Tải bản đầy đủ (.pdf) (69 trang)

Xác định sản phẩm tương tự trong quy định của WTO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.33 MB, 69 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ TP. HCM
KHOA LUẬT

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP

XÁC ĐỊNH SẢN PHẨM TƯƠNG TỰ TRONG
QUY ĐỊNH CỦA WTO

Ngành: LUẬT KINH TẾ

Tp. Hồ Chí Minh - 2019


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ TP. HCM
KHOA LUẬT

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP

XÁC ĐỊNH SẢN PHẨM TƯƠNG TỰ TRONG
QUY ĐỊNH CỦA WTO

Ngành: LUẬT KINH TẾ

Giảng viên hướng dẫn: PGS.TS BÀNH QUỐC TUẤN
Sinh viên thực hiện: TRƯƠNG NGUYỄN THIÊN LONG
MSSV: 1511270736

Lớp: 15DLK06


Tp. Hồ Chí Minh - 2019


LỜI CẢM ƠN
Lời cám ơn đầu tiên tôi xin gửi đến Phó Giáo sư - Tiến sĩ Bành Quốc Tuấn, khoa Luật trường
Đại học Công nghệ Thành phố Hồ Chí Minh và là người hướng dẫn khoa học cho khóa luận tốt
nghiệp này. Thầy là người đã giúp tôi định hình hướng nghiên cứu và trong suốt quá trình thực
hiện đề tài, thầy đã tận tình chỉ dẫn tôi cách giải quyết các khó khăn về nội dung chuyên môn cũng
như cách trình bày ý tưởng để tôi có thể hoàn thành công trình nghiên cứu này đạt được chất lượng
mong đợi.
Tôi xin trân trọng cảm ơn Tiến sĩ Nguyễn Thành Đức, Trưởng khoa Luật trường Đại học
Công nghệ Thành phố Hồ Chí Minh và ghi nhận công lao của các thầy cô cùng sự hỗ trợ nhiệt tình
của các anh chị thư ký khoa Luật đã tạo điều kiện cho tôi hoàn thành việc học tập tại trường Đại
học Công nghệ Thành phố Hồ Chí Minh trong những năm qua.
Cuối cùng, tôi xin cám ơn các bạn hữu và người thân trong gia đình luôn động viên, giúp
đỡ tôi hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này.

Sinh viên

Trương Nguyễn Thiên Long


LỜI CAM ĐOAN
Tôi tên TRƯƠNG NGUYỄN THIÊN LONG

, MSSV:

1511270736

Tôi xin cam đoan các số liệu, thông tin sử dụng trong bài khoá luận tốt nghiệp này được thu

thập từ nguồn tài liệu khoa học chuyên ngành (có trích dẫn đầy đủ và theo đúng qui định);
Nội dung trong khoá luận KHÔNG SAO CHÉP từ các nguồn tài liệu khác.
Nếu sai sót tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm theo qui định của nhà trường và pháp luật.
Sinh viên

Trương Nguyễn Thiên Long


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
1.
2.
3.
4.
5.

Lý do chọn đề tài ................................................................................................... 1
Mục tiêu nghiên cứu và tình hình nghiên cứu của đề tài ...................................... 2
Phạm vi, đối tượng nghiên cứu của đề tài ............................................................ 5
Phương pháp nghiên cứu....................................................................................... 5
Kết cấu đề tài ......................................................................................................... 5

CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ SẢN PHẨM TƯƠNG TỰ ...... 7
1.1.

Những khái niệm cơ bản ................................................................................. 7

1.1.1. Bán phá giá, Chống bán phá giá và Tổn hại ................................................ 7
1.1.2. Sản phẩm tương tự ......................................................................................... 9
1.2. Quy định của WTO trong việc xác định sản phẩm tương tự ................... 15

1.2.1.
Bản bảo cáo của Nhóm Công tác về Thuế điều chỉnh biên giới năm 1970
(Report by the Working Party on Border Tax Adjustment 1970) ................ 15
1.2.2.
Điều I:1 của GATT 1994.......................................................................... 16
1.2.3.
Điều III của GATT 1994 .......................................................................... 16
1.3. Vai trò của việc xác định sản phẩm tương tự trong giải quyết tranh chấp
của WTO ........................................................................................................ 17
1.4. Những vấn đề liên quan đến sản phẩm tương tự ....................................... 18
1.4.1. Mối quan hệ giữa khái niệm sản phẩm tương tự với sản phẩm cạnh tranh
trực tiếp hoặc sản phẩm có tính thay thế .................................................... 18
1.4.2. Đặc điểm tương đồng của hàng hóa đối với khái niệm sản phẩm tương tự
...................................................................................................................... 19
CHƯƠNG 2: THỰC TIỄN NHỮNG VỤ KIỆN LIÊN QUAN ĐẾN SẢN PHẨM
TƯƠNG TỰ VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ MỞ RA CHO VIỆT NAM ........................... 21
2.1.

Một số vụ kiện điển hình trên thế giới ......................................................... 21

2.1.1. Tình hình chung trên thế giới ....................................................................... 21
2.1.2. Những vụ kiện điển hình về sản phẩm tương tự trên thế giới ...................... 22
2.2. Vụ kiện liên quan đến Việt Nam ................................................................. 33
2.2.1. Tình hình thực tế ở Việt Nam ...................................................................... 33
2.2.2. Vụ kiện điển hình .......................................................................................... 35
2.2.3. Thách thức đối với Việt Nam ........................................................................ 41
2.3. Những vấn đề rút ra cho Việt Nam .............................................................. 46
2.3.1. Những khuyến nghị chung ............................................................................ 46
2.3.2. Đối với cơ quan nhà nước có thẩm quyền .................................................... 47
2.3.3. Đối với các doanh nghiệp Việt Nam............................................................. 48

i


KẾT LUẬN ......................................................................................................... 51
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................ 53
PHỤ LỤC ................................................................................................................... 56
Phụ lục 1: Thống kê các vụ điều tra chống bán phá giá đối với hàng hóa Việt Nam tại
thị trường nước ngoài ................................................................................................ 56
Phụ lục 2: Án lệ 1 – Nhật Bản – Đồ uống có cồn II (DS08) ....................................... 62
Phụ lục 3: Án lệ 2 - Cộng đồng Châu Âu – Các biện pháp tác động lên chất amiang
(DS135) ....................................................................................................................... 70
Phụ lục 4: Án lệ 3 – Tây Ban Nha- Cà phê chưa rang (BIDS 28S/102) .................... 71
Phụ lục 5: Án lệ 4 - Nhật Bản – Việc nhập khẩu gỗ xẻ (L/6470 – 36S/167) ............. 72
Phụ lục 6: Án lệ 5 – Vụ kiện về chống bán phá giá của Mỹ đối với mặt hàng cá da trơn
từ Việt Nam.................................................................................................................. 73

ii


DANH MỤC THUẬT NGỮ VIẾT TẮT
ADA

Anti Dumping Agreement

Hiệp định về Chống bán phá giá

CFA

Catfish Farmers Association


Hiệp hội các nhà nuôi cá da trơn Mỹ

DOC

Department of Commerce

Bộ Thương mại Mỹ

DSB

Dispute Settlement Body

Cơ quan giải quyết tranh chấp

Dispute Settlement

Thỏa thuận về Cơ chế Giải quyết

Understanding

Tranh chấp

General Agreement on Trade in

Hiệp định chung về Thương mại Dịch

Services

vụ


GATT

General Agreement on Tariffs
and Trade

Hiệp định chung về thuế quan và mậu
dịch

ITC

International Trade Comission

Ủy ban Thương mại quốc tế

MFN

Most Favoured Nation

Nguyên tắc đối xử tối huệ quốc

NT

National Treatment

Nguyên tắc đãi ngộ quốc gia

SCM

Agreement on Subsidies and
Countervailing Measures


Hiệp định về Trợ cấp và các biện pháp
đối kháng

DSU
GATS

Agreement on the Application
SPS

TBT

TRIPS

VASEP

of Sanitary and Phytosanitary
Measures

Hiệp định về Các biện pháp Kiểm
dịch động thực vật

Technical Barriers to Trade

Hiệp định về các Hàng rào Kỹ thuật

Agreement

đối với Thương mại


Agreement on Trade-Related
Aspects of Intellectual Property
Rights

Hiệp định về các khía cạnh thương
mại của sở hữu trí tuệ

Vietnam Association of
Seafood Exporters and

Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy

Producers

sản Việt Nam

VCCI

Vietnam Chamber of
Commerce and Industry

Phòng Thương mại và Công nghiệp
Việt Nam

WTO

World Trade Organization

Tổ chức thương mại thế giới


iii


DANH MỤC BẢNG BIỂU VÀ HÌNH
Bảng 2.1: Mức thuế quan của Tây Ban Nha đối với cà phê chưa rang (1981) .............. 30
Bảng 2.2: Cơ cấu giá trong chuỗi cung ứng cá da trơn Việt Nam-Mỹ .......................... 37
Bảng 2.3: Mức thuế chống bán phá giá trung bình sau cùng đối với mặt hàng cá phi-lê
đông lạnh từ Việt Nam ................................................................................................... 40

Hình 2.1: Số lượng các vụ kiện chống bán phá giá qua các năm .................................. 21
Hình 2.2: Số lượng các vụ điều tra bán phá giá đối với Việt Nam của các quốc gia tính
đến tháng 12/2018 .......................................................................................................... 34
Hình 2.3: Sản lượng và giá trị ngành xuất khẩu cá da trơn từ Việt Nam vào Mỹ ......... 36

iv


PHẦN MỞ ĐẦU
1.

Lý do chọn đề tài
Hiện nay, tiến trình toàn cầu hóa, tự do hóa thương mại đã cho phép các quốc gia

trên thế giới có thể mở cửa, đàm phán cắt giảm thuế quan, loại bỏ các hàng rào phi thuế
quan cản trở thương mại. Song, điều đó cũng vô tình tạo điều kiện cho tình trạng bán
phá giá diễn ra tại nhiều nước. Bằng việc xuất khẩu sản phẩm của mình ra nước ngoài
với mức giá rẻ hơn hẳn so với thị trường, các quốc gia bán phá giá có thể thu được lợi
nhuận cao từ việc tiêu thụ được nhiều sản phẩm cũng như triệt hạ những đối thủ khác
sản xuất cùng mặt hàng nhưng do điều kiện sản xuất hoặc thuế quan của nước sở tại đã
phải đưa ra giá bán cao hơn. Điều này thực sự đã gây ra nhiều thiệt hại cho ngành kinh

tế của nước nhập khẩu. Nhằm đối phó với điều này, Tổ chức Thương mại Quốc tế (WTO)
đã đề ra những nguyên tắc cơ bản bao gồm: Tối huệ quốc (MFN) và Đãi ngộ quốc gia
(NT). Trong đó, nguyên tắc MFN đóng vai trò quan trọng bởi nó đảm bảo rằng mặt hàng
từ các quốc gia ký kết đều phải được đối xử công bằng, không bị phân biệt (trừ trường
hợp ngoại lệ). Cụ thể tại Điều I: 1 GATT đã nêu rõ những biệt đãi, đặc quyền hay miễn
trừ đều được áp dụng “ngay lập tức và một cách không điều kiện”. Qua đó ta có thể thấy
mục tiêu của MFN nhằm thúc đẩy sự đa phương hóa trong thương mại và đảm bảo bình
đẳng trong việc xuất, nhập khẩu hàng hóa giữa các quốc gia thành viên WTO. Như ta đã
biết, một trong những nguyên tắc cốt lõi của MFN là việc không phân biệt đối xử với
những sản phẩm tương tự nhau bất kể nguồn gốc, điều đó cũng đồng nghĩa với việc
những sản phẩm mà “không tương tự” nhau sẽ bị đối xử khác nhau. Và để có thể xác
định được liệu có hay không sự vi phạm nguyên tắc MFN, trước hết chúng ta phải làm
rõ vấn đề sản phẩm tương tự cũng như xác định những yếu tố nào quyết định tính tương
tự giữa các sản phẩm trong một vụ kiện bán phá giá. Và đó cũng là lý do mà cần phải có
một nghiên cứu cụ thể để làm sáng tỏ vấn đề này, đặc biệt trong hoàn cảnh kinh doanh
tại Việt Nam khi trong khoảng thời gian 10 năm trở lại đây Việt Nam đã phải liên tiếp
đối mặt với một số vụ kiện chống bán phá giá liên quan đến sản phẩm tương tự. Tuy
nhiên, cho đến nay, nhìn chung thì các doanh nghiệp và nhà sản xuất Việt Nam vẫn chưa
được trang bị kiến thức cần thiết về khái niệm sản phẩm tương tự và do đó còn mơ hồ
về những rủi ro khi giao dịch với thị trường quốc tế. Bên cạnh đó, do Việt Nam chưa
được công nhận là có nền kinh tế thị trường nên khả năng bị kiện về bán phá giá là một
1


thách thức lớn cho doanh nghiệp Việt Nam mà mọi người cần hiểu biết đế hạn chế tối
đa thiệt hại trong kinh doanh. Đề tài “Xác định sản phẩm tương tự trong quy định
của WTO” được thực hiện nhằm cung cấp một cái nhìn tổng quan hơn về vấn đề trên
cũng như đề xuất những khuyến nghị cho các doanh nghiệp và cơ sở sản xuất nước ta
trong bối cảnh hội nhập toàn cầu, góp phần nâng cao nhận thức của các doanh nghiệp về
vấn đề để giảm thiểu rủi ro và phát triển bền vững.

2.

Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Báo cáo này được thực hiện nhằm làm rõ khái niệm về sản phẩm tương tự và các

vấn đề pháp lý liên quan để giúp người đọc có cái nhìn cụ thể về những rủi ro trong kinh
doanh nhằm tránh được những thiệt hại cho doanh nghiệp nói riêng và và nền kinh tế cả
nước nói chung. Để thực hiện mục tiêu này, báo cáo sẽ giải quyết những nhiệm vụ sau :
1. Những quy định về sản phẩm tương tự trong WTO;
2. Trình bày các yếu tố xác định sản phẩm tương tự;
3. Giới thiệu và phân tích một số vụ kiện bán phá giá liên quan đến sản phẩm tương
tự;
4. Đề xuất một số giải pháp hạn chế việc sản phẩm Việt Nam bị điều tra bán phá giá
vì vấn đề sản phẩm tương tự
Đã có một số nghiên cứu về đề tài sản phẩm tương tự được thực hiện trên thế giới
và trong nước. Dưới đây, dưới đây sẽ là sơ lược về tình hình nghiên cứu đề tài này.
Trên thế giới đã có một số công trình nghiên cứu đề cập đến vấn đề sản phẩm tương
tự như trong bài viết của Robert E. Hudec có tiêu đề: “Like Product”: The Differences
in Meaning in GATT Articles I and III (sản phẩm tương tự : Những điểm khác biệt trong
định nghĩa ở Điều I và III GATT) – Công trình nghiên cứu này của Hudec không bàn
luận sâu vào việc “xác định mục tiêu và hiệu quả” của sản phẩm tương tự. Thay vào đó,
Hudec tập trung xem xét những khác biệt về chính sách trong cách định nghĩa sản phẩm
tương tự ở khái niệm truyền thống về “tương tự” mà Cơ quan Phúc thẩm đòi hỏi. Ngoài
ra, bài viết này còn đặt ra câu hỏi liệu một cách diễn giải mang tính truyền thống hơn về
sản phẩm tương tự đã hoặc phải được tác động như thế nào do sự khác biệt về chính sách
dựa theo các điều khoản GATT (Điều I:1 và III).
2


Bên cạnh đó, Won Mog Choi đã xuất bản quyển “Like Products in International

Trade Law: Towards a Consistent GATT/WTO Jurisprudence”. Trong quyển sách này,
tác giả nói về khái niệm sản phẩm tương tự và nhận xét rằng đây là một khái niệm thực
sự gây tranh cãi kể từ khi WTO ra đời. Tác giả nhấn mạnh rằng với việc vô số các mặt
hàng mới xuất hiện trên thị trường hiện nay, những vụ kiện về những mặt hàng “tương
tự” nhau là điều khó tránh khỏi, điển hình như: Japan Alcoholic Beverages. Vì thế cho
nên, việc có một cách diễn giải, định nghĩa đầy đủ và rõ ràng nhất về sản phẩm tương tự
là một mục tiêu mang ý nghĩa quan trọng. Bên cạnh đó, công trình nghiên cứu này sẽ
cung cấp câu trả lời cho những câu hỏi như : Thị trường đóng vai trò như thế nào trong
việc xác định sản phẩm tương tự; liệu việc phân tích về thị trường cần thiết cho việc xác
định sản phẩm tương tự hay không và nếu có, sẽ sử dụng những phương cách xác định
nào.
Tại Việt Nam vẫn chưa có đề tài nghiên cứu nào đề cập trực tiếp đến xác định sản
phẩm tương tự trong quan hệ thương mại quốc tế mà chỉ mới dừng lại như một nội dung
nhỏ trong đề tài nghiên cứu của các tác giả.
Trong một bài viết được Thu Trang Le Thi đưa lên mạng với tiêu đề “Trình bày
khái niệm ‘sản phẩm tương tự’ trong khuôn khổ WTO”, tác giả đã xác định rằng sản
phẩm tương tự không có một định nghĩa chính thức theo WTO, tuy nhiên nó lại là một
trong các yếu tố cơ bản để các bên xác nhận việc vi phạm các quy định mà WTO đề ra”.
Bài viết cũng đưa ra các đặc điểm của sản phẩm tương tự cùng với một số án lệ cũng
như bàn về vai trò của sản phẩm tương tự. Bài viết này có thể được xem như là những
thông tin về chủ đề sản phẩm tương tự được thu thập và trình bày lại hơn là một nghiên
cứu chuyên sâu.
Ngoài ra còn có một bài viết của Bành Quốc Tuấn (2010) có tiêu đề “Quy trình
một vụ điều tra bán phá giá” được đăng trên tạp chí “Phát triển và Hội nhập”. Bài viết
tuy không đề cập trực tiếp đến sản phẩm tương tự nhưng đã cho thấy vai trò quyết định
của việc xác định sản phẩm tương tự trong quy trình giải quyết những vụ kiện về bán
phá giá.
Bên cạnh đó, còn có một số bài nghiên cứu trong lĩnh vực Thương mại quốc tế
cũng nhắc đến sản phẩm tương tự như một tiểu luận của nhóm học viên của Học viện
3



Ngoại giao với tiêu để “Tổng quan chung về hiệp định tự vệ trong WTO”. Trong đó,
nhóm tác giả trình bày về các hoàn cảnh, trường hợp mà các quốc gia tiến hành việc tự
vệ và có nhắc đến trường hợp khi sản phẩm tương tự nhập khẩu có thể gây tổn hại cho
các nhà sản xuất trong nước thì chính phủ có thể áp dụng các biện pháp tự vệ. Dù không
trực tiếp bàn luận về chủ đề sản phẩm tương tự nhưng nghiên cứu này cũng tạo được sự
quan tâm về khái niệm này vì nó có thể là một trong những nguyên nhân đưa đến các rủi
ro pháp lý trong thương mại quốc tế.
Theo nguồn tham khảo trên các trang mạng, có một số tiểu luận, khóa luận tốt
nghiệp của những nhóm sinh viên viết về các vụ kiện bán phá giá và trong các công trình
này đều nhắc đến sản phẩm tương tự nhưng không đi sâu phân tích khái niệm này.
Một nghiên cứu trực tiếp liên quan đến chủ đề là đề tài “Sản phẩm tương tự trong
quy định WTO” của nhóm sinh viên Học viện Ngân hàng – Hà Nội (Phạm Thị Loan,
Trần Thị Ngọc Tú, Đặng Thị Huyền, Nguyễn Thị Thương) viết vào năm 2016. Trong
bài viết này, nhóm tác giả đã nêu ra một số tiêu chí chính làm căn cứ xác định sản phẩm
tương tự và giới thiệu một số quy định tại các nước cũng như giới thiệu sơ lược các vụ
kiện. Công trình này được cho là khá chi tiết về sản phẩm tương tự, tuy nhiên nó được
viết từ khía cạnh kinh tế hơn tính chất pháp lý của vấn đề này.
Hơn thế nữa, do tính mới của đề tài nên nguồn tài liệu thu thập được còn tương
đối hạn chế. Ngoài các bài viết riêng lẻ như đã trình bày thì chưa có công trình nghiên
cứu nào mang tính hệ thống được xuất bản chính thức tại Việt Nam.
Qua khảo sát các tài liệu nghiên cứu nước ngoài và Việt Nam, cho tới thời điểm
này vẫn chưa có nhiều tài liệu đi sâu về vấn đề sản phẩm tương tự và các tác giả cũng
chưa thống nhất định nghĩa khái niệm này. Nhiều công trình đề cập đến sản phẩm tương
tự như một phương thức đa dạng hóa của cùng một sản phẩm, tiếp cận vấn đề từ góc độ
kinh tế, sản xuất trong một quốc gia. Trong bài nghiên cứu này, sản phẩm tương tự sẽ
được xem xét và tiếp cận từ góc nhìn pháp lý, là một trong những nguyên nhân dẫn đến
các vụ kiện kinh tế, các vụ kiện phá giá xảy ra trong môi trường kinh doanh quốc tế.


4


3.

Phạm vi, đối tượng nghiên cứu của đề tài

Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là sản phẩm tương tự và những án lệ liên quan
đến việc chống phá giá. Trong khuôn khổ bài khóa luận tốt nghiệp, đề tài này sẽ được
giới hạn trong các nội dung gồm : Hiệp định chung về thuế quan và thương mại – GATT
; Hiệp định Chống bán phá giá (thực thi điều VI của GATT) và những án lệ về chống
bán phá giá liên quan đến sản phẩm tương tự. Khái niệm sản phẩm tương tự sẽ được hiểu
theo nghĩa hẹp của các vụ kiện như việc sao chép sản phẩm nguồn hoặc việc cạnh tranh
về giá cả cho cùng một loại sản phẩm. Những cách định nghĩa khác về sản phẩm tương
tự không nằm trong phạm vi nghiên cứu của báo cáo này. Tương tự, sản phẩm tương tự
sẽ được xem xét từ góc nhìn pháp lý hơn từ góc nhìn kinh tế hoặc kỹ thuật trong việc đa
dạng hóa sản phẩm của một công ty.
4.

Phương pháp nghiên cứu

Do tính chất của đề tài nên để có được kết quả tin cậy, phương pháp định tính, có
áp dụng các thủ pháp nghiên cứu như thu thập dữ liệu, tổng hợp tài liệu, diễn giải, quy
nạp và mô tả - phân tích - tổng hợp sẽ được sử dụng trong khóa luận này. Những dữ liệu
sử dụng trong báo cáo là các thông tin về đề tài, về các vụ kiện, án lệ được thu thập từ
các bài viết chuyên ngành Kinh doanh quốc tế được đăng tải trên các trang mạng học
thuật bằng tiếng Việt và tiếng Anh và một số tựa sách chuyên ngành. Sau khi mô tả các
vụ kiện mang tính tiêu biểu – case study, các phân tích cụ thể sẽ được đưa ra cùng các
đề xuất, kiến nghị nhằm hạn chế các rủi ro cho các doanh nghiệp đơn vị sản xuất Việt
Nam.

5.

Kết cấu đề tài

Ngoài Phần mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Phụ lục, nội dung chính của
khóa luận tốt nghiệp này sẽ gồm 02 chương:
Chương 1 : Những vấn đề cơ bản về sản phẩm tương tự: Chương này gồm một số
khái niệm cơ bản liên quan đến sản phẩm tương tự như “bán phá giá, chống bán phá giá
và tổn hại”. Ngoài ra, các quy định của WTO về sản phẩm tương tự cũng sẽ được trình
bày cụ thể bên cạnh việc làm rõ vai trò của tổ chức này trong các vụ kiện liên quan đến
sản phẩm tương tự.
5


Chương 2 : Thực tiễn những vụ kiện liên quan đến sản phẩm tương tự và những
vấn đề mở ra cho Việt Nam. Chương này sẽ liên hệ thực tế của tình hình bán phá giá,
chống bán phá giá xảy ra trên phạm vi quốc tế liên quan đến sản phẩm tương tự. Một số
án lệ trên thế giới cũng như vụ án liên quan đến Việt Nam sẽ được mô tả, đồng thời là
một số ý kiến bình luận tương ứng sẽ được trình bày để từ thực tế đó giúp ta nhận diện
được những thách thức đối với doanh nghiệp Việt Nam. Trên cơ sở này một số kiến nghị
đối với các bên liên quan gồm: doanh nghiệp Việt Nam và giới chức thẩm quyền sẽ được
đưa ra.

6


Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ SẢN PHẨM TƯƠNG TỰ
1.1.

Những khái niệm cơ bản

Để có thể hiểu rõ hơn về những vấn đề về việc xác định sản phẩm tương
tự, trước hết ta có những khái niệm cơ bản nhưng có vai trò quan trọng. Trong đó
bao gồm: bán phá giá, chống bán phá giá, tổn hại và sản phẩm tương tự.
1.1.1. Bán phá giá, chống bán phá giá và tổn hại1
“Bán phá giá” là một thuật ngữ được sử dụng phổ biến trong luật thương
mại quốc tế. Cụ thể, “một sản phẩm bị coi là bán phá giá (tức là được đưa vào
lưu thông thương mại của một nước khác thấp hơn trị giá thông thường của sản
phẩm đó) nếu như giá xuất khẩu của sản phẩm được xuất khẩu từ một nước này
sang một nước khác thấp hơn mức giá có thể so sánh được của sản phẩm tương
tự được tiêu dùng tại nước xuất khẩu theo các điều kiện thương mại thông
thường”.2 Chính vì bản chất tiêu cực của nó, “bán phá giá” được xem là một vấn
nạn cần bị ngăn chăn, tinh thần đó được thể hiện trong những quy định của WTO.
Thực chất, khái niệm trên đã xuất hiện ngay từ những năm đầu của thế kỉ 21. Theo
như nhà kinh tế đến từ Canada là Jacob Viner từng nhận định: “Việc thực hành
bán phá giá đã diễn ra từ khá lâu và cho dù không được biết với tên gọi trên, sự
hiện diện của nó được chú ý và ghi nhận trong những vấn đề về thương mại. Điển
hình là Adam Smith, không những đã chỉ trích việc phía chính phủ thực hiện biện
pháp kích thích xuất khẩu với một mức giá thấp hơn so với giá cả hiện tại trên thị
trường trong nước qua việc cấp những khoản tiền chính phủ, ông còn đưa ra
những ví dụ theo cái nhìn của ông về việc cấp tiền thưởng cho xuất khẩu bởi một
tập đoàn những nhà sản xuất nhằm giảm thiểu nguồn cung cho thị trường nội
địa”.3 Thời bấy giờ, Adam Smith chỉ đang muốn áp dụng nguyên tắc “lợi thế tuyệt
đối” (‘absolute advantage’), trong việc chống lại chủ nghĩa trọng thương từ thế kỉ
16, khi mà sự hưng thịnh của một quốc gia được đo bằng số lượng vàng và bạc
(thỏi) trong ngân quỹ. Smith chỉ ra rằng tiêu chí để xác định một quốc gia giàu
chính là việc công dân quốc gia đó có nhiều lựa chọn thay thế trong tiêu dùng sẵn
có. Thuật ngữ “bán phá giá” lần đầu xuất hiện trong các tài liệu kinh tế đầu thế kỉ

Hai thuật ngữ “Tổn hại” và “Thiệt hại” có thể được sử dụng hoán đổi cho nhau.
Điều 2.1 Hiệp định về Chống bán phá giá ADA 1994

3
Viner, Jacob, Dumping - A Problem in International Trade, trang 36 (1966).
1
2

7


20, tuy nhiên, khái niệm trên chỉ mới dừng lại ở mức mơ hồ, không rõ ràng, cụ
thể là nó được dùng đối với những vụ việc mà liên quan đến cạnh tranh không
lành mạnh, mặc cả, bán dưới giá, giảm giá kịch sàn, bán giá cắt cổ và buôn bán
mặt hàng ở các nơi khác nhau với giá cả khác nhau,… T.E.G. Gregory – một nhà
kinh tế người Anh – đã chỉ ra bốn khái niệm khác nhau của bán phá giá: “(1) Bán
với giá thấp hơn giá thị trường nước ngoài; (2) Bán với giá mà các đối thủ khác
không thể cạnh tranh; (3) Bán với giá tại nước ngoài thấp hơn nội địa; (4) Bán với
giá không đồng nhất với bên trung gian”.4 Trong thực tế, có thể rút ra rằng sự
phân biệt đối xử về giá cả chính là yếu tố quan trọng của “bán phá giá”.
“Chống bán phá giá” được hiểu là việc các ngành công nghiệp nội địa hay
cơ quan nhà nước liên quan tẩy chay những mặt hàng bị bán phá giá được nhập
vào thị trường trong nước thông qua một loạt những thủ tục nhằm loại bỏ đi những
rủi ro, thiệt hại mà việc bán phá giá đó mang lại. Qua đó, nền kinh tế nội địa sẽ
được bảo vệ khỏi những tác động tiêu cực và bình ổn trật tự trong giao thương
quốc tế. Cụ thể, một mức thuế nhập khẩu sẽ được áp đặt lên mặt hàng bán phá
giá, kèm theo đó sẽ là thuế chống bán phá giá nhằm đảm bảo rằng mặt hàng đó sẽ
không thể được bán ra với mức giá thấp hơn. “Chống bán phá giá” được xem là
một công cụ hữu hiệu phù hợp với những quy định của WTO để đối đầu với thực
trạng “cạnh tranh không lành mạnh”. Thế nhưng, ít ai biết rằng những nền móng
đầu tiên của khái niệm trên bắt nguồn từ Mỹ vào cuối thể kỉ 19 từ một cuộc vận
động chống độc quyền và mối nguy hại của cạnh tranh không lành mạnh. Cụ thể
qua “đạo luật chống độc quyền Sherman năm 1890”, khi mà nghiêm cấm mọi nỗ

lực trong việc cấu kết hay âm mưu chiếm độc quyền đối với một thị trường nhất
định.5 Nhưng Canada đã vượt lên trước Mỹ để ban hành một Bộ luật chống bán
phá giá vào năm 1904 với mục tiêu chống trả lại việc mặt hàng thép từ Mỹ vào
Canada. 10 năm sau tại Mỹ, một đạo luật khác được ban hành dưới tên gọi “đạo
luật Clayton năm 1914” với nội dung quy định việc phân biệt về giá cả mà dẫn
đến việc sụt giảm về đối thủ cạnh tranh hay chiếm độc quyền sẽ bị xem là phạm
4

Gregory, T. E. 1890-1970. (1921). Tariffs: a study in method. London: C. Griffin & Co.
15 U.S.C.A. § 2
“Mọi cá nhân chiếm độc quyền, hay có ý định chiếm độc quyền, hay cấu kết với những cá nhân khác, để
chiếm độc quyền bất kì phần nào của thương mại giữa các bang, hoặc với quốc gia khác, sẽ bị xem là phạm tội,
và, theo như bị kết án, sẽ bị phạt một khoản tiền phạt không quá 50.000 đô, hoặc phạt tù không quá một năm,
hoặc bởi cả hai hình phạt trên, theo phán quyết của Tòa án”
5

8


pháp.6 Trước đó đã xuất hiện “đạo luật thuế quan Wilson 1894” khiến cho việc
các nhà sản xuất nước ngoài kết hợp hay âm mưu chiếm độc quyền thị trường
Mỹ. Tiếp đến là sự ra đời của hai đạo luật năm 1916 và 1921. Có thể nói, Mỹ là
quốc gia có sự am hiểu bậc nhất về vấn đề “chống bán phá giá” và chính điều này
đã cho họ một lợi thế vô cùng lớn trong lĩnh vực này.
Bên cạnh đó, “tổn hại” được hiểu là “…thiệt hại vật chất đối với một ngành
sản xuất trong nước, đe dọa gây ra thiệt hại vật chất với một ngành sản xuất trong
nước hoặc làm chậm quá trình hình thành một ngành sản xuất…”.7 Việc xác định
“tổn hại” là một bước không thể thiếu trong một vụ điều tra chống bán phá giá vì
chỉ khi kết luận điều tra khẳng định rằng có thiệt hại đáng kể cho ngành sản xuất
nội địa nước nhập khẩu thì nước nhập khẩu mới có thể xem xét việc áp dụng các

biện pháp chống bán phá giá.

1.1.2. Sản phẩm tương tự
Đây là một thuật ngữ được nhắc đến trong vô số điều khoản của Hiệp định
chung về thương mại và dịch vụ - General Agreement on Tariffs and Trade, viết
tắt là GATT,8. sản phẩm tương tự có vai trò xác định những quyền và nghĩa vụ
của GATT áp dụng lên một sản phẩm. Ví dụ như theo Điều I của GATT (MFN),
một quốc gia thành viên thuộc WTO dành cho một quốc gia thành viên một sự ưu
đãi nào đó đối với một sản phẩm nhập khẩu nhất định thì quốc gia này cũng phải
dành sự ưu đãi đó cho bất kì “mặt hàng tương tự” nhập khẩu từ các quốc gia thành
viên khác. Theo đó, việc diễn giải định nghĩa của sản phẩm tương tự sẽ xác định
phạm vi điều chỉnh của nguyên tắc đối xử tối huệ quốc (Most Favored Nation,
viết tắt là MFN) của GATT. Mặc dù nó là một khái niệm đã có từ lúc GATT ra
đời vào năm 1947, định nghĩa của thuật ngữ sản phẩm tương tự vẫn chưa thực sự
rõ ràng tuy rằng việc xác định sản phẩm tương tự đóng một vai trò quan trọng và
xuất hiện trong các văn bản cũng như quy định trên quốc tế cũng như trong từng
nước cụ thể. Cụ thể như:

6

CLAYTON ACT, 15 U.S.C. §§ 12-27, 29 U.S.C. §§ 52-53
< />7
Điều 3 Hiệp định về Chống bán phá giá ADA 1994, chú thích 9
8
Giáo sư Jackson đã liệt kê rằng có trong 10 điều khoản GATT: “I:1, II:2(a), III:2, III:4, VI:1(a,b), IX:1, XI:2(c),
XIII:1, XVI:4”. < WORLD TRADE AND THE LAW OF GATT (1968) ở 259n1.

9



 Tại Điều 2.6 Hiệp định về Chống bán phá giá (Anti Dumping Agreement,
được viết tắt là ADA): “… sản phẩm giống hệt, tức là sản phẩm có tất cả
các đặc tính giống với sản phẩm đang được xem xét, hoặc trong trường
hợp không có sản phẩm nào như vậy thì là sản phẩm khác mặc dù không
giống ở mọi đặc tính nhưng có nhiều đặc điểm gần giống với sản phẩm
được xem xét”.9
 Tại Điều 15.1 Hiệp định về Trợ cấp và các biện pháp đối kháng
(Agreement on Subsidies and Countervailing Measures , được viết tắt là
SCM): “Xuyên suốt Hiệp định này, thuật ngữ sản phẩm tương tự (“produit
similaire”) sẽ được diễn giải là một sản phẩm giống hệt một sản phẩm
đang được xem xét khác, nó giống sản phẩm này ở tất cả mọi khía cạnh,
hoặc trong trường hợp không là loại sản phẩm như vậy thì sẽ là một sản
phẩm mà mặc dù không hoàn toàn giống nhau ở tất cả các khía cạnh, nó
lại có những đặc điểm gần giống với sản phẩm đang được xem xét”.10
Ngoài ra, một số quốc gia trên thế giới cũng có những định nghĩa về sản phẩm
tương tự, cụ thể như các nước sau:
 Canada: sản phẩm tương tự, trong mối quan hệ với khác sản phẩm khác,
có nghĩa là:
(a) Sản phẩm mà giống hệt ở mọi khía cạnh so với sản phẩm khác,
hoặc
(b) Trong trường hợp không tồn tại sản phẩm như đã đề cập ở đoạn
(a) ở trên, thì đó là sản phẩm có công dụng hoặc những đặc trưng
khác mà gần giống với các sản phẩm khác.11
 Bolivia:
“…là sản phẩm giống y hệt ở mọi khía cạnh so với sản phẩm đang bị xem
xét, nếu không có sản phẩm như vậy, thì sẽ là các sản phẩm khác mà có

Điều 2.6 ADA
Điều 15.1 Hiệp định SCM, chú thích 46
< />11

Điều 2.(1) - Đạo luật về các biện pháp nhập khẩu đặc biệt (SIMA)
< />9

10

10


những đặc trưng tương tự; tính tương tự trong trường hợp này sẽ được xét
qua các yếu tố như bản chất, chất lượng, cách sử dụng và công năng”.12
 Mỹ:
“… là sản phẩm mà giống hoặc, trong trường hợp không có sản phẩm
giống hệt như trên, sẽ là sản phẩm có đặc trưng và công dụng gần giống
nhất với sản phẩm đang bị điều tra”.13
 Brazil:
“… là sản phẩm mà giống y hệt, nghĩa là giống về mọi khía cạnh so với
sản phẩm đang bị xem xét, hoặc nếu không có sản phẩm giống hệt như
trên, thì sẽ là sản phẩm mà dù không giống về mọi khía cạnh, vẫn có những
đặc trưng gần giống so với sản phẩm đang bị xem xét.”14
Có thể thấy rằng, sản phẩm tương tự là một trong các yếu tố tạo nên nguyên
tắc Tối huệ quốc trong quy định của WTO bởi theo Điều I:1 GATT:
“Với mọi khoản thuế quan và khoản thu thuộc bất cứ loại nào nhằm vào
hay có liên hệ tới nhập khẩu và xuất khẩu hoặc đánh vào các khoản chuyển
khoản để thanh toán hàng xuất nhập khẩu, hay phương thức đánh thuế
hoặc áp dụng phụ thu nêu trên, hay với mọi luật lệ hay thủ tục trong xuất
nhập khẩu và liên quan tới mọi nội dung đã được nêu tại khoản 2 và khoản
4 của Điều III, mọi lợi thế, biệt đãi, đặc quyền hay quyền miễn trừ được
bất kỳ bên ký kết nào dành cho bất cứ một sản phẩm có xuất xứ từ hay
được giao tới bất kỳ một nước nào khác sẽ được áp dụng cho sản phẩm
tương tự có xuất xứ từ hay giao tới mọi bên ký kết khác ngay lập tức và

một cách không điều kiện”.
Điều đó có nghĩa là một sản phẩm được nhập khẩu phải được đối xử như
sản phẩm tương tự tại nước nhập khẩu hoặc sản phẩm tương tự đến từ một nước

Điều 5 D.S.23308 (Nghị định tối cao số 23308)
< />13
Bộ luật Mỹ - § 1677(10)
< />14
Điều 5.1 - Nghị định 1602/95 ; Điều 4 – Nghị định 1752/95
12

11


xuất khẩu khác. Tính tương tự giữa hai sản phẩm là một căn cứ xác định xem sự
đối xử của quốc gia nhập khẩu với các sản phẩm này có bất công và mang tính
phân biệt hay không. Do đó, yếu tố này thường là tâm điểm mỗi khi có những vụ
kiện hoặc tranh chấp.
Một câu hỏi được đặt ra là làm cách nào hay dựa vào những tiêu chí nào
để ta có thể xác định tính “tương tự”. Qua thực tế những án lệ và trong quy định
về sản phẩm tương tự ở các nước trên thế giới, ta có thể tạm rút ra 4 tiêu chí:15

Tính chất vật lí của hàng hóa: kích thước, màu sắc, thành phần
hóa học, tính bền...những sản phẩm nào càng có nhiều điểm tương đồng về
đặc tính vật lí thì càng có khả năng cao để thay thế cho nhau. Ví dụ như
Nickel do Anh và Nga sản xuất cùng có hàm lượng Nickel cao hơn 99%
nên có thể coi là tương tự nhau và thay thế được cho nhau. Trong khi đó
Nickel của Hy Lạp có hàm lượng Nickel thấp hơn nên nên không được coi
là sản phẩm tương tự.


Công dụng cuối cùng của sản phẩm: chức năng và mục đích sử
dụng như nhau. Nếu chỉ có một phần nhỏ giống nhau thì vẫn không được
coi là sản phẩm tương tự. Điển hình như Tranh chấp DS141 về sản phẩm
khăn trải giường được làm từ bông vải (cotton) mà cộng đồng Châu Âu
(EC) sản xuất đối với loại khăn lanh mà Ai Cập, Ấn Độ, Pakistan xuất sang
EC, cả hai có công dụng cuối cùng là khác nhau. Loại khăn trải giường mà
EC sản xuất là loại khăn tẩy trắng được sử dụng chủ yếu trong bệnh viện
hay khách sạn và do đó được cho là khác với các loại khăn trải giường
nhuộm hay in màu của các nước kia.

Thị hiếu người tiêu dùng: nhận thức và cách đối xử của người tiêu
dùng với các sản phẩm này như phương tiện thay thế được cho nhau để
thỏa mãn một nhu cầu cụ thể.

Mã số hải quan của sản phẩm (HS code): hàng hóa là đối tượng
của thương mại quốc tế được sắp xếp một cách có hệ thống trong danh mục
theo các phần, các chương.

15

Module 2 - The basic principles of the WTO pg.12
< />
12


Vấn đề định nghĩa của sản phẩm tương tự luôn là một chủ đề gây tranh cãi kể từ
trước khi có sự xuất hiện của cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO. Dù thuật ngữ trên
có mặt ở một số điều khoản trong GATT, ta chỉ tập trung xem xét nó trong phạm vi Điều
III GATT.
Về cơ bản, người ta cho rằng việc định nghĩa sản phẩm tương tự sẽ được áp dụng

theo từng trường hợp cụ thể.16 Điều đó đồng nghĩa với việc thuật ngữ trên không có một
định nghĩa cố định cũng như áp dụng y hệt đối với mọi trường hợp. Trong Điều III GATT
– điều khoản quy định về nguyên tắc Đối xử quốc gia – mục tiêu của nó nhằm hạn chế
sự bất ổn thị trường từ việc phân biệt, đối xử với các sản phẩm của các nước. Khái niệm
sản phẩm tương tự xuất hiện trong Điều III, cụ thể ở đoạn 2 và 4 đã đề cập đến phạm vi
của nó ở đoạn đầu của Điều III. Tuy nhiên, giữa đoạn 2 và 4 đã xuất hiện sự không đồng
nhất, thậm chí mâu thuẫn, đã khiến cho chúng mang hai nghĩa khác nhau. Điều III:2 và
III:4 GATT chủ yếu bao hàm việc cấm phân biệt giữa sản phẩm nhập khẩu và nội địa.
Khởi điểm của đoạn 2 và 4 của Điều III GATT bắt nguồn từ chính sách ở Điều III:1
“1. Các bên ký kết thừa nhận rằng các khoản thuế và khoản thu nội địa,
cũng như luật, hay quy tắc hay yêu cầu tác động tới việc bán hàng, chào bán, vận
tải, phân phối hay sử dụng sản phẩm trong nội địa cùng các quy tắc định lượng
trong nước yêu cầu có pha trộn, chế biến hay sử dụng sản phẩm với một khối
lượng tỷ trọng xác định, không được áp dụng với các sản phẩm nội địa hoặc nhập
khẩu với kết cục là bảo hộ hàng nội địa.”
Điều III: 1 quy định rõ việc các bên không được áp dụng những khoản thuế, quy
tắc hay yêu cầu mà có thể gây tác động tới việc giao thương nhằm mục đích bảo vệ ngành
công nghiệp nội địa, điều này đồng nghĩa với việc các nước nhập khẩu không được đối
xử kém ưu đãi hơn đối với sản phẩm tương tự có xuất xứ từ quốc gia khác. Qua đây ta
có thể thấy được rằng để đạt mục tiêu sau cùng là sự đối xử bình đẳng giữa các sản phẩm
thì sản phẩm tương tự phải được xem là “sản phẩm cạnh tranh từ nước ngoài”. Bất kể
khi nào mà sản phẩm nội địa đứng trước nguy cơ chịu sự cạnh tranh trước một sản phẩm
nước ngoài thì chính việc đối xử kém ưu đãi hơn đối với sản phẩm nước ngoài sẽ góp
vai trò quan trọng trong việc hạn chế phạm vi ảnh hưởng của sản phẩm nước ngoài, qua
16

Marco Bronckers và Natalie McNelis - Law> Journal ofworld Trade 33(3): 73-91,1999. O l999 KIuwer Law International. Printed in Great Britain

13



đó bảo vệ được sản phẩm trong nước. Trong trường hợp trên, “tính cạnh tranh” ở đây có
thể được xác định rõ nhất qua “tính thay thế” giữa các sản phẩm trong và ngoài nước
nhằm nắm bắt được liệu người tiêu dùng có sẵn sàng chọn sản phẩm nước ngoài thay
cho sản phẩm nội địa hay không. Bởi lẽ đó, chính sách đằng sau Điều III sẽ không nằm
trong định nghĩa của sản phẩm tương tự – khái niệm mà cho rằng là hai hay nhiều sản
phẩm có những đặc điểm vật lý tương tự nhau. Thật vậy, cách diễn giải sản phẩm tương
tự theo nghĩa hẹp trên đã vô tình tạo điều kiện cho các quốc gia nhập khẩu có thể áp đặt
những chính sách bất lợi cho sản phẩm nước ngoài mà có nguy cơ cạnh tranh với mặt
hàng nội địa dù có những đặc điểm vật lý khác. Rõ ràng tình huống trên sẽ gây ra những
rắc rối nhất định và đòi hỏi phải có một cái nhìn chi tiết hơn về vấn đề “tính cạnh tranh”.
Trong thực tế, GATT đã áp dụng thuật ngữ “sản phẩm cạnh tranh trực tiếp hay
một sản phẩm có thể trực tiếp thay thế” để thu hẹp lại phạm vi của “cạnh tranh” tới một
mức độ nhất định.17 Ta có thể thấy rằng khi soạn thảo Điều III: 2, sản phẩm tương tự
được hiểu là một thuật ngữ định nghĩa hẹp hơn so với thuật ngữ “cạnh tranh trực tiếp”.
Câu thứ 2 trong Điều III: 2 như đã được bổ sung ở Phụ lục I đã làm rõ rằng các sản phẩm
“cạnh tranh trực tiếp” bao gồm một loạt các sản phẩm mà không “tương tự” với sản
phẩm đang bị điều tra. Do vậy, khái niệm về sản phẩm tương tự đề cập ở Điều III: 2 đang
ám chỉ đến sự giống nhau trong đặc trưng vật lý, trái ngược với ý kiến cho rằng chỉ dựa
trên tiêu chí đó là quá hẹp để hạn chế vấn đề phân biệt đối xử giữa các sản phẩm – vốn
là mục tiêu sau cùng của Điều III GATT. Song, câu còn lại của Điều III: 2 còn cấm sự
phân biệt đối xử sản phẩm khác khi nó khác về mặt vật lý nhưng lại mang tính trực tiếp
cạnh tranh. Nói cách khác, khái niệm theo nghĩa hẹp của “tương tự” được dùng trong
Điều III: 2 được làm cơ sở của nguyên tắc đó. Vì thế, ta chỉ nên xem định nghĩa về sản
phẩm tương tự ở Điều III: 2 một cách hạn chế và không nên áp dụng tương tự với các
phần còn lại của Điều III. Có thể nói, sự khác biệt hoặc thậm chí thiếu sự nhất quán giữa
Điều III: 2 và III: 4 chính là cấu trúc trong câu chữ. Cụ thể ở câu thứ 2 Đoạn 4 của Điều
III, ta có thể thấy không có quy định cấm về việc phân biệt đối xử đối với những sản
phẩm không giống nhau nhưng lại mang tính cạnh tranh trực tiếp. Điều đó đồng nghĩa

với việc các sản phẩm nào mang tính cạnh tranh mà dù không có những đặc trưng tương
tự, thì quốc gia nhập khẩu vẫn có thể phân biệt đối xử với mặt hàng đó. Thực tế, trong
Phụ lục I - Ghi chú và các quy định bổ sung GATT Bổ sung Điều III khoản 2: “Một khoản thuế thoả mãn các
quy định tại câu đầu tiên khoản 2 chỉ coi là không tương thích với câu thứ hai trong trường hợp có sự cạnh tranh
giữa một bên là sản phẩm và bên kia là một sản phẩm cạnh tranh trực tiếp hay một sản phẩm có thể trực tiếp
thay thế nhưng lại không phải chịu một khoản thuế tương tự.”
17

14


bản báo cáo của Cơ quan Phúc thẩm của vụ Japan - Alcoholic Beverages II18, đã bình
luận về việc định nghĩa về sản phẩm tương tự qua hình ảnh của cây phong cầm, đó là
một loại đàn được vận hành theo cơ chế kéo dãn ra và thu vào nhằm phát ra âm thanh
khác nhau tùy theo độ kéo ra của đàn. Khái niệm về sản phẩm tương tự cũng như vậy,
nó cũng sẽ được kéo ra hay bó hẹp lại tùy theo từng hoàn cảnh cũng như được áp dụng
bởi các điều khoản nào.19
1.2. Quy định của WTO trong việc xác định sản phẩm tương tự
1.2.1. Bản bảo cáo của Nhóm Công tác về Thuế điều chỉnh biên giới năm 1970 (Report
by the Working Party on Border Tax Adjustment 1970)
Trên thực tế, chỉ có một ít các văn bản luật, phán quyết của GATT/WTO về định
nghĩa của sản phẩm tương tự nhưng đa phần trong số đó đã và vẫn bị đem ra chất vấn về
tính chính xác của nó. Có lẽ vì thế cho nên đa phần Ban Hội thẩm WTO khi đề cập về
sản phẩm tương tự thường sẽ bắt đầu bằng việc trích dẫn một đoạn về “các sản phẩm
giống nhau và tương tự” của một báo cáo vào năm 1970 của Nhóm Công tác năm 1970
về chính sách Thuế Biên giới. Sau khi được ghi nhận rằng thuật ngữ trên đã xuất hiện ít
nhất 16 lần trong Hiệp định GATT 1947, thuật ngữ sản phẩm tương tự được đánh giá là
đã gây ra những mâu thuẫn, mơ hồ và cần thiết phải có sự cải tiến cũng như được diễn
giải trên cơ sở từng vụ việc (mà không áp dụng một cách cố định bất kì tiêu chí cụ thể
nào). Trong bản báo cáo nêu:

“Một số tiêu chí được đề xuất để xác định, trên cơ sở từng vụ án cụ thể, liệu một
sản phẩm có “tương tự” như: Mục đích sử dụng sau cùng của sản phẩm trong
thị trường; Thị hiếu của người tiêu dùng, thay đổi theo từng quốc gia; Tính chất,
đặc điểm và chất lượng của sản phẩm.”20
Những tưởng các đề xuất trên sẽ phát huy tác dụng là một chìa khóa cho Ban Hội
thẩm hay Hội đồng phúc thẩm mỗi khi muốn áp dụng thuật ngữ sản phẩm tương tự trong
những vụ việc có liên quan đến Điều III GATT song những tiêu chí được đề xuất nêu

Chi tiết cụ thể của vụ án được trình bày ở mục 2.2.1 chương 2.
Xem Báo cáo của Cơ quan Phúc thẩm vụ việc Japan - Alcoholic Beverages II (WT/DS8/10 ; WT/DS10/10
;WT/DS11/7) trang 21.
20
Theo Bản báo cáo của Nhóm Công tác về “Thuế điều chỉnh biên giới”. L/3464, (ngày 20 tháng 11 năm 1970),
đoạn 18, trang 5. < />18
19

15


trên thường được đem ra sử dụng mà không được thảo luận kĩ lưỡng về tính liên quan
cũng như thích hợp đối với từng vụ việc trước khi áp dụng.21 Nhìn chung, các cơ quan
xét xử có xu hướng sử dụng những “tiêu chí” của Bản báo cáo dù bản thân nó chưa thực
sự chuẩn về mặt nội dung bởi lẽ từ khóa được sử dụng trong đó là “tính tương
tự”(‘similar’), trong khi ở các Điều I; III:2 và III:4 của GATT thì lại dùng từ sản phẩm
tương tự(‘like product’). Việc sử dụng một thuật ngữ mới khi đã tồn tại trước đó một
thuật ngữ vốn được chấp nhận rộng rãi có thể dẫn đến một cách diễn giải sự việc theo
một hướng khác hơn và như thế liệu việc sử dụng thuật ngữ mới này hàm chứa một sự
thận trọng cần thiết trong cách diễn giải nó trong từng trường hợp hay không. Có lẽ giá
trị pháp lý nằm trong bản báo cáo năm 1970 trên chỉ nhằm làm rõ và hợp pháp hóa cách
tiếp cận từng vụ việc cụ thể.

1.2.2. Điều I:1 của GATT 1994
Có thể thấy, Điều I:1 của GATT mang tính bao hàm tương đối rộng, gồm cả
những biện pháp được nêu ở Điều III:2 và III:4. Theo quan điểm về kinh tế, chính sách
không phân biệt của nguyên tắc MFN ở Điều I:1 cũng nên xem là tương đương với chính
sách chống bảo vệ mậu dịch của nguyên tắc đãi ngộ quốc gia (NT) ở Điều III. Còn ở
quan điểm về tác động lên nền kinh tế, vấn đề phân biệt đối xử trong thương mại cũng
không khác biệt so với việc bảo hộ vốn trái với nguyên tắc đãi ngộ quốc gia. Cả hai loại
trên đều có những tác động tiêu cực đến thị trường, thậm chí ảnh hưởng trên phương
diện toàn cầu.
Vì vậy, sẽ là hợp lý hơn nếu các sản phẩm được bảo vệ bởi nguyên tắc MFN ở
Điều I cũng sẽ được bảo vệ bởi nguyên tắc NT ở Điều III cũng như một định nghĩa về
sản phẩm tương tự được áp dụng chung cho cả hai nguyên tắc trên.
1.2.3. Điều III của GATT 1994
Trong số những phán quyết của cơ quan xét xử về giải quyết tranh chấp, chỉ ba
trong số đó ghi nhận về những câu hỏi liên quan đến sản phẩm tương tự, cụ thể ở Điều
III. Điều đó đã đưa đến sự xuất hiện của hai cách tiếp cận khác nhau để áp dụng điều
khoản trên: cách tiếp cận thứ nhất đề cao tính mềm dẻo, linh hoạt trong cách diễn giải
của Điều III nhằm đạt được mục đích sau cùng; và cách còn lại sẽ nhấn mạnh về cách
Edward S.Tsai. “Like Is a Four-Letter Wort - GATT Article III's Like Product Conundrum.” Tạp chí về Luật
quốc tế Berkeley, 1999, trang 30.
21

16


diễn giải theo nghĩa cụ thể với mục tiêu đảm bảo từng chữ trong điều khoản sẽ phát huy
tác dụng một cách tối ưu nhất. Chính vì sự tồn tại của hai cách diễn giải khác nhau nói
trên, vai trò của sản phẩm tương tự cũng sẽ khác nhau với mỗi loại tiếp cận.
1.3.


Vai trò của việc xác định sản phẩm tương tự trong giải quyết tranh chấp
trong WTO

Có thể nói, khái niệm sản phẩm tương tự trên đóng một vai trò mấu chốt trong hệ
thống WTO, cụ thể hơn, hai nguyên tắc bao gồm: MFN và NT, phụ thuộc vào khái niệm
sản phẩm tương tự rất nhiều. Ở Điều I.1 GATT:

“…mọi lợi thế, biệt đãi, đặc quyền hay quyền miễn trừ được bất kỳ bên ký kết nào
dành cho bất cứ một sản phẩm có xuất xứ từ hay được giao tới bất kỳ một nước
nào khác sẽ được áp dụng cho sản phẩm tương tự có xuất xứ từ hay giao tới mọi
bên ký kết khác ngay lập tức và một cách không điều kiện.”
và theo Điều III.2 GATT:
“Hàng nhập khẩu từ lãnh thổ của bất cứ một bên ký kết nào sẽ không phải chịu,
dù trực tiếp hay gián tiếp, các khoản thuế hay các khoản thu nội địa thuộc bất cứ
loại nào vượt quá mức chúng được áp dụng, dù trực tiếp hay gián tiếp, với sản
phẩm nội tương tự.”
Tuy vậy, vấn đề của việc diễn giải định nghĩa của sản phẩm tương tự lại nằm ở
mặt câu chữ, cụ thể là từ “like” (‘tương tự’) trong “like product” (‘sản phẩm tương tự’).
Trong tiếng Anh, chữ “like” không hề có bất cứ một từ tương đương trong tiếng Pháp,
thực tế bản GATT tiếng Pháp, “produits similaires” được sử dụng theo nghĩa mà không
chỉ bao gồm những sản phẩm có giống hệt nhau mà còn cả những sản phẩm có những
đặc tính tương tự nhau.22 Một cách lý giải cho sự mập mờ trên là các nhà soạn thảo
GATT có thể đã ý thức được tính ảnh hưởng của một thuật ngữ tới cả văn bản luật nên
họ đã thống nhất sử dụng từ “like” thay vì từ khác cụ thể hơn. Khi xem xét về thực tế
trên thế giới, ta sẽ thấy được nhiều trường hợp liên quan đến các loại sản phẩm tương tự,
22

Accord general sur les tarifs douaniers et le commerce (GATT de 1947)

17



×