TRÌNH BÀY VÀ PHÂN TÍCH GIÁO LÝ CƠ BẢN CỦA PHẬT GIÁO
Trần Văn Căn*
Tóm tắt: Trên sự kế thừa tư tưởng của đạo Balamon và phát triển tư tưởng
của Đức Phật. Những giáo lý mang tính căn bản nhất của đạo Phật đã vẫn luôn là
giáo pháp giúp răn dạy con người ta tới con đường diệt khổ, hướng tới nõi niết
bàn. Qua những tư tưởng giáo lý chính như tứ diệu đế, thuyết duyên sinh – vô ngã,
nghiệp và luân hồi đã lần lượt phân tích nguyên nhân khổ đau, chỉ ra cái khổ, giúp
con người ta diệt khổ và hướng tới hạnh phúc đích thực của con người.
Phật giáo ra đời vào thế kỉ VI Tr.CN tại Bắc Ấn Độ (nay thuộc Nepan) trong
làn sóng phản đối sự ngữ trị của đạo Balamon và chế độ đẳng cấp, địi tự do, bình
đẳng. Từ khi ra đời nó sớm trở thành quốc giáo Ấn Độ, ảnh hưởng mạnh mẽ đến
phương Đông và lan nhanh sang phương Tây. Người sáng lấp là thái tử Siddhartha,
họ là Gautama hiệu là Buddha (Phật), được tôn là Sakyamuni. Kinh điển mang tư
tưởng của ngài được trình bày trong 3 bộ (tam tạng): kinh (sutra), luật (Vinafa),
luận (Sastra). Kinh Luận hay còn gọi là Luận Tạng chứa đựng những bài bình chú
giáo lý của Phật giáo. Cụ thể hơn là chứa đựng các giáo lý cơ bản như Tứ Diệu Đế,
Duyên sinh-vô ngãm nghiệp và luân hồi, …
Tứ Diệu Đế (Cattãri Ariyasaccani) có thể coi là trái tim và cốt lõi của đạo
Phật. Những chân lý này, được tìm ra bởi Đức Phật sau khi Giác ngộ, đã tạo nên
nền tảng và cốt lõi của Giáo Pháp (Dhamma) và luôn được bàn luận trong mọi vấn
đề và từng phần của Giáo Pháp. Chân lý này càng lại rõ ràng qua nội dung của Tứ
Diệu Đế là Khổ đế (Dukkha), Tập đế (Samudaya), Diệt đế (Nirodha) và Đạo đế
(Magga).
Dukkha trong tiếng Phạn có nghĩa là “đau khổ”, “đau đớn”, “buồn”, “sự cơ
cực”- tương phản với chứ “Sukkha” có nghĩa là hạnh phúc. Phật cho rằng: “Cuộc
đời là bể khổ”, “Nước mắt của chúng sinh còn nhiều hơn nước biển”. Nỗi khổ do
con người tự gây nên trong cuộc sống của mình được phân là 8 loại (bát khổ): sinh
khổ, lão khổ, bệnh khổ, tử khổ, sở cầu bất đắc khổ, ái thụ biệt khổ, oán tăng hội
khổ, ngũ uẩn khổ.
Theo Phật giáo, quá trình của mọi hiện tượng đều có 3 giai đoạn là hình thành
(sinh), tăng trưởng và tàn hoại (chết). Khi chúng sinh được sinh ra có nghĩ là một
sự hình thành mới về tình thần và vật chất sau khi chết, tức là sau khi kiếp sống
trước đã tàn hoại. Theo sinh học thì sự sinh thành mới này lúc đầu khơng có sự khổ
hay đau đơn nhưng vì sự tái sinh lại đã tạo cơ sở để bắt đầu sự hiện hữu kéo theo
MSSV: 1656070011. Lớp Triết 4. Khoa Triết học. Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn-Đại học quốc gia
TP.HCM, Khóa 2016-2020.
*
1
những sự “Khổ” về tinh thần và thể xác sau này. Vậy nên sự sinh ra được xem là
khổ, là dukkha. Sau khi sinh ra, con người sẽ lớn lên phát triển hay nói cách khác
là con người sẽ già đi. Quá trình già đi cũng sẽ đồng nghĩa với việc giảm đi về sức
khỏe và cả tinh thần, tạo cho con người nỗi sợ. Nguồn gốc của sự khổ sở về mặt
tinh thần và thể xác, nên sự già đi được cho là khổ. Tiếp quá trình của một cơ thể
sinh học thì một cá thể con người nào đó khi quá già ở một mức độ nào đó sẽ chết,
cự chấm dứt của một mạng sống. Con người đều ln ln sợ chết, nhưng có thể
nói bản thân sự chết không phải là đau khổ hay đớn đau gì. Tuy nhiên khi cái chết
đên, một người phải từ bỏ thân xác, bỏ lại gia đình, bạn hữu và của cải. Chính cái ý
nghĩ này nó đã trở nên lỗi sợ ngay ở hiện tại và tương lai. Vì thế chết là nguồn gốc
và tác nhân gây ra những lo sợ và thống khổ, nên chết được xem là khổ. Trong
cuộc sống những cảm xúc và cảm giác cũng tạo nên những nỗi khổ như buồn rầu,
sự than khóc, đau đớn, phiền não, thất vọng, gặp thứ mình ghét, rời bỏ điều mình
u q và khơng đạt được cái mình muốn.
Và cuối cùng ta có thể tóm lại chấp thủ năm uẩn (ngũ uẩn) là khổ; tức khổ
khổ (do bản chất của khổ), khổ do vô thường (do biến đổi), khổ do điều kiện.
Tập đế (Samudaya), tập là tích tập, các phiền não tụ hội tạo thành năng lực
đưa đến khổ đau; đây là nguyên nhân, là nguồn gốc của các khổ. Khi nhận thức
được bản chất của khổ một cách rõ ràng, ta mới có thể đi vào con đường đoạn tận
khổ đau (Đạo đế).
Cuộc đời là khổ đau hay không khổ? Câu trả lời là tùy thuộc vào thái độ tâm lý
và nhận thức của mỗi người; nguyên nhân của khổ có nguồn gốc sâu xa trong tâm
tưởng của con người. Phật giáo cũng nhìn thấy các nguyên nhân của đau khổ; có
cái phát sinh từ vật chất hay hoàn cảnh xã hội, nhưng nguyên nhân bản chất thật sự
vẫn là tâm thức. Nguyên nhân của khổ thường là tham ái, do tham ái mà chấp thủ
(chiếp giữ), bám víu vào các đối tượng của tham ái. Sự khao khát về dục lạc sẽ dẫn
đến khổ đau, bởi vì lịng khao khát ấy khơng bao giờ thỏa mãn.
Ngun nhân sâu xa hơn chính là vơ minh, tức là si mê không thấy rõ bản
chất của sự vật hiện tượng đều từ nhân duyên mà tạo thành, đều nhờ vơ thường và
chuyển biến, khơng có cái nào độc lập ở trong chúng. Do khơng thấy rõ nên sinh
lịng tham muốn, ôm giữ lấy các đối tượng lạc thú. Do không thấy rõ mới lầm tưởng
rằng “cái tôi” là quan trọng nhất, là cái có thực cần phải bám víu, củng cố và thỏa
mãn nhu cầu của nó. Nói cách khác, do vơ minh mà có chấp thủ “cái tơi” và “cái
của tơi” như thân tơi, tình cảm tơi, tư tưởng tôi..., người yêu của tôi, tài sản của tôi,
sự nghiệp của tôi... Do những chấp thủ ấy mà có những nỗi thống khổ của cuộc đời.
Nên để có thể nhận thấy một cách rõ ràng, khổ hay không là do lịng mình; lịng
mình đầy tham lam, chấp thủ, nhận thức sai lầm thì sẽ dẫn tới cái khổ. Nói cách
khác, do cái nhìn của mỗi người đối với cuộc đời mà có khổ hay khơng. Nếu khơng
2
bị sự chấp ngã và dục vọng vị kỷ hay phiền não khuấy động, chi phối, ngự trị trong
tâm thì cuộc đời đầy an lạc, hạnh phúc.
Diệt đế (Nirodha), diệt là chấm dứt, là dập tắt. Diệt đế là sự chấm dứt hay dập
tắt phiền não, nguyên nhân đưa đến đau khổ và sự chấm dứt khổ đau; cũng có
nghĩa là hạnh phúc, an lạc. Diệt đế đồng nghĩa với Niết bàn (Nirvana/Nibbàna).
Đạo Phật xác nhận cuộc đời đầy dẫy những đau khổ, đồng thời cũng xác định có
một sự thật khác nữa là an lạc, hạnh phúc. Vì vậy mà có sự tu tập để đạt được hạnh
phúc. Hạnh phúc là gì? Hạnh phúc có các mức độ khác nhau.
Hạnh phúc tương đối: Một khi bạn đã làm lắng dịu lịng tham ái, chấp thủ, thì
những nỗi lo âu, sợ hãi, bất an giảm hẳn, thân tâm của bạn trở nên thanh thản, đầu
óc tỉnh táo; bạn nhìn mọi vấn đề trở nên đơn giản và rộng lượng hơn. Đó là một
hình thức của hạnh phúc. Cũng vậy, nhờ tâm trí khơng bị chi phối bởi những tư
tưởng chấp thủ, nhờ khơng bị đun nóng bởi các ngọn lửa phiền muộn, lo lắng, sợ
hãi, mà tâm ý của bạn trầm tĩnh và sáng suốt hơn, khả năng nhận thức sự vật hiện
tượng sâu sắc và chính xác hơn, bạn tạo nên một phép lạ: thân tâm được chuyển hóa,
thái độ ứng xử của bạn đối với mọi người độ lượng, bao dung và khiêm tốn; đối
với của cải, tài sản, danh vọng trở nên thanh thản hơn, khơng cịn bị áp lực của nó
đè nặng lên trái tim mình. Trên cơ sở ấy, bạn hưởng thụ đời sống có phẩm chất hơn.
Nên tùy vào khả năng giảm thiểu lòng tham, sân và vơ minh đến mức độ nào thì
đời sống của bạn sẽ được tăng phần hạnh phúc lên mức độ ấy.
Nếu bạn phát triển hạnh phúc tinh thần cao hơn bằng cách tu tập thiền định thì
bạn sẽ có sự an lạc tuyệt vời. Đức Phật dạy: “Có người có thể khơng bị bệnh về thể
xác trong một năm hay có thể đến cả trăm năm, nhưng thật hiếm có người khơng bị
bệnh về tinh thần, dù chỉ trong một phút”. Những tâm lý được coi là bệnh của tinh
thần gồm có 5 trạng thái tâm lý, thường gọi là 5 triền cái: tham lam, sân hận, hôn
trầm ngủ nghỉ, dao động và hối hận, hoài nghi và do dự. Khi 5 loại tâm lý này có
mặt, nó sẽ trói buộc và ngăn che tâm trí bạn; loại trừ chúng thì tinh thần sẽ sáng tỏ
thanh tịnh và an lạc như mặt trăng thoát khỏi mây che. Các trạng thái hạnh phúc
tinh thần này được gọi là Tứ thiền.
Hạnh phúc tuyệt đối: Trên nền tảng hạnh phúc tinh thần, bạn phát triển tuệ
quán, hướng tâm đến đoạn trừ tồn bộ phiền não vi tế, thâm sâu, bạn có thể đạt
hạnh phúc tuyệt đối, tối thượng là Niết bàn. Diệt đế chính là Niết bàn. Niết bàn là
sự thanh tịnh, là hạnh phúc tuyệt đối. Đức Phật dạy: “Vô bệnh lợi tối thắng, Niết
bàn lạc tối thắng” (K. Magandiya, TBK II).
Niết bàn còn được diễn tả dưới nhiều danh từ khác nhau, tiêu biểu như: vơ
sanh, giải thốt, vơ vi, vô lậu, đáo bỉ ngạn, tịch tịnh, chân như, thực tướng, pháp
3
thân... Niết bàn không phải là đối tượng của tư duy, khái niệm hay ngôn ngữ. Đây
là trạng thái an lạc, hạnh phúc tuyệt đối khi tâm ý đã vắng mặt tham, sân, si.
Chúng ta thường quan niệm Niết bàn như một cảnh giới, một cõi nào đó cao
cấp hơn cõi người, như là cõi thiên đường của các tôn giáo khác; đó là một sai lầm
lớn. Niết bàn vượt thốt mọi khái niệm đối đãi về thời gian, khơng gian, có, khơng,
lớn, nhỏ... Dù vậy, Niết bàn khơng phải là hư vô, mà là một thực tại thanh tịnh,
siêu việt, không nằm trong phạm vi phân biệt của ý thức, hay nói cách khác, khơng
thể nhận thức được Niết bàn khi đang còn tham, sân, si. Một vị Thiền sư nói:
“Hãy nhìn những rặng núi, những con suối chảy, những rừng cây xanh ngắt đẹp
tuyệt vời kia. Khi biết nhìn mọi vật với một nhãn quan mới, một nhãn quan khơng
bị chi phối bởi tham sân si, thì cảnh đẹp kia chính là Niết bàn đó! Niết bàn khơng
phải là một nơi chốn nào khác biệt với thế gian, một cảnh giới nào mà người ta có
thể tìm đến. Niết bàn chính là ở đây”. Đức Phật và các vị Bồ Tát, A La Hán đã đạt
Niết bàn ngay trong đời sống này. Điều đó nghĩa là Niết bàn nằm ngay trong tầm
tay của mỗi người. Biểu hiện của Niết bàn là khơng cịn tạo nghiệp và khơng cịn
tái sinh.
Đạo đế (Magga), đạo là con đường, là phương pháp thực hiện để đạt được an
lạc, hạnh phúc trong đời sống hàng ngày hay hạnh phúc tuyệt đối Niết bàn. Đạo đế
gồm 8 con đường lớn gọi là “Bát chính đạo” hay còn gọi là Tam học (Tuệ - Giới –
Định), 8 con đường này luôn bổ trợ cho nhau. Chánh kiến (Sammà Ditthi): Thấy
và hiểu đúng đắn, nghĩa là nhận thức đúng về đạo đức của cuộc sống, cái nào là
thiện, cái nào là ác. Nhận biết đúng về bản chất của sự vật là vô thường, vô ngã,
duyên sinh. Nhận thức rõ bản chất của khổ, nguyên nhân của khổ, sự diệt khổ và
con đường đưa đến hết khổ. Chánh tư duy (Sammà Sankappa): Suy nghĩ đúng đắn,
nghĩa là đừng để đầu óc của mình nghĩ ngợi những vấn đề bất thiện như tham dục,
tức tối giận hờn, bạo động hãm hại... dẫn tư duy của mình hướng về tâm cao
thượng như tư duy về sự buông thả, sự giải thoát về thương yêu giúp đỡ chúng
sinh, về sự bất bạo động, nhẫn nhục, trầm tĩnh. Chánh ngữ (Sammà Vàcà): Ngơn
ngữ đúng đắn, nghĩa là khơng nói nhữnglời đưa đến đau khổ, chia rẽ, hung bạo,
căm thù. Nói những lời lẽ đưa đến xây dựng niềm tin, đoàn kết hịa hợp, thương
u và lợi ích. Chánh nghiệp (Sammà Kammanta): Hành vi đúng đắn, nghĩa là
khơng có hành vi giết hại, trộm cướp, hành dâm phi pháp. Thực hành sự thương
yêu, cứu giúp, không ham muốn thú vui bất thiện. Chánh mạng (Sammà Ajivà):
Đời sống đúng đắn, nghĩa là phương tiện mưu sinh, nghề nghiệp chân chính, khơng
sống bằng những nghề phi pháp, độc ác, gian xảo. Chánh tinh tấn (Sammà
Vàyàma): Nỗ lực đúng đắn, nghĩa là nỗ lực đoạn trừ điều ác, nỗ lực thực hành điều
thiện. Chánh niệm (Sammà Sati): Nhớ nghĩ đúng đắn, nghĩa là đừng nhớ nghĩ các
pháp bất thiện, đừng để cho các đối tượng bất chính dẫn dắt mình đi lang thang. An
trú tâm ý vào thiện pháp, không quên thiện pháp. Chánh định (Sammà Samàthi):
4
Tập trung tư tưởng đúng đắn, nghĩa là đừng để tâm thức bị rối loạn, tập trung tư
tưởng làm an tịnh tâm thức một cách đúng đắn, có hiệu quả phát triển tuệ giác.
Mối quan hệ giữa các chi phần Bát chánh đạo là không thể phân ly, chi phần
này có trong chi phần kia, cái kia hỗ trợ cho cái này. Tám chánh đạo có thể chia làm
3 bước là Giới, Định và Tuệ. Giới là Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng; Định
là Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định; Tuệ là Chánh kiến, Chánh tư duy. Xác
định Bát chánh đạo là con đường đưa đến giải thoát, Đức Phật dạy: “Này
Subhadda, trong pháp luật nào khơng có Bát thánh đạo thì ở đấy khơng có Tứ quả
Sa mơn” (kinh Đại Bát Niết bàn, TB I). Đức Phật dạy thêm: “Nếu những Tỳ kheo
sống chân chính (theo Bát chánh đạo) thì cõi đời này khơng thiếu vắng những vị A
La Hán”.
Do đó, Bát Chánh Đạo là con đường để giải thoát chúng sinh khỏi khổ đau
trong cõi trần, dù được gọi là con đường nhưng nó khơng phải là một q trình
luyện tập tuần tự mà là tám khía cạnh khác nhau trong cuộc sống. Bát Chánh Đạo
là môi trường được tạo ra để tiến gần hơn đến con đường giác ngộ Phật giáo.
Đặc tính của giáo lý Tứ diệu đế là con đường Trung đạo, không rơi vào cực
đoan hưởng thụ dục lạc hay khổ hạnh ép xác. Giáo lý Tứ diệu đế bao hàm tất cả
các giáo pháp mà Đức Phật đã dạy. Giáo lý Tứ diệu đế có thể thực hành cho người
xuất gia cũng như tại gia, ai cũng tu tập được, ai cũng có thể nếm hương vị giải
thoát, đáp ứng được nhu cầu thốt khổ cho cá nhân và chuyển hóa xã hội.
Có thể nói rằng, Tứ Đế là một trong những tinh hoa, cốt lõi của triết học Phật
giáo. Tầm quan trọng của bài pháp này có thể tóm gọn trong lời tuyên bố của vị đại
đệ tử của đức Phật, tôn giả Xá- lợi-Phật (Sariputta):
“Chư Hiền giả, ví như tất cả dấu chân của mọi loài động vật đều bị nhiếp
trong dấu chân voi, vì dấu chân là lớn nhất trong tất cả dấu chân về mặt to
lớn. Cũng vậy, chư Hiền giả, tất cả các thiện pháp đều tập trung trong Tứ
Thánh Đế”. (Trung Bộ Kinh. Đại kinh dụ dấu chân voi)
Bên cạnh Tứ diệu đế thì một giáo lý căn bản hàng đầu của Phật giáo khác, thể
hiện vũ trụ quan, thế giới quan, nhân sinh quan. Duyên khởi là sự nương tựa vào
nhau mà hình thành, phát triển, tồn tại lẫn hủy diệt. Quá trình ấy, duyên là tiền đề,
là điều kiện tiên quyết. Bất cứ hiện tượng nào trong vũ trụ, vật chất hay tinh thần
đều do tập hợp các nhân duyên mà thành, nương tựa vào nhau để tồn tại, khơng có
sự vật nào tự mình sinh ra, độc lập tồn tại. Giáo lý duyên khởi được triển khai
thành bốn loại duyên căn bản: Nhân Duyên: Duyên gần gũi nhất, điều kiện gần gũi
nhất, làm cơ sở, cái này là tiền đề để sinh ra cái khác. Chẳng hạn nguyên liệu và
sản phẩm, hạt lúa và cây lúa, tấm ván và cái bàn, … ; Tăng Thượng Duyên: Cái trợ
lực cho nhân duyên như nước, phân bón cho cây lúa, người thợ và dụng cụ để tạo
5
từ nguyên liệu tấm ván thành cái bàn; Sở Duyên Duyên: Những điều kiện làm đối
tượng cho quá trình nhận thức, tức là cái có, cái hiện hữu: Cái bàn, Cây lúa; Vô
Gián Duyên: Sự không gián đoạn cần thiết cho mọi phát triển, trưởng thành và tồn
tại của vật chất, vũ trụ, nhân sinh. Trong Kinh A Hàm, Phật dạy: “Vì cái này có
nên cái kia có, vì cái này khơng nên cái kia khơng, vì cái này sinh nên cái kia sinh,
vì cái này diệt nên cái kia diệt”. Luật Nhân quả trong quan niệm đạo Phật cũng
được quan sát theo góc độ nguyên tắc duyên sinh vừa nêu trên.
Sự phân tích rốt ráo, tận cùng của duyên khởi sẽ đưa đến hệ luận tất yếu
là tẩt cả pháp vơ ngã”; bởi vì như đã trình bày ở trên, mỗi chi phần nhân
duyên vừa là nhân vừa là quả. Do cái này có mặt, cái kia có mặt; do cái này diệt cái
kia diệt. Nghĩa là tất cả các yếu tố đều tùy thuộc nhau đề tồn tại và hoại diệt, mà
khơng hề có bất cứ cái ngã nào ẩn tàng bí mật đằng sau, chủ đạo trong quá trình tái
sinh từ kiếp này sang kiếp khác. Theo nguyên lý này, ý niệm hay ý tưởng về một
cái ngã hay bản thể trường tồn bất biến ở trong hay ngoài con người, dù được gọi
với bất cứ mỹ từ nào như ‘‘linh hồn, ngã, v.v...”, đều là sản phẩm của niềm tin sai
lầm, tưởng tượng, khơng thật. Nó là gốc ngọn của mọi rối ren, tội lỗi.
u
Có thể nói rằng, Phật giáo là tơn giáo duy nhất trong lịch sử tư tưởng tôn
giáo nhân loại phủ nhận sự hiện hữu của một linh hồn, ngã hay những khái
niệm tương tự. Vô ngã (anatta) hay thực tướng của các pháp là chân lý do đức
Phật Thích- ca-mâu-ni giác ngộ, chứng đắc và tuyên thuyết đã làm chấn động tâm
tư loài người đang lang thang trong thế giới khái niệm tiểu ngã, đại ngã, linh hồn,
tôi, ta, ...
Khám phá vĩ đại này của đức Phật khơng chỉ đóng góp cho nền triết
học của Ấn Độ trên bình diện luân lý, mà còn là tư tưởng chủ đạo trong việc giải
quyết những khủng hoảng thật sự của con người thời bấy giờ trong các lãnh
vực tơn giáo, chính trị, xẫ hội, v.v... Bởi vì, trong khi tất cả mọi hệ triết học đương
thời của Ấn Độ đều chủ trương giáo thuyết về ngã, đề cao tự ngã, vốn là ngọn
nguồn của mn vàn hình thái khổ đau, thì giáo lý dun sinh vơ ngã của Phật là
tiếng nói trung đạo, giúp con người nhân được mối tương quan tương duyên của tất
cả hiê hữu. Mọi sự hiện hữu của con người và vạn pháp dg tùy thuộc vào nhau qua
ánh sáng duyên khởi.
Trong chừng mực nào đó, dường như nhân loai ngày nay cũng đang lâm vào
vết xe đổ củ của lịch sử với sự thắng thế của những hệ tư tưởng, triết lý mang
đầy ngã tính, cực đoan. Hệ quả tất yếu của loại tư duy này là chiến tranh, hận
thù, bạo động do bởi sự phân biệt về giới tính, chủng tộc, giai cấp màu da, v.v... Có
lẽ vì vậy mà tinh thần giáo lý duyên khởi của đạo Phật đang được giới triết gia, sử
học, xã hội, v.v... trên thế giới xem trọng vì nó có thể là giải pháp khả thi cho con
6
người ngày nay trong việc giải quyết những xung đột nghiêm ưọng giữa các
nền văn hóa và văn minh của các châu lục, vốn bát nguồn từ nền triết
học phi duyên sinh.
Trong sự tin tưởng rằng tôi là cái này hay tơi có cái đó làm cho vạn pháp có
ranh giới, có giới hạn, có nghiệp, lại chính là nơi nghiệp vận hành bánh xe luân hồi
sanh tử khổ đau. Có thể nói ràng, nghiệp là một học thuyết mà hầu hết các tôn
giáo, xuất hiện trước hay sau Phật giáo, đều có chủ trưomg. Nói chung, các tơn
giáo hữu thần ở Ân Độ đều chủ trương thiên mệnh (thượng đế, đấng sáng tạo),
nghiệp tiền định, hoặc định mệnh, v.v... Trong trường hợp này, con người khơng
thể làm gì hơn ngoài việc chờ thánh thần ban thưởng nếu tuân thủ thánh ý, hoặc
cam tâm chịu đựng sự phán xét của thánh thần, nếu làm sai lời răn, hoặc cúi đầu trả
báo đã gây trong quá khứ, v.v... Trái lại, một số tôn giáo vô thần, chủ trương học
thuyết hư vô, ngẫu nhiên, vô nhân vô duyên, v.v..., cho ràng không có vấn đề ln
hồi tái sanh, khơng có chuyện gây nhân gặt quả. Con người không cần phải tu
tập ép xác, khổ hạnh, khơng có gì để lo về chuyện tâm linh, tâm lý, ngồi việc thụ
hưởng dục lạc, vì sau khi chết sẽ khơng cịn bất cử gì.
Giáo lý nghiệp của Phật giáo hoàn toàn khác với những khuynh hướng trên.
Nghiệp (P.Kamma; s.Karma) của Phật giáo là hành động có ước muốn, có tác ý (P.
cetana; Anh ngữ dịch là intentional action; volitional action; nói theo ngơn ngữ tâm
lý học của Frued, “libido”) được thể hiện qua thân, lời và ý. Các hành động mà
khơng có ước muốn, khơng có tác ý thì chỉ là hành động, mà khơng phải là
nghiệp. Đạo Phật không chấp nhận chủ trương: “người nào làm nghiệp (hành động)
như thế nào, như thế nào, thì người ấy cảm thọ quả báo như vậy, như vậy’; mà chủ
trương nghiệp của Phật giáo là: “người nào làm nghiệp (hành động) được cảm
thọ như thế nào, thì người ấy cảm thọ quả báo dị thực như vậy...”.
Từ quan điểm này, một bước đột phá vô cùng quan trọng về tư tưởng nghiệp
trong mối quan hệ giữa con người và thế giới thần thánh đã được thành lập! Như
đã nói ở trên, trước khi Phật giáo xuất hiện, con người trong nhãn quan của tôn
giáo hữu thần chỉ là nơ lệ của thần thánh, là một lồi hữu tình được tạo ra để thể
hiện ước muốn của thượng để hay đấng sáng tạo. Nhưng trong giáo lý đạo Phật,
“con người chính là chủ nhân của nghiệp (tức hành động của mình), là kẻ thừa tự
nghiệp, nghiệp là thai tạng, nghiệp là quyến thuộc, nghiệp là điểm tựa. Phàm
nghiệp nào sẽ làm, thiện hay ác, người ta sẽ thừa tự kết quả của nghiệp ấy” mà
không phải là ai khác!
Rõ ràng, tinh thần nghiệp báo này của Phật giáo đã giải thốt con người ra
khỏi ách nơ lệ của thánh thần, xé rách hệ tư tưởng thống trị của Bà-la-môn về triết
lý bốn giai cấp, màu da, chủng tộc; vì theo chủ trương nghiệp cùa Phật giáo, khơng
7
phải do sanh ra mà người ta trở thành người quý tộc haykẻ bần hàn, mà chính do
hành động (nghiệp) mà người ta sẽ trở thành là bậc cao quý hay kẻ hạ tiện.
Thông qua giáo lý nghiệp, Phật giáo đã trả lại đúng vị trí, quyền hạn và trách
nhiệm cho con người. Chính con người chứ khơng phải ai khác có thể quyết
định hạnh phúc hay khổ đau của mình, vì “Chỉ có ta làm điều tội lỗi, chỉ cỏ ta làm
cho ta nhiễm ô, chỉ cỏ ta tránh điều tội lỗi, chỉ có ta làm cho ta thanh tịnh, trong
sạch hay nhiễm ô là tự nơi ta, không ai cỏ thể làm cho kẻ khác trở nên trong sạch”.
Ngũ uẩn là một giáo lý quan trọng khác, được đức Phật thuyết giảng trong bài
pháp thứ hai sau ngày thành đạo, phản ánh một cái nhìn mới của Phật giáo về sự
cấu thành của con người và vạn vật. Theo đạo Phật, cái mà người ta thường gọi
là cá thể, bản ngã, con người v.v... chỉ là một sự tập hợp của những năng lực tâm
lý và vật lý, được chia thành năm nhóm (thường gọi là ngũ uẩn), bao gồm sắc
(rũpakkhandha), thọ (vedanãkkhandha), tưởng (sannãkkhandha), hành (samkhã
rakkhandha) và thức (vinnãnakkhandha).
Sắc uẩn: Bao gồm bốn yếu tố (gọi là tứ đại- cattãrimahãbhũtãni): đất, nước,
lửa, gió và những thứ do bốn đại tạo thành (thường gọi là tứ đại sở tạo-upãdãya).
Phân tích con người trên căn bản của thuyết ngũ uẩn, năm căn (mắt, tai, mũi, lười,
thân) và năm đối tượng ngoại giới (gọi là năm trần: sắc, thanh, hương, vị, xúc) là
những thứ do bốn đại tạo thành, chúng thuộc nhóm sắc.
Thọ là lãnh nạp, nạp thọ, nhận lãnh. Cái gì đến với ta, ta nhận lãnh gọi là thọ,
nó thuộc về phần cảm giác. Thọ gồm có: lạc thọ, khổ thọ và bất khổ bất lạc thọ.
Thọ sẽ đưa đến ái và thủ, thọ này mà chấp thủ thì sẽ thành ra ái và trước. Chấp
nhận cái này như thế này, cái kia như thế kia… chấp nhận thế gian này là thường
hay vô thường, thế gian là vô biên hay hữu biên.
Tưởng là tưởng tượng, suy tưởng, là phần tri giác của con người; sự tri giác
sai lầm vào cá nhân hoặc cá tính dẫn đến kiến chấp có một cái Ngã – Ngã sở đó là
ảo tưởng.Trong kinh Phật dạy: “Ta có mặt trong quá khứ, đó là một ảo tưởng; ta
khơng có mặt trong q khứ đó là một ảo tưởng. Ta có sắc trong quá khứ, đó là
một ảo tưởng; ta có mặt trong hiện tại đó là một ảo tưởng. Ta có sắc trong hiện tại
đó là một ảo tưởng, trong vị lai, trong quá khứ như thế là một ảo tưởng”.
Hành uẩn là sanh diệt, là thiên lưu, tạo tác. Nó thuộc phần cảm xúc và động
lực để đưa đến sự vận động của ý thức. Trong hành uẩn suốt quá trình hành động
có cố ý đều là tác động của tư tâm sở. Đức Phật dạy có cố ý làm (tư tâm sở hiện
hữu trong hành động gồm ba giai đoạn: suy nghĩ tính tốn, quyết định và hành
động) mới thành nghiệp, mới đưa đến quả, như vậy mới gọi là nghiệp.
8
Thức uẩn: Là nhóm thứ năm, có chức năng rõ biết sự hiện diện của đối tượng
(pháp); ví dụ khi mắt tiếp xúc với sắc, nhãn thức phát sinh nhưng nó chỉ ý
thức được về sự hiện diện của một pháp mà không nhận diện được bản chất của
pháp ẩy (ví dụ về màu sắc, thức khơng nhận biết nó là gì). Nhận biết và phân
biệt là chức năng của tưởng uẩn. Giống như các uẩn trên, có sáu loại thức sẽ sinh
khởi khi các giác quan tiếp xúc với sáu cảnh tương ứng, gồm có nhãn thức, nhĩ
thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức và ý thức.
Ngũ uẩn gồm hai phần thể chất (sắc) và tâm hồn (thọ, tưởng, hành, thức) hai
phần này tương đương với danh và sắc trong Thập nhị nhân duyên; khi phân tách
thì gọi ngũ uẩn, gom lại thì gọi là danh sắc, hay là sắc tâm. Trong con người chúng
ta khơng có cái gì ngoài năm uẩn, năm uẩn kết hợp tạo nên cá thể người, nếu chúng
ta không đem tâm so sánh phân biệt năm uẩn thì vạn pháp đều bình đẳng, tất cả
pháp như nhau, nó trùng trùng duyên khởi tạo nên một sự tương quan chặt chẽ, cái
này liên hệ với cái kia, chúng nằm trong nhau và không tách biệt nhau.Thế nhưng
tưởng nó chia ra, tạo ra, sắp đặt tạo nên cái danh của các pháp, vì vậy chúng ta thấy
giữa người có học thức, người ít học thức với một em bé sơ sinh có cái khác nhau.
Có thể thấy, mặc dù Phật giáo có nhiều tơng phái và giáo lý ln được bổ
sung hồn thiện thì cái cốt lõi nhân văn mang Phật giáo đang lưu vẫn luôn được
tồn tại. Nhờ ý nghĩa xã hội và nhân văn cao cả của Phật giáo chính là ở chỗ khẳng
định khả năng “thành Phật” của chúng sinh; mong muốn và thực hành việc giáo
hố, giác ngộ chúng sinh, kích thích, khơi dậy “Phật tính” ở mỗi con người, khiến
cho con người có ý thức làm chủ mọi hành vi, làm chủ số phận của chính mình, từ
đó góp phần làm cho xã hội được an lạc và thanh tịnh.
9
Tài liệu tham khảo
1. Viên Trí. (2006). Ấn Độ Phật giáo sử luận. TP Hồ Chí Minh: Phương Đơng.
2. LÝ MINH TUẤN. (2005). Đông Phương Triết Học Cương Yếu. TP Hồ Chí
Minh: Quang Minh.
3. Nguyễn Quốc Tuấn (Chủ biên). (2012). Phật giáo: Tri thức cơ bản. Hà Nội: Từ
điển Bách khoa.
4. Đỗ Minh Hợp. (2009). Tôn giáo học nhập môn. Hà Nội: Tơn giáo.
5. Hịa thượng Thích Thiện Hoa. (1990). Phật học phổ thơng Khóa 1 & 2. T.P. Hồ
Chí Minh: Thành hội Phật giáo.
6. Nguyễn Duy Cần. (2017). Phật học tinh hoa. TP Hồ Chí Minh: Trẻ.
7. Thích Tâm Thiện. (1998). Tìm hiểu nhân sinh quan Phật giáo. TP Hồ Chí Minh:
TP Hồ Chí Minh.
8. Trịnh Đình Hà. (2012). Ý nghĩa xã hội và nhân văn cao cả của Phật giáo. Đạo
Phật ngày nay. Truy xuất từ: />
10