Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

SKKN - L3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (133.11 KB, 19 trang )

phòng gíáo dục mai sơn
trờng tiểu học thị trấn hát lót

sáng kiến kinh nghiệm
"Nâng cao chất lợng dạy giải toán có lời văn
lớp 3"
Ngời thực hiện: Lê Thị Nam
Giáo viên: Trờng tiểu học hát lót
Năm học 2006 - 2007
I. Lý do chọn sáng kiến:
1. Xuất phát từ thực tiễn dạy học.
- Ngời giáo viên không phải chỉ là một ngời thợ làm theo những thao tác một cách máy móc
mà phải phấn đấu tìm tòi, suy nghĩ những phơng pháp tốt nhất và phấn đấu trở thành giáo viên giỏi.
Ngời giáo viên dạy giỏi phải có năng lực và nghiệp vụ s phạm để học sinh phát huy tới đa năng lực
suy nghĩ, nhận xét sáng tạo và cẩn thận của mình.
Để phù hợp với việc đổi mới phơng pháp dạy học ở tiểu học đợc tiến hành theo hớng lấy học
sinh làm trung tâm chủ thể của hoạt động học. Thầy giáo là nhân tố quyết định chất lợng nhà trờng,
là ngời tổ chức kiểm tra đánh giá hoạt động của học sinh nên ngời giáo viên phải biết sử dụng hợp lý
và có hiệu quả các phơng tiện kỹ thuật trong dạy học.
2. Xuất phát từ thực tiễn nghiên cứu lý luận.
- Ngày nay việc dạy toán ở tiểu học không chỉ hạn chế ở việc rèn luyện kỹ năng kỹ xảo tính
toán, đo đạc mà còn trang bị cho học sinh một số kiến thức lý thuyết, không những kiến thực cụ thể
mà cả những kiến thức trừu tợng.
-Trong dạy học toán ở tiểu học, giải toán có lời văn chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng đối
với sự hình thành và phát triển nhân cách củng học sinh tiểu học giải toán giúp chọ sinh củng cố, vận
dụng kién thức, kỹ năng về học toán đồng thời giáo viên dễ dàng phát hiện những u điểm, khắc phục
thiếu sót.
- Thông qua dạy giải toán sẽ giúp cho các em hình thành và phát triển khả năng suy luận, lập
luận và trình bày các kết quả theo 1 trình tự hợp lý.
-Giúp học sinh rèn luyện đợc đức tính và phong cách làm việc khoa học ý thức vợt khó, thói
quen xét đoán, tính cẩn thận, chu đáo, cụ thể, làm việc có kế hoạch, có kiểm tra kết quả của việc làm


đồng thời từng bớc hình thành và rèn luyện thói quen về khả năng suy nghĩ, tính toán độc lập, linh
hoạt, khắc phục đợc tính dập khuôn, xây dựng đợc tính ham thích tìm tòi, sáng tạo phát triển t duy.
- Thực tế học sinh hiện nay khả năng giải toán và nhiều hạn chế do nhầm lẫn các oại bài toán
giống nhau, không giải thích đợc cách làm. khong nhận thấy đợc mối quan hệ giữa các dữ liệu, số
liệu cụ thể của bài toán dẫn đến hiểu sai bài toán nên lựa chọn câu lời giải hoặc phép tính không
đúng (hoặc cha chính xác, dẫn đến 30%-40% học sinh còn làm sai về dạng toán có lời văn nh : sai
về lời giải, về phép tính...vv
Từ những cơ sở lý luận và thực tế dạy học tôi nhận thấy việc nâng cao chất lợng dạy giải toán
có lời văn là một vấn đề cần thiết nên tôi đã mạnh dạnh đa ra một vài sáng kiến qua kinh nghiệm ít
có của mình để nghiên cứu và thử nghiệm.
ii. đối t ợng nghiên cứu.
Các dạng toán có lời văn trong chơng trình sách lớp 3
- Hs và giáo viên trờng tiểu học thị trấn Hát Lót.
iii. mục đích ngiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu
1. Tìm hiểu thực trạng và phơng pháp dạy học toán và các dạng toán có lời văn ở lớp 3.
ở các lớp 1,2 các em chỉ làm quen với việc giải toán đơn các em cha học về cách giải toán
hợp. Nh vậy về giải toán hợp là khá mới mẻ với hoc sinh.
Trong chơng tình toán 3 lại có rất nhiều dạng toán hợp có đặc điểm gần giống nhau. Vì vậy
giáo viên giỏi hớng dẫn học sinh biết cách xác định rõ cách dạng toán trúơc khi làm bài.
2. Muốn tìm ra một số giải pháp khi dạy học về giải toán có lời văn góp phần nâng cao hiệu
quả môn toán ở tiểu học nói chung và phơng pháp dạy giải toán có lời văn nói riêng.
- Giáo viên phải cho học sinh nắm chắc cấu trúc dạy toán và phép tính thích hợp để giải.
- So sánh tìm ra mối quan hệ của hai phép tính trong bài toán hợp
- Tìm lời giải hợp lý cho từng phép tính
3. Một số biện pháp cần lu ý:
Ngôn ngữ toán học còn trừu tợng: số lần gấp mấy lần số bé, số bé bằng một phần mấy số lớn,
gấp, (giảm) 1 số lên (đi) nhiều lần.
- Dùng thuật ngữ toán học phải chính xác.
- T duy của hs tiểu học đang trong quá trình hình thành và phát triển còn ở trong giai đoạn 't
duy cụ thể" do đó việc nhận thức của kiến thức toán học trừu tợng là vấn đề khó.

- Phải coi trọng việc giải toán có lời văn ở dạng toán hợp để từ đó tìm ra một số giải pháp đẻ
từng bớc nâng cao phơng pháp dạy và học, đảm bảo tính khoa học, chính xác, tính s phạm trong dạy
và học toán . Từ đó phát huy tính chủ động sáng tạo của hs trong học toán và cũng đồng thời phát
huy trình độ toán học cho giáo viên
iv. ph ơng pháp nghiên cứu.
Trong quá trình thực hiện sáng kiến này tôi đã sử dụng các phơng pháp sau:
* Đọc và sử lý tài liệu tham khảo SGK học sinh. SGV. Thiết kế dạy toán 3, tài liệu đổi mới
phơng pháp dạy học ở tiểu học, tài liệu thế giới trong ta, tài liệu bồi dỡng thờng xuyên cho giáo viên
ở tiểu học
- Tổng kết kinh nghiệm.
- Điều tra thực trạng: Tìm hiểu thực trạng về những vấn đề liên quan đến sáng kiến.
- Qua việc kểm tra về bài tập cho hs, phiếu trắc nghiệm và phiếu thăm dò.
- Phơng pháp hớng dẫn hs.
- Phơng pháp thực nghiệm kỹ năng sử phạm.
- Qua thực tế giảng dạy nội dung phơng án đề xuất để đối chứng, so sánh nhằm thấy đợc tính
khả thi, hiệu quả, u điểm của phơng án phơng án đề xuất.
phần nội dung
chơng 1: cơ sở lý luận
Dạy toán cho hs tiểu học là giúp hs biết vận dụng những kiến thức đã học, những kinh
nghiệm và kỹ năng đã có để thực hành giải toán "Giải toán có lời văn" có vị trí quan trọng nó giúp hs
luyện tập củng cố, vận dụng các kiến thức, thao tác thực hành để hs rèn luyện kỹ năng tính toán để
áp dụng vào thực tiễn (trong đời sống hàng ngày nếu không có điệu kiện học lên lớp tren qua học
dạng toán "giải toán có lời văn" giứp hs trong bớc phát triển năng lực, t duy, rèn luyện, phơng pháp
kỹ năng quan sát phỏng đoán, tìm tòi. Rèn luyện thói quen và suy nghĩ độc lập linh hoạt khắc phụ sự
suy nghĩ máy móc, đạp khuôn, xay dựng lòng ham thích tìm tòi, sáng tạo ở mức độ khác nhau. Từ
đơn giản đến phức tạp. Nói chung môn toán ở tiểu học góp phần vào hình thành những phẩm chất
cần thiết và quan trọng của ngời lao động nh cần cù, cẩn thận, có ý chí vợt mọi khó khăn, làm việc
có kế hoạch, có nề nếp và tác phong khoa học.
- Trong giải toán có lời văn nói riêng, giải toán là hoạt động gồm những thao tác nh xác lập
đợc mối quan hệ giữa các dữ liệu giữa cái hiểu biết và cái cần tìm trong điều kiện của bài toán, chọn

đợc cách giải, góp tích thích hợp. trả lời đúng các câu hỏi cảu bài toán.
- Dạy giải toán có lời văn ở lớp 3 giúp hs biết giải và trình bày bài giải các bài toán đơn và
gấp một số lên nhiều lần và giảm giải đi một số lần, tìm một trong các phần bằng nhau của một số
- Giải các bài toán hợp bằng 2=>3 phép tính (có liên quan đến so sánh sốlớn với số bé, bài
toán có liên quan đén rút về đơn vị, bài toán có nội dung về hình học)/
chơng i: cơ sở thực tién
1. Nội dung
- Toán 3 bổ sung và hoàn thiện các kiến thức và kỹ năng của môn toán các lớp 1,2,3 và
chuẩn bị cho việc dạy toán mới mức độ phát triển tiếp ở các lớp 4,5.
- Toán 3 cung cấp và phát triển những nội dung toán một và đặc biệt là của toán 2 chuẩn bị
bớc đầu cho việc hệ thống hoá và hoàn thiện một số kiến thức và kỹ năng của môn toán trong giai
đoạn 1.
- Nội dung toán 3 là noi dung tối thiểu của việc đảm bảo chất lợng giáo cho mọi đối tợng
học sinh.
Giải toán có lời văn chiếm 9% khối lợng chơng trình
+ Ôn tập một số dạng toán đơn về cộng trừ, nhân chia và những bổ sung dạng toán đơn về
tìm một trong các phần cùng nhau của một số gấp (giảm) một số lên (đi) nhiều lần.
SGK toán 3 về các dạng toán hợp giải = 2 phép tính và một số ít giải bằng 3 phép tính) về
khó và phức tạp có dạng toán gần giống nhau học sinh dễ nhầm lẫn nh so sánh số lớn với số bé về
thuật ngữ gấp, giảm đi một số lần và giảm một số đơn vị dạng toán cớ liên quan đén rút về đơn vị
( có 2 dạng hs dễ nhậm lẫn ) bắt buộc hs phải có t duy dể so sánh, phân tích tổng hợp, trừu tợng hoá,
khái quát hoá và cụ thể hoá.
2. Phơng pháp và thực trạng.
Trong quá trình dạy và học của gv và hs cho thấy giáo viên đã truyền thụ đầy đủ và tốt nội
dung kiến thức ở SGK, nhng mới chỉ gói gọn trong bài tập SGK đa ra, cha có sự mở rộng kiến thức .
Mặc dù gv đã áp dụng phơng pháp mới, lấy hs làm trung tâm song phơng pháp dạy học còn mang
tính áp đặt nặng nề và sợ mất thời gian, hoặc một số hs không hiểu bài nên gv còn hớng dẫn giảng
giải quá nhiều khiến hs lời suy nghĩ.
Phần tóm tắt đa số gv không để học sinh tự tóm tắt mà giáo viên làm tóm tắt qua câu hỏi
khai thác nội dung bài.

- Phần thực hiện phép tính và lời giải gv còn gợi mở, hớng dẫn rất nhiều nên hs chỉ dựa vào
đó mà thực hiện hoặc quan sát gv làm và cùng kiểm tra lại kết quả.
- Với dạng toán có lời văn ở lớp 2 chỉ là các dạng toán đơn nên hs chỉ cần dựa vào các thuật
ngữ gv hớng dẫn hơn, kém, bớt, ít hơn, nhiều hơn, tìm tích, chia thêm các phần bằng nhau, để chuyển
thành các phép tính tơng ứng nh x, :, +. - và ghép với lời giải và đáp số. Vì vậy khả năng t duy mặc
dù đã phát triển hơn lớp 1 nhng còn rất hạn chế.
Chính vì nguyên nhân đó mà lớp 3 học hs gặp rất nhiều khó khăn trong việc khó khăn trong
việc suy lận lô gic để tìm hiểu về cái đã cho và cái cần tìm của bài toán
- Qua thực trạng học tập của hs cho thấy ; Đa số hs tiếp thu kiến thức 1 cách rất thụ động ,
chủ yếu là nghe , quan sát , và làm bài tập , một số học sinh cha chịu suy nghĩ tìm ra cáh tóm tắt để
hiểu ngắn gọn hs phần đa đã hiểu bài toán cho biết gì ? và hỏi gì, song vì là dạng toán hợp nên các
con cha biết so sánh hai dữ kiện đã cho biết trong bài toán nh thế nào với nhau để tìm ra phần bài
toán hỏi gì?, có học sinh cha hiểu về nội dung yêu cầu của bài toán.Chính vì vậy khi làm bài các con
thờng lúng túng trong việc tóm tắt và trình bày lời giải.
- Trong giảng dạy có gv cho rằng phần tóm tắt bài toán không cần thiết nhng theo tôi đó là
một ý kiến sai lầm vì thực ra hs có hiểu bài mới tóm tắt đợc bài toán. Nếu hs cha tóm tắt thì cha chắc
đã giải đúng đợc bài toán hoặc có những dạng toán cần phải nhìn vào toán tắt mới dễ có cách giải bài
toán.
- Khi các em không tìm đợc hớng giải, cha biết giải thực hiện tìm gì trớc, tìm gì sau thì các
em thờng hay chán nản, có thể làm bừa và không hứng thú trong học tập.
Trong khi dạy các dạng toán có lời văn có thể nói gv đã nhiệt tình đem hết khả năng để h-
ớng dẫn và truyền đạt đầy đủ kiến thức cho hs đi theo đúng trình tự giả bài toán, hs nắm bài tơng
đối tốt. Song bên cạnh đó còn có một số em còn rất lúng túng trong việc tóm tắt đề bài có thể thừa
hoặc thiếu dữ kiện hay tóm tắt quá dài dòng, thậm chí có em còn không tóm tắc đợc bởi vì các em
không nắm đợc mối quan hệ giữa cái đã có và cái phải tìm. học sinh không hiều bài, thờng là hay đặt
lời giải và phép tính không hợp lý và thờng làm bài một cách máy móc không có sự suy luận sáng
tạo.
3. Các dạng bài toán có lời văn lớp 3
a. Các dạng toán đơn.
- Tìm một trong các phần bằng nhau của một số

- Gấp một số lên nhiều lần
- Giảm đi một số lần
b. Các dạng toán hợp
- Bài toán giải bằng hai phép tính
- So sánh số lớn gấp mấy lần số bé
- So sánh số bé bằng một phần mấy số lớn
- Bài toán có liên quan đến rút về đơn vị (có 2 dạng)
- Bài toán có nội dung hình học
Bài toán có liên quan đến tiền Việt Nam
chơng ii
giải quyết vấn đề
I.một số nguyên nhân gây cho hs những khó khăn trong việc giải các dạng
toán có lời văn và biện pháp giải quyết khó khăn đó.
- Trong chơng trình toán 3 dạng toán có lời văn còn có một số dạng toán đon vị tìm một
trong các phần bằng nhau của một số, gấp một số lần nhiều lần, giảm đi một số lần nh hs đều làm đ-
ợc vì chỉ cần hiểu đợc quy tắc gấp là gấp là nhân, giảm đi số lần là chia và chỉ có một phép tính duy
nhất nên hs không gặp khó khăn lắm trong quá trình giải toán.
Trong sáng kiến này tôi muốn đề cập đến một số dạng toán hợp cơ từ 2 đến 3 phép tính.
1. học sinh thờng lúng túng trong việc tón tắt đề bài.
* Nguyên nhân:
Hs khong đọc kỹ đề bài, đặc biệt là những em học kém, cha hiểu dạng đề bài vì vậy không
tóm tắt đựơc bài toán.
- Cũng có những lúc trong 1 tiết dạy lợng bài hơi nhiều sợ không đủ thời gian nên gv cha h-
ớng dẫn tỉ mỉ và cha quan tâm đến mọi đối tợng hs có lúc giáo viên đa câu hỏi, gợi mở quá sớm
không phát huy đợc sự suy luận của hs hoặc đa ra câu hỏi không sát với nội dung bài nên một số hs
yếu không trả lời đợc dẫn đến tình trạng nhàm chán, căng thẳng hoặc có thể một số hs không cần
tóm tắt mà làm bừa bài tóan nên giáo viên không bao quát hết.
+ Biện pháp.
giáo viên cần yêu cầu hs đọc kỹ đầu bài đa ra hệ thống câu hỏi dành cho cả đối tợng: giỏi,
khá , trung bình, yếu đặc biệt những hs yếu cần có những câu hỏi gợi mở và cụ thể hơn

Ví dụ:

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×