Tải bản đầy đủ (.doc) (78 trang)

lịch sử thuế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (462.78 KB, 78 trang )

Tổng Cục Thuế Thuế Việt Nam qua các thời kỳ Lịch sử

MỞ ĐẦU
Thuế ra đời- phát triển gắn liền với sự hình thành và phát triển của Nhà
nước. Thuế là một đòi hỏi khách quan đối với sự tồn tại và phát triển của Nhà
nước. Hệ thống và chính sách thuế của Nhà nước được xây dựng trên cơ sở
những điều kiện kinh tế- chính trị- xã hội cụ thể trong mỗi giai đoạn lịch sử nhất
định.
Ngay từ khi Nhà nước ra đời thì thuế cũng xuất hiện, thuế là sản phẩm tất
yếu từ sự xuất hiện hệ thống bộ máy Nhà nước, ngược lại thuế là công cụ đảm
bảo cung cấp phương tiện vật chất cần thiết cho sự tồn tại và hoạt động của hệ
thống bộ máy Nhà nước.
Ngày nay trong tiến trình hội nhập, thuế lại đang có vị thế lớn trong chiến
lược toàn cầu hoá. Do vậy, việc quản lý thuế của các Nhà nước là rất cần thiết,
dù cho Nhà nước đó là Nhà nước phát triển hay đang phát triển. Những tri thức
về thuế và quản lý thuế đang là nhu cầu thường trực không chỉ với các nhà quản
lý, với các doanh nhân mà còn cần phổ cập tới tất cả mọi công dân.
Đối với cán bộ công chức mới được tuyển dụng vào ngành thì ngoài việc
phải trang bị các kiến thức nghiệp vụ, chuyên môn về Thuế còn đòi hỏi phải biết
lịch sử đất nước cũng như quá trình hình thành và phát triển của Hệ thống Thuế,
đặc biệt là Thuế của Nhà nước Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản
Việt nam quang vinh.
Nội dung chuyên đề gồm :
Chương I: Quá trình hình thành và phát triển của Thuế Việt Nam từ trước
cách mạng Tháng Tám năm 1945.
Chương II: Thuế Việt Nam từ sau cách mạng Tháng Tám 1945 đến ngày
giải phóng miền Nam thống nhất Tổ quốc (1945 - 1975 ).
Chương III: Thuế Việt Nam từ sau 1975 đến 1990.
Chương IV: Thuế Việt nam từ 1990 đến nay (1990 - 2006).
1
Tổng Cục Thuế Thuế Việt Nam qua các thời kỳ Lịch sử



Chương I
QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA THUẾ VIỆT NAM
TỪ TRƯỚC CÁCH MẠNG THÁNG 8 NĂM 1945
A- Thuế Việt nam trong thời kỳ phong kiến
1- Thời kỳ đầu dựng nước và thời Bắc thuộc
a- Thời kỳ đầu dựng nước:
Dưới thời Vua Hùng Vương, ruộng đất thuộc quyền sở hữu tối cao của
nhà Vua, bao gồm nhiều loại ruộng đất công ở các làng xã.
Cùng với sự xuất hiện quyền chiếm hữu ruộng đất của một số tù trưởng ở
nước ta thời đó, quan hệ bóc lột đã bắt đầu phát sinh. Những thành viên trong
các công xã phải nộp cho tù trưởng của họ một phần sản phẩm làm ra hoặc một
số ngày lao dịch không công. Hơn nữa, Nhà nước của vua Hùng muốn tồn tại và
phát triển, tất nhiên phải thu một số vật phẩm của dân, bao gồm lương thực, thú
vật săn bắt, sản phẩm thủ công..., những mầm mống đầu tiên của hình thức thuế.
Trong thời kỳ ấy, khoản thu của Nhà nước Văn Lang ở Trung ương là một bộ
phận tài sản, vật phẩm của các địa phương, do các Lạc tướng trích nộp lên trên.
Có thể nói ở thời kỳ đầu dựng nước, các hình thức đóng góp của dân chỉ
dừng lại ở trạng thái "mầm mống thuế", cống phẩm là những hiện vật trong đó
lương thực, thực phẩm, thú vật săn bắt là chủ yếu.
b- Thời Bắc thuộc:
Cuộc xâm lược của Triệu Đà năm 180 - 179 TCN, qua câu chuyện Mỵ
Châu- Trọng Thuỷ đã đưa Âu Lạc vào ách đô hộ của đế chế phương Bắc: thời
Bắc thuộc, qua các triều đại nhà Triệu, nhà Tây Hán, Đông Hán, nhà Ngô, nhà
Tuỳ, nhà Đường.
Nhìn chung, trong thời Bắc thuộc, vấn đề tô thuế nổi lên một số điểm cơ
bản sau đây:
- Từ thời Đông Hán (thế kỷ thứ I) phương thức bóc lột tô thuế đã xuất
hiện nhưng đến thời nhà Đường (từ thế kỷ thứ VII đến đầu thế kỷ thứ X) mới
chiếm vị trí chủ yếu. Quá trình chuyển biến từ phương thức cống nạp sang

phương thức bóc lột bằng tô thuế cũng là quá trình hình thành chế độ phong
kiến, địa chủ ở nước ta.
Dưới thời kỳ bị phong kiến phương Bắc thống trị, một lớp địa chủ người
Việt dần dần xuất hiện. Đó là những tù trưởng các bộ lạc cũ đã đầu hàng phong
kiến phương Bắc, được phong hầu tước, cấp đất hoặc là những quý tộc, hào
trưởng địa phương, lợi dụng uy quyền của mình, dần dần xâm chiếm ruộng đất
công. Tầng lớp địa chủ mới đã tiếp tục bóc lột nông dân bằng hình thức địa tô
hoặc lao dịch một số ngày lao động không công...
2
Tổng Cục Thuế Thuế Việt Nam qua các thời kỳ Lịch sử

- Tổ chức phụ trách thu các loại cống nạp, tô, thuế dưới thời Bắc thuộc
được gọi chung là "công tào", chủ yếu là: Diêm quan, phụ trách thu thuế muối;
Thiết quan thu thuế khoáng sản, đặc biệt là sắt; Thuỷ quan, thu thuế thuỷ sản;
các huyện lệnh, trưởng hương, trưởng xã chịu trách nhiệm thu các loại sản
phẩm, tô thuế trong địa bàn được phụ trách. Sản phẩm cống nạp phải tập trung
chuyển về kho chính tại Trung quốc.
- Chế độ cống nạp, tô thuế rất nặng nề, một phần để nuôi dưỡng bộ máy
quan lại và đội quân chiếm đóng. Nhưng trên thực tế, bọn quan lại đô hộ sống
chủ yếu bằng vơ vét, cướp bóc tài sản của nhân dân ta. Trời rét căm căm, dân
phải xuống biển mò ngọc trai, đồi mồi, lên rừng tìm sừng tê giác, ngà voi... Nếu
không đủ số lượng thì bị đòn roi, chém giết dã man... Đó là một trong những
nguyên nhân chủ yếu làm bùng nổ hàng loạt các cuộc khởi nghĩa lớn nhỏ, đấu
tranh quyết giành độc lập, tự do cho đất nước.
Về mặt bản chất kinh tế,"tô" và "thuế" là hai phạm trù khác nhau. "Tô" là
một phần sản phẩm thặng dư mà ngưòi nông dân phải nộp cho chủ đất còn
"thuế" là những khoản đóng góp của ngưòi dân đối với Nhà nước duy trì quyền
lực cai trị. Tuy nhiên dưới thời phong kiến, nhà vua vừa là người đứng đầu Nhà
nước, vừa là chủ đất, ngưòi nông dân sử dụng ruộng đất vừa nộp thuế vừa nộp tô
nên người ta gọi chung là "tô thuế". Trong thời kỳ ấy,"tô thuế" được nộp bằng

hiện vật.
2- Thời kỳ các triều đại phong kiến dân tộc
Sau khi Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán Lập nên nhà Ngô, nước ta
bước vào thời kỳ "phong kiến dân tộc ", bắt đầu từ nhà Ngô, đến nhà Đinh, Lý,
Trần, Hồ, Lê Sơ, Nam triều- Bắc Triều, Trịnh- Nguyễn, Tây sơn và cuối cùng là
nhà Nguyễn.
Nhìn lại chế độ thuế khoá Việt nam đến giữa thế kỷ thứ XIX; qua nhiều
triều đại phong kiến, có thể thấy nổi lên một số vấn đề chủ yếu sau đây:
- Nguồn thu của các triều đại phong kiến Việt nam rất phong phú, đa dạng
nhưng sự phân phối địa tô phong kiến, gắn với chế độ chiếm hữu ruộng đất luôn
chiếm vai trò quan trọng.
- Từ thời Lê Sơ trở về sau (từ thế kỷ thứ XV đến giữa thế kỷ thứ XIX)
ruộng đất thuộc quyền sở hữu của nhà vua ngày càng bị thu hẹp, ruộng đất do
nhà vua ban cấp cũng bị giảm sút theo. Ngược lại, ruộng tư ngày càng phát triển
và đến giữa thế kỷ XIX, diện tích ruộng tư đã vượt diện tích ruộng công. Sự
phân phối địa tô phong kiến cũng có sự thay đổi tương ứng. Lúc này đại bộ phận
địa tô chuyển vào tay giai cấp địa chủ tư hữu, nhà vua nhận được phần ít hơn
trước. Phần địa tô của bọn vương hầu, quan lại cũng bị giảm so với tổng thể.
Về thực chất, đây là sự thay đổi về phân phối địa tô trong nội bộ giai cấp
phong kiến- địa chủ. Nó không hề làm giảm mức độ bóc lột của giai cấp phong
kiến đối với nông dân. Trái lại để thoả mãn nhu cầu chi tiêu ngày càng lớn, nhà
3
Tổng Cục Thuế Thuế Việt Nam qua các thời kỳ Lịch sử

nước phong kiến đã tìm đủ mọi cách để bóc lột nông dân ngày càng thậm tệ, dã
man hơn.
Có thể nói đặc trưng của nền Tài chính Quốc gia Việt nam dưới các triều
đại phong kiến đã thể hiện rõ ràng bản chất thu chi của Nhà nước phong kiến chỉ
nhằm phục vụ tối đa quyền lợi của giai cấp thống trị, cả đối với phong kiến
phương Bắc cũng như đối với vua chúa, quan lại Việt nam. Nói cách khác bản

chất của thuế khoá dưới chế độ phong kiến gắn chặt với bản chất của chế độ Nhà
nước, luôn vì quyền lợi của giai cấp phong kiến, thống trị đất nước.
B - Thuế Việt nam dưới thời Pháp thuộc (từ 1858 đến 1945)
1- Chính sách bóc lột về kinh tế, vơ vét tài chính của thực dân Pháp:
Sau hoà ước Hác- Măng (1883) và hoà ước Pa-tơ-nốt (1884) thực dân
Pháp chính thức đặt ách thống trị, đô hộ Việt Nam. Kể từ đó, thực dân Pháp bắt
đầu thực hiện chính sách khai thác thuộc địa ở Việt Nam, trong đó có chính sách
thuế hà khắc đối với người Việt. Chúng đã phân chia đất nước Việt nam thành 3
kỳ nhằm xoá bỏ sức mạnh thống nhất của dân tộc ta để dễ bề cai trị:
- Nam kỳ là đất thuộc địa, không còn quan hệ phụ thuộc với Triều đình
Huế. Đứng đầu bộ máy cai trị là một viên đô đốc người Pháp, về sau, thay bằng
chức Thống đốc Nam kỳ.
- Trung kỳ là xứ bảo hộ. Triều đình bù nhìn vẫn tồn tại với danh hiệu
"Chính phủ Nam triều". Tuy vậy các quyền hành thực sự đều nằm trong tay
Khâm sứ Trung kỳ người Pháp. Mọi văn bản như Sắc, Du, Chỉ của nhà vua và
các Điều lệ, quy tắc của Hội đồng Thượng thư phải được khâm sứ Pháp duyệt
trước khi ban hành.
- Bắc kỳ là đất "nửa bảo hộ", đặt dưới quyền cai trị của Thống sứ Bắc kỳ
người Pháp. Triều đình Huế được cử một Kinh lược sứ (sau đổi thành Khâm sai
đại thần) thay mặt nhà vua nắm quyền cai trị nhưng thực chất chỉ là bù nhìn.
Các loại thuế được thu và phân chia theo 2 loại ngân sách: Ngân sách
Đông dương (chủ yếu là thuế quan, thuế rượu, thuốc phiện, muối...) và Ngân
sách địa phương gồm các xứ (Bắc kỳ, Trung kỳ, Nam kỳ) các tỉnh (chủ yếu là
thuế thân, thuế ruộng đất, thuế lao dịch...).
2- Thuế chủ yếu thu cho ngân sách Đông Dương
2.1- Thuế quan:(còn được gọi là thuế đoan, thuế thương chính).
Theo chế độ "đồng hoá quan thuế" được thi hành cho đến năm 1940, trên
nửa thế kỷ, nước Pháp và Việt nam, thuộc hai khu vực kinh tế có hai trình độ
phát triển khác nhau, có nhu cầu và khả năng xuất nhập khẩu cũng khác nhau
nhưng lại phải chung một chế độ thuế quan giống nhau, cùng một biểu thuế xuất

nhập khẩu, căn cứ vào tình hình và điều kiện riêng của nước Pháp. Pháp bảo vệ
thứ sản phẩm nào thì Việt nam cũng bảo vệ thứ sản phẩm đó, Pháp ưu đãi nước
nào thì Việt nam cũng phải ưu đãi nước đó. Nhờ hàng rào thuế quan bảo hộ, tư
4
Tổng Cục Thuế Thuế Việt Nam qua các thời kỳ Lịch sử

bản Pháp tự do đưa hàng với giá đắt vào thị trường Việt nam, bóc lột tàn nhẫn
nhân dân ta. Trong cuốn sách "Vấn đề dân cày", hai tác giả Trường Chinh và Võ
Nguyên Giáp đã viết: "họ vớ được một số lời cao hơn với số lời của họ thường
có trên thị trường thế giới". Số lời cao đó, trong kinh tế chính trị học gọi là
"thặng dư lợi nhuận thuộc địa".
2.2- Thuế gián thu (Công quản)
Thuế gián thu thường bảo đảm khoảng 70% tổng số thu của ngân sách
Đông dương, chủ yếu là thuế muối, thuế rượu, thuế thuốc phiện, thông qua chế
độ công quản, còn được gọi là chế độ độc quyền.
2.2.1- Thuế muối
Muối là sản phẩm không thể thiếu được trong đời sống hàng ngày của mỗi
người. Công quản muối là một hình thức độc quyền của thực dân Pháp với
nguyến tắc là toàn bộ số muối mà dân sản xuất phải bán hết cho nhà nước với
giá rẻ mạt, rồi Nhà nước bán lại cho dân (kể cả người trực tiếp sản xuất muối)
với giá cao hơn, để hưởng lợi nhuận. Chế độ công quản muối không đơn thuần
chỉ phục vụ mục tiêu kinh tế- tài chính của chính quyền thực dân mà còn mang ý
nghĩa chính trị. Nhà nước có thể dùng muối làm áp lực với nhân dân khi cần.
Có thể nói thuế muối thông qua chế độ công quản, độc quyền là một trong
những chính sách bóc lột thuộc địa có hiệu quả nhất của thực dân Pháp ở Đông
dương, một loại thuế bất công, vô nhân đạo. Chế độ thuế này đã gây nên nhiều
khó khăn trong đời sống kinh tế của toàn bộ nhân dân Việt Nam, đặc biệt đối với
cư dân vùng biển, nghề làm muối, nghề chài lưới, nghề làm mắm đều bị điêu
đứng vì chính sách độc quyền muối của thực dân Pháp.
2.2.2- Thuế rượu

Công quản rượu là việc chính quyền thực dân Pháp trực tiếp quản lý bán
rượu cho Công ty Phông-ten của tư bản Pháp gọi là "rượu ty", có rất nhiều cổ
phần từ phủ toàn quyền đến cán bộ cao cấp khác của Pháp. Để loại rượu này bán
được chạy, thu được nhiều lợi nhuận chia nhau, một mặt thực dân Pháp cấm
đoán mọi việc nấu rượu của tư nhân Việt nam (kể cả việc tự nấu rượu để uống)
đồng thời giao chỉ tiêu bán "rượu ty" cho chính quyền tổng, xã.
Chế độ độc quyền và thuế rượu đã không những trở thành một hình thức
bóc lột vô cùng hà khắc mà còn gieo rắc cho nhân dân nhiều tai vạ.
2.2.3- Thuế thuốc phiện
Công quản và độc quyền thuốc phiện là nhà nước mua thuốc phiện sống
về chế biến thuốc phiện chín khuyến khích dân tiêu thụ, mở tiệm hút để tạo được
nguồn thu lớn lao cho chính quyền thực dân.
Với chính sách tài chính thâm độc này, thực dân Pháp đã bòn rút đến tận
xưởng tuỷ của nhân dân Việt nam. "Nói đến các món độc quyền, người ta có thể
hình dung Đông dương như một con nai béo mập, bị trói chặt và đang hấp hối
5
Tổng Cục Thuế Thuế Việt Nam qua các thời kỳ Lịch sử

dưới những cái mỏ quặp của bầy diều hâu, rỉa mãi không thấy no" (Hồ Chí Minh
toàn tập- Tập I- trang 339).
2.3- Tổ chức bộ máy quản lý thu các loại thuế
Để bảo đảm việc thu thuế quan và thuế gián thu, thực hiện tốt các chế độ
công quản, độc quyền về muối, rượu, thuốc phiện, chính quyền thực dân đã
thành lập một tổ chức quản lý thu thuế quan và công quản thật chặt chẽ mà nhân
dân ta thường gọi là "nhà đoan" hoặc cơ quan "thương chính". Đây là tổ chức
trong bộ máy chính quyền của thực dân Pháp có số nhân viên nhiều nhất sau
quân đội.
Ở Trung ương, công tác quản lý, theo dõi thuế quan và công quản thuộc
Văn phòng Phủ toàn quyền phụ trách; ở mỗi kỳ, có sở thuế quan và công quản, ở
mỗi tỉnh, thành phố có "Ty chánh thu thuế quan và công quản"; ở các vùng đồng

muối hoặc các vùng có nguồn thu thuế quan lớn thì có "ty phụ thu thuế quan và
công quản". Đại bộ phận các giám đốc sở, các trưởng ty chánh thu, phụ thu đều
là người Pháp.
Với lý do chống rượu lậu, thuốc phiện lậu, muối lậu, nhân viên nhà Đoan
có quyền lục soát, khám xét, bắt bớ, truy tố, bỏ tù mỗi năm hàng nghìn người,
trong đó có nhiều người bị vu oan mà không cách nào bào chữa được.
3- Thuế chủ yếu thu cho ngân sách các xứ (kỳ)
Nguồn thuế cho ngân sách các xứ chủ yếu gồm các thứ thuế cũ dưới thời
phong kiến như thuế thân, thuế ruộng đất, thuế lao dịch và được sửa đổi bổ sung
thường xuyên, theo hướng tăng mức thu ngày càng ác liệt hơn.
3.1- Thuế thân (thuế đinh)
Nhìn chung, thuế thân đánh vào dân đinh từ 18 đến 60 tuổi. Trước kia,
thuế thân chỉ đánh vào nội đinh, tức là người có ít nhiều tài sản, có khả năng
đóng thuế, được chia ruộng đất công, được tham gia một số danh vị, chức vụ và
có tên trong sổ hộ tịch của làng. Việc thu thuế dựa vào sổ đinh của làng xã để
thu.
Thuế thân đã tạo thêm cho nhà nước thực dân số thu rất lớn, nhưng đối
với dân nghèo, mỗi khi đến vụ thuế (tháng 5 âm lịch) xóm làng lại xôn xao,
nhiều người không chạy nổi mấy đồng nộp thuế đã bị kìm kẹp, gông cùm hoặc
bỏ quê hương để trốn cảnh đau thương, khổ cực.
3.2 Thuế ruộng đất (thuế điền thổ)
Từ năm 1897, toàn quyền Đông Dương đã nhiều lần cho điều chỉnh lại
theo 4 hạng điền, 6 hạng thổ (đất) phân biệt theo đất canh tác và đất ở, đất xây
dựng, ở thành phố, thị xã hay nông thôn; trồng lúa, màu hay các cây công
nghiệp khác nhau (thuốc lá, trầu, cau, dừa, mía, dâu, chè, bông, đay, gai, thầu
dầu, ngô, vừng, khoai lang, khoai sọ, đỗ, cây ăn quả, cói, lạc; đất không trồng
6
Tổng Cục Thuế Thuế Việt Nam qua các thời kỳ Lịch sử

trọt; đất bùn, ao, hồ, đầm; ruộng muối; đất đối với người bản xứ, người châu á,

châu Âu, ngoại kiều khác...; miễn thuế cho các loại đất dành cho nghĩa trang,
đền thờ, chùa, nhà thờ, các công trình tôn giáo; miễn thuế 6 năm đầu cho đất
trồng cà phê và 4 năm đầu cho đất trồng chè (Lịch sử Việt Nam- tập II- trang
104).
Việc phân định lại hạng ruộng đất nhằm phục vụ lợi ích của bọn thực dân
và chính quyền phong kiến. Mức thuế chủ yếu là tăng lên, kèm với những khoản
phụ thu, nhưng diện tích làm căn cứ tính mẫu, sào lại điều chỉnh giảm xuống. Ví
dụ: Theo quy định từ thời Tự Đức (1847-1883), mỗi mẫu Việt nam là 4.970m
2
.
Năm 1897, ở Bắc kỳ, mỗi mẫu chỉ có 3.600m
2
(Lịch sử Việt Nam- tập II- trang
104). Vì vậy dẫu mức thuế điều chỉnh lại bằng hay cao hơn cũ, thuế phải nộp
thực tế tăng lên, có khi đến 2-3 lần.
3.3- Thuế lao dịch
Về nguyên tắc, thuế lao dịch đã chuyển thành tiền (gắn với thuế thân hoặc
nộp ngân sách tỉnh, xã) để sử dụng vào việc xây dựng, tu bổ đường sá, đê điều...
Nhưng trên thực tế, khi cần làm đường hoặc đắp đê, Chính phủ vẫn huy động
nhân lực một cách tuỳ tiện, kể cả trong những ngày mùa cày cấy, thu hoạch
nông nghiệp.
4- Nhận xét chung về chế độ thuế khoá dưới thời Pháp thuộc:
"Sưu cao, thuế nặng" luôn luôn là nỗi sợ hãi, làm cho nông dân Việt nam
thường xuyên lo lắng, điêu đứng, bần cùng. Ngoài thuế thân, thuế ruộng đất
chính ngạch, thực dân và phong kiến còn đặt ra bao thứ phụ thu và những loại
thuế khác mà người nông dân khó trốn được (như tô cước, tô trâu, biếu xén, lễ
lạt . . .).
Đối với thực dân Pháp, thuế khoá là mục tiêu cao nhất trong chính sách
vơ vét thuộc địa, đó là chưa kể những đợt lạc quyên, phát hành công trái cùng
với nạn phụ thu, lạm bổ mà cả bộ máy quan lại thuộc địa, từ toàn quyền Đông

dương cho tới bọn tổng lý, kỳ hào làng xã luôn luôn tìm cách trút lên đầu người
dân. Mọi gánh nặng về sưu thuế đã làm cho đời sống của nhân dân, đặc biệt là
nông dân thêm cùng khổ, túng bấn. Do đó trong những năm 1940-1945, nhân
dân Việt nam đã phải sống những ngày đen tối nhất của đế quốc Pháp và phát
xít Nhật, tuyệt đại bộ phận nhân dân ta, nhất là nông dân đã lâm vào cảnh nghèo
nàn, bế tắc.
Hậu quả cộng hưởng của thiên tai, bão lụt và địch hoạ như sưu cao, thuế
nặng, bán thóc tạ, trồng thầu dầu và đay bán cho Nhật..., lạm phát khủng hoảng,
chiến tranh... đã dẫn đến nạn đói khủng khiếp mùa đông 1944-1945, làm chết
gần 2 triệu đồng bào ta.
Và khi thời cơ đến, phát xít Nhật đầu hàng, ngày 15/8/1945, theo lời kêu
gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh và của Đảng, toàn dân ta nổi dậy như sóng vỡ bờ,
suốt từ Nam chí Bắc, từ thành thị đến nông thôn, từ miền xuôi đến miền ngược.
Trong vòng 12 ngày, cuộc tổng khởi nghĩa vĩ đại của nhân dân ta, dưới sự lãnh
7
Tổng Cục Thuế Thuế Việt Nam qua các thời kỳ Lịch sử

đạo của Đảng đã thắng lợi trong cả nước, chấm dứt ách đô hộ gần 100 năm của
đế quốc Pháp, mở ra một thời kỳ mới trong lịch sử dựng nước và giữ nước của
dân tộc Việt nam. Một trong những điều làm nên sức mạnh vô song đó là sự
căm thù chế độ bóc lột đến tột độ mà điển hình là chính sách sưu cao, thuế nặng,
hà khắc của thực dân Pháp đối với nhân dân ta.
8
Tổng Cục Thuế Thuế Việt Nam qua các thời kỳ Lịch sử

Chương II
THUẾ VIỆT NAM TỪ SAU CÁCH MẠNG THÁNG 8 ĐẾN NGÀY GIẢI
PHÓNG MIỀN NAM ( 1945-1975)
I - Giai đoạn kháng chiến chống thực dân Pháp
A- Bối cảnh lịch sử giai đoạn 1945-1950 và chính sách động viên

đóng góp theo hình thức tự nguyện
Cách mạng tháng 8 năm 1945 thắng lợi, nhu cầu chi tiêu cho công tác an
ninh- quốc phòng và bảo vệ đất nước trên nhiều mặt ngày càng lớn. Khi đó, quỹ
ngân khố Trung ương mà Nhà nước ta nắm được chỉ có 1.250.000 đồng Đông
Dương (Một triệu hai trăm năm mươi ngàn đồng) kể cả 580.000 đồng tiền hào
rách chờ ngày tiêu huỷ. Tuy vậy, chủ trương của Hồ Chủ Tịch và Chính Phủ
cách mạng lâm thời là không thể đơn thuần giải quyết vấn đề tài chính Nhà nước
Việt nam chỉ biết bắt buộc nhân dân nộp thuế như chế độ cũ. Hoàn cảnh đất
nước như Bác Hồ đã nói " nghìn cân treo sợi tóc". Trước tình hình đó, cơ quan
thuế dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Chính Phủ, của Bộ Tài Chính đã kịp thời
nghiên cứu, sửa đổi một số chính sách thuế cũ, xoá bỏ thuế thân, giảm thuế điền
thổ, bái bỏ chế độ công quản thuốc phiện, ruợu, muối của chế độ thực dân phong
kiến. Với phương châm "lấy dân làm gốc", dựa vào dân, vì lợi ích của nhân dân,
ngày 4/9/1945, Chính Phủ đã ban hành sắc lệnh thành lập "Quỹ độc lập" để thu
nhận các món tiền và đồ vật mà nhân dân sẵn lòng quyên góp ủng hộ nền độc
lập quốc gia. Trong khuôn khổ của Quỹ độc lập, từ ngày 19/9/1945 Tuần lễ vàng
đã được phát động long trọng trong cả nước.
Hình thức đóng góp tự nguyện cũng được phát triển với nhiều dạng phong
phú như "Hũ gạo nuôi quân"; "Giúp binh sĩ bị nạn"; "Giúp đồng bào tản cư";
"Quỹ bình dân học vụ"; " Đón thương binh về làng"; "Đỡ đần bộ đội"; "Hũ gạo
cứu nước", "Thóc Bác Hồ khao quân" ... Nhân dân ngày càng tin tưởng vào
thắng lợi của cuộc kháng chiến, hăng hái đóng góp sức người, sức của.
Tất cả các địa phương, toàn dân thi đua thực hiện bằng được khẩu hiệu
"Thuế không thiếu một cân, quân không thiếu một người". Cuộc vận động trên
không những chỉ có đồng bào ở vùng tự do hăng hái thi đua làm nghĩa vụ đóng
góp đảm phụ, nộp thuế mà cả đồng bào vùng tạm bị chiếm cũng hăng hái, phấn
khởi góp quân lương, bán thóc cho Chính Phủ. Nhân dân ta còn vượt qua bao
nguy hiểm của vòng vây của giặc để tự nguyện gánh, thồ thóc ra vùng tự do
"đóng nhanh lúa tốt"....
Nhìn chung, các chủ trương, chính sách và biện pháp về tài chính, tiền tệ

từ sau cách mạng tháng 8 đến năm 1950 đã khơi dậy được lòng yêu nước,
thương nòi, tinh thần độc lập, tự chủ và tinh thần đóng góp của các tầng lớp
nhân dân. Tuy nhiên, nguồn thu chủ yếu vẫn dựa vào sự đóng góp tự nguyện của
nhân dân mà người nghèo lại hăng hái hơn người giầu có thì kết quả còn rất hạn
chế. Chế độ động viên theo nghĩa vụ chưa được hình thành chặt chẽ, chính sách
thuế còn sơ sài, chắp vá trên một số loại thuế dưới chế độ cũ; hệ thống thuế mới
9
Tổng Cục Thuế Thuế Việt Nam qua các thời kỳ Lịch sử

chưa được xây dựng; tư tưởng muốn xoá thuế, xem nhẹ thuế, còn phổ biến trong
một số cán bộ. Số thu vào Ngân sách chỉ đáp ứng được phần nhỏ nhu cầu chi
tiêu, phải dựa chủ yếu vào nguồn phát hành tiền, một lợi thế mà cách mạng đã
giành được qua lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Hồ Chủ Tịch là rất cần
thiết và có tác dụng to lớn nhưng cũng có những tồn tại, hậu quả không tốt do
tình trạng lạm phát, giá trị đồng tiền ngày càng giảm sút.
B - Bối cảnh lịch sử giai đoạn 1951-1954 và chính sách thuế đầu tiên
dưới chính quyền cách mạng Việt Nam
Chiến dịch biên giới Việt-Trung cuối năm 1950 thắng lợi. Trong bối cảnh
đó, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II họp đầu năm 1951 đã đề ra những chuyển
hướng cơ bản về kinh tế-tài chính. Chính sách Tài chính được cải tiến theo
phương châm "Tăng thu, giảm chi, thống nhất quản lý thu chi tài chính" và
"Thuế khoá phải công bằng, hợp lý".
Công bằng là yêu cầu mỗi người dân đều phải thực hiện nghĩa vụ đóng
góp cho Nhà nước theo đúng quy định của luật pháp.
Hợp lý là tuỳ theo nguồn thu nhập dân cư mà định số thuế phải đóng góp.
Không huy động quá khả năng đóng góp, gây trở ngại cho công việc làm ăn và
đời sống của người nộp thuế. Ngược lại cũng không động viên quá thấp để số
thu Ngân sách nhà nước (NSNN ) quá hạn hẹp, không đáp ứng được nhu cầu chi
tiêu thật cần thiết và to lớn của Nhà nước.
Theo đề nghị của Bộ Tài Chính, Uỷ ban Thường trực Quốc hội đã xem

xét ban hành thuế nông nghiệp và công bố chính sách thuế đầu tiên dưới chính
quyền Cách mạng Việt nam, nhằm khuyến khích mọi người ra sức tăng gia sản
xuất, tạo thêm nhiều của cải cho xã hội, nâng cao đời sống, có lợi cho bản thân,
cho kháng chiến, cho nền kinh tế chung, phù hợp với hoàn cảnh chiến tranh; Từ
thực tiễn kinh tế- xã hội ở nước ta trong thời kỳ đó và sự giúp đỡ, tư vấn của các
chuyên gia thuế nước Cộng hoà nhân dân Trung hoa, chính sách thuế của ta gồm
7 thứ sau đây:
- Thuế nông nghiệp
- Thuế công thương nghiệp
- Thuế hàng hoá
- Thuế xuất nhập khẩu
- Thuế sát sinh
- Thuế trước bạ
- Thuế tem
Ngoài 7 thứ thuế được thông báo công khai trên đây, cấm các địa phương
tuỳ tiện đặt ra những khoản bắt nhân dân đóng góp. Mọi hình thức quyên góp ở
nông thôn đều bị cấm chỉ, trừ trường hợp nhân dân thật sự đóng góp tự nguyện
10
Tổng Cục Thuế Thuế Việt Nam qua các thời kỳ Lịch sử

để ủng hộ bộ đội, góp quỹ nghĩa thương cứu tế xã hội. Việc tăng giảm mức thu,
loại thuế, thuế suất ... đều phải do Chính phủ Trung ương quyết định
1- Thuế nông nghiệp
1.1 Theo Sắc lệnh số 13/SL ngày 1/5/1951, thuế nông nghiệp là hình thức
thuế thu bằng hiện vật (thóc hoặc sản vật nông nghiệp) được ban hành để thay
thế các khoản đóng góp về nông nghiệp cho NSNN và quỹ địa phưuơng như
thuế điền thổ, thóc công lương, sương túc, thóc bình dân học vụ, thóc nuôi bộ
đội địa phương, thóc nộp cho quỹ xã, thóc đắp đường ... đồng thời bãi bỏ việc
mua thóc theo giá qui định.
1.2 Điều lệ tạm thời thuế nông nghiệp ban hành kèm theo Sắc lệnh số

40/SL ngày 15/7/1951 đưọc quy định căn cứ theo 3 phương châm chính là:
- Tổng động viên tài lực để bảo đảm cung cấp cho nhu cầu kháng chiến .
- Góp phần thúc đẩy phát triển sản xuất nông nghiệp, cải thiện dân sinh.
- Thực hiện đóng góp công bằng, dân chủ, công khai .
Từ chính sách động viên theo tự nguyện chuyển sang hình thức đóng thuế
nông nghiệp bắt buộc theo mức nhất định, một số trường hợp phải nộp thuế cao
hơn. Việc bồi dưỡng để cán bộ, đảng viên thông suốt với chính sách của Đảng,
Chính phủ rất khó khăn... Việc làm cho các hộ nông dân hiểu được ý nghĩa cả
chính sách và nghĩa vụ của mỗi người để nghiêm chỉnh chấp hành chính sách,
làm đầy đủ nghĩa vụ nộp thuế lại càng khó khăn hơn.
Để khắc phục tình trạng trên, Đảng và Chính Phủ đã tập trung lực lượng
cán bộ, đảng viên tham gia nhiều đợt tập huấn, bồi dưỡng quan điểm, quán triệt
chủ trương chính sách về thuế nông nghiệp và coi đây là một công việc trọng
tâm mà mỗi tổ chức Đảng, chính quyền từng cấp phải tăng cường lãnh đạo, chỉ
đạo đảm bảo việc thu thuế đúng chính sách, thực hiện đầy đủ nhiệm vụ kế hoạch
được giao và từng bước phát huy tác dụng của chính sách khuyến khích, thúc
đẩy tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm... Nhờ phát động được tinh thần yêu
nước của các từng lớp nhân dân, đặc biệt là nông dân, trước sự mất còn của
chính quyền cách mạng, của đất nước, cán bộ, nhân dân ta đã nhận lấy sự khó
khăn, gian khổ để góp phần cứu nước, bảo đảm hiệu quả cao của việc triển khai
chính sách thuế nông nghiệp, giữ vai trò quan trọng nhất trong toàn bộ chính
sách tài chính lúc bấy giờ.
2- Thuế công thương nghiệp: Thu bằng tiền áp dụng với các cơ sở hoạt
động sản xuất kinh doanh ( XSKD), dịch vụ nhằm mục đích kiếm lời, bao gồm
cả doanh nghiệp hoạt động cố định, thường xuyên, có cơ sở kinh doanh khá, các
quán hàng và các hộ buôn chuyến. Thuế công thương nghiệp (CTN) phân biệt
theo 3 loại.
+ Thuế doanh nghiệp áp dụng đối với hoạt động cố định, thường xuyên,
có quy mô kinh doanh vừa và lớn theo 2 phần thuế: Thuế tính trên doanh thu bán
hàng hoá hoặc doanh thu dịch vụ (với thuế suất từ 10% đến 15%, phân biệt theo

11
Tổng Cục Thuế Thuế Việt Nam qua các thời kỳ Lịch sử

ngành nghề cần thiết nhiều hay ít cho kháng chiến, cho đời sống nhân dân) và
Thuế tính trên lợi tức kinh doanh theo biểu thuế luỹ tiến từng phần (từ 5% đến
27%, được giảm từ 10% đến 40% mức thuế nộp theo biểu, phân biệt theo ngành
nghề cần thiết nhiều hay ít cho kháng chiến và cho đời sống nhân dân).
+ Thuế quán hàng: Áp dụng đối với những hộ SXKD, dịch vụ nhỏ với
mức thuế được quy định trong biểu, theo số tuyệt đối cho từng bậc (gộp cả phần
thuế đánh trên doanh thu và thuế đánh trên lợi tức). Số thuế nộp được khoán
trong từng thời gian là 3 tháng hoặc 6 tháng, tùy mức doanh thu cố định bình
quân hàng tháng cao hay thấp. Thuế quán hàng cũng được giảm từ 10% đến
40% mức thuế phải nộp theo biểu, phân biệt theo ngành nghề cần thiết nhiều hay
ít cho kháng chiến và đời sống nhân dân.
+ Thuế buôn chuyến: Áp dụng đối với những người kinh doanh lưu động
từ địa phương này sang địa phương khác (có thể khác huyện, khác tỉnh, thành
phố) bán hàng theo từng chuyến, với mức thuế gộp cả phần thuế tính trên doanh
thu và phần thuế tính trên lợi tức, thuế suất 3% đối với lương thực, thực phẩm,
5% đối với mặt hàng khác.
Ngoài tác dụng động viên sự đóng góp của người tiêu dùng và cơ sở
SXKD, dịch vụ, thuế CTN còn khuyến khích hoạt động trong các ngành nghề
cần thiết cho kháng chiến, cho đời sống nhân dân và thu hồi một phần tiền mặt
trên thị trường nhằm góp phần ổn định tiền tệ, giá cả.
3- Thuế hàng hoá: Là thuế gián thu đánh vào 16 mặt hàng sản xuất tập
trung, có chênh lệch nhiều giữa giá thành và giá bán, được chia thành 4 nhóm:
+ Thuốc hút: Từ 20% đến 50%
+ Đồ thờ cúng: 80%
+ Đồ ăn uống: Từ 10% đến 50%
+ Nguyên vật liệu: Từ 3% đến 15%
Thuế hàng hoá điều tiết thu nhập đối với người tiêu thụ, tạo thêm nguồn

thu lớn cho NSNN, nhằm hướng dẫn sản xuất, tiêu dùng tiết kiệm, hạn chế đối
với hàng xa xỉ, không thật cần thiết cho đời sống nhân dân.
4- Thuế xuất nhập khẩu: Là công cụ để quản lý việc Xuất nhập khẩu
(XNK) hàng hoá qua vùng tự do và vùng tạm bị chiếm nhằm góp phần bảo vệ và
phát triển kinh tế của vùng tự do. Thuế tính theo giá hàng với thuế suất cao thấp
tuỳ yêu cầu hạn chế hay khuyến khích xuất hoặc nhập khẩu nhiều hay ít, nhằm
đấu tranh kinh tế với địch, có lợi cho ta. Hàng xuất về cơ bản được miễn thuế,
hàng nhập được hạn chế trong phạm vi hàng cần thiết cho kháng chiến, đời
sống, gồm 116 thứ với thuế suất tối thiểu là 30% trở lên để bảo vệ sản xuất trong
vùng tự do.
12
Tổng Cục Thuế Thuế Việt Nam qua các thời kỳ Lịch sử

5 Thuế sát sinh: Về thực chất là một loại thuế hàng hoá đặc biệt, áp dụng
đối với lợn, trâu, bò, ngựa, dê đem giết thịt để bán với thuế suất 10% trên trị giá
con vật nhằm động viên đóng góp của người tiêu thụ thịt súc vật cho NSNN.
6- Thuế trước bạ: Đánh vào chuyển nhượng tài sản chủ yếu là nhà đất
nhưng trong thời kỳ kháng chiến, ở vùng tự do ít có chuyển nhượng nhà đất nên
hiệu lực không nhiều.
7- Thuế tem: Chưa được ban hành trong thời kỳ kháng chiến.
Tóm lại: Trong các năm 1950-1951 kinh tế Tài chính của ta gặp rất nhiều
khó khăn do cuộc kháng chiến phát triển, chi tiêu ngày càng nhiều. Việc thi
hành chính sách tài chính còn nhiều thiếu sót, mức động viên còn mang tính
bình quân, chính sách thuế còn dè dặt …thuế thu bằng tiền chỉ bảo đảm phần
nhỏ yêu cầu chi tiêu của Nhà nước. Thuế điền thổ và quỹ công nương từ năm
1950 đã chuyển sang thu bằng hiên vật, theo luỹ tiến nhưng mức huy động còn
chưa sát với các tầng lớp nhân dân. Số thu cho NSNN còn thấp nên Chính Phủ
phải dựa nhiều vào việc phát hành giấy bạc để đáp ứng êu cầu chi tiêu về quân
sự, hành chính.
C - Tổ chức bộ máy quản lý thu các loại:

1- Trước khi có chính sách thuế chính thức (1945 - 1950)
Ngày 10/9/1945 Chính phủ đã ban hành Sắc lệnh đặt ra Sở thuế quan và
thuế gián thu (trực thuộc Bộ tài chính) để đảm nhiệm công việc của Sở Tổng
thanh tra độc quyền muối, thuốc phiện và các Sở thương chính Bắc, Trung, Nam
kỳ.
Ngày 15/2/1946, Bộ trưởng Bộ Tài chính đã thành lập “Nha thuế trực thu
Việt Nam” (trực thuộc Bộ Tài chính) với nhiệm vụ nghiên cứu, đề nghị thi hành
và kiểm soát tất cả các công việc có liên quan trực tiếp hay gián tiếp đến các thứ
thuế chính và tạp thuế thuộc loại thuế trực thu trong toàn quốc.
Cả hai “Sở thuế” và “Nha thuế” nói trên đều được phát triển theo ngành
dọc xuống các kỳ, các tỉnh, huyện…để thực hiện tốt việc thu thuế.
Ở mỗi kỳ (Bắc kỳ, Trung kỳ, Nam kỳ) có Nha thuế trực thu cấp kỳ chịu
trách nhiệm tập trung và kiểm soát các công việc về thuế trực thu trong toàn kỳ
và do một Giám đốc điều khiển.
Ở mỗi tỉnh đặt ra một phòng thuế trực thu hàng tỉnh do một chủ sự điều
khiển.
Trong khi chờ đợi đào tạo nhân viên chuyên môn để thành lập ngạch
riêng, các viên chức thuộc ngành hành chính chung, sau một thời kỳ tập sự, có
thể được cử giữ các chức giám đốc và chủ sự nói trên.
Ngày 29/5/1946, theo Sắc lệnh số 75/SL, cơ cấu bộ máy tổ chức của Bộ
Tài chính được thay đổi. Về thuế, có Nha thuế quan và thuế gián thu; Nha thuế
13
Tổng Cục Thuế Thuế Việt Nam qua các thời kỳ Lịch sử

trực thu; Nha trước bạ- Công sản- điền thổ (sau chuyển thành Nha công sản-
Trực thu- địa chính được gọi tắt là Nha Công- Trực- Địa).
Riêng về thuế quan và thuế gián thu, ở từng kỳ có Sở thuế quan và thuế
gián thu (Bắc kỳ, Trung kỳ, Nam kỳ); ở tỉnh có Ty chánh thu thuế quan; ở các
khu vực có nguồn thu quan trọng hoặc có đồng muối thì có Ty phụ thu thuế
quan. Thuế trực thu và các loại thu khác phổ biến có một phòng trong Uỷ ban

hành chính phụ trách.
Từ năm 1948, cán bộ ngành thuế quan cũng đã hưởng lương theo ngạch
bậc công chức hành chính chung là tá sự, cán sự, tham sự, tham tá ... xếp hạng
chủ yếu theo trình độ văn hoá.
2- Sau khi có hệ thống chính sách thuế mới (1951- 1954):
- Ngày 14/07/1951, Bộ Tài chính đã thành lập Vụ thuế nông nghiệp (nằm
trong Bộ Tài chính) với nhiệm vụ nghiên cứu chính sách thuế nông nghiệp, lập
kế hoạch, hướng dẫn theo dõi, kiểm tra việc thực hiện chung cả nước.
Vụ thuế nông nghiệp không có hệ thống tổ chức dọc đến tận địa phương
nên ở các tỉnh, thành, huyện, cơ quan tài chính trực tiếp phụ trách công tác chỉ
đạo quản lý thu thuế nông nghiệp.
Ở mỗi xã thành lập một Ban thuế nông nghiệp có nhiệm vụ:
- Điều tra và tổ chức nhân dân kê khai số ruộng đất hoa lợi thu hoạch
hàng năm, số nhân khẩu nông nghiệp của mỗi nông hộ trong xã ...
- Tổ chức để nhân dân họp trao đổi về tài liệu kê khai của từng nông hộ
đúng hay sai, theo phương pháp dân chủ bình nghị.
- Ấn định số thuế mỗi nông hộ phải nộp, lập sổ thuế để đưa qua Uỷ ban
kháng chiến hành chính (UBKCHC) xã trình lên UBKCHC tỉnh quyết định.
Ban thuế nông nghiệp do UBKCHC và Nông hội xã tổ chức gồm có đại
biểu các đoàn thể nhân dân, đại biểu các tầng lớp dân cư và những người có hiểu
biết về ruộng đất trong xã, có thể giúp đỡ điều tra và xem xét mức thuế nông
nghiệp. Số lượng người trong Ban thuế nông nghiệp từng xã do UBKCHC và
Nông hội xã ấn định tuỳ nhu cầu công tác cụ thể. Khi sổ thuế nông nghiệp lập
xong và được UBKCHC tỉnh duyệt y thì UBKCHC xã yết thị ngay cho dân biết
số thuế của từng hộ trong xã phải nộp, kỳ hạn nộp. Nếu địa điểm đem thóc đến
nộp được chỉ định ở ngoài xã và trên 15 cây số đến 30 cây số thì việc vận
chuyển thóc nộp thuế được tính như công tác dân công do UBKCHC tổ chức.
Nếu quá 30 cây số sẽ được trả tiền công. Khi nộp xong thuế phải đòi biên lai
nộp thuế.
Dưới sự lãnh đạo của tổ chức Đảng, chính quyền các cấp và sự phối hợp

chặt chẽ thường xuyên với các đoàn thể quần chúng, đặc biệt với Nông hội xã,
cán bộ thuế nông nghiệp đã phải thường xuyên sâu sát cơ sở, thậm chí đã phải
trèo đèo lội suối, mưa nắng vất vả, kiên trì phát động tinh thần yêu nước của dân
14
Tổng Cục Thuế Thuế Việt Nam qua các thời kỳ Lịch sử

để nắm chắc số lượng ruộng đất, năng suất, sản lượng của từng hộ nông dân, vận
dụng những nguyên tắc, biện pháp, thủ tục cụ thể để xác định mức thuế của từng
hộ nông nghiệp, bảo đảm thu thuế đúng chính sách, thực hiện đầy đủ nhiệm vụ
thu và phát huy tác dụng của chính sách khuyến khích tăng gia sản xuất, thực
hành tiết kiệm.
Nhiều phòng tài chính đã tổ chức cho các xã đăng ký ngày nộp thuế và
sắp xếp thành lịch nộp thuế cho các xã trong huyện. Đến gần ngày nộp thuế Ban
thuế nông nghiệp xã đã vận động nhân dân phơi khô, quạt sạch, thóc không ẩm
ướt hay có sạn, rác lẫn vào để có thóc tốt nộp thuế đầy đủ. Cán bộ thuế và kho
thóc đã tập trung lực lượng về xã đúng lịch để nhận thóc nhanh gọn và cấp biên
lai ngay cho người nộp thuế. Ngày nộp thuế nông nghiệp đã trở thành "ngày hội
truyền thống" cho từng xã. Việc tổ chức như trên không những đã tạo điều kiện
thuận lợi, bảo đảm thu thuế nông nghiệp đầy đủ mà còn gây được khí thế sôi nổi
ở nông thôn, nhắc nhở bà con nông dân, cả ở vùng tự do và vùng tạm chiến,
hăng hái làm tròn nghĩa vụ với Nhà nước. Vì vậy, mặc dầu thuế được tổ chức
thu đến từng hộ gia đình, tiến độ thu thuế vẫn nhanh, gọn trong thời gian ngắn
nhất, tiết kiệm được thời gian đi nộp thuế của dân, phù hợp với hoàn cảnh chiến
tranh, tránh máy bay địch bắn phá. Phong trào thi đua sổi nổi giữa các thôn, xã
không còn là vấn đề hình thức mà thực sự trở thành động lực thúc đẩy tiến độ
thu thuế và nâng dần ý thức tự giác hoàn thành nghĩa vụ, trách nhiệm của cán bộ
thuế và người nộp thuế.
Điểm nổi bật là trong thời gian này, không phải chỉ có cán bộ Tài chính
làm công tác Thuế nông nghiệp mà hầu hết các cấp uỷ và chính quyền, các đoàn
thể, mặt trận đã huy động được một lực lượng cán bộ đông đảo, trực tiếp hoặc

gián tiếp tham gia việc thực hiện thuế nông nghiệp. Qua công tác thực tế và
hàng ngày tiếp xúc với dân, với đồng ruộng, hàng nghìn cán bộ đã trưởng thành,
có thêm nhiều kinh nghiệm trong công tác vận động quần chúng. Mặt khác,
cũng có không ít cán bộ lúng túng, ngại khó, có sai phạm, bị kỷ luật. Đó có thể
cũng là điều khó tránh khỏi trước một công tác rất mới mẻ, khá phức tạp mà ta
chưa hề có sẵn bài bản thích hợp.
- Ngày 17/07/1951, Bộ Tài chính đã thành lập Hệ thống tổ chức ngành
thuế công thương nghiệp theo ngành dọc trong cả nước (Sở thuế Trung ương,
Phân sở thuế liên khu…) để tổ chức thực hiện việc thu thuế công thương nghiệp
trong cả nước.
- Trong thời kỳ kháng chiến, hoạt động sản xuất, kinh doanh công thương
nghiệp chủ yếu tập trung về ban đêm. Cán bộ thuế công thương nghiệp phải làm
việc theo ca kíp, lăn lộn trong các chợ thị xã, nông thôn, trong hang cùng, ngõ
hẻm để tổ chức điều tra, nắm chắc tình hình hoạt động chớp nhoáng của các cơ
sở kinh doanh, phổ biến thuộc loại hộ vừa và hộ nhỏ, đấu tranh gay go, phức tạp
trong mặt trận chống thất thu, thậm chí mất mát, hy sinh, thu nhặt từng đồng để
tạo nguồn thu lớn cho NSNN. Ban đêm, cán bộ phải thực hiện các cuộc họp
"dân chủ bình nghị" quyết định mức thuế công khai cho từng nhóm hộ kinh
15
Tổng Cục Thuế Thuế Việt Nam qua các thời kỳ Lịch sử

doanh hoặc tổ chức thu thuế buôn chuyến, thuế quán hàng dưới ngọn đèn dầu
leo lét, che kín 3 mặt theo nguyên tắc phòng không, sẵn sàng khoác túi đựng tiền
và biên lai thuế chạy ra hầm trú ẩn khi có máy bay bắn phá. Phần lớn trụ sở cơ
quan dựa vào nhà dân, không tủ đựng hồ sơ. không két đựng tiền. Nhiều hôm,
cán bộ phải tổ chức thu thuế đến tận đêm khuya, về đến nhà quá mệt, bỏ túi tiền
đầu giường rồi lăn ra ngủ. Sáng hôm sau mới cùng nhau cộng sổ, đếm tiền, đem
nộp ngân hàng, có khi hàng cây số nhưng không bao giờ mất mát, lẫn lộn, thâm
hụt. Sau đó lại lao vào chợ, vào trạm để tiếp tục công tác quản lý thu thuế.
Điều đáng ghi nhận là trong thời gian kháng chiến, vận động công thương

gia nộp thuế đúng, đủ kịp thời đã khó, nhưng thu thuế xong, cán bộ lại phải ngủ
qua đêm bên những bị tiền căng phồng, trong lòng lo ngay ngáy, sáng sớm hôm
sau mới được đem nộp ngân hàng nhưng không hề xảy ra trấn lột, tham ô, biển
thủ ...
Với sinh hoạt phí quá ít ỏi, đời sống khó khăn, thắt lưng buộc bụng, cán
bộ thuế phải thường xuyên rèn luyện tu dưỡng quan điểm lập trường kiên định,
tự đấu tranh bản thân và tập thể thương yêu, đoàn kết, giúp nhau khắc phục cám
dỗ hay mua chuộc, răn đe, tránh xa "viên đạn bọc đường", giữ gìn phẩm chất
cách mạng, thực hiện "cần, kiệm, liêm, chính"; “Chí công vô tư", miệt mài công
tác, phấn đấu vươn lên hoàn thành nhiệm vụ được giao, giữ vững được lòng tin
của dân đối với chính sách thuế, cán bộ thuế được người nộp thuế trân trọng,
thương yêu.
Năm 1953, cuộc kháng chiến trường kỳ của nhân dân ta chống thực dân
xâm lược Pháp bước vào giai đoạn quyết định. Trước triển vọng tốt đẹp của tình
hình mới, số cán bộ cần thiết chuẩn bị cho việc tiếp quản các thành thị sắp được
giải phóng sẽ rất thiếu. Vươn lên thế chủ động, Bộ Tài chính đã đề nghị Trung
ương Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam chọn lựa, chuyển qua ngành thuế một số
cán bộ cốt cán ở cấp huyện, có kinh nghiệm vận động quần chúng. Từ đó, một
số cán bộ đang công tác ở hội phụ nữ tại các Liên khu 3,4, Tả ngạn, Việt Bắc đã
được điều động gấp về dự lớp đào tạo nữ cán bộ thuế đầu tiên, mở tại Việt Bắc.
Từ giữa tháng 10/1953, tại một khu vực an toàn trên chiến khu Việt Bắc,
dưới hội trường bằng tre, nứa, lá, lớp học cho nữ cán bộ thuế đầu tiên đã được
khai mạc long trọng với 68 đồng chí. Sau một đợt chỉnh huấn nghiêm túc về lập
trường, tư tưởng, lớp học chuyển sang phần nghiệp vụ với các loại thuế quán
hàng, buôn chuyến v.v... Xong phần lý thuyết, học viên được đi thực tập tại một
số Chi sở thuế ở Việt Bắc, thu nhận được bao kinh nghiệm bổ ích qua công tác
vận động quần chúng về bình nghị doanh thu, hiệp thương mức thuế... Trong lớp
học, giảng viên là cán bộ ở Sở thuế Trung ương đã rất nhiệt tình truyền đạt kiến
thức về lý luận, quan điểm, chuyên môn nghiệp vụ... Về địa phương, các đồng
chí Chi sở trưởng và tập thể cán bộ thuế cũ đã hăng say phổ biến kinh nghiệm

quý báu qua những công việc cụ thể hàng ngày. Mỗi học viên đều đem hết tâm
lực, thương yêu, giúp đỡ nhau khắc phục mọi khó khăn, bảo đảm kết quả học tập
tốt.
16
Tổng Cục Thuế Thuế Việt Nam qua các thời kỳ Lịch sử

Sau hơn 6 tháng học tập, chị em được phân công về nhận công tác chính
thức tại một số Chi sở thuế và trở thành những cán bộ nòng cốt của địa phương,
gắn được lý luận với thực tế, vận dụng những điều đã được học ỏ lớp vào thực
tiễn công tác, rèn luyện, tu dưỡng và giành được hiệu quả cao trong công tác
quản lý, thu thuế công thương nghiệp.
D- Kết quả đạt được.
Các chính sách thuế từ sau Cách mạng Tháng Tám đến năm 1950 đã có
nhưng điều chỉnh phù hợp. Tuy số thu vào NSNN chưa đáp ứng được nhu cầu
thực tế và đã có lúc phải phát hành thêm tiền nhưng Chính phủ đã thực hiện
chính sách tiết kiệm và sử dụng có hiệu quả nguồn tài chính ít ỏi của mình. Điều
đó một mặt củng cố lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Chính phủ, mặt khác là
một thành công đối với một Nhà nước non trẻ như Nhà nước ta trong giai đoạn
này.
Trong giai đoạn 1951- 1954, nhờ triển khai tích cực chính sách thuế đầu
tiên của mình, với sự cố gắng to lớn của các địa phương và nhân dân, Nhà nước
đã đạt được những kết quả đáng khích lệ về mặt số thu. Trong 4 năm
(1951- 1954) tính từ Liên khu 4 trở ra, số thuế nông nghiệp đã thu được gần 1,6
triệu tấn lương thực quy thóc để cung ứng cho nhu cầu kháng chiến và đây cũng
là nguồn thu chủ yếu của NSNN lúc bấy giờ. Thuế công thương nghiệp thu được
mang lại cho NSNN một khối lượng tiền mặt ngày càng tăng. Những kết quả
này đã tạo cơ sở vật chất ổn định, đáp ứng nhu cầu to lớn trong chiến dịch Đông
xuân 1953- 1954 và chiến thắng Điện Biên Phủ lịch sử.
II- Bối cảnh lịch sử- Phương hướng nhiệm vụ đối với công tác thuế
1955-1965

1- Bối cảnh lịch sử và chính sách thuế mới:
Chiến thắng Điện Biên Phủ vang dội, Hiệp định Geneve năm 1954 đã kết
thúc thắng lợi 9 năm kháng chiến của nhân dân ta chống thực dân xâm lược
Pháp. Đi đôi với chủ trương khôi phục kinh tế, Đảng và Nhà nước đã chủ trương
củng cố nền tài chính quốc gia, vạch rõ những nhiệm vụ tài chính thích hợp với
những điều kiện kinh tế- xã hội và yêu cầu khôi phục kinh tế trong lúc này là:
+ Ở vùng nông thôn mới giải phóng: Vận dụng thuế nông nghiệp, thực
hiện ở vùng tự do và giảm 50% số thuế. Thuế nông nghiệp vẫn tiếp tục được thu
bằng thóc để đảm bảo nhu cầu lương thực, góp phần vào quản lý thị trường, ổn
định giá cả.
+ Ở các thành thị mới giải phóng: Vận dụng các loại thuế CTN theo thể lệ
của chế độ cũ. Đồng thời tiến hành việc thu đổi tiền Đông Dương, phát hành tiền
Ngân hàng của ta vào vùng mới giải phóng.
Chính sách thuế mới được áp dụng thống nhất với mọi cơ sở SXKD thuộc
mọi thành phần kinh tế trên nguyên tắc: Thuế đối với quốc doanh nhẹ hơn tư
nhân; động viên đối với sản xuất nhẹ hơn buôn bán; ngành nghề, mặt hàng cần
17
Tổng Cục Thuế Thuế Việt Nam qua các thời kỳ Lịch sử

thiết nhẹ hơn ngành nghề, mặt hàng không cần thiết xa xỉ, cao cấp; biện pháp
thu đơn giản, bảo đảm tính công bằng, hợp lý...
Từ cuối năm 1954, Nhà nước đã công bố chính sách thuế mới hoàn chỉnh
và lần lượt ban hành áp dụng thống nhất trên toàn miền Bắc. Chính sách thuế
mới gồm có thuế nông nghiệp thu bằng hiện vật và 12 thứ thuế thu bằng tiền là:
- Thuế doanh nghiệp
- Thuế lợi tức doanh nghiệp
- Thuế buôn chuyến
- Thuế hàng hoá
- Thuế sát sinh
- Thuế kinh doanh nghệ thuật

- Thuế thổ trạch
- Thuế môn bài
- Thuế trước bạ
- Thuế muối
- Thuế rượu
- Thuế xuất khẩu- Thuế nhập khẩu.
2- Thu đối với khu vực quốc doanh
Lúc bấy giờ, chế độ thuế doanh nghiệp, thuế hàng hoá....đối với xí nghiệp
quốc doanh có phần không thích hợp. Vì vậy, đến năm 1961, Chính phủ đã cho
tổ chức khảo sát “thuế chu chuyển” của Liên Xô và có chỉ thị của Chính phủ
cho áp dụng thí điểm chế độ thu mới được gọi là “thu quốc doanh”
Theo chế độ thu này, đại bộ phận tích luỹ tiền tệ của xí nghiệp được tập
trung vào Ngân sách Nhà nước qua một hình thức thu cố định. Mức thu quốc
doanh được xác định riêng cho từng mặt hàng hoặc từng loại hàng tuỳ theo giá
cả Nhà nước quy định đối với mặt hàng hoặc loại hàng đó có tích luỹ tiền tệ
nhiều hay ít. Về khâu thu, nghiên cứu thực hiện thí điểm ở 3 phương án: thu ở
khâu sản xuất; thu ở khâu lưu thông; vừa thu ở cả khâu sản xuất, vừa thu ở khâu
lưu thông. Nhưng cuối cùng, qua kết quả nghiên cứu đã quyết định chọn phương
án chỉ thu ở khâu sản xuất.
3- Tổ chức bộ máy quản lý thu các loại:
Sau khi miền Bắc hoàn toàn giải phóng, tổ chức ngành thuế được mở rộng
phạm vi hoạt động đến một số thành phố lớn (Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định),
các thị xã và vùng mới được giải phóng. Trong giai đoạn này, phần thuế xuất
nhập khẩu được chuyển sang Bộ Ngoại Thương để thành lập cơ quan Hải quan
với chức năng quản lý hoạt động ngoại thương.
18
Tổng Cục Thuế Thuế Việt Nam qua các thời kỳ Lịch sử

Ngày 7/11/1961, Chính phủ có Nghị định số 197- CP về việc quy định
nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Bộ Tài chính, trong đó Sở thuế

Công Thương Nghiệp được chuyển thành Vụ Thu quốc doanh và Thuế, Vụ thuế
nông nghiệp được chuyển thành Vụ tài vụ Hợp tác xã và Thuế Nông nghiệp.
4- Kết quả về kinh tế và thu các loại:
Đến cuối năm 1960 công cuộc cải tạo quan hệ sản xuất nông nghiệp đã
căn bản hoàn thành tạo điều kiện cho thuế nông nghiệp tiếp tục chiếm tỷ trọng
lớn trong tổng số thu.
Giai đoạn 1961- 1965, nước ta triển khai thực hiện kế hoạch 5 năm lần
thứ nhất tuy mới thực hiện được 4 năm (do năm 1965 đế quốc Mỹ liên tục ném
bom miền Bắc) nhưng nhiều mục tiêu chủ yếu của kế hoạch cũng đã cơ bản đạt
được (về số thu, quá trình cải tạo XHCN ( xã hội chủ nghĩa)...).
Trừ năm 1965 là năm có chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, còn trong
những năm 1961- 1964, NSNN đều đạt cân đối tích cực. Mỗi năm số thu và chi
ngân sách đều tăng từ 5% đến 10%. Đồng thời năm nào cũng bội thu và có kết
dư một ít (1961: 1,3%; 1962: 1,18%; 1963: 1,6%; 1964: 1,2% so với tổng số thu
Ngân sách trong năm). Năm 1965, do có chiến tranh, ngân sách Nhà nước bội
chi 6,5% so với tổng chi, chủ yếu ở ngân sách Trung ương. (Lịch sử tài chính
Việt Nam tập I trang 185).
III - Giai đoạn cả nước có chiến tranh và đấu tranh giải phóng miền
Nam, thống nhất đất nước (1966- 1975):
1. Ở miền Bắc:
Để phù hợp với nền kinh tế sau khi đã cơ bản hoàn thành cải tạo XHCN,
đồng thời căn cứ vào yêu cầu và diễn biến của cuộc đấu tranh chống Mỹ, cứu
nước, nhiệm vụ đề ra cho công tác thuế và thu NSNN trong giai đoạn này về cơ
bản gồm: tăng cường động viên cho NSNN, khuyến khích phát triển sản xuất,
thúc đẩy và củng cố quan hệ sản xuất mới, hoàn thành cải tạo XHCN.
*Một số điều chỉnh của từng loại thuế:
+ Về thuế nông nghiệp: Nhà nước đã cho tiếp tục ổn định nghĩa vụ thuế
nông nghiệp như đã thi hành trong các năm 1962 - 1963. Thóc thuế nông nghiệp
chiếm tỷ lệ quan trọng trong tổng số lương thực mà Nhà nước huy động được.
+ Về thuế công thương nghiệp: Ngày 18/01/1966 Uỷ ban thường vụ Quốc

hội ban hành Điều lệ thuế công thương nghiệp mới, chỉ áp dụng đối với khu vực
kinh tế hợp tác và hộ cá thể (không áp dụng đối với khu vựa kinh tế quốc doanh)
gồm có thuế doanh nghiệp, thuế lợi tức doanh nghiệp, thuế buôn chuyến thay
thế chế độ công thương nghiệp cũ.
+ Về thu đối với khu vực quốc doanh: trên cơ sở xác định hợp lý giá thành,
giá bán buôn xí nghiệp và giá bán buôn công nghiệp, Nhà nước đã cho áp dụng
19
Tổng Cục Thuế Thuế Việt Nam qua các thời kỳ Lịch sử

chế độ thu quốc doanh rộng rãi, đồng thời thực hiện chế độ phân phối lợi nhuận
để thành lập 3 quỹ ở xí nghiệp công nghiệp, thương nghiệp quốc doanh.
* Tổ chức bộ máy quản lý thu các loại:
Ngày 20/03/1974 Hội đồng Chính phủ có Nghị định 61/CP quy định Điều
lệ về tổ chức và hoạt động của Bộ Tài chính, trong đó Cục thu quốc doanh và
thuế cùng với Vụ tài vụ HTX và thuế nông nghiệp được giải thể để thành lập
Cục thu quốc doanh và Vụ thuế tập thể- cá thể (đều thuộc Bộ Tài chính), ở các
tỉnh, thành phố có Chi cục thu quốc doanh hoạt động theo sự chỉ đạo của ngành
dọc cấp trên.
c. Kết quả đạt được:
So với thời gian 1961 - 1965, số thu trong nước chỉ tăng chút ít trong thời
gian chiến tranh phá hoại lần thứ nhất (1965 - 1968); sau đó, nhờ kết quả khôi
phục và phát triển kinh tế, thu trong nước tăng lên 1,6 lần so với những năm
1961- 1965. Tổng hợp chung, so với 1961 - 1965, tổng thu ngân sách
1966 - 1970 gấp 2 lần; 1971 - 1975 gấp 2,7 lần. (Lịch sử Tài chính
Việt Nam- tập I- trang 229 và 229).
Nhìn chung, trong thời kỳ 1966 - 1975, hệ thống chính sách thuế được
xây dựng và thực hiện theo hướng: bám sát nhiệm vụ chính trị của Đảng và
Chính phủ, cố gắng tăng nguồn thu để đảm bảo nhu cầu chi ngày càng tăng,
khẩn trương trong hoàn cảnh vô cùng khó khăn, phức tạp của sự nghiệp chống
ngoại xâm đi đôi với xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nên đã góp phần đáng kể vào

thắng lợi chung của cả nước.
2- Ở Miền Nam:
Đặc điểm quan trọng về tài chính cách mạng ở miền Nam Việt Nam trong
thời kỳ này là việc động viên đóng góp của các tầng lớp dân cư không phải do
các cấp chính quyền cách mạng thực hiện vì trong thời gian dài ta không có
chính quyền, mà là do các cấp bộ Đảng như Huyện uỷ, Tỉnh uỷ, Khu uỷ và
Trung ương cục miền Nam thực hiện. Các cấp bộ Đảng lúc này, về thực chất đã
làm chức năng của chính quyền Nhà nước cách mạng ở miền Nam. Mặt khác,
công tác động viên được thực hiện trong hoàn cảnh ta không có đồng tiền riêng,
nguồn thu ngoại tệ do Trung ương chi viện hoặc do các nguồn khác đều phải đổi
ra tiền nguỵ Sài Gòn hoặc tiền Riel (Cam pu chia) để chi tiêu cho nhu cầu kháng
chiến. Các phương thức động viên về tài chính được lần lượt thực hiện và sử
dụng qua các thời kỳ chủ yếu sau đây:
2.1-Thời kỳ đấu tranh chính trị (1954-1960)
Từ năm 1958-1959, dưới sự điều khiển của đế quốc Mỹ, chính quyền Ngô
Đình Diệm đã tăng cường đàn áp, dùng những thủ đoạn dã man nhất để đánh
phá cách mạng nhằm "tát nước, bắt cá", đẩy cán bộ tách ra khỏi dân. Đây là thời
kỳ mà lực lượng cách mạng của ta bị tổn thất nặng nề nhất, nhiều cán bộ, đảng
viên và quần chúng cách mạng bị bắt, bị tù đầy hoặc bị giết...
20
Tổng Cục Thuế Thuế Việt Nam qua các thời kỳ Lịch sử

Chi tiêu cho nhu cầu hoạt động của cách mạng lúc này tăng lên rõ rệt vì
phần lớn cán bộ không thể dựa vào dân mà sống như trước được nữa. Các đội vũ
trang bắt đầu được thành lập để bảo vệ căn cứ và phối hợp với việc đấu tranh
chính trị của quần chúng bên ngoài.
Để đảm bảo hậu cần tại chỗ của căn cứ cách mạng, vấn đề sản xuất để tự
túc lương thực, thực phẩm đã trở thành nhiệm vụ hết sức quan trọng của các cơ
quan, đơn vị. Đồng thời, tại các vùng nông thôn cũng như đô thị do ta nắm
được, cán bộ, đảng viên có thể đi về hoạt động, các địa phương đã sử dụng

phương thức quyên góp để vận động quần chúng ủng hộ cách mạng theo hình
thức thích hợp ở từng vùng, từng hoàn cảnh cụ thể.
Từ năm 1958-1959 trở đi, bằng phương thức quyên góp ở nhiều nơi, đặc
biệt tại các vùng nông thôn đồng bằng Nam bộ, chẳng những có được nguồn thu
đủ bảo đảm cho lực lượng cán bộ tại chỗ sống để hoạt động mà còn thực hiện
nghĩa vụ nộp lên trên. Ví dụ: trong năm 1959, Bến tre đã nộp cho xứ uỷ 8 triệu
đồng, tương đương với 3.000 tấn thóc. (Lịch sử tài chính Việt Nam- tập I trang
248).
Trong thời kỳ này, ngoài nguồn thu chủ yếu là quyên góp trong nước, lực
lượng cách mạng còn có những nguồn thu quan trọng nữa là số tiền ủng hộ của
kiều bào ở Cam pu chia gửi về và số tiền chi viện của trung ương (bằng tiền
nguỵ Sài Gòn) từ Hà Nội gửi vào, qua đường Hồng Kông.
2.2-Thời kỳ chiến tranh đặc biệt (1960-1965)
Sau phong trào Đồng Khởi (1/1960) Trung ương Cục miền Nam được
thành lập để thay thế xứ uỷ Nam bộ, đại diện cho Trung ương Đảng chỉ đạo
cuộc kháng chiến tại miền Nam. Ngày 20/12/1960, Mặt trận dân tộc giải phóng
miền Nam Việt Nam ra đời. Tiếp theo đó, các tổ chức quần chúng như công
đoàn, thanh niên, phụ nữ, nông dân giải phóng... và các ban, ngành cùng lần lượt
được thành lập. Đồng thời với việc chăm lo ổn định đời sống, phục hồi và phát
triển sản xuất tại vùng giải phóng, mặt trận còn phải tăng thêm nguồn thu để
thoả mãn nhu cầu chi tiêu, mà chủ yếu là bảo đảm cung cấp cho cán bộ các cơ
quan, đoàn thể và lực lượng vũ trang thoát ly. Trung ương cục đã xác định cụ
thể các nguồn thu chủ yếu tại miền Nam lúc bấy giờ là:
- Đảm phụ nuôi quân dựa vào dân ở 3 vùng (rừng núi, nông thôn, thành
thị) đóng góp cho cách mạng, nuôi quân đánh giặc, bảo vệ vùng giải phóng;
- Đánh địch, thu chiến lợi phẩm để bổ sung vũ khí, quân trang, quân dụng;
- Sản xuất tự túc của các cơ quan, đơn vị thoát ly;
- Chi viện của Trung ương.
Tháng 6/1964, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt
nam ra đời đánh dấu một thắng lợi mới có tính chất quyết định trong cuộc kháng

chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta. Để đáp ứng nhu cầu của cuộc kháng
chiến ngày càng phát triển, dưới sự chỉ đạo của Trung ương Cục và theo nguyện
21
Tổng Cục Thuế Thuế Việt Nam qua các thời kỳ Lịch sử

vọng của nhân dân, chính quyền Cách mạng lâm thời đã tiến hành nghiên cứu,
thí điểm thực hiện chính sách "đảm phụ nông nghiệp" với mức động viên hợp lý
hơn, dựa trên diện tích, sản lượng ruộng đất và nhân khẩu nông nghiệp của từng
nông hộ theo biểu thuế luỹ tiến toàn phần. Chế độ thí điểm đảm phụ nông
nghiệp đầu tiên được thực hiện tại các tỉnh Cà mau, Bến tre, Mỹ tho, được nhân
dân hăng hái đóng góp nên kết quả thu khá tốt. Trong năm đầu tiên, Cà mau đã
thu được 11% sản lượng thu hoạch. Mức đảm phụ bình quân một nhân khẩu
nông nghiệp là 138 kg/năm. Tại vùng giải phóng Mỹ tho, tỷ lệ động viên là
12%, mức đảm phụ bình quân một nhân khẩu là 74 kg/năm. Tại Bến tre, số đảm
phụ năm 1964 gấp hơn 3 lần số thu năm 1961 (72.139.000 đồng/ 22.491.000
đồng). Nhờ đó năm 1964, Bến tre đã nộp cho Trung ương Cục và Khu được
31.278.000 đSG ( đồng Sài Gòn) (Lịch sử Tài chính Việt Nam- tập I trang 250).
Sự chi viện của Trung ương từ miền Bắc trong thời kỳ này cũng tăng lên.
Ngoài hàng nghìn tấn vũ khí, đạn dược, trong 6 năm (1960-1965) Trung ương
đã chi viện cho miền Nam 1.104 triệu đSG, tương đương 18.400.000 đô la Mỹ
(chiếm 34,8% tổng số thu của ngân sách miền trong các năm đó).
Số chi viện này tăng lên hàng năm. Riêng năm 1960, Trung ương chi viện
cho miền Nam 14 triệu đSG tương đương với 233.000 đô la Mỹ (chiếm 18%
tổng số thu của ngân sách miền) và đến năm 1965 lên đến 655 triệu đSG (gần 47
lần năm 1960) chiếm 44% tổng số thu của miền. (Lịch sử Tài chính
Việt Nam- tập I trang 252).
2.3- Thời kỳ chiến tranh cục bộ (1966-1968)
Sau thất bại trong chiến tranh đặc biệt, đế quốc Mỹ trực tiếp đưa quân vào
miền Nam, gây chiến tranh cục bộ. Với chiến lược 2 gọng kìm của kế hoạch
"Giôn Xơn", Mác- na- ma- ra đã thực hiện chiến thuật "tìm diệt" và "bình định"

nhằm mưu toan tiêu diệt lực lượng cách mạng để giành lấy thắng lợi quyết định,
làm thay đổi cuộc chiến. Đi đôi với việc ném bom rải thảm bằng máy bay B52
nhằm huỷ diệt vùng giải phóng, quân Mỹ còn trực tiếp càn quét các vùng căn cứ
của ta. Chúng ồ ạt đổ quân bắt lính, gom dân vào các ấp chiến lược với tên gọi là
"ấp tân sinh". Do đó, vùng giải phóng của ta vẫn còn 40% đất đai nhưng trước
sự đánh phá ngày càng ác liệt của địch dân thưa dần, thậm chí có những vùng
như Củ Chi đã biến thành "vùng trắng", không còn người ở.
Theo chỉ đạo của Trung ương Cục miền Nam, các địa phương vẫn tiếp tục
thực hiện các chính sách động viên tài chính đã ban hành từ năm 1964 như: đảm
phụ nông nghiệp, đảm phụ công thương nghiệp, đảm phụ xuất nhập thị...
2.3.1 Việc thu đảm phụ ở các đồn điền: (cao su, cà phê...) cũng được tiến
hành nhằm huy động một phần thu nhập của các chủ đồn điền người nước ngoài
hoặc người Việt Nam. Bằng nhiều hình thức khác nhau, hàng năm các chủ đồn
điền nhất là đồn điền cao su ở miền Đông Nam Bộ đều gặp ta để kê khai, xin
nộp thuế. Một số chủ đồn điền ở vùng giải phóng hoặc đại diện được trực tiếp
nộp đảm phụ cho ta. Một số chủ không có điều kiện thuận lợi để gặp cán bộ ta
22
Tổng Cục Thuế Thuế Việt Nam qua các thời kỳ Lịch sử

thường xuyên, đã đề nghị ta cho phép được nộp đảm phụ bằng ngoại tệ tại ngân
hàng ở một số nước ngoài, theo thoả thuận của ta.
Sự thật là do thắng lợi to lớn của ta về quân sự và ảnh hưởng rộng lớn của
ta trên trường quốc tế, các nhà tư sản ngoại quốc hoặc Việt Nam kinh doanh trên
các vùng ta kiểm soát phải đóng góp cho cách mạng; trong khi đó, họ vẫn đóng
thuế cho nguỵ quyền Sài Gòn.
Trong thời kỳ này, tại các đô thị, thị trấn do địch kiểm soát vẫn thực hiện
phương thức lạc quyên để động viên sự đóng góp của các tầng lớp nhân dân cho
cách mạng. Mỗi người đóng góp bằng các phương thức này đều có chứng nhận,
coi như được ghi công để sau này được báo công khi cách mạng thắng lợi. Kiều
bào ở Campuchia cũng được động viên đóng góp thông qua Ban chấp hành hội

Việt kiều để gửi về nước phục vụ kháng chiến.
Ngoài ra, trung ương Cục còn phát hành "công phiếu nuôi quân" được ghi
giá trị bằng gạo để mượn tiền của dân. Nhưng qua thi hành một năm, phát hành
có khó khăn, kết quả bị hạn chế, lại nguy hiểm cho cán bộ đi vận động mua công
phiếu nên việc phát hành bị ngừng lại.
2.3.2 Về nguồn chi viện từ miền Bắc: Từ năm 1965 do địch tiến hành chiến
tranh bắn phá miền Bắc nhằm ngăn cản sự chi viện của miền Bắc, đồng thời
thực hiện việc chia cắt các vùng giải phóng, nguồn chi viện từ miền Bắc cho
miền Nam chuyển hướng bằng đôla tiền mặt. Ban kinh tài miền Nam phải đổi ra
2 loại: tiền Sài Gòn và tiền Riel (của Campuchia) để chi tiêu vì lúc đó, nguồn
tiếp tế lương thực, thực phẩm hàng hoá công nghệ phẩm chủ yếu phải mua tại
các đô thị miền Nam và Campuchia.
Trong thời gian này, bằng đường ngoại giao, ta tranh thủ sự đồng tình của
chính quyền Campuchia cho phép ta được sử dụng cảng Sihanuc Ville (nay là
cảng Côngpôngxom) để nhận hàng chi viện của trung ương và trả cho họ những
món tiền "lót đường" với giá 2 đôla/1kg vũ khí và 1 đôla/1kg hàng hoá khác
(trong những năm 1960-1968, ta đã chuyển 43.039 tấn hàng bao gồm 15.900 tấn
vũ khí đạn dược đến miền Nam bằng con đường này). Các chiến dịch VT5 bằng
đường biển, xuất phát từ các tỉnh Thanh, Nghệ, Tĩnh, Bình vào dịp Đông - Xuân
hàng năm qua các cửa biển Hàm Rồng (Thanh hoá), Bến thuỷ (Nghệ an), cửa
Sót, cửa Nhượng (Hà tĩnh), cửa Lạch, Cảnh dương (Quảng bình) cũng đã góp
phần quan trọng về viện trợ vũ khí, đạn dược, lương thực cho chiến trường Liên
khu 5. Dưới sự chỉ đạo và tài trợ của Bộ Giao thông vận tải, nhân dân đóng
thuyền buồm giống như các loại thuyền buồm của Quảng ngãi, Bình định, dưới
đáy chở vũ khí, đạn dược, gạo . Khi có gió mùa đông bắc, cho thuyền ra khơi
chạy thẳng vào các cơ sở ở liên khu 5 đổ bộ vũ khí, đạn dược, gạo xong thì đánh
đắm thuyền; thuỷ thủ lên bộ, theo đường Trường sơn (Hồ chí Minh) ra Bắc tiếp
tục làm chuyến khác. Năm 1968 chi viện của trung ương cho miền Nam (chưa
kể khu 5) đã lên tới 30 triệu đôla, bằng 2,7 lần số tiền chi viện năm 1965 (11
triệu đôla) và bằng 128 lần số tiền chi viện năm 1960 (233 nghìn đôla). (Lịch sử

Tài chính Việt nam . Sđđ - trang 256).
23
Tổng Cục Thuế Thuế Việt Nam qua các thời kỳ Lịch sử

Số tiền chi viện và số thu tại chỗ của ngân sách miền trong năm 1965 là
1.494 triệu đSG ( đồng Sài Gòn), đã lên tới 5.820 triệu đSG năm 1968 (tương
đương với 582.700 tấn thóc), trong đó số thu tại chỗ chiếm 41%.
Nguồn thu ngày càng tăng đã thiết thực góp phần xây dựng và củng cố bộ
đội chủ lực miền, chủ lực các khu phát triển và trang bị ngày càng tốt hơn cho
bộ đội các tỉnh, huyện, dân quân du kích các ấp, xã.Trên thực tế, chi viện của
miền Bắc XHCN, hậu phương lớn không thể chỉ tính bằng tài lực, vật lực mà vô
cùng to lớn, với sự hy sinh về người không thể nào tính được bằng con số. Qua
đó đã tạo điều kiện cơ bản để quyết định cuộc "tổng tấn công Mậu Thân" (1968)
vang dội, làm thay đổi cục diện chiến tranh ở miền Nam Việt Nam, buộc đế
quốc Mỹ phải ngồi vào bàn thương lượng với ta ở Paris.
2.4-Thời kỳ Việt Nam hoá chiến tranh (1969-1972)
Sau tết Mậu Thân, Mỹ nguỵ phản kích lại ta rất ác liệt. Chúng tăng cường
càn quét, kết hợp với ném bom, bắn phá, nhằm mục đích lấn dần ra vùng giải
phóng, gom dân vào quanh các đồn bốt dọc các trục đường giao thông và quanh
các đô thị. Vùng căn cứ rừng núi cũng như đồng bằng đều bị rải chất độc hoá
học làm trụi lá cây.
Từ đầu năm 1969, Ních Xơn thay Giôn Xơn làm tổng thống nước Mỹ đã
thi hành chiến lược "Việt Nam hoá chiến tranh", thực hiện âm mưu "thay đổi
màu da trên xác chết". Đây là thời kỳ ác liệt nhất mà nhân dân ta phải đương đầu
trong chiến tranh. Địch đã lấn chiếm dần các vùng giải phóng của ta, triển khai
các đồn bốt ở hầu khắp các thôn ấp để kìm kẹp quần chúng. Những cơ sở hoạt
động của ta, ở vùng sâu cũng như các căn cứ ở rừng núi và hành lang chiến lược
của ta bị địch bắn phá dữ dội. Trước tình hình đó, Trung ương Cục đã đề ra
nhiệm vụ chung là phải nỗ lực vượt bậc, phát huy sức mạnh tổng hợp về quân
sự, chính trị, ngoại giao và kinh tế tài chính để nhanh chóng giành thắng lợi

quyết định trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
Về tài chính: Trung ương Cục quyết nghị: "muốn có nguồn tài chính dồi
dào, phải chăm lo sản xuất và bồi dưỡng sức dân; tăng cường giáo dục lòng yêu
nước, chí căm thù địch để động viên sự đóng góp của nhân dân theo đúng chính
sách; cấm hẳn việc quyên góp, vay mượn tự động của địa phương, chỉ biết động
viên nhân dân đóng góp một chiều mà không biết bồi dưỡng sức dân, bồi dưỡng
cơ sở kinh tế của các nguồn thu. Ngược lại, dân có khả năng mà không tăng
cường giáo dục, giác ngộ chính trị để động viên đóng góp cho cách mạng là biểu
hiện quan điểm của nông dân và tiểu tư sản" (Tập san Kinh tài số 1/1969
trang 22).
Tại các vùng giải phóng và các vùng có sự tranh chấp mạnh do ta làm
chủ, các chính sách đảm phụ nông nghiệp, đảm phụ công thương nghiệp vẫn
được tiếp tục thực hiện. Kể từ vụ mùa 1961-1970, trung ương Cục đã có Chỉ thị
số 121/CT/NT ngày 1/10/1969 ban hành chính sách đảm phụ nông nghiệp áp
24
Tổng Cục Thuế Thuế Việt Nam qua các thời kỳ Lịch sử

dụng thống nhất trong toàn miền Nam, thay cho các quy định tạm thời đang thi
hành tại các địa phương do từng khu uỷ ban hành.
Tuy vậy do vùng giải phóng bị thu hẹp nên thu tài chính trong các năm
1969-1972 bị giảm đi rất nhiều. Từ tình hình thu năm 1968 chung toàn miền tại
chỗ được 2.407 triệu đSG bằng khoảng 20 triệu đôla, tương đương 240.000 tấn
thóc, đến năm 1969 số thu chỉ đạt khoảng 70% số thu 1968; năm 1970 chỉ được
2.049 triệu đồng bằng khoảng 7 triệu đôla, tương đương 104.000 tấn thóc bằng
khoảng 35% (tính theo đôla) hoặc 43% (tính bằng thóc) so với số thu năm 1968.
Trong các năm 1971-1972, mặc dầu ta phản công mạnh, đánh thắng ở nhiều nơi
nhưng do dân chưa dám phát triển canh tác nên số thu đảm phụ vẫn chiếm tỷ
trọng thấp, ngân sách miền chủ yếu phải dựa vào sự chi viện của Trung ương
mỗi năm từ 25 đến 30 triệu đôla, mới đáp ứng kịp thời các nhu cầu của cuộc
kháng chiến. (Lịch sử Tài chính Việt Nam - Sđđ trang 259).

2.5-Sau khi Hiệp định Paris được ký kết đến ngày giải phóng hoàn toàn
miền Nam (1972 - 30/4/1975).
Trong thời gian này, vùng giải phóng đã được mở rộng dần. Ta đã từng
bước khôi phục được nhiều căn cứ quan trọng vừa mới bị địch bình định, lấn
chiếm, mở được nhiều hành lang đi lại, vận chuyển người, hàng hoá... giữa các
địa phương, nhất là từ biên giới Campuchia đến nhiều tỉnh đồng bằng. Một số
vùng đã tạo được thế giải phóng liên hoàn, giữa nhiều xã và một số huyện, một
số tỉnh.
Trong tình hình mới, Trung ương Cục có các Chỉ thị số 2, số 3/CT/1973
vạch phương hướng nhiệm vụ chung về kinh tế, tài chính trước mắt. Dưới sự
lãnh đạo của Trung ương Cục, ngành tài chính cách mạng miền Nam đã có
nhiều cải cách về chính sách thu.
2.5.1 - Về đảm phụ nông nghiệp: Đối với vùng giải phóng và vùng tranh
chấp mà ở đó thế ta mạnh, vẫn bảo đảm mức động viên theo chính sách đã đề ra
là từ 10% đến 12% sản lượng thường niên. Đối với vùng tranh chấp mà thế ta
yếu thì động viên tự nguyện nhưng có định mức bảo đảm động viên từ 8% đến
10% trên cơ sở 50% sản lượng thu hoạch; vùng mới phá thế kìm kẹp, động viên
từ 5% đến 8% trên cơ sở 30% sản lượng thu hoạch. ở những nơi có điều kiện,
còn phải tranh thủ thực hiện việc thu bằng hiện vật để trực tiếp cấp phát tại chỗ
cho quân đội, cơ quan, giảm chi phí do phải móc nối, mua gạo và vận chuyển từ
các vùng kiểm soát.
2.5.2 Về đảm phụ công thương nghiệp: Do có thêm một số vùng giải
phóng, nhất là dọc hành lang biên giới Việt Nam- Campuchia, nhân dân địa
phương trở về làm ăn ngày càng đông, cùng với hơn 40.000 Việt kiều ở
Campuchia chuyển về làm ăn sinh sống tại các vùng biên giới thuộc 2 tỉnh Tây
Ninh và Bình Phước, hoạt động công thương nghiệp ngày càng phát triển. Vì
vậy, Trung ương Cục đã có Chỉ thị yêu cầu xem xét, sửa đổi, bổ sung chính sách
đảm phụ công thương, đảm phụ giao lưu hàng hoá giữa 2 vùng (vùng giải phóng
25

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×