ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------
VŨ THỊ LÚA
QUAN NIỆM CỦA C. MÁC VÀ PH. ĂNGGHEN
VỀ QUYỀN CON NGƯỜI
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Triết học
Hà Nội – 2014
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------
VŨ THỊ LÚA
QUAN NIỆM CỦA C. MÁC VÀ PH. ĂNGGHEN
VỀ QUYỀN CON NGƯỜI
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Triết học
Mã số: 60.22.03.01
Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Thanh Huyền
Hà Nội – 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Nguồn tài
liệu được sử dụng trong luận văn là chân thực, có nguồn gốc, xuất xứ rõ
ràng. Những đánh giá, kết luận được rút ra trong luận văn là những gợi mở
bước đầu về đề tài nghiên cứu.
Hà Nội, tháng 01/2014
Học viên
Vũ Thị Lúa
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn với đề tài: “QUAN NIỆM CỦA C. MÁC
VÀ PH. ĂNGGHEN VỀ QUYỀN CON NGƯỜI” không chỉ là công sức
của riêng tôi, ngoài sự cố gắng, nỗ lực của bản thân, tôi đã nhận được sự giúp
đỡ của các thầy cô giáo trong khoa Triết học, Trường Đại học KHXH & NV,
Đại học Quốc gia Hà Nội cùng gia đình, bạn bè đã nhiệt tình giúp đỡ, động
viên, khích lệ, tạo mọi điều kiện giúp tôi hoàn thành luận văn này.
Đặc biệt, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và lòng biết ơn sâu sắc tới
cô TS. Nguyễn Thị Thanh Huyền – người đã nhiệt tình chỉ bảo và hướng dẫn
tôi trong suốt quá trình thực hiện để tôi hoàn thành luận văn của mình.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng luận văn của tôi sẽ không tránh khỏi
những thiếu sót, rất mong được sự chỉ bảo và đóng góp ý kiến của các thầy cô
giáo và các bạn.
Hà Nội, tháng 01/2014
Học viên
Vũ Thị Lúa
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.......................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài .................................................................................................................1
2. Tình hình nghiên cứu ..........................................................................................................3
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ....................................................................................9
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu................................................................................... 10
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu ....................................................................10
6. Đóng góp của luận văn .....................................................................................................10
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn ..............................................10
8. Kết cấu của luận văn........................................................................................................ 10
Chương 1: BỐI CẢNH LỊCH SỬ VÀ TIỀN ĐỀ TƯ TƯỞNG HÌNH
THÀNH QUAN NIỆM CỦA C. MÁC VÀ PH. ĂNGGHEN VỀ QUYỀN
CON NGƯỜI................................................................................................. 11
1.1. Bối cảnh kinh tế - xã hội các nước Tây Âu nửa đầu thế kỉ XIX ..............................11
1.2. Tiền đề tư tưởng............................................................................................................. 20
1.2.1. Quan niệm của các nhà duy vật Anh thế kỉ XVII về quyền con người . .21
1.2.2. Quan niệm của các nhà khai sáng Pháp thế kỉ XVIII về quyền con
người ..............................................................................................................27
1.2.3. Quan niệm của các nhà triết học cổ điển Đức về quyền con người .......36
1.2.4. Quan niệm của các nhà chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp và Anh đầu
thế kỷ XIX về quyền con người .......................................................................46
Tiểu kết chương 1 ...........................................................................................50
Chương 2: NỘI DUNG CƠ BẢN QUAN NIỆM CỦA C. MÁC VÀ PH.
ĂNGGHEN VỀ QUYỀN CON NGƯỜI .....................................................51
2.1. Quan niệm của C. Mác và Ph. Ăngghen về con người và sự phê phán đối với quan
niệm quyền con người của các nhà triết học Tây Âu Cận đại ........................................51
2.1.1. Quan niệm của C. Mác và Ph. Ăngghen về con người .........................51
2.1.2. Sự phê phán của C. Mác và Ph. Ăngghen đối với quan niệm quyền con
người của các nhà triết học Tây Âu Cận đại .................................................54
2.2. Quan niệm của C. Mác và Ph. Ăngghen về các quyền cơ bản của con người .......62
2.2.1. Quyền sống ............................................................................................62
2.2.2. Quyền chính trị ......................................................................................67
2.2.3. Quyền kinh tế ........................................................................................79
2.3. Quan niệm của C. Mác và Ph. Ăngghen về con đường để hiện thực hóa quyền con
người.........................................................................................................................................91
2.4. Ý nghĩa quan niệm của C. Mác và Ph. Ăngghen về quyền con người trong nhận
thức vấn đề quyền con người ở Việt Nam hiện nay.......................................................... 96
Tiểu kết chương 2......................................................................................... 107
KẾT LUẬN .................................................................................................108
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................110
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Từ khi chủ nghĩa Mác ra đời, nhiều học giả tư sản đã luôn tìm cách phủ
nhận, xuyên tạc chủ nghĩa Mác nói chung và triết học Mác nói riêng. Nhiều
học giả tư sản phương Tây thường tuyên bố rằng: “Chủ nghĩa Mác đã bỏ quên
con người” [Dẫn theo 69, tr 328]. Theo các học giả này, học thuyết của Mác
chủ yếu nhấn mạnh vai trò quyết định của yếu tố kinh tế, của đấu tranh giai
cấp. Nói cách khác, quan niệm đó khẳng định trong chủ nghĩa Mác không có
học thuyết về con người. Những người ít cực đoan hơn thì cho rằng, nếu triết
học Mác có quan tâm đến con người thì cũng chỉ ở thời kỳ đầu, thời Mác trẻ
còn chịu nhiều ảnh hưởng của triết học Hêghen. Họ cho rằng đỉnh cao của
học thuyết về con người mà Mác đạt tới là “Bản thảo kinh tế - triết học năm
1844”, còn sau đó, Mác đã từ bỏ luôn sự quan tâm đến con người. Như vậy,
họ chỉ thừa nhận những cống hiến của Mác trong lĩnh vực kinh tế học, còn về
mặt triết học, họ cho rằng Mác và Ăngghen đã xa rời truyền thống “nhân đạo”
của triết học phương Tây, “bỏ quên con người” với tư cách là con người cá
nhân mà chỉ chú ý đến con người giai cấp. Đồng thời, có quan điểm cho rằng,
học thuyết Mác chỉ bàn đến sự giải phóng con người mà không bàn về vấn đề
quyền con người.
Nhiều nhà nghiên cứu về chủ nghĩa Mác – Lênnin đã nhận định “bản
thân Mác không để lại bất kì một chuyên khảo hay những tác phẩm riêng bàn
về quyền con người và cũng không để lại một định nghĩa nào về quyền con
người dưới hình thức mà ngày nay chúng ta mong muốn” [33, tr 33]. Nhưng
trong học thuyết của Mác và Ăngghen, con người vừa là điểm xuất phát và
cũng là cái đích cuối cùng mà các ông hướng tới, trong đó mục tiêu cao nhất
là giải phóng con người khỏi ách áp bức, khỏi mọi sự tha hóa, được tự do phát
triển toàn diện bản chất người của mình, được thực hiện và đảm bảo những
quyền con người của mình. Có thể khẳng định, tuy không trực tiếp bàn đến
vấn đề quyền con người nhưng học thuyết Mác hướng tới một mục đích duy
1
nhất là đảm bảo quyền cho con người. Do vậy, quyền con người là một nội
dung cơ bản, quan trọng, nó khẳng định bản chất cách mạng, nhân văn của
học thuyết Mác. Luận điểm “Chủ nghĩa Mác bỏ quên con người” của nhiều
học giả phương Tây, không phải cố tình xuyên tạc thì cũng là không hiểu đầy
đủ về chủ nghĩa Mác nói chung, triết học Mác nói riêng.
Sau sự khủng hoảng và sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông
Âu, lợi dụng những khiếm khuyết của mô hình xã hội chủ nghĩa trước đây,
một số người cơ hội chủ nghĩa đã lớn tiếng tuyên bố rằng tư tưởng giải phóng
con người của chủ nghĩa Mác đã cũ, đã lỗi thời và không tưởng; “học thuyết
của Mác đã chết”, “triết học Mác đã chết”. Do vậy, trong thời đại ngày nay, để
tiếp tục đấu tranh với những quan điểm xuyên tạc học thuyết Mác, góp phần
khẳng định giá trị của chủ nghĩa Mác nói chung, học thuyết Mác về con
người, giải phóng con người nói riêng, việc trở lại nghiên cứu quan niệm của
Mác và Ăngghen về quyền con người là hết sức cần thiết.
Việt Nam đang tích cực, chủ động và ngày càng hội nhập sâu vào nền
kinh tế thế giới với nhiều diễn biến phức tạp, vấn đề quyền con người nhiều
lúc trở thành công cụ cho những thế lực thù địch lợi dụng. Dưới “chiêu bài
nhân quyền” với luận điệu “nhân quyền cao hơn chủ quyền”, những thế lực
thù địch can thiệp thô bạo vào công việc nội bộ của đất nước, nhằm phá hoại
và làm sụp đổ hoàn toàn Chủ nghĩa xã hội.
Với tinh thần phấn đấu xây dựng một Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của dân, do dân và vì dân, Đảng và Nhà nước ta đã hết sức chăm lo cho
sự phát triển con người. Trong sự nghiệp đổi mới đất nước, chiến lược phát
triển con người luôn dành được sự quan tâm hàng đầu. Và trọng tâm của
chiến lược đó chính là vấn đề quyền con người. Tuy nhiên, việc thực hiện và
đảm bảo toàn bộ quyền con người cho mọi công dân Việt Nam còn phụ thuộc
vào rất nhiều yếu tố: trình độ kinh tế - xã hội, đặc điểm văn hóa truyền thống,
sự hiểu biết của người dân về các quyền con người, luật lệ quốc tế về quyền
con người...
2
Chính hiện thực đó đòi hỏi chúng ta cần phải nghiên cứu sâu sắc và có
hệ thống hơn lý luận về quyền con người từ nhiều góc độ: chính trị, luật học,
xã hội học, triết học... nhằm tìm ra những cơ sở hợp lý, khoa học và cụ thể để
có thể ứng xử đúng đắn, chủ động trong quan hệ quốc tế, góp phần tích cực
vào cuộc đấu tranh vì sự nghiệp nhân quyền chân chính của cộng đồng nhân
loại. Đó là một nhiệm vụ chính trị hệ trọng và cấp thiết trong giai đoạn hiện
nay.
Việc đi sâu tìm hiểu quan niệm của Mác và Ăngghen về quyền con
người góp thêm cơ sở lý luận, phương pháp luận cho việc nhận thức vấn đề
quyền con người ở Việt Nam hiện nay. Từ đó góp phần đấu tranh chống lại
“chiêu bài nhân quyền” của các thế lực thù địch, khẳng định bản chất tốt đẹp
của chế độ xã hội Việt Nam.
Xuất phát từ những lý do trên, tôi chọn:“Quan niệm của C. Mác và Ph.
Ăngghen về quyền con người” làm đề tài luận văn cao học.
2. Tình hình nghiên cứu
Vấn đề con người nói chung và quyền con người nói riêng đã được quan
tâm trong suốt chiều dài lịch sử và đến nay, nó vẫn là vấn đề thu hút, lôi cuốn
nhiều học giả nghiên cứu trên những bình diện khác nhau. Có thể phân chia
các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn theo các nhóm sau:
* Các công trình nghiên cứu về quan niệm quyền con người trước
Mác:
+ Trước hết là tác phẩm: Tư tưởng về quyền con người – Tuyển tập tư
liệu thế giới và Việt Nam, đã dành dung lượng nhất định cho việc nghiên cứu
vấn đề con người, quyền con người ở các nhà triết học từ cổ đại đến hiện đại.
Tuy nhiên, công trình trên mới chỉ trình bày một cách khái quát quan niệm
quyền con người ở mỗi giai đoạn mà chưa tập trung đi sâu vào phân tích quan
niệm của từng nhà tư tưởng về quyền con người.
+ Tiếp đến, trong cuốn sách “Triết học chính trị về quyền con người” của
Nguyễn Văn Vĩnh, xuất bản năm 2005, đã đề cập đến quan niệm của các nhà
triết học trong lịch sử về quyền con người.
3
+ Đề tài nghiên cứu khoa học năm 2011: “Quan niệm của các nhà triết
học Khai sáng Pháp thế kỷ XVIII về quyền con người và vấn đề phát triển
quyền con người ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Nguyễn Thị Thanh Huyền
đã tập trung làm rõ quan niệm của các nhà triết học Khai sáng Pháp thế kỷ
XVIII về những quyền cơ bản của con người như: quyền tự do, quyền bình
đẳng, quyền tư hữu, quyền được giáo dục..., vận dụng quan niệm đó tìm hiểu
vấn đề quyền con người ở Việt Nam và khuyến nghị một số giải pháp nhằm
phát triển quyền con người ở Việt Nam hiện nay.
+ Luận văn “Vấn đề tự do và bình đẳng trong triết học Ch. S.
Montesquieu và J.J. Rousseau” của Trần Hương Giang, năm 2008. Luận văn
này đã phân tích và lý giải tư tưởng tự do và bình đẳng của Rútxô qua việc
đối chiếu với tư tưởng của Môngtexkiơ.
+ PGS.TS. Phạm Văn Đức có bài “John Locke – nhà tư tưởng lớn của
phong trào Khai sáng”, Tạp chí Triết học (số 2), năm 2008. Trong bài viết
này, tác giả đã trình bày khái quát về hệ thống triết học của Lốccơ, trong đó
có quan niệm về quyền tự nhiên, về khế ước xã hội.
Ngoài ra, còn một số bài viết của tác giả Lê Công Sự về quan niệm con
người của J. Locke cũng ít nhiều đề cập đến quan niệm quyền con người.
Có thể thấy, các công trình nghiên cứu trực tiếp quan niệm của các nhà
triết học trước Mác về quyền con người còn khá khiêm tốn, nó chỉ được đề
cập đến thông qua quan niệm chính trị, xã hội.
* Các công trình nghiên cứu về quan niệm con người trong triết học
Mác:
+ Cuốn sách của tác giả Hồ Sỹ Quý (Chủ biên): Con người và phát triển
con người trong quan niệm của C. Mác và Ph. Ăngghen, NXB Chính trị quốc
gia xuất bản năm 2003, là một sản phẩm của Đề tài KX.05.01 thuộc chương
trình khoa học – công nghệ cấp nhà nước (giai đoạn 2001 – 2005). Cuốn sách
gồm hai phần: phần thứ nhất là hệ thống hóa di sản kinh điển theo những chủ
đề mà thời đại đang quan tâm: những tư tưởng cơ bản về con người và phát
triển con người và phần thứ hai là khai thác di sản kinh điển theo cách nhìn
4
của thời đại ngày nay: ý nghĩa thế giới quan và phương pháp luận đối với
nhận thức và phát triển con người. Cuốn sách đã hệ thống hóa chi tiết và đầy
đủ nhất những tư tuởng kinh điển về vấn đề con người, bản chất con người,
phát triển con người. Đặc biệt, cuốn sách đã cung cấp cho ta tư liệu về những
tư tưởng ở thời kì Mác trẻ mà lâu nay chưa được khai thác nhiều.
+ Cuốn “Tư tưởng về con người trong lịch sử triết học” của Vũ Minh
Tâm chủ biên, trong cuốn sách này tác giả đã hệ thống lại những quan niệm
triết học về con người trong lịch sử tư tưởng nhân loại, trong đó có quan niệm
về con người của các nhà kinh điển mácxít, được tác giả luận giải ở một mức
độ nhất định. Tác giả cũng chỉ dừng lại ở việc liệt kê các luận điểm của các
nhà tư tưởng về con người, chứ chưa đi vào phân tích một cách sâu sắc, toàn
diện.
+ Triết học Mác và thời đại, NXB Khoa học Xã hội phát hành năm 2009,
là tập hợp những bài viết, những công trình nghiên cứu của nhiều tác giả,
được chia thành 7 nhóm chủ đề khác nhau. Cuốn sách là những minh chứng
khẳng định ý nghĩa thời đại và sức sống trường tồn của triết học Mác. Các giá
trị bền vững trong hệ thống triết học này, đặc biệt là những tư tưởng của các
nhà kinh điển về con người, về bản chất con người đã, đang và sẽ là cơ sở lý
luận nền tảng và là phương pháp luận khoa học để nhận thức và cải tạo thế
giới. Đặc biệt, trong cuốn sách có những bài viết đã phân tích cụ thể, sâu sắc
về quan niệm con người, bản chất con người của Mác như: “Triết học Mác về
con người và giải phóng con người” của PGS. TS Văn Đức Thanh, “Quan
điểm của C. Mác về “sự tha hóa con người” trong “Bản thảo kinh tế - triết học
năm 1844” và ý nghĩa của nó đối với việc phê phán tính hiện đại” của tác giả
Nguyễn Thị Mai Hoa hay bài viết “Quan điểm của C. Mác về bản chất con
người trong “Bút ký về Phoiơbắc”” của TS. Phạm Văn Chung...
+ Cuốn sách của tác giả Nguyễn Thị Thanh Huyền với tiêu đề: “Quan
niệm của C. Mác về tha hóa và ý nghĩa của quan niệm đó đối với phát triển
con người Việt Nam hiện nay” đã tập trung phân tích quan niệm của Mác về
tha hóa và con đường khắc phục sự tha hóa để phát triển con người toàn diện.
5
Trên cơ sở những phân tích ấy, tác giả đã vận dụng vào thực tiễn Việt Nam
luận giải con đường khắc phục sự tha hóa để phát triển con người Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay. Con đường khắc phục sự tha hóa ấy cũng chính là
con đường hiện thực hóa quyền con người, đảm bảo cho mọi người đều được
thụ hưởng những quyền xứng đáng thuộc về mình...
Ngoài ra còn một số luận văn thạc sĩ, một số bài viết nghiên cứu quan
niệm của triết học Mác về con người... cũng là những nguồn tài liệu quý giá
trong quá trình thực hiện luận văn.
* Các công trình nghiên cứu về quan niệm quyền con người trong
triết học Mác:
+ Một cuốn sách được Viện nghiên cứu quyền con người mà lúc đó là
Trung tâm Nghiên cứu quyền con người, thuộc Học viện Chính trị quốc gia
Hồ Chí Minh tổ chức nghiên cứu, tuyển chọn và giới thiệu năm 1998 đó là:
“Về quyền con người”, C. Mác – Ph. Ăngghen. Cuốn sách là sự tập hợp
những đoạn trích dẫn trong các tác phẩm của Mác – Ăngghen đề cập đến
quyền con người trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Các luận điểm được
sắp xếp theo từng vấn đề: lịch sử và nhận thức về quyền con người; nội dung
các quyền con người; quan hệ giữa nhà nước, pháp luật, chế độ xã hội và
quyền con người; cuối cùng là phê phán các quan điểm tư sản về quyền con
người. Trong mỗi vấn đề, các đoạn trích được sắp xếp theo thứ tự thời gian và
ghi rõ xuất xứ đoạn trích. Cuốn sách là nguồn tài liệu quan trọng, gợi mở
những ý tưởng nghiên cứu trong quá trình thực hiện luận văn. Tuy nhiên,
cuốn sách cũng chưa phải là tập hợp trích dẫn đầy đủ, hoàn chỉnh nhất những
quan điểm của chủ nghĩa Mác về quyền con người. Bởi vì nó đã bỏ qua một
số tác phẩm quan trọng sau này của Mác có liên quan trực tiếp đến các vấn đề
nhà nước, pháp luật và nhân quyền như “Phê phán cương lĩnh Gôta”, “Chống
Đuyrinh”, “Lútvích Phoiơbắc và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức”,
“Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và nhà nước”…
+ Đề tài cấp Bộ: Những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin
về quyền con người và ý nghĩa với Việt Nam hiện nay, Cơ quan chủ trì: Viện
6
Nghiên cứu Quyền con người, 2007. Với quy mô rộng lớn của một đề tài
mang tầm cỡ Nhà nước, đề tài đã đề ra nhiệm vụ làm sáng tỏ các quan điểm
lý luận cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin về quyền con người. Đề tài tập
trung nghiên cứu những tư tưởng của Mác – Ăngghen thông qua phân tích
một số tác phẩm tiêu biểu của các ông. Phần quan điểm của Lênin mới chỉ
được giới thiệu một số ít những nội dung cơ bản. Đề tài cũng tập trung làm rõ
mối tương quan giữa lý luận nhân quyền mácxít với xây dựng lý luận về nhân
quyền trong giai đoạn hiện nay, coi lý luận Mác – Lênin về quyền con người
là cơ sở lý luận và phương pháp luận cho các quan điểm và chính sách nhân
quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên mọi vấn đề mới chỉ
dừng lại ở việc đưa ra luận điểm và phân tích bước đầu để có một cái nhìn
bao quát quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về quyền con người.
+ Cuốn Tư tưởng của V.I Lênin về quyền con người và giá trị thực tiễn ở
Việt Nam của hai tác giả Hoàng Mai Hương và Nguyễn Hồng Hải, do NXB
Chính trị quốc gia xuất bản năm 2010 đã tập trung phân tích và làm rõ lý luận
và quan điểm của Lênin về một số quyền con người nổi bật và những giá trị
thực tiễn của những tư tưởng này ở Việt Nam hiện nay. Đặc biệt, trong
Chương 1: “Quyền con người và quá trình hình thành, phát triển tư tưởng của
V.I Lênin về quyền con người”, các tác giả đã phân tích một số quan điểm của
Mác và Ăngghen về quyền con người.
+ Cuốn Lý luận về quyền con người của Viện nghiên cứu quyền con
người, 2002 cũng đã có một chuyên đề nói về chủ nghĩa Mác và tư tưởng Hồ
Chí Minh về quyền con người. Tuy nhiên chuyên đề này cũng mới chỉ đưa ra
những quan điểm của chủ nghĩa Mác mà chưa trình bày một cách có hệ thống
nhiều vấn đề như quyền con người trong chủ nghĩa xã hội, con đường để hiện
thực hóa, đảm bảo quyền con người.
+ Luận án Phó tiến sĩ, khoa Triết học của Nguyễn Văn Vĩnh: Tư duy
chính trị về quyền con người (nhìn từ góc độ triết học) đã đưa ra những phân
tích khái quát quan niệm của chủ nghĩa Mác về quyền con người nhưng chủ
yếu dừng lại ở một số luận điểm cơ bản.
7
+ Bên cạnh những công trình nghiên cứu lớn, những cuốn sách chuyên
khảo, luận án, luận văn,… phải kể tới những bài tạp chí có nội dung liên quan
trực tiếp đến luận văn như: “Sự đóng góp của chủ nghĩa Mác vào vấn đề
quyền con người” của Hoàng Việt, tạp chí Nghiên cứu lý luận, số 4, 1993; Vũ
Hoàng Công: “Mác – Ăngghen bàn về quyền con người”, Tạp chí Nghiên cứu
lý luận, số 11, 2001; Maria Hít-do-víc: “Chủ nghĩa Mác và các quyền con
người”, Tạp chí Thông tin Khoa học xã hội, số 11, 1999… đã đưa thêm những
thông tin, những luận chứng quan trọng, cung cấp cho chúng ta cái nhìn toàn
diện hơn về vấn đề được nghiên cứu.
* Các công trình nghiên cứu về vấn đề quyền con người ở Việt Nam hiện
nay:
+ Cuốn sách “Quyền con người ở Trung Quốc và Việt Nam: truyền thống
lý luận và thực tiễn”, do Cao Đức Thái chủ biên, Nxb Chính trị quốc gia,HN,
2003. Công trình là sự tập hợp những bài viết của những học giả về quyền
con người ở Trung Quốc và Việt Nam. Cuốn sách đã đề cập khá chi tiết quá
trình phát triển của quan niệm quyền con người từ góc độ triết học, chính trị
và pháp luật; đến những quan niệm của chủ nghĩa Mác và tư tưởng Hồ Chí
Minh về quyền con người.
+ Cuốn Quyền kinh tế, xã hội, văn hóa trong pháp luật và thực tiễn ở
Việt Nam, của Khoa Luật ĐH Quốc gia Hà Nội, Nxb Lao động – Xã hội,
2011. Cuốn sách gồm những nội dung chính sau: quyền kinh tế, xã hội, văn
hóa trong luật nhân quyền quốc tế; quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước Việt Nam về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa và những thành
tựu, thách thức trong việc đảm bảo quyền kinh tế, xã hội và văn hóa ở Việt
Nam từ khi đổi mới đến nay.
+ Luận văn Thạc sĩ của Trần Thị Phương Hảo năm 2008 với đề tài “Đảm
bảo pháp lý về quyền con người ở Việt Nam hiện nay” đã trình bày quá trình
hình thành, phát triển và thực trạng đảm bảo pháp lý về quyền con người, khái
quát lịch sử phát triển đảm bảo pháp lý về quyền con người ở Việt Nam từ
năm 1945 đến nay. Đồng thời xác định phương hướng, nội dung, giải pháp
8
hoàn thiện đảm bảo pháp lý về quyền con người trong điều kiện xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
+ Bài viết “Quyền con người ở Việt Nam hiện nay – Thực trạng và giải
pháp đảm bảo phát triển” của TS. Phạm Ngọc Anh đăng trên Tạp chí Bảo
hiểm Xã hội, số 8/ 2007 đã trình bày những thành tựu nổi bật trong việc đảm
bảo thực hiện quyền con người ở Việt Nam. Và dựa trên cơ sở đó, tác giả đưa
ra một số giải pháp nhằm phát triển các quyền cơ bản của con người...
Có thể nói, vấn đề về quyền con người không phải là một đề tài mới, tuy
nhiên những công trình nghiên cứu dưới góc độ triết học về quyền con người
còn khá khiêm tốn. Ở nước ta, quyền con người là một lĩnh vực còn nhiều vấn
đề cần nghiên cứu trên bình diện lý luận và thực tiễn. Vì vậy, luận văn tiếp tục
đi sâu nghiên cứu một cách hệ thống quan niệm của C. Mác và Ph. Ăngghen
về quyền con người và ý nghĩa của quan niệm này trong nhận thức về quyền
con người ở Việt Nam ngày nay, qua đó góp thêm một ý kiến về quan niệm
của triết học Mác về quyền con người, tiếp tục khẳng định giá trị hiện thời
của học thuyết Mác.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
+ Mục đích nghiên cứu: Luận văn làm rõ quan niệm cơ bản của C. Mác
và Ph. Ăngghen về quyền con người, từ đó chỉ ra ý nghĩa của quan niệm đó
trong nhận thức vấn đề quyền con người ở Việt Nam hiện nay.
+ Nhiệm vụ nghiên cứu: Để đạt được mục đích trên, luận văn tập trung
giải quyết những nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu bối cảnh lịch sử và những tiền đề tư tưởng hình thành
quan niệm của C. Mác và Ph. Ăngghen về quyền con người.
- Phân tích nội dung cơ bản quan niệm quyền con người của C. Mác và
Ph. Ăngghen: Quan niệm về bản chất con người; về các quyền cơ bản của con
người và con đường hiện thực hóa quyền con người...
- Phân tích ý nghĩa quan niệm của C. Mác và Ph. Ăngghen về quyền con
người trong nhận thức vấn đề quyền con người ở Việt Nam hiện nay.
9
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
+ Đối tượng nghiên cứu: Quan niệm của C. Mác và Ph. Ăngghen về
quyền con người.
+ Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu nội dung cơ bản
trong quan niệm của C. Mác và Ph. Ăngghen về quyền con người và vận dụng
quan niệm đó nhận thức vấn đề quyền con người ở Việt Nam hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
+ Cơ sở lý luận: Luận văn dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; tư tưởng Hồ Chí Minh
và Đảng cộng sản Việt Nam về con người và xã hội.
+ Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên
cứu cụ thể: lôgic – lịch sử, phân tích – tổng hợp, hệ thống hóa, khái quát
hóa…
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn nghiên cứu hệ thống quan niệm của C. Mác và Ph. Ăngghen về
quyền con người. Từ đó góp phần khẳng định giá trị nhân văn của triết học
Mác nói riêng, chủ nghĩa Mác nói chung.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
+ Ý nghĩa lý luận: Luận văn nghiên cứu chuyên sâu về quan niệm quyền
con người của C. Mác và Ph. Ăngghen .
+ Ý nghĩa thực tiễn: Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu học tập, tham
khảo cho sinh viên, học viên cao học chuyên ngành triết học và những ai quan
tâm đến lĩnh vực nghiên cứu của đề tài.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm có 2 chương và 6 tiết.
10
Chương 1: BỐI CẢNH LỊCH SỬ VÀ TIỀN ĐỀ TƯ TƯỞNG
HÌNH THÀNH QUAN NIỆM CỦA C. MÁC VÀ PH. ĂNGGHEN
VỀ QUYỀN CON NGƯỜI
1.1. Bối cảnh kinh tế - xã hội các nước Tây Âu nửa đầu thế kỉ XIX
Tư duy lý luận mỗi thời đại đều là sản phẩm của lịch sử. Chủ nghĩa Mác
nói chung, triết học Mác nói riêng cũng được hình thành từ thực tiễn của nền
sản xuất tư bản chủ nghĩa những năm 40 của thế kỉ XIX.
Sự manh nha và hình thành quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa ở Tây Âu
từ thế kỉ XVI đến thế kỉ XVIII đã chuẩn bị điều kiện vật chất để chủ nghĩa tư
bản chuyển từ công trường thủ công sang nền đại công nghiệp cơ khí. Vào
những năm 40 của thế kỉ XIX phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đã
thống trị ở Anh, Pháp.
Vào thời kì ấy nước Anh đã trở thành cường quốc tư bản chủ nghĩa lớn
nhất. Ngay từ những năm 60 của thế kỉ XVIII, Anh đã là nước có đủ điều kiện
để chuyển từ công trường thủ công sang đại công nghiệp cơ khí, thực hiện
cách mạng công nghiệp lần thứ nhất trong lịch sử nhân loại. Lực lượng công
nghiệp hùng mạnh của nó chứng minh rõ ràng tính ưu việt về kinh tế của chủ
nghĩa tư bản so với chế độ phong kiến.
Nước Pháp cũng tiến tương đối nhanh trên con đường phát triển tư bản
chủ nghĩa, mặc dù còn những tàn dư của chế độ phong kiến. Vào giữa thế kỉ
XIX, ở Pháp đã hoàn thành cuộc cách mạng công nghiệp.
Đầu thế kỉ XIX công nghiệp chế tạo máy đã làm thay đổi diện mạo các
ngành sản xuất công nghiệp. Đặc trưng của cách mạng công nghiệp là sản
xuất đại cơ khí thay thế cho lao động thủ công quy mô nhỏ phân tán. Chính
việc sử dụng máy móc một cách rộng rãi đã tạo ra cơ sở vật chất cho nền sản
xuất xã hội hóa. Dưới sự thống trị không đầy một trăm năm của giai cấp tư
sản, sức sản xuất được tạo nên đã lớn hơn và nhiều hơn sức sản xuất của tất cả
các thời đại trước kia gộp lại. Điều đó đã tạo ra cơ sở vật chất mạnh mẽ để
phương thức sản xuất tư bản xác lập địa vị thống trị của mình. Đồng thời nó
11
cũng làm thay đổi sâu sắc và nhanh chóng phương thức sản xuất vật chất, đời
sống chính trị và đời sống tinh thần của xã hội. Mối quan hệ tương hỗ giữa
các nhân tố trong hình thái xã hội ngày càng rõ rệt, đặc biệt là mối quan hệ
giữa các lợi ích vật chất bộc lộ ra ngày càng đầy đủ.
Đại công nghiệp cơ khí sản xuất ra đại bộ phận hàng hóa giá thành hạ và
năng suất cao, đã loại trừ người lao động cá thể và công trường thủ công. Việc
gia tăng sự phân công lao động đã loại bỏ kỹ năng trí tuệ và đôi tay khéo léo,
làm cho người lao động phụ thuộc hoàn toàn vào máy móc. Trong “Tư bản”,
Mác mô tả quá trình công nghiệp hóa đã làm tiêu tan các ngành nghề thủ
công, đẩy thợ thủ công vào cảnh chết đói, tạo ra một đội quân dự bị cho nền
công nghiệp; mô tả cư dân nông nghiệp nước Anh bị các chủ đất và các nhà tư
bản tước đoạt sao cho họ chỉ có thể sống được bằng việc bán sức lao động của
mình như thế nào. Và cuối cùng, những người lao động đó bị mất công cụ sản
xuất, mất ruộng đất, buộc họ rơi xuống địa vị giai cấp vô sản. Sự phát triển
của những quan hệ tư bản chủ nghĩa ở các nước lớn Tây Âu vạch ra những
mâu thuẫn bên trong vốn có của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Ngay từ đầu thế kỉ XIX, những nhà xã hội không tưởng đã chỉ ra những
tai họa không kể xiết mà tình trạng sản xuất vô chính phủ và cạnh tranh gắn
liền với phương thức tư bản chủ nghĩa đã đem lại cho nhân dân lao động. “Sự
phát triển về sau của chủ nghĩa tư bản ở các nước công nghiệp tiên tiến cũng
như ở các nước lạc hậu về kinh tế càng bóc trần rõ rệt hơn tính chất đối kháng
trong sự tiến bộ của chủ nghĩa tư bản, với sự tiến bộ này, cảnh cùng khổ của
những người lao động cũng tăng lên nhanh chóng như sự giàu có của chủ
nghĩa tư bản. Ngày lao động thường kéo dài tới 18 tiếng đồng hồ, nhưng tiền
công thường được trả bằng phiếu lấy hàng ở cửa hàng của chủ thì không đủ
đảm bảo bữa cơm bữa cháo, tình hình đó khiến công nhân bị chết chóc rất
nhiều” [79, tr 2].
Việc dùng máy móc đã mở rộng sản xuất vật chất và nâng cao năng suất
lao động rất nhiều, đồng thời cũng trở thành một thủ đoạn mới để tăng cường
việc bóc lột giai cấp công nhân chủ yếu bằng cách tăng cường độ lao động, hạ
12
thấp tiền công, thu hút thêm phụ nữ và trẻ em vào sản xuất… Trước sự phát
triển ngày càng mạnh mẽ của khoa học kĩ thuật, của phương thức sản xuất tư
bản, người lao động trong nền sản xuất đại công nghiệp này (người công
nhân) lại càng bị áp bức bóc lột nặng nề. Họ trở thành nô lệ của máy móc, sản
phẩm làm ra lại rơi hết vào tay của nhà tư bản, họ chỉ nhận được một phần rất
nhỏ đủ để họ tiếp tục sống sót và làm việc, tiếp tục nuôi dưỡng cho những nhà
tư bản. Cuộc sống của họ chẳng khác gì những loài động vật bình thường, vật
chất thiếu thốn, nhu cầu tinh thần không được đáp ứng. Tính mạng con người
bị coi rẻ, nhân phẩm bị hạ thấp. Họ hiện lên trong xã hội đúng nghĩa là những
người “vô sản”, chỉ có một cái duy nhất thuộc sở hữu của họ là “sức lao
động”, để rồi “sức lao động” ấy lại trở thành một thứ hàng hóa rẻ mạt để
những nhà tư bản giàu có “bám” vào đó để làm giàu thêm tài sản của mình
theo cấp số nhân. Nếu như trong những thời đại trước con người nhỏ bé trước
sự thống trị của thần thánh, Chúa trời thì giờ đây số phận người lao động lại
nhỏ nhoi, phụ thuộc chặt chẽ vào giai cấp tư sản, lại trở thành những người bị
bóc lột tàn tệ nhất, trở thành giai cấp bị thống trị trong xã hội.
Bên cạnh việc bị bóc lột tàn tệ, người công nhân còn phải chịu những
ảnh hưởng từ những cuộc khủng hoảng kinh tế, làm cho đời sống của họ vốn
đã khó khăn, nay lại càng lâm vào cảnh túng quẫn hơn. Khủng hoảng kinh tế
trước tiên diễn ra ở Anh nơi có nền kinh tế phát triển nhất vào năm 1825. Sau
đó, vào các năm 1836 và 1847, nước Anh và nhiều nước Tây Âu khác lại bị
khủng hoảng kinh tế. Khủng hoảng kinh tế không giống như chiến tranh hoặc
thiên tai gây ra sự thiếu thốn sản phẩm xã hội mà ngược lại sản xuất tiêu điều
và kinh tế suy thoái lại do sản xuất thừa. Sản phẩm hàng hóa ế ẩm, tiền tệ
căng thẳng, tín dụng đình đốn, nhà máy đóng cửa, công nhân thất nghiệp.
Đứng trước thực tế đó, những nhà tư tưởng của chế độ phong kiến phản
động và những nhà lý luận của giai cấp tiểu tư sản bị chủ nghĩa tư bản làm
phá sản đã chỉ ra những hậu quả “khó hiểu” của sự phát triển sản xuất tư bản
chủ nghĩa và kêu gọi quay trở về thời đại “hoàng kim cũ”, nghĩa là quay về
với chủ nghĩa phong kiến. Những nhà kinh tế tư sản lại quả quyết rằng trong
13
tương lai sẽ không còn khủng hoảng kinh tế nữa. Hơn nữa, một số người còn
cho rằng sự cùng khổ của nhân dân lao động là tai họa không tránh khỏi, tai
họa này đảm bảo sự giàu có và hùng cường của dân tộc. Nhưng không một ai
trong số những nhà bác học và những nhà chính trị ấy nhìn thấy một sự thực
không thể chối cãi là sự cùng khổ của nhân dân lao động gắn liền với chủ
nghĩa tư bản, với chế độ tư hữu tư nhân về tư liệu sản xuất.
Chủ nghĩa tư bản phát triển, những quan hệ tư bản ở các nước Tây âu
làm lộ rõ thêm những mâu thuẫn bên trong vốn có của phương thức sản xuất
tư bản chủ nghĩa. Khi đã xác lập được sự thống trị, giai cấp tư sản không còn
là một giai cấp cách mạng nữa, nó dần dần trở thành một lực lượng bảo thủ.
Những mâu thuẫn giai cấp đặc biệt vốn có của xã hội tư sản nổi lên hàng đầu,
đó là mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản và tư sản. Nhà tư bản vì theo đuổi lợi
nhuận cao sẽ không ngừng thực hiện việc tích lũy tư bản, cải tiến kĩ thuật, mở
rộng sản xuất. Đồng thời họ lại ra sức bóc lột sức lao động của người công
nhân, bóc lột giá trị thặng dư để đem lại lợi nhuận lớn hơn về cho mình. Họ
sống cuộc sống sung sướng, vương giả, xa hoa. Trong khi những người công
nhân, nhân dân lao động – những người trực tiếp làm ra của cải vật chất trong
xã hội lại sống một cuộc sống nghèo đói, tù túng, mất hết những quyền con
người cơ bản, bị “tha hóa” bản tính người của mình…
Trong chương thứ mười của “Tư bản”, bàn về “Ngày lao động” Mác đã
ghi lại những nỗ lực của nhà tư bản cố bóp nặn ngày càng nhiều hơn nữa thời
gian lao động nơi người công nhân, ông chỉ ra rằng trong cái xã hội tư bản ấy
“mỗi người lớn tuổi có khả năng lao động đều phải tuân theo quy luật chung
của tự nhiên, cụ thể là: muốn ăn thì phải lao động” [56, tr 261], trẻ em lên
chín tuổi đã phải vào công xưởng “mỗi ngày làm việc 6 giờ rưỡi (trước kia
làm việc 8 giờ, trước nữa từ 12 đến 14 giờ, thậm chí đến 16 giờ), cho đến 13
tuổi và từ đấy cho đến 18 tuổi mỗi ngày làm việc 12 giờ” [2, tr 517]. Theo
Mác, cuộc đấu tranh nhằm giới hạn ngày lao động, theo đúng luật định có tầm
quan trọng sống còn đối với người công nhân hơn là một danh sách những
quyền bất khả xâm phạm của con người.
14
Các ông còn chứng kiến những hiện thực đau lòng đang diễn ra mỗi
ngày trên những đất nước mà người ta tự cho là “văn minh”, “khai sáng” như
ở Anh, giai cấp nghèo khổ nhất luôn bị áp bức và lợi ích của họ luôn bị coi
thường, trong nhiều gia đình, người mẹ phải đi làm như người cha, hậu quả là
con cái bị bỏ vơ vất hoặc bị nhốt một mình trong nhà. Bởi thế có tình trạng
“không đâu có nhiều trẻ con chết vì xe chẹt, vì ngựa dẫm, không ở đâu có
nhiều trẻ con bị chết đuối hoặc chết cháy bằng những thành phố lớn của Anh”
và “biết đâu những cái chết kinh khủng và đau đớn đó lại chẳng là một điều
may mắn cho những đứa trẻ ấy, vì nó đã tránh cho chúng một cuộc đời đầy
đau khổ và bần cùng, nhiều đau khổ và ít thú vui” [2, tr 464] như cha mẹ của
chúng. Nếu như lúc đầu “tiền công bắt con người lao động để sống thì cuối
cùng nó bắt con người phải sống cuộc đời như một cái máy” [49, tr 586].
Lao động trong xã hội ấy sản xuất ra những vật phẩm kì diệu cho những
người giàu, nhưng chính nó lại sản xuất ra sự bần cùng hóa công nhân. Nó
sáng tạo ra cái đẹp nhưng cũng làm què quặt công nhân. Nó thay lao động thủ
công bằng máy móc nhưng nó lại ném một bộ phận công nhân trở về với lao
động dã man và biến một bộ phận công nhân khác thành những cái máy. Nó
sản xuất ra trí tuệ, nhưng cũng sản xuất ra cả sự đần độn, ngu ngốc cho người
công nhân. Nhà tư bản không bao giờ quan tâm đến sức khỏe và tuổi thọ của
người công nhân, nếu xã hội không cưỡng bức nó phải quan tâm đến. Lao
động của người công nhân chiếm hết mọi thì giờ của anh ta, ngoài thì giờ tối
thiểu cần thiết để ăn và ngủ, không để cho anh ta một chút thời gian rảnh nào
để thở hít không khí trong lành và thưởng thức cái đẹp thiên nhiên, chưa nói
tới hoạt động tinh thần, “một thứ lao động như vậy làm sao không hạ con
người xuống hàng súc vật?” [2, tr 477].
Như vậy, trong khi các nhà tư tưởng và những nhà chính trị của giai cấp
tư sản quả quyết rằng, thủ tiêu đặc quyền đẳng cấp, thực hiện các quyền tự do,
dân chủ và tuyên bố những quyền “bất khả xâm phạm” của công dân, đem lại
tự do hoàn toàn và bình đẳng cho con người, thì giai cấp công nhân cũng bắt
đầu cuộc đấu tranh chống áp bức tư bản chủ nghĩa. Bởi giai cấp công nhân đã
15
nhận ra một chân lý tự do mà giai cấp tư sản ban bố chỉ là “tự do cho tư bản
vắt kiệt chút xương tủy cuối cùng của người công nhân” [49, tr 587]. Giai cấp
tư sản đã đem sự bóc lột được che đậy bằng những “ảo tưởng tôn giáo và
chính trị” của chế độ phong kiến để thay vào đó là sự bóc lột “công nhiên, vô
sỉ, trực tiếp, tàn nhẫn”; “biến cái quyền thơ mộng do thượng đế ban cho thành
cái quyền không thi vị dựa trên văn bản, biến sự thống trị của dòng máu cao
quý thành sự thống trị của văn bản, biến mặt trời nhà vua thành ngọn đèn treo
của giai cấp tư sản” [51, tr 24 – 25]. Giai cấp tư sản không những không đem
lại những quyền con người cơ bản nhất cho những người công nhân, lao động,
mà còn đem đến cuộc sống lầm than, khổ cực, đói nghèo cho những người
công nhân, và cả cho con cháu những người công nhân đó. Những tuyên bố
của giai cấp tư sản về nhân quyền, đảm bảo những quyền cơ bản nhất của con
người như quyền sống, quyền tự do, bình đẳng, dân chủ… cho tất cả mọi
người chỉ là những chiêu trò lừa bịp, để lôi kéo những người vô sản tham gia
vào cuộc cách mạng tư sản, để giúp giai cấp tư sản lật đổ chế độ phong kiến
mà thôi.
Giai cấp vô sản đã nhận thức được một sự thật, chính họ là những người
làm ra mọi của cải vật chất trong xã hội, nhưng lại ngày càng nghèo đói, cùng
cực, còn những kẻ thống trị, những kẻ sống kí sinh vào sức lao động của họ
lại được sống giàu có, sung sướng. Đó là một sự bất công. Họ nhận thức được
rằng, hơn ai hết, họ là những người xứng đáng được hưởng thụ những thành
quả do chính lao động của mình làm ra, xứng đáng được sống một cuộc sống
của CON NGƯỜI, được có những quyền của CON NGƯỜI. Điều đó đã thôi
thúc những người công nhân, những người lao động chân chính dũng cảm
đứng lên chống lại chế độ tư bản chủ nghĩa, đòi lại những gì xứng đáng thuộc
về họ, đó là quyền được sống đúng với bản chất một con người.
Một loạt những phong trào đấu tranh với những yêu sách về quyền con
người của công nhân đã diễn ra như phong trào quần chúng đầu tiên của công
nhân Anh lấy tên là phong trào Hiến chương, đòi phải ban bố và đảm bảo
quyền bầu cử cho mọi người lao động, cho rằng giai cấp công nhân phải có
16
nhiều đại biểu của mình trong nghị viện và có thể thông qua họ thực hiện
những cải cách xã hội cần thiết cho nhân dân lao động. Phong trào đã được
coi là phong trào quần chúng đầu tiên hình thành về mặt chính trị và có tính
chất cách mạng vô sản. Ở Pháp cũng có phong trào đấu tranh của công nhân
chống bọn tư bản phát triển thành một loạt những cuộc khởi nghĩa vũ trang.
“Nếu đầu thế kỉ XIX, giai cấp vô sản, như Ăngghen đã ghi rõ, chỉ là một tầng
lớp bị áp bức, đau khổ, bất lực, không thể tự giúp đỡ mình, trong trường hợp
thuận lợi nhất chỉ có thể nhờ vào sự giúp đỡ bên ngoài từ trên xuống thì trong
những năm 30 - 40 của thế kỉ XIX phong trào công nhân trong những nước
lớn nhất ở Tây Âu, mặc dù còn tự phát, nhưng ngày càng biến thành một lực
lượng mạnh mẽ, trở thành nhân tố quan trọng của đời sống chính trị” [79, tr
3]. Từ đầu những năm 30 đến đầu những năm 40 của thế kỉ XIX giai cấp vô
sản ở Anh, Pháp, Đức đã làm nổ ra ba phong trào cách mạng quy mô lớn có
tính chất phong trào cách mạng vô sản hiện đại. Giai cấp vô sản đã bước lên
vũ đài lịch sử với tư cách là lực lượng chính trị độc lập, trực tiếp chống lại
giai cấp tư sản, đòi đảm bảo những quyền con người cơ bản.
* Về tình hình nước Đức:
Đến cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX, chủ nghĩa tư bản đã được thiết lập
và phát triển mạnh mẽ hầu hết ở các nước Tây Âu. Thành quả của cuộc cách
mạng đã tạo ra những bước nhảy đột biến trong sự phát triển của lực lượng
sản xuất, khẳng định tính ưu việt hơn hẳn của chủ nghĩa tư bản so với tất cả
những chế độ xã hội trước đó. Các thành quả về văn hóa, khoa học, nở rộ ở
các nước Ý, Pháp, Anh… đã minh chứng cho năng lực vô tận của nhận thức
và cải tạo thế giới của con người. Trong khi đó, nước Đức vẫn đang trong chế
độ phong kiến. Xu hướng phát triển theo khuynh hướng tư bản chủ nghĩa đã
bị chế độ phong kiến quan liêu chuyên chế cản trở. Nhà nước liên bang chỉ
tồn tại trên danh nghĩa, gồm 360 công quốc bé nhỏ đã làm cho nước Đức
thành một quốc gia manh mún khó hợp lưu, yếu kém về tất cả các mặt. Nó là
tập hợp của hàng trăm cát cứ phong kiến đứng đầu mỗi lãnh địa là một chúa
đất hay ông hoàng, mỗi ông hoàng lúc đó là một chuyên chế độc tài có sức
17
mạnh vô hạn đối với thần dân của mình. Trong mỗi lãnh địa đều có quân đội,
cảnh sát, tiền tệ, thuế quan riêng. Sự phân tán về kinh tế và chính trị là lực cản
lớn của nước Đức trên con đường phát triển tư bản chủ nghĩa.
Bức tranh toàn cảnh của xã hội Đức lúc đó, được Ăngghen khắc họa:
“Không ai cảm thấy mình dễ chịu. Mọi cái đều tồi tệ và tâm trạng bất mãn
bao trùm cả nước. Không có giáo dục không có tự do báo chí, không có dư
luận xã hội – không có gì cả ngoài sự đê tiện và tự tư tự lợi, lề thói con buôn
hèn mạt, xum xoe nịnh hót thảm hại, đã xâm nhập toàn dân. Mọi thứ đều nát
bét, lung lay, xem chừng sắp sụp đổ thậm chí chẳng còn lấy một tia hy vọng
chuyển biến tốt lên, vì dân tộc thậm chí không còn đủ sức vứt bỏ cái thây ma
rữa nát của chế độ đã chết rồi” [46, tr 754]. Bầu không khí bất bình bao trùm
toàn bộ đất nước. Giai cấp tư sản “nằm mơ” về cách mạng tư sản Pháp nhưng
lại chưa dám hành động. Thực trạng đất nước và sự ảnh hưởng của một số
nước xung quanh đã làm thức tỉnh một bộ phận cấp tiến của giai cấp tư sản và
lực lượng tiến bộ Đức. Các nhà văn, nhà thơ, nhà tư tưởng, nhà triết học... đã
hấp thụ được tinh hoa quý báu của nền văn hóa Đức truyền thống và tiếp nhận
tinh thần nhân văn tiến bộ của cách mạng tư sản Pháp công khai phản bác,
chống lại sự trì trệ bảo thủ của xã hội phong kiến, đồng thời phản ánh nguyện
vọng của các giai tầng trong xã hội đòi hỏi phải phát triển theo mô hình các
quốc gia lân cận, đòi hỏi thực thi và đảm bảo những quyền cho con người.
Không phải chờ đến Mác, không phải chỉ có Mác mới nhận ra sự bần
cùng, khốn khổ của con người trong xã hội công nghiệp ấy, mà ngay từ khi
phương thức tư bản chủ nghĩa ra đời đã có không ít nhà tư tưởng lên tiếng bảo
vệ con người, bảo vệ quyền con người. Họ nêu cao tinh thần nhân đạo, vì con
người. Nhưng họ lại không thể rời bỏ hàng ngũ tư sản của mình để đứng sang
hàng ngũ những người vô sản, để thấu hiểu đời sống cơ cực của tầng lớp này,
để chỉ ra những căn nguyên sâu xa làm nên sự bất công trong xã hội. Họ chỉ
biết lên tiếng kêu gọi sự “ban ơn” của những nhà tư bản dành những đặc ân
cho những người công nhân. Nhưng điều đó chỉ là không tưởng, vì nhà tư sản
làm sao có thể chia sẻ lợi ích của họ cho những người không cùng hàng ngũ
18
của mình. Và chính trong bối cảnh lịch sử ấy, Mác và Ăngghen đã thực hiện
sứ mệnh vẻ vang, đó là sáng tạo lý luận cách mạng của phong trào vô sản,
luận giải đúng đắn thế giới quan và hệ tư tưởng của giai cấp vô sản, đáp ứng
nhu cầu lịch sử quan trọng nhất của phong trào cách mạng lúc đó. Mác và
Ăngghen đã đứng trên lập trường của giai cấp vô sản và những người lao
động chân chính để bênh vực, đấu tranh cho quyền lợi chính đáng của họ.
Vậy là, “giai cấp vô sản đã tìm thấy ở triết học Mác vũ khí tinh thần của
mình, cũng giống như triết học Mác đã tìm thấy giai cấp vô sản như là vũ khí
vật chất của mình” [85, tr 469].
Sự ra đời chủ nghĩa Mác phản ánh các quá trình kinh tế - xã hội xảy ra
không những ở Đức mà ở cả các nước Tây Âu, đặc biệt là ở Anh và Pháp,
phản ánh cuộc đấu tranh giai cấp ở các nước đó. Đối với Mác và Ăngghen,
nghiên cứu triết học không phải là mục đích tự thân mà nhằm giải quyết
những nhiệm vụ thực tiễn của nhân loại. Chủ nghĩa Mác là sự thống nhất chặt
chẽ về mặt nội dung của các tư tưởng triết học với các mặt kinh tế - chính trị xã hội của thế giới quan cộng sản chủ nghĩa. Tính chỉnh thể, tính tổng hợp, sự
luận chứng cho nhau một cách chặt chẽ của các bộ phận hợp thành chủ nghĩa
Mác, làm cho học thuyết này có một ảnh hưởng mạnh mẽ và được phổ biến
một cách rộng rãi trên thế giới đang có nhiều biến đổi vào thế kỉ XIX và thế
kỉ XX.
Chủ nghĩa Mác nói chung, quan niệm của triết học Mác nói riêng về con
người và quyền con người không chỉ ra đời trên cơ sở những điều kiện kinh tế
- xã hội nhất định mà còn là kết quả của sự kế thừa và phát triển những tư
tưởng về quyền con người trong lịch sử tư tưởng nhân loại.
19