tìm được những lời khuyên về cuộc sống thông
qua cách Phật giáo nói về sự cô đơn. Nhưng nếu nhìn “cô đơn” dưới góc nhìn khoa
học, con người sẽ có quan điểm thực tế hơn và chủ động tìm được các biện pháp cụ
thể đưa mình vượt khỏi cảm giác tiêu cực. Đó là lý do tại sao một nghiên cứu về sự
cô đơn trên nền bối cảnh văn hóa Việt Nam là cần thiết.
1.1.2. Nghiên cứu về các yếu tố ảnh hưởng đến sự cô đơn
Có nhiều yếu tố góp phần ảnh hưởng tới sự trải nghiệm cảm xúc cô đơn của
từng người. Tác động của các yếu tố mang tính chủ quan khiến con người tổn
thương, gây ra cảm xúc cô đơn được phân biệt rõ với các yếu tố thuộc về môi
trường ngoại cảnh. Những yếu tố dự báo chủ quan có thể bao gồm các đặc điểm cá
nhân (VD: sự nhút nhát, thiếu kỹ năng xã hội), đặc điểm tình huống (VD: tương tác
cạnh tranh, cô lập xã hội) và các giá trị văn hoá chung (VD: chủ nghĩa cá nhân). Tác
động của ngoại cảnh có thể đánh giá thông qua các sự kiện đặc biệt như việc chia
tay người yêu, chuyển đổi nơi làm việc, ra nhập một nhóm mới, v..v. Những sự kiện
này có ảnh hưởng đáng kể tới việc thay đổi cuộc sống của mỗi người. Các yếu tố đó
gây ra sự đấu tranh giữa hiện thực cuộc sống vời những nhu cầu, khao khát bên
trong. Có sự biến đổi trong các yếu tố trên mà cá nhân không kịp thích ứng thay đổi
cho phù hợp thì sẽ gây ra cảm xúc âm tính là sự cô đơn. Quá trình nhận thức của
con người được cho rằng có ảnh hưởng rất lớn đến trải nghiệm sự cô đơn của từng
người [30].
Nghiên cứu “Sự cô đơn ở người trưởng thành trẻ tuổi” sẽ chia các yếu tố
gây ra sự cô đơn thành 2 loại:
•
Yếu tố chủ quan
•
Yếu tố khách quan
Yếu tố chủ quan
Cô đơn là một cảm giác chủ quan, phản ánh các mô hình khác nhau của mọi
người trong suy nghĩ, hành xử và phản ứng với các yếu tố tình huống. Nó bị chi
phối bởi các yếu tố mang tính cá nhân như di truyền, khí chất, tính cách, trình độ…
19
của mỗi người. Tùy từng đặc điểm cá nhân, con người sẽ có cách nhận thức, thích
nghi và ứng phó khác nhau với cảm xúc cô đơn.
* Yếu tố giới
Ảnh hưởng của yếu tố giới với sự cô đơn đã được nhiều nghiên cứu thực
hiện kiểm tra rộng rãi, tuy nhiên, những phát hiện về mối liên quan này vẫn còn rất
mơ hồ. Trong khi một số nghiên cứu không tìm thấy sự khác biệt giới tính đáng kể
(Archibald, Bartholomew, & Marx, 1995; Berg & Peplau, 1982), thì lại có nhiều
nhà khoa học chỉ ra nam giới là cô đơn hơn nữ (Avery, 1982; Booth, 1983; Russell
và cộng sự, 1980 ; Schultz & Moore, 1986; Solano, Batten & Parish, 1982; Stokes
& Levin, 1986). Nghiên cứu của Borys và Perlman (1985) đã tìm thấy một số kết
quả khác khi tìm hiểu về mối liên quan giữa giới và cảm xúc cô đơn. Khi cô đơn
được đo bằng cách sử dụng thang đo lường tự ghi nhãn trực tiếp (ví dụ: “Bạn có
thường cảm thấy cô đơn không?”) thì kết quả cho thấy nữ giới có mức độ cô đơn
cao hơn; tuy nhiên khi sử dụng thang đo UCLA thì kết quả lại nghiêng về nam giới
thường thấy cô độc hơn. Điều này được lý giải bởi, nam giới có tự trọng cao hơn
nên khó thừa nhận cảm xúc cô đơn hơn nam giới [30].
Trong một nghiên cứu phân tích tổng hợp về các nghiên cứu liên quan tới sự
cô đơn ở độ tuổi vị thành niên, A. Yarcheski, T.J. Yarcheski, Cannella và Hanks
(2006) nhận thấy 19/31 nghiên cứu cho thấy không có sự khác biệt về giới tính đáng
kể. 9 nghiên cứu cho kết quả con trai cô đơn hơn con gái, 2 nghiên cứu cho thấy con
gái cô đơn hơn và 1 một nghiên cứu không đem lại kết quả báo cáo [30].
Một số nghiên cứu chỉ ra rằng đàn ông có thể cảm thấy cô đơn thường xuyên
hơn phụ nữ bởi vì họ không được xã hội hóa tốt trong khu vực cảm xúc xã hội
(Bloom, Asher, & White, 1978; Hill, Rubin, & Peplau, 1976) và có khả năng họ
chọn cách xa lánh tiếp xúc xã hội như một cách đối phó với sự cô đơn, và hành
động này gia tăng cảm xúc cô đơn của họ (Jones, Sansone, & Helm, 1983). Phụ nữ
có khả năng quản lý cảm xúc tốt hơn nam giới, đặc biệt các cảm xúc xã hội (Borys
& Perlman, 1985; Wheeler, Reis, & Nezlek, 1983). [30].
20
Trong nghiên cứu của Knox, Vail-Smith & Zusman (2007) về các sinh viên
năm nhất, năm hai cho thấy, những nam giới ít có khả năng tìm được một mối quan
hệ lãng mạn, hạn chế khả năng kết bạn có xu hướng uống rượu nhiều hơn và tự
đánh giá mình là "kẻ thua cuộc" trong việc kết nối với phụ nữ. Kiểu đối phó như
vậy khiến họ gặp nguy cơ cảm thấy cô đơn nhiều hơn [30].
DiTommaso và Spinner (1993) sử dụng thang đo cô đơn cảm xúc và xã hội
cho người trưởng thành SELSA (the Social and Emotional Loneliness Scale for
Adults) để phân biệt các khía cạnh khác biệt của sự cô đơn. Kết quả báo cáo cho
thấy không có sự khác biệt giới tính về sự cô đơn trong các tình cảm gia đình; tuy
nhiên, trong các mối quan hệ xã hội và tình cảm lãng mạn thì nam giới có xu hướng
cô độc hơn nữ giới [30].
Vẫn còn rất nhiều “khoảng trống” trong các nghiên cứu hiện đại về mối liên
quan giữa sự cô đơn và giới tính. Hầu hết các nghiên cứu có kiểm tra sự khác biệt
về giới tính và sự cô đơn đều đo bằng thang đo UCLA, coi sự cô đơn là đơn nhất,
thiếu sự phân biệt rõ loại cô đơn cảm xúc hay xã hội.
* Yếu tố gen
Một nghiên cứu theo chiều dọc trên một số cá nhân trong 25-30 năm sử dụng
thang đo UCLA đã nhận thấy, thang điểm UCLA của con cái có xu hướng lặp lại
giống cha mẹ. Và các nhà khoa học giả định rằng có thể có những người sinh ra đã
“thừa hưởng” sẵn đặc điểm cô đơn [51].
Nam tính và nữ tính có thể ảnh hưởng tới mức độ cô đơn. Theo nghiên cứu
của Wittenberg & Reis (1986), xu hướng tính nam liên quan tới sự quyết đoán và kỹ
năng hẹn hò. Trong khi đó, xu hướng tính nữ liên quan tới khả năng tư vấn, hướng
dẫn, giải quyết xung đột và nhận thức tích cực hơn về người khác, đây đều là những
yếu tố quan trọng trong việc giảm bớt sự cô đơn (Wittenberg & Reis, 1986). So
sánh biến nam tính/nữ tính và định nghĩa về sự cô đơn xã hội/cô đơn cảm xúc cho
thấy sự nam tính liên quan sự cô đơn xã hội, còn sự nữ tính liên quan đến cô đơn
cảm xúc hơn. Một số nghiên cứu khác thì chỉ ra những người ái nam ái nữ ít có khả
năng cô đơn hơn những người khác [25, tr39].
21
* Yếu tố tuổi tác
Những thay đổi liên quan đến tuổi tác con người và các nhu cầu mối quan hệ
xã hội cũng là một nguyên nhân dẫn tới cảm xúc sự cô đơn. Sullivan (1953) công
nhận có một trình tự phát triển con người. Theo quan điểm của mình, Sullivan nhận
thấy sự cô đơn rõ rệt đầu tiên là ở thời kỳ đầu vị thành niên. Đó là thời điểm "nhu
cầu thân mật" của con người tăng cao cùng với nhu cầu được đối xử tôn trọng, và
được thừa nhận giá trị. Hay như giai đoạn về già, sự xa cách con cái, rời bỏ vị trí
công việc, đối diện với sự ra đi của người bạn đời cũng khiến người cao tuổi gặp
nhiều vấn đề về sự cô đơn hơn so với các giai đoạn khác [25, tr39].
* Đặc điểm tính cách
Trắc nghiệm 5 yếu tố (Big five factors – FFM) hay phiên bản rút gọn (NEO
PI-R) là một công cụ đo đặc điểm tính cách con người dựa trên các yếu tố: nhiễu
tâm, hướng ngoại, sự cởi mở, dễ chịu, tính chu đáo và sự tận tâm (Costa & McCrae,
1992). Trong số đó, tính nhiễu tâm (bất ổn cảm xúc và đau khổ) và sự tận tâm (sự
tin cậy và trật tự) được đánh giá là có mối quan hệ chặt chẽ với tỷ lệ tử vong và
bệnh tật (Chang & Dong, 2014). Hai đặc điểm tính cách này cũng ảnh hưởng tới trải
nghiệm sự cô đơn. Trong một nghiên cứu trên 137 người 100 tuổi trở lên của Viện
nghiên cứu Centenarian Georgia, sự nhiễu tâm có liên quan với mức độ cô đơn cao
hơn (Hensley và cộng sự, 2012). Một nghiên cứu khác trên 197 người lớn tuổi cũng
phát hiện ra rằng, mức độ cô đơn cao hơn có liên quan đến sự nhiễu tâm và sự tận
tâm thấp (Cacioppo và cộng sự, 2006). Nhiều những nghiên cứu lớn về dân số vẫn
đang tiếp tục kiểm tra mối tương quan giữa các đặc điểm tính cách và sự cô đơn
[48].
- Bei Wang và XinQi Dong đã thực hiện nghiên cứu “Liên hệ giữa các đặc
điểm cá nhân và sự cô đơn” trên 3.157 người cao tuổi gốc Trung Quốc sinh sống ở
Chicago (Mỹ). Các nhà khoa học đã đi tìm cách kiểm chứng mối quan hệ của hai
yếu tố tính nhiễu tâm và sự tận tâm đối với cảm xúc cô đơn. Kết quả nghiên cứu
cho thấy những người có mức độ tâm lý bất ổn cao thường cảm thấy cô đơn gấp
3.59 lần thông thường. Bên cạnh đó, những người có mức độ tận tâm cao thì giảm
22
24% nguy cơ bị tác động bởi mỗi cô đơn. Đây là một nghiên cứu đã cung cấp bằng
chứng rõ ràng về mối liên hệ giữa tính cách và sự cô đơn ở những người Mỹ gốc
Hoa cao tuổi. Nghiên cứu được thực hiện theo chiều dọc được thiết kế chặt chẽ nên
đã làm rõ được sự biến đổi của sự cô đơn và các yếu tố liên quan theo thời gian (từ
năm 2011 đến năm 2013) [48].
- Nhút nhát được định nghĩa là "xu hướng tránh tương tác và không tham gia
được vào các tình huống xã hội" (Pilkonis, 1977). Nó có thể là nguyên nhân ảnh
hưởng lớn tới sự cô đơn. Mối tương quan giữa sự nhút nhát và cô đơn đã được tìm
thấy bởi Zimbardo (1977). Còn công trình của Pilkonis thì đi sâu chứng minh hành
vi qua lời nói và các hành động phi ngôn ngữ của người nhút nhát có thể cản trở
tương tác xã hội. Ví dụ như việc họ không thể chủ động nói chuyện với mọi người
xung quanh. Trong nghiên cứu của Cutrona lại chỉ ra rằng sự cô đơn liên quan đến
lối sống nội tâm và tính thiếu quyết đoán. Vì vậy, một cụm các yếu tố nhút nhát - rủi
ro xã hội - thiếu quyết đoán - khả năng tự ý thức trong các tình huống xã hội đều
góp phần vào sự cô đơn [25, tr41-43].
- Rất nhiều người đánh đồng sự hướng nội với tính cách nhút nhát. Tuy
nhiên, nhiều nghiên cứu hiện nay đã chứng minh được rất nhiều người hướng nội
không hề nhút nhát. Người hướng nội có thể hoàn toàn hạnh phúc khi ở một mình,
cũng có thể cảm thấy vô cùng cô độc khi ở giữa đám đông. Những người hướng nội
có xu hướng coi trọng mối quan hệ chất lượng hơn việc có nhiều mối quan hệ xã
hội, chính vì sự đề cao chất lượng, kỳ vọng kết nối sâu sắc về mặt tình cảm này có
thể là nguy cơ khiến họ trở nên cô đơn hơn khi nhu cầu không được thỏa mãn.
- Các nhà khoa học ở California đã phát hiện biểu hiện qua gương mặt có thể
thể hiện mức độ dễ gần, thoải mái của một người, và người hướng ngoại thể hiện
điều này tốt hơn người hướng nội. Não bộ của người hướng nội không phân biệt
được biểu hiện gương mặt và những vật vô tri giác. Nghiên cứu này ủng hộ quan
điểm cho rằng người hướng nội khá thờ ơ với mọi người. Đó là lý do khiến người
hướng nội hành xử cô độc hơn là cởi mở [53].
23
- Một nghiên cứu về lo âu trầm cảm được công bố trên Trung tâm Thông tin
Công nghệ sinh học Quốc gia (Hoa Kỳ) đã chỉ ra, các đặc điểm cá nhân như hệ
thống thần kinh, sự hướng nội có liên quan tới các triệu chứng trầm cảm và lo lắng.
Khi đo trên các bệnh nhân trầm cảm, họ nhận thấy mức độ tâm lý bất ổn ở người
hướng nội mạnh mẽ hơn [52]. Đặc điểm này cũng có thể là yếu tố khiến người
hướng nội có cảm nhận sâu sắc hơn về sự cô đơn.
* Tiêu điểm kiểm soát
Julian Rotter (1916-2014), là một nhà tâm lý học người Mỹ nổi tiếng về
thuyết học tập xã hội đã đề xuất một khái niệm mới gọi là “tiêu điểm kiểm soát”.
Tiêu điểm kiểm soát (locus of control - xuất phát từ chữ Latin, ‘locus’ nghĩa là
điểm) để chỉ một “điểm” tâm lý, nơi một người đổ trách nhiệm cho những kết cục
của các tình huống cuộc sống vào đó. Người có tiêu điểm kiểm soát nội giới
(internal locus of control) nhận thức rằng họ có thể đích thân “kiểm soát” kết cục
của tình huống, trong khi người có tiêu điểm kiểm soát ngoại giới (external locus of
control) quy những kết cục không phải do hành động của mình mà là hành động của
người khác - hoặc do may mắn.
Người đặt tiêu điểm kiểm soát ngoại giới có xu hướng đổ lỗi cho ngoại cảnh,
cuộc sống bị điều khiển vì các yếu tố bên ngoài. Trong thuật ngữ tâm lý học, người
có tiêu điểm kiểm soát ngoại giới sẽ vĩnh viễn sống với cảm giác bị cô lập, luôn khó
chịu bởi những gì diễn ra trong thế giới xung quanh [11]. Một người hình thành tính
cách cá nhân dựa trên chuẩn mực của xã hội để được chấp nhận, thiếu trí tuệ, sự tự
chủ và thấu hiểu chính mình, nếu họ không nhận được sự công nhận từ bên ngoài,
họ sẽ luôn cảm thấy cô đơn và cách biệt
* Khả năng tự đánh giá bản thân (self-esteem)
Lòng tự trọng đã được coi là một thành phần quan trọng của sức khỏe tâm
thần (Taylor & Brown, 1988). Nhiều nghiên cứu cho thấy rằng lòng tự trọng có
tương quan nghịch với sự cô đơn, nghĩa là lòng tự trọng càng thấp thì mức độ cảm
thấy cô đơn càng cao (ví dụ: Davis, Hanson, Edson, & Ziegler, 1992; Jackson &
24
Cochran, 1991). Nghiên cứu phân tích meta của Mahon và cộng sự (2006) cũng cho
thấy rằng lòng tự trọng là một yếu tố dự báo về sự cô đơn [44].
McWhirter (1997) thấy rằng “sự tự trọng” không chỉ ảnh hưởng tới hiện
tượng cô đơn toàn cầu, mà còn liên quan mức độ cô đơn xã hội và cô đơn cảm xúc.
“Tính nam” càng cao thì sự tự trọng càng cao, và sự tự trọng cao lại tương đương
với mức độ cô đơn cảm xúc, cô đơn xã hội giảm. Lòng tự trọng trở thành yếu tố
trung gian giữa sự nam tính và các loại cảm xúc cô đơn. Tuy nhiên, một số nhà
nghiên cứu khác lại không tán thành với kết quả này. Ví dụ như nghiên cứu của
Trung tâm Thống kê Giáo dục Quốc gia do Kling, Hyde, Showers và Buswell thực
hiện năm 1999 đã cho thấy mức độ lòng tự trọng của nam giới với nữ giới chỉ có
khác biệt nhỏ. Do đó, quan điểm cho rằng “lòng tự trọng” là yếu tố trung gian “hòa
giải” cảm xúc cô đơn và xu hướng giới tính là không chắc chắn [44].
Trong một nghiên cứu của đại học Illinois Wesleyan do Kiley L. Bednar thực
hiện đã chỉ ra mối tương quan giữa cảm xúc cô đơn và mức độ tự trọng. Đối tượng
của nghiên cứu là các sinh viên ở độ tuổi từ 18-21. Họ được đánh giá mức độ cô
đơn, mức độ tự trọng và so sánh sự tương quan giữa các biến. Các mối tương quan
được tính toán ở các cấp độ cá nhân, quan hệ thân tình và quan hệ xã hội. Theo
nghiên cứu, sự cô đơn có thể xảy ra do các lý do: bản chất cá nhân nhút nhát, cảm
giác ít hài lòng với cuộc sống. Những người tự trọng thấp, sẽ có cảm giác không
được xã hội công nhận, từ đó dẫn tới cảm xúc cô đơn [33].
Nghiên cứu dựa trên thang đo UCLA và sự tự trọng của Coopersmith.
Sermat (1980) cho kết quả, các cá nhân cô đơn có mức điểm thấp hơn về khả năng
tự chủ trong hành động. Eddy (1961) đã tìm thấy mối tương quan đặc biệt giữa sự
cô đơn và lòng tự trọng. Lòng tự trọng thấp và các yếu tố tương quan như nhút nhát,
lo sợ rủi ro xã hội… có thể “nuôi dưỡng” sự cô đơn. Những người có lòng tự trọng
thấp cũng thường đổ lỗi cho bản thân vì các thất bại trong cuộc sống và điều đó
củng cố sự tự hạ thấp bản thân trong họ [25, tr42].
25