Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

Triết học Trung Hoa cổ, trung đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (62.69 KB, 10 trang )

Triết học Trung Hoa cổ, trung đại
1. Hoàn cảnh ra đời và đặc điểm của triết học Trung Hoa cổ, trung đại.
1.1. Hoàn cảnh ra đời của triết học Trung Hoa cổ, trung đại
Trung Hoa cổ đại là một quốc gia rộng lớn, có lịch sử lâu đời từ cuối thiên niên kỷ III tr. CN
kéo dài tới tận thế kỷ III tr. CN với sự kiện Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Hoa mở đầu
cho thời kỳ phong kiến. Trong hơn 2000 năm lịch sử ấy, lịch sử Trung Hoa được phân chia
làm 2 thời kỳ lớn: Thời kỳ từ thế kỷ IX tr. CN trở về trước và thời kỳ từ thế kỷ VIII tr. CN đến
cuối thế kỷ III tr. CN.
1.1.1. Thời kỳ thứ nhất: Có các triều đại nhà Hạ, nhà Thương và nhà Tây Chu. Theo các
văn bản cổ, nhà Hạ ra đời vào khoảng thế kỷ XXI tr. CN, đánh dấu sự mở dầu cho chế độ
chiếm hữu nô lệ ở Trung Hoa. Khoảng nửa đầu thế kỷ XVII tr. CN, người đứng đầu bộ tộc
Thương là Thành Thang đã lật đổ nhà Hạ, lập ra nhà Thương, đóng đô ở đất Bạc( Hà Nam
hiện nay). Đến thế kỷ XVI tr. CN, Bàn Canh rời đô về đất Ân nên nhà Thương còn gọi là nhà
Ân. Vào khoảng thế kỷ XI tr. CN, Chu Vũ Vương đã giết vua Trụ nhà Ân lập ra nhà Chu ( giai
đoạn đầu là Tây Chu), đưa chế độ nô lệ ở Trung Hoa lên đỉnh cao. Nhà Chu đã thực hiện
quốc hữu hóa về tư liệu sản xuất (gồm ruộng đất và sức lao động) rất nghiêm ngặt, tất cả
đều thuộc quyền quản lý của vua nhà Chu . Đồng thời, thành lập những đô thị lớn tạo nên
sự đối lập rất lớn giữa thành thị và nông thôn.
Trong thời kỳ này, thế giới quan thần thoại, tôn giáo và chủ nghĩa duy tâm thần bí thống trị
trong đời sống tinh thần. Những tư tưởng triết học đã xuất hiện, nhưng chưa đạt tới mức là
một hệ thống. Nó đã gắn chặt thần quyền với thế quyền, lý giải sự liên hệ mật thiết giữa đời
sống chính trị - xã hội với lĩnh vực đạo đức luân lý. Lúc này cũng đã xuất hiện những quan
niệm có tính chất duy vật mộc mạc, những tư tưởng vô thần tiến bộ.
Về khoa học, họ đã phát minh ra chữ viết và dựa vào sự quan sát vận hành của mặt trăng,
các vì sao, tính chất chu kỳ của nước sông và quy luật sinh trưởng của cây trồng mà họ đã
biết làm ra lịch (Âm lịch)
1.1.2. Thời kỳ thứ hai: là thời kỳ Đông Chu (còn gọi là thời kỳ Xuân Thu - Chiến quốc),
thời kỳ chuyển biến từ chế độ chiếm hữu nô lệ sang chế độ phong kiến. Sự phát triển của
sức sản xuất đã tác động mạnh mẽ đến hình thức sở hữu ruộng đất và kết cấu giai tầng của
xã hội. Nếu dưới thời Tây Chu, đất đai thuộc sở hữu của nhà vua thì nay thuộc về tầng lớp
địa chủ mới lên và chế độ sở hữu tư nhân về ruộng đất hình thành.Từ đó, sự phân hóa sang


hèn dựa trên cơ sở tài sản xuất hiện. Xã hội lâm vào cảnh loạn lạc, rối ren và chiến tranh
xảy ra liên miên. Đây chính là điều kiện lịch sử đòi hỏi giải thể chế độ nô lệ thị tộc nhà Chu,
hình thành chế độ phong kiến; đòi hỏi giải thể nhà nước của chế độ gia trưởng, xây dựng
nhà nước phong kiến nhằm giải phóng lực lượng sản xuất, mở đường cho xã hội phát triển.
Sự phát triển sôi động của xã hội đã đặt ra và làm xuất hiện những tụ điểm, những trung
tâm của những "kẻ sĩ" luôn tranh luận về trật tự xã hội cũ và đề ra những mẫu hình của một
xã hội trong tương lai. Lịch sử gọi đây là thời kỳ "Bách gia chư tử" (trăm nhà trăm thầy),
"Bách gia tranh minh" (trăm nhà đua tiếng). Chính trong quá trình ấy đã sản sinh ra những
nhà tư tưởng lớn và hình thành nên các trường phái triết học khá hoàn chỉnh. Đặc điểm của
các trường phái này là lấy con người và xã hội làm trung tâm của sự nghiên cứu, có xu
hướng chung là giải quyết những vấn đề thực tiễn chính trị - đạo đức của xã hội. Theo Lưu
Hâm (đời Tây Hán), Trung Hoa thời kỳ này có chín trường phái triết học chính (gọi là Cửu
lưu hay Cửu gia) là: Nho gia, Mặc gia, Đạo gia, Âm dương gia, Danh gia, Pháp gia, Nông
gia, Tung hoành gia, Tạp gia. Trừ Phật giáo được du nhập từ ấn Độ sau này, các trường phái
triết học được hình thành vào thời kỳ này được bổ sung và hoàn thiện qua nhiều giai đoạn
lịch sử và tồn tại cho tới thời kỳ cận đại.
1.2. Đặc điểm của triết học Trung Hoa cổ, trung đại
Thứ nhất, triết học Trung Hoa cổ, trung đại luôn nhấn mạnh tinh thần nhân văn, chú trong
đến các tư tưởng triết học liên quan đến con người, còn triết học tự nhiên có phần mờ nhạt.
Thứ hai, triết học Trung Hoa cổ, trung đại chú trọng đến lĩnh vực chính trị -đạo đức của xã
hội, coi việc thực hành đạo đức là hoạt động thực tiễn căn bản nhất của một đời người. Có
thể nói, đây cũng chính là nguyên nhân dẫn đến sự kém phát triển về nhận thức luận và sự
lạc hậu về khoa học thực chứng của Trung Hoa.
Thứ ba, triết học Trung Hoa cổ, trung đại nhấn mạnh sự thống nhất hài hòa giữa tự nhiên và
xã hội, phản đối sự "thái quá" hay"bất cập".
Thứ tư, đặc điểm nổi bật của phương thức tư duy của triết học Trung Hoa cổ, trung đại là
nhận thức trực giác, coi trọng tác dụng của cái "Tâm", coi đó là gốc rễ của nhận thức.
2. Một số học thuyết tiêu biểu của triết học Trung Hoa cổ, trung đại
2.1. Thuyết Âm - Dương, Ngũ hành
ở Trung Hoa, những quan niệm triết lý về "âm - dương", "ngũ hành" đã được lưu truyền từ

rất sớm. Tới thời Xuân thu - Chiến quốc, những tư tưởng về Âm dương - Ngũ hành đã đạt tới
mức là một hệ thống các quan niệm về bản nguyên và tính biến dịch của thế giới.
a. Tư tưởng triết học về Âm- Dương
Triết học Âm - Dương có thiên hướng suy tư về nguyên lý vận hành đầu tiên và phổ biến của
vạn vật; đó là sự tương tác của hai thế lực đối lập nhau là Âm và Dương.
"Âm" là một phạm trù rất rộng, phản ánh khái quát những thuộc tính phổ biến của vạn vật
như: nhu, thuận, tối, ẩm, phía dưới, phía phải, số chẵn (2,4,6...). "Dương" là phạm trù đối
lập với "Âm", phản ánh khái quát những tính chất phổ biến của vạn vật như: cương, cường,
sáng, khô, phía trên, phía trái, số lẻ (1,3,5...). Nhưng hai thế lực Âm - Dương không tồn tại
biệt lập mà là thống nhất với nhau, chế ước lẫn nhau theo ba nguyên lý căn bản.
+ Âm - Dương thống nhất trong Thái cực (Thái cực được coi là nguyên lý của sự thống nhất
của hai mặt đối lập là âm và dương). Nguyên lý này nói lên tính toàn vẹn, chỉnh thể, cân
bằng của cái đa và cái duy nhất. Chính nó bao hàm tư tưởng về sự thống nhất giữa cái bất
biến và cái biến đổi.
+ Trong Âm có Dương, trong Dương có Âm. Nguyên lý này nói lên khả năng biến đổi Âm -
Dương đã bao hàm trong mỗi mặt đối lập của Thái cực.
Hai nguyên lý này thường được các học giả phái Âm - Dương khái quát bằng vòng tròn khép
kín (tượng trưng cho Thái cực, trong đó được chia thành hai nửa (đen trắng) và trong nửa
này đã bao hàm nhân tố của nửa kia (trong phần đen có nhân tố của phần trắng và ngược
lại), biểu hiện cho nguyên lý trong Dương có Âm và trong Âm có Dương.
+ Sự khái quát đồ hình Thái cực Âm - Dương còn bao hàm nguyên lý: Dương tiến đến đâu
thì Âm lùi đến đó và ngược lại; đồng thời "Âm thịnh thì Dương khởi", "Dương cực thì Âm
sinh".
Để giải thích sự biến dịch từ cái duy nhất thành cái nhiều, đa dạng, phong phú của vạn vật,
phái Âm - Dương đã đưa ra lôgíc tất định: Thái cực sinh Lưỡng nghi (Âm - Dương); Lưỡng
nghi sinh Tứ tượng (Thái Dương - Thiếu Âm - Thiếu Dương - Thái Âm) và Tứ tượng sinh Bát
quái ( Càn - Khảm - Cấn - Chấn - Tốn - Ly - Khôn - Đoài); Bát quái sinh vạn vật (vô cùng vô
tận).
Tư tưởng triết học về Âm - Dương đạt tới mức là một hệ thống hoàn chỉnh trong tác phẩm
Kinh Dịch, trong đó gồm 64 quẻ kép. Mỗi quẻ kép là một động thái, một thời của vạn vật và

nhân sinh, xã hội như: Kiền, Khôn, Bĩ, Thái, Truân...; Sự chú giải Kinh Dịch là của nhiều bậc
trí thức ở nhiều thời đại khác nhau với những xu hướng khác nhau. Điều đó tạo ra một "tập
đại thành" của sự chú giải, bao hàm những tư tưởng triết học hết sức phong phú và sâu sắc.
b. Tư tưởng triết học về Ngũ hành
Tư tưởng triết học về Ngũ hành có xu hướng đi vào phân tích cấu trúc của vạn vật và quy
nó về những yếu tố khởi nguyên với những tính chất khác nhau, những tương tác (tương
sinh, tương khắc) với nhau. Đó là năm yếu tố: Kim - Mộc - Thủy - Hỏa - Thổ. Kim tượng
trưng cho tính chất trắng, khô, cay, phía Tây, v.v.; Thủy tượng trưng cho tính chất đen,
mặn, phía Bắc, v.v.; Mộc tượng trưng cho tính chất xanh, chua, phía Đông, .v.v.; Hỏa tượng
trưng cho tính chất đỏ, đắng, phía Nam,.v.v.; Thổ tượng trưng cho tính chất vàng, ngọt, ở
giữa,.v.v.
Năm yếu tố này không tồn tại biệt lập tuyệt đối mà trong một hệ thống ảnh hưởng sinh -
khắc với nhau theo hai nguyên tắc:
+ Tương sinh (sinh hóa cho nhau): Thổ sinh Kim; Kim sinh Thủy; Thủy sinh Mộc; Mộc sinh
Hỏa; Hỏa sinh Thổ.v.v.
+ Tương khắc (chế ước lẫn nhau): Thổ khắc Thủy; Thủy khắc Hỏa; Hỏa khắc Kim; Kim khắc
Mộc và Mộc khắc Thổ.v.v.
Sự hợp nhất giữa tư tưởng triết học Âm - Dương và Ngũ hành đã làm cho mỗi thuyết có sự
bổ túc, hoàn thiện hơn, thể hiện điển hình ở chỗ: các quẻ đơn (Càn - Khảm - Cấn - Chấn -
Tốn - Ly - Khôn - Đoài) đều được quy về Ngũ hành để biện giải và ngược lại, Ngũ hành cũng
mang tính cách Âm - Dương. Chẳng hạn: Kiền - Đoài thuộc hành Kim; chấn - Tốn thuộc
hành Mộc v.v. và Kim cũng có Kim Âm và Kim Dương; Mộc cũng có Mộc Âm và Mộc Dương.
2.2. Nho gia (thường gọi là Nho giáo)
Nho gia xuất hiện vào khoảng thế kỷ VI tr. CN dưới thời Xuân Thu, người sáng lập là Khổng
Tử (551 - 479 tr. CN). Đến thời Chiến Quốc, Nho gia đã được Mạnh Tử và Tuân Tử hoàn
thiện và phát triển theo hai xu hướng khác nhau: duy vật và duy tâm, trong đó dòng Nho
gia Khổng - Mạnh có ảnh hưởng rộng và lâu dài nhất trong lịch sử Trung Hoa và một số
nước lân cận.
Kinh điển chủ yếu của Nho gia gồm Tứ Thư (Luận ngữ, Đại học, Trung Dung, Mạnh Tử) và
Ngũ Kinh (Thi, Thư, Lễ, Dịch và Xuân Thu). Các kinh sách này hầu hết đều viết về xã hội, về

kinh nghiệm lịch sử Trung Hoa. Điều này cho thấy rõ xu hướng biện luận về xã hội, về chính
trị - đạo đức là những tư tưởng cốt lõi của Nho gia. Những quan niệm đó được thể hiện ở
những tư tưởng chủ yếu sau:
Thứ nhất, Nho gia coi những quan hệ chính trị - đạo đức là những quan hệ nền tảng của xã
hội, trong đó quan trọng nhất là quan hệ vua - tôi, cha - con, chồng - vợ (gọi là Tam
cương). Nếu xếp theo tôn ty trật tự, trên dưới thì vua ở vị trí cao nhất, còn nếu xếp theo
chiều ngang của quan hệ thì vua - cha - chồng xếp ở hàng làm chủ. Điều này phản ánh tư
tưởng chính trị quân quyền và phụ quyền của Nho gia.
Thứ hai, xuất hiện trong bối cảnh lịch sử quá độ sang xã hội phong kiến, một xã hội đầy
những biến động loạn lạc và chiến tranh nên lý tưởng của Nho gia là xây dựng một "xã hội
đại đồng". Đó là một xã hội có trật tự trên - dưới, có vua sáng - tôi hiền, cha từ - con thảo,
trong ấm - ngoài êm trên cơ sở địa vị và thân phận của mỗi thành viên từ vua chúa, quan
lại đến thứ dân. Có thể nói đó là lý tưởng của tầng lớp quý tộc cũ cũng như của giai cấp địa
chủ phong kiến đang lên.
Thứ ba, Nho gia lấy giáo dục làm phương thức chủ yếu để đạt tới xã hội lý tưởng "đại đồng".
Do không coi trọng cơ sở kinh tế và kỹ thuật của xã hội nên nền giáo dục của Nho gia chủ
yếu hướng vào việc rèn luyện đạo đức con người. Trong bảng giá trị đạo đức của Nho gia thì
chuẩn mực gốc là "Nhân". Những chuẩn mực khác như Lễ, Nghĩa, Trí, Tín, Trung, Hiếu.v .v.
đều là những biểu hiện cụ thể của Nhân.
Thứ tư, Nho gia quan tâm đến vấn đề bản tính con người. Việc giải quyết những vấn đề
chính trị -xã hội đòi hỏi Nho gia cũng như nhiều học thuyết khác của Trung Hoa thời cổ phải
đặt ra và giải quyết vấn đề bản tính con người. Trong học thuyết Nho gia không có sự thống
nhất quan điểm về vấn đề này, nhưng nổi bật là quan điểm của Mạnh Tử. Theo ông, "bản
tính con người vốn là thiện" (Nhân chi sơ, tính bản thiện). Thiện là tổng hợp những đức tính
vốn có của con người từ khi mới sinh ra như: Nhân, Nghĩa, Lễ .v.v.
Mạnh Tử đã thần bí hóa những giá trị chính trị - đạo đức đến mức coi chúng là tiên thiên,
bẩm sinh. Do quan niệm tính thiện nên Nho gia (dòng Khổng - Mạnh) đề cao sự giáo dục
con người để con người trở về đường thiện với những chuẩn mực đạo đức có sẵn.
Đối lập với Mạnh Tử coi tính người là Thiện, Tuân Tử lại coi bản tính con người vốn là ác
(Nhân chi sơ, tính bản ác). Mặc dù vậy, nhưng có thể giáo hóa trở thành thiện (Nhân, Nghĩa,

Lễ, Trí....). Xuất phát từ quan niệm đó về tính người, Tuân Tử chủ trương đường lối trị nước
kết hợp giữa Nho gia và Pháp gia.
Người sáng lập ra Nho gia là Khổng Tử (551 - 479 tr.CN)
Trong quan niệm về thế giới, tư tưởng của Khổng Tử luôn có những mâu thuẫn. Một mặt,
khi chống lại chủ nghĩa thần bí, tôn giáo đương thời, ông thừa nhận sự vật, hiện tượng trong
tự nhiên luôn luôn tự vận động,biến hóa không phụ thuộc vào mệnh lệnh của Trời. “ Trời có
nói gì đâu mà bốn mùa vận hành, vạn vật sinh hóa mãi mãi” (Luận ngữ, Dương Hóa, 18);
hay “ cũng như dòng nước chảy, mọi vật đều trôi đi, ngày đêm không ngừng, không nghỉ”
(Luận ngữ, Tử Hãn, 16). Đó là yếu tố duy vật chất phác và tư tưởng biện chứng tự phát của
ông. Mặt khác, ông lại cho rằng Trời có ý chí và có thể chi phối vận mệnh của con người
(Thiên mệnh). Đó là yếu tố duy tâm khách qua trong quan điểm của ông. Ông nói: “Đạo của
ta thi hành ra được cũng do mệnh Trời, mà bị bỏ phế cũng là do mệnh Trời” (Luận ngữ, Hiến
vấn, 38); “làm sao có thể cải được mệnh Trời”. Hiểu biết mệnh Trời là một điều kiện tất yếu
để trở thành con người hoàn thiện là người quân tử. Cũng như thế, một mặt Khổng Tử tuyên
truyền sức mạnh của quỷ thần; nhưng mặt khác ông lại nhấn mạnh vai trò quan trọng của
hoạt động con người trong đời sống.
Quan niệm về nhận thức trong học thuyết của Khổng Tử không phát triển, không đặt ra vấn
đề chân lý mà chỉ dừng lại ở vấn đề “tri thức luận” (tri thức do đâu mà có). Theo ông, tri
thức có hai loại là “thượng trí” (không học cũng biết) và “hạ ngu”(học cũng không biết).
Nghĩa là ông đã thừa nhận có tri thức tiên thiên, có trước sự nhận thức của con người. Đối
tượng để dạy dỗ, giáo hóa nằm giữa “trí” và “ngu”, nếu chịu khó học tập có thể vươn tới
thượng trí. Còn không học thì rơi xuống hạ ngu. Ưu điểm của ông là chủ trương “hữu giáo
vô loại” (học thì không phân loại). Khổng Tử cũng nêu ra một số phương pháp học tập có ý
nghĩa như: học phải đi đôi với luyện tập; học phải kết hợp với suy nghĩ; phải ôn cũ để biết
mới; học phải nắm được cái cốt yếu”Tuy nhiên, hạn chế của Khổng Tử là ở quan niệm học
theo lối “hoài cổ”, coi thường tri thức về sản xuất, lao động chân tay.
Tư tưởng về luân lý, đạo đức, chính trị - xã hội là một trong những vấn đề cốt lõi trong học
thuyết Khổng Tử. Những nguyên lý đạo đức cơ bản nhất trong học thuyết đạo đức của
Khổng Tử là : Nhân, lễ, trí, dũng...cùng với một hệ thống quan niệm về chính trị - xã hội
như “nhân trị”, “chính danh”, “thượng hiền”, “quân tử”, “tiểu nhân”...

Khổng Tử lấy chữ “Nhân” làm nguyên lý đạo đức cơ bản trong triết học của mình. Nhân có ý
nghĩa rất rộng, bao hàm nhiều mặt trong đời sống con người, có lúc trừu tượng, có lúc cụ
thể, tuỳ theo trình độ, hoàn cảnh mà ông giảng giải về nhân với nội dung khác nhau. “Sửa
mình theo lẽ là nhân”, “ Điều gì mình không muốn, đừng đem nó làm cho người khác là
nhân”, “yêu thương người là nhân”...Tư tưởng bao trùm của Nhân là yêu thương con người,
là đạo làm người.
Để điều nhân có thể thực hiện được thì phải bằng “lễ”. Lễ ở Khổng Tử là những phong tục,
tập quán, những quy tắc, quy định trật tự xã hội và cả thể chế pháp luật Nhà nước như:
sinh, tử, tang, hôn tế lễ, triều sính, luật lệ, hình pháp...Lễ được coi là hình thức biểu hiện
của nhân. Mặc dù kiên trì bảo vệ lễ của nhà Chu , nhưng Khổng Tử cũng đưa thêm những
nội dung mới và phát triển nó lên, biến lễ thành một phạm trù có ý nghĩa xã hội và nhân

×