Tải bản đầy đủ (.docx) (103 trang)

Nghiên cứu phẫu thuật giải ép lối trước và cố định lối sau trong điều trị lao cột sống ngực, thắt lưng có biến chứng thần

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.08 MB, 103 trang )

1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Lao cột sống được ghi nhận xuất hiện trên xác ướp Ai Cập cổ đại 5000
năm. Bệnh được mô tả lần đầu năm 1779 bởi Percival Pott. LCS chiếm 1 đến
2% các bệnh lao nói chung[1].
Đặc điểm lâm sàng của LCS rất đa dạng tùy theo từng thể bệnh, giai
đoạn bệnh và biểu hiện trên từng người, do đó dễ nhầm lẫn với các bệnh lí
khác tại cột sống nên người thầy thuốc cần có sự hiểu biết sâu, rộng về lao cột
sống để chẩn đoán sớm và điều trị kịp thời.
Từ sau khi phát hiện ra thuốc chống lao, điều trị lao cột sống có những
bước tiến đáng kể, các phẫu thuật viên mạnh dạn hơn trong chỉ định phẫu
thuật. Cùng với sự phát triển về khoa học kỹ thuật, chuyên ngành phẫu thuật
cột sống đã có những bước tiến vượt bậc với những ‘cuộc cách mạng’ trong
đường mổ vào cột sống và đặt dụng cụ cột sống. Phẫu thuật LCS đã phát triển
và thu được nhiều thành công, góp phần đáng kể đưa lao cột sống không còn
là căn bệnh nguy hiểm và đáng sợ như trước.
Trên thế giới, các tác giả đã thực hiện phẫu thuật LCS với nhiều
phương pháp khác nhau: một đường mổ lối trước, một đường mổ lối sau hoặc
kết hợp cả hai. Mỗi phương pháp đều có những ưu, nhược điểm riêng. Phẫu
thuật hai đường mổ lối trước và lối sau là phẫu thuật triệt để, vừa làm sạch tổn
thương, vừa chỉnh hình cột sống về tư thế ban đầu. Tại Việt Nam, chưa có tác
giả nào nghiên cứu về phẫu thuật này.
Chuyên đề này nhằm hệ thống lại các đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng,
giải phẫu chức năng và phương pháp phẫu thuật LCS ngực, thắt lưng cho đề
tài: “Nghiên cứu phẫu thuật giải ép lối trước và cố định cột sống lối sau trong
điều trị lao cột sống ngực, thắt lưng có biến chứng thần kinh”.


2


NỘI DUNG
1. LỊCH SỬ PHÁT HIỆN VÀ ĐIỀU TRỊ LCS.
- Lao cột sống được tìm thấy ở xác ướp Ai Cập 5000 năm.
- Năm 1779, bệnh được mô tả lần đầu bởi Percivall Pott: “bệnh gây yếu
2 chi dưới, thường kèm theo gù cột sống”.
- Năm 1882, Robert Koch phát hiện ra trực khuẩn lao.
- Năm 1945, sử dụng BCG phòng lao.
- Năm 1947-1965, các kháng sinh chống lao quan trọng được phát hiện
và sử dụng. Streptomycin (1947); P-aminosalicilic acid (1949); Isoniazid
(1952); Pyrazinamid (1952); Ethambutol (1961); Rifampicin (1965).[2]
- LCS là bệnh lao thứ phát, trực khuẩn lao sau khi vào cơ thể qua
đường hô hấp đến cư trú và gây bệnh tại cột sống qua đường máu, bạch huyết
hoặc lân cận.
- Điều trị LCS được chia làm 2 thời kì: thời kì trước khi có thuốc chống
lao: điều trị chủ yếu là nằm bất động, phơi nắng. Phẫu thuật trong thời kì này
cho tỉ lệ tử vong rất cao; Thời kì sau khi có thuốc chống lao: điều trị lao cột
sống bằng thuốc và phẫu thuật, bệnh nhân có thể khỏi hoàn toàn và trở lại
cuộc sống ban đầu [2].
2. ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, CẬN LÂM SÀNG, CHẨN ĐOÁN LCS.
2.1. Các biểu hiện lâm sàng của LCS.
Lao cột sống diễn biến chậm và âm thầm, thời gian để bệnh toàn phát
có thể từ vài tháng tới vài năm, trung bình từ 4 đến 11 tháng, triệu chứng khởi
đầu thường là đau mỏi cột sống khi vận động, do đó dễ nhầm lẫn với các bệnh
lí đau cột sống do chấn thương, viêm khác và thoái hóa. Thông thường, bệnh
nhân chỉ tìm đến bác sĩ khi đau trở lên dữ dội hoặc có dấu hiệu của biến dạng
cột sống, mất chức năng thần kinh [3],[4].


3


Theo Trần Ngọc Ân[5], lâm sàng LCS diễn biến qua 3 giai đoạn: giai
đoạn khởi phát; giai đoạn toàn phát và giai đoạn cuối. Mỗi giai đoạn có triệu
chứng và tiên lượng khác nhau. Bệnh càng được chẩn đoán sớm, điều trị đúng
thì tiên lượng càng tốt.
2.1.1. Giai đoạn khởi phát.
Tổn thương lao khu trú ở thân đốt sống, chưa gây thay đổi về cấu trúc
cột sống, thời gian trung bình 4-11 tháng[3].
* Triệu chứng toàn thân.
- Sốt nhẹ hoặc vừa về chiều tối, sốt kéo dài.
- Mệt mỏi, ăn ngủ kém.
- Gầy sút cân.
- Da xanh tái, ra mồ hôi trộm.
* Triệu chứng cơ năng.
Chủ yếu là đau: đau tại chỗ hoặc đau theo kiểu rễ.
- Đau tại chỗ: đau ở vùng cột sống tổn thương, cường độ ít hay nhiều
tùy từng trường hợp, đau tăng khi vận động, mang vác, giảm khi nghỉ ngơi.
Dùng thuốc giảm đau chỉ đỡ nhưng không hết hẳn.
- Đau kiểu rễ: do tổn thương kích thích vào một vài nhánh của rễ thần
kinh. Nếu tổn thương ở vùng ngực, đau lan theo các dây thần kinh liên sườn.
Nếu tổn thương ở thắt lưng, đau lan xuống 2 chân.
* Triệu chứng thực thể.
- Co cơ cạnh sống: khám thấy căng cơ cạnh sống, hạn chế các động tác
cúi, ngửa, nghiêng, quay.
- Gõ, nắn vào đốt sống tổn thương thấy đau tăng.
- Chưa thấy biến dạng cột sống.


4

2.1.2. Giai đoạn toàn phát.

Tổn thương phát triển, phá hủy cấu trúc đốt sống, đĩa đệm và các dây
chằng, tạo áp xe lạnh, gây mất vững, biến dạng cột sống, chèn ép tủy sống, rễ
thần kinh.
* Đau cột sống:
Lúc đầu đau tăng khi vận động, đi lại, mang vác, giảm khi nghỉ ngơi,
sau đó đau tăng dần, đau liên tục, thuốc giảm đau ít có kết quả. Đau có thể do
cột sống mất vững hoặc do chèn ép tủy sống, rễ thần kinh. Cột sống mất vững
thường đau tại chỗ tổn thương. Chèn ép rễ đau lan theo hướng đi của dây thần
kinh [3],[6],[7].
* Lồi cột sống ra phía sau (gù cột sống)[8]:
Đốt sống bị phá hủy trong quá trình tiến triển của bệnh dẫn đến xẹp
thân đốt sống gây biến dạng nặng, điển hình là gù.
Lồi cột sống ra phía sau là biến dạng thường gặp nhất khi bị lao cột
sống ở vùng chuyển tiếp như vùng chuyển tiếp cổ-ngực; ngực-thắt lưng.
Lồi cột sống ra phía sau ở phần các đốt sống ngực thì lồng ngực biến
dạng dẹt theo hướng trước-sau, xương sườn nghiêng chếch xuống thấp, đầu
dưới xương ức gồ cao lên.
Ở người lớn, lồi cột sống ra phía sau thường xuất hiện muộn.
Lồi cột sống ra phía sau ở đoạn ngực xuất hiện sớm hơn ở đoạn thắt lưng.
* Áp xe cạnh sống:
Trong LCS, áp xe cạnh sống thường được xác định bằng các phương
tiện chẩn đoán hình ảnh, trong một số trường hợp áp xe có thể di chuyển ra
phía trước hoặc sau, khám có thể thấy khối sưng nề, mềm không nóng, đỏ,
hoặc áp xe có thể bị vỡ gây đường dò ra ngoài. Tỉ lệ dò áp xe từ 18-26% [3],
[9],[10].


5

* Hội chứng chèn ép tủy sống[3],[10],[11]:

Hội chứng chèn ép tủy sống gây nên bởi nhiều cơ chế dẫn đến hậu quả
cuối cùng là liệt do tổn thương thần kinh. Các cơ chế gây chèn ép tủy bao gồm:
 Chèn ép tủy do áp xe ngoài màng cứng, u hạt, mảnh xương hoặc đĩa
đệm lồi vào trong lòng ống tủy.
 Chèn ép tủy do đốt sống và đĩa đệm bị phá hủy nhiều gây di lệch, lún
và có xu hướng trượt ra sau.
 Chèn ép tủy do viêm lao qua màng cứng gây viêm màng não và (hoặc)
viêm màng não tủy gây phù nề, ứ trệ tuần hoàn bởi độc tố viêm.
Hội chứng chèn ép tủy dễ xuất hiện ở cột sống ngực, đặc biệt là đoạn
trên và giữa vì đây là đoạn ống sống hẹp.
* Dấu hiệu khởi phát của hội chứng chèn ép tuỷ[3],[12],[13]:
Đau: thường đau kiểu rễ vùng ngực, bụng, chi dưới với đặc điểm:
- Cơn đau thường kịch phát.
- Đau tăng khi ho, hắt hơi.
- Thường đau cả khi nằm.
Rối loạn vận động và phản xạ: ít xảy ra trong giai đoạn khởi phát.
- Rối loạn vận động kiểu rễ: liệt nhẹ một nhóm cơ khi bị chèn ép rễ.
- Rối loạn vận động và phản xạ kiểu tủy.
+ Giảm nhẹ vận động: có dấu hiệu Barré hay Mingazzini dương tính.
+ Chứng tập tễnh từng lúc: thường khởi đầu ở một bên, sau lan sang bên kia.
+ Rối loạn cơ vòng bàng quang, trực tràng.
+ Các rối loạn cảm giác: rối loạn cảm giác đau, nhiệt trong tổn thương
bó gai-đồi thị, nếu chèn ép một bên sẽ cho hội chứng Brown-Sequard.
Dấu hiệu tại cột sống[13],[14].
- Cứng cột sống: thường khó xác định trong chèn ép tuỷ sống vùng ngực.
- Đau khi ấn vào mỏm gai hoặc các cơ cạnh sống. Dấu hiệu này
thường thấy nếu sự chèn ép khởi phát tại xương.


6


* Giai đoạn tiến triển của hội chứng chèn ép tuỷ.
Liệt hai chi dưới[13],[14]:
Liệt xuất hiện do sự chèn ép trực tiếp vào sừng trước tuỷ sống hoặc vào
các rễ vận động. Tùy theo vị trí tổn thương, bệnh nhân có thể có triệu chứng
khác nhau. Tổn thương ở vùng ngực và thắt lưng cao thường gây liệt hai chi
dưới. Tổn thương ở đoạn thắt lưng thấp thường gây hội chứng đuôi ngựa. Liệt
trong giai đoạn đầu, chưa có tổn thương thực thể tại tủy sống có thể hồi phục
nếu được can thiệp đúng, kịp thời. Theo Seddon (1956)[15], hy vọng phuc hồi
của biến chứng liệt hoàn toàn sau 6 tháng rất mong manh. Liệt sau 2 năm
hoàn toàn không thể hồi phục dù có can thiệp phẫu thuật. Theo Kasab (1981)
[16], liệt kéo dài trên 12 tháng khó có hy vọng hồi phục.
Khả năng phục hồi của liệt còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác như:
Tuổi của bệnh nhân: tuổi càng trẻ, khả năng phục hồi càng tốt.
Mức trầm trọng của liệt: theo Kassab (1981)[16], liệt mềm khó hồi phục
hơn liệt cứng, liệt một phần có khả năng phục hồi cao hơn liệt hoàn toàn.
Cách xuất hiện liệt: Liệt sớm, phát triển nhanh, liệt hoàn toàn có khả năng
phục hồi tốt. Liệt muộn, liệt dần dần, liệt một phần khả năng phục hồi kém.
Phân loại liệt: Nhiều tác giả đã đưa ra bảng phân loại liệt trong lao cột sống[7].
Ménard (1900), phân loại dựa trên cấu trúc cơ thể học.
Sorrel, Dejerine (1932), phân loại dựa trên thời gian khởi bệnh.
Seddon (1935), thêm vào thời gian khởi bệnh tiêu chuẩn phát triển liệt.
Hodson (1967) và Webber (1978), đề nghị bảng phân loại liệt chi tiết hơn.
Kassab (1981-1982), đề nghị bảng phân loại dựa vào nguyên nhân gây liệt.
Phân loại liệt: bảng phân loại liệt theo ASIA impairment scale, được cải
tiến từ bảng phân loại liệt Frankel như sau[17]:
A: liệt hoàn toàn, mất hoàn toàn vận động, cảm giác từ vị trí tổn thương
đến vùng chi phối của S4-S5.



7

B: liệt không hoàn toàn, còn cảm giác, mất vận động từ vị trí tổn
thương đến vùng chi phối của S4-S5.
C: liệt không hoàn toàn, còn chức năng vận động nhưng độ khỏe cơ dưới 3.
D: liệt không hoàn toàn, còn chức năng vận động dưới vị trí tổn thương,
độ khỏe cơ lớn hơn hoặc bằng 3.
E: bình thường, vận động, cảm giác bình thường
Mức độ liệt theo Tuli, bổ xung bởi Jain:
Theo bảng phân loại liệt ASIA, sự trầm trọng của liệt phụ thuộc vào
mức độ chèn ép thần kinh và tầng cột sống tổn thương, tổn thương ở vị trí
càng cao thì mức độ liệt càng trầm trọng. Để đánh giá riêng mức độ chèn ép
thần kinh ở đoạn cột sống ngực, thắt lưng có thể dùng bảng phân loại mức độ
liệt theo Tuli, được bổ xung bởi Jain như sau[13]:
+ Giai đoạn I: Bệnh nhân không biết bị mất chức năng thần kinh, bác sĩ
khám thấy duỗi gan chân và (hoặc) giật mắt cá.
+ Giai đoạn II: bệnh nhân có co cứng và yêú vận động nhưng vẫn đi bộ
được, điểm vận động[18] 80-100 điểm, giảm cảm giác do chèn ép sừng bên
tủy sống.
+ Giai đoạn III: nằm liệt giường, điểm vận động[18] 50-80 điểm, điểm
cảm giác giống giai đoạn II.
+ Giai đoạn IV: nằm liệt giường, bệnh nhân mất cảm giác nặng và hoặc
loét mục, điểm vận động[18] 50 điểm, mất chức năng cảm giác cả sừng bên
và sừng sau tủy sống.
+ Giai đoạn V: giống giai đoạn IV kèm theo mất chức năng bàng quang
trực tràng hoặc co gấp cơ.


8


2.1.3. Giai đoạn cuối
Khi LCS không được điều trị, cơ thể quá suy yếu, bệnh nặng dần, liệt
nặng, lao lan sang các bộ phận khác nhất là lao màng não tủy, lao màng tim,
màng phổi, chết vì nhiễm khuẩn phụ, suy mòn.
2.1.4. Các dấu hiệu toàn thân.
Các dấu hiệu chung của bệnh lao như sốt nhẹ về chiều, ăn kém, gầy sút,
suy mòn. Có thể có loét do nằm lâu. Có thể thấy tổn thương lao ở các cơ quan
khác như phổi, hạch, các màng[19].
2.2. Triệu chứng cận lâm sàng lao cột sống.
2.2.1. Các xét nghiệm xác nhận trực khuẩn lao.
2.2.1.1. Phản ứng Mantoux[20]
Bản chất là đưa kháng nguyên lao vào cơ thể bằng cách tiêm tubeculin
vào lớp trung bì phía trước cẳng tay trái. Đánh giá phản ứng của cơ thể bằng
cách đo đường kính cục sẩn sau 48-72 giờ, qua đó đánh giá đáp ứng miễn
dịch của cơ thể đối với kháng nguyên lao.
Phản ứng có độ nhạy cao, độ đặc hiệu thấp. Chính vì vậy, không thể
chỉ dựa đơn thuần vào phàn ứng Mantoux để chẩn đoán bệnh lao.
2.2.1.2. Tìm trực khuẩn lao trong dịch áp xe hoặc chọc sinh thiết bằng nhuộm
soi trực tiếp và nuôi cấy.
* Nhuộm soi trực tiếp[19] [21]: có thể dùng phương pháp nhuộm ZielNeelsen hoặc nhuộm huỳnh quang, miễn dịch.
* Nuôi cấy trực khuẩn lao[21].
Vi khuẩn lao thuộc loại vi khuẩn ưa khí, nhiệt độ thích hợp 37 0c, vi
khuẩn lao phát triển rất chậm, thời gian phân chia khoảng 18 giờ, không nuôi
được ở môi trường thông thường, phải nuôi ở môi trường đặc biệt giàu chất
dinh dưỡng.


9

- Nuôi cấy môi trường đặc: môi trường Lowenstein- Jensen gồm khoai

tây, lòng đỏ trứng gà, asparagin, glycerin 0,75%, sau 4-6 tuần vi khuẩn lao mới
hình thành khuẩn lạc điển hình. Khuẩn lạc dạng R, sần sùi như hình hoa lơ.
- Nuôi cấy môi trường lỏng: môi trường MGIT (mycobacterium growth
indicator). Ưu điểm là trực khuẩn lao mọc nhanh hơn, sau 1-2 tuần.
2.2.1.3. Xét nghiệm mô bệnh học [22]
* Đại thể:
- Tổn thương tại thân đốt sống: có 2 dạng tổn thương
+ Dạng lan tỏa nông: tổn thương lao chỉ ở nông, trên bề mặt. Y văn gọi
là trực khuẩn lao ”liếm” trên bề mặt đốt sống.
+ Dạng tạo hang khu trú: thân đốt sống bị hủy hoại tạo hang, xung
quanh là vùng thâm nhiễm.;
- Tổn thương đĩa đệm: sau 7 tuổi, đĩa đệm không còn mạch máu nuôi vì
vậy không có lao đĩa đệm đơn thuần ở người lớn. Tấm sụn cũng không bị
nhiễm lao vì trực khuẩn lao không có yếu tố tiêu hủy colagen. Vi khuẩn lao
phát triển 2 bên đĩa đệm, phá hủy cấu trúc xương và hệ thống mạch máu làm
cho đĩa đệm không còn hấp thu được dinh dưỡng từ xương 2 bên.
* Tổn thương vi thể: một nang lao điển hình gồ có: trung tâm là chất
hoại tử bã đậu, tế bào khổng lồ (tế bào Langhans); tế bào bán liên, lympho
bào tạo thành vành đai bao quanh, tế bào xơ.
- Hoại tử bã đậu: là hoại tử đặc biệt trong tổn thương do vi khuẩn lao.
Các tế bào chết như đông lại, dính vào nhau làm thành một đám vụn
vỡ, lổn nhổn như bã đậu. Lúc đầu xám nhạt, sau trở thành vàng nhạt và
nếu mủ hóa thì vàng xẫm. Chất bã đậu bắt màu eosin.
- Tế bào khổng lồ: Sinh ra từ các tế bào dạng biểu mô. Có thể chúng sát
nhập nhân và nguyên sinh chất vào nhau để hợp thành một tế bào lớn,


10

cũng có thể chúng là những tế bào bệnh lí phân chia theo kiểu gián

phân. Nguyên sinh chất rất toan tính, biểu hiện các tế bào đang trên đà
thoái hóa hoại tử.
- Tế bào bán liên: là các tế bào sáng, nhân hình bầu dục, vặn vẹo như vỏ
đỗ hay đế dép, nguyên sinh chất không rõ, nối đuôi nhau thành một
mạng lưới.
- Lympho bào: là những tế bào tròn nhỏ, nhân đặc, ít bào tương.
- Tế bào xơ: là những tế bào hình thoi, bào tương hẹp, sáng màu, nhân
hình tròn hoặc bầu dục.

Hình 2.1: Tổn thương vi thể nang lao điển hình.
2.2.1.4. Tìm kháng nguyên hoặc kháng thể kháng lao trong huyết thanh, dịch
áp xe[21],[23].
* Các kỹ thuật phát hiện kháng nguyên của trực khuẩn lao bao gồm:
- Các kháng nguyên bản chất protein.
- Các kháng nguyên bản chất là glycolipid và lipopolysarcaride.
* Các xét nghiệm xác định kháng thể kháng lao.


11

Vai trò: ứng dụng để xác định tình trạng nhiễm lao và hỗ trợ chẩn đoán
trong trường hợp lao phổi AFB (-) và lao ngoài phổi.

2.2.1.5. Xét nghiệm QuantiFERON-TB (còn gọi là QFT)[3].
- Nguyên lý: xét nghiệm định lượng interferon-g được tiết ra bởi tế bào
lympho sau khi ủ qua đêm với PPD.
- Giá trị: xét nghiệm có vai trò hỗ trợ trong việc xác định lao hoạt động;
chẩn đoán phân biệt giữa nhiễm lao và tiêm chủng BCG; dự báo sự tái hoạt động
của bệnh lao trong số cá thể có lao tiềm tàng; theo dõi đáp ứng điều trị.
- Ưu điểm so với phản ứng Mantoux: là xét nghiệm tiến hành trong labo

(invitro test), sử dụng đa kháng nguyên, không có hiệu ứng Booster, bệnh nhân
chỉ cần tới một lần cho kết quả nhanh trong một ngày, độ nhạy và độ đặc hiệu
cao và ổn định trong chẩn đoán lao tiềm tàng và hỗ trợ chẩn đoán lao hoạt động
(với độ nhạy từ 80-90%, độ đặc hiệu đạt 95-100%). QFT có độ đặc hiệu cao
hơn nhưng độ nhạy thì tương đương test da trong chẩn đoán lao ở trẻ em.
2.2.1.6. Kỹ thuật sinh học phân tử[21],[23].
Một trong những bước tiến vĩ đại của sinh học phân tử trong y học
những năm gần đây là kỹ thuật khuyếch đại acid nucleic (AND và ARN)
trong chẩn đoán lao. Các kỹ thuật sinh học phân tử chẩn đoán lao bao gồm:
- Phản ứng chuỗi polymerase (Polymerase Chain Reaction-PCR):
+ Nguyên lý kĩ thuật: là kỹ thuật khuyếch đại ADN bằng cách tạo ra
hàng triệu bản sao từ 1 chuỗi đích của acid nucleic. ADN polymerase là
enzym sao chép ADN, nó có thể tái sao chép nhiều lần đoạn ADN nếu được
kích thích đặc hiệu Xác định sự có mặt của trực khuẩn lao thông qua sự
khuếch đại đoạn gen ADN đặc hiệu (đoạn IS6110) .


12

+ Ưu điểm: độ nhạy và độ đặc hiệu rất cao (chỉ cần một vài BK trong
bệnh phẩm kĩ thuật có thể dương tính), kết quả nhanh (24-48 giờ), chẩn đoán
kháng thuốc nhanh, có thể tiến hành trên nhiều loại bệnh phẩm khác nhau
(đờm, dịch phế quản, dịch màng phổi, dịch não tuỷ …) .
+ Nhược điểm: giá thành đắt, đòi hỏi trang bị tốn kém; không phân biệt
được BK sống hay chết. Dễ có dương tính sai khi bị nhiễm lại sản phẩm PCR
(contamination) nếu không tuân thủ chặt chẽ qui trình kỹ thuật vì kỹ thuật có
độ nhạy cao; có thể cho âm tính giả do bệnh phẩm chứa nhiều chất ức chế
phản ứng hoặc vi khuẩn lao (tỷ lệ khoảng vài phần trăm) không có đoạn IS
6110 trong phân
2.2.2. Xét nghiệm máu, dịch não tủy[19],[21],[24].

2.2.2.1. Xét nghiệm công thức máu, máu lắng
- Chỉ có giá trị định hướng chẩn đoán lao khi kết hợp với lâm sàng và
các xét nghiệm khác.
- Đặc điểm công thức máu, máu lắng: số lượng bạch cầu bình thường
hoặc tăng nhẹ, bạch cầu lympho tăng. Tốc độ lắng máu thường tăng cao.
2.2.2.2. Xét nghiệm dịch não tủy
Khi nghi ngờ có lao màng tủy. Chọc dịch não tủy thấy tăng áp lực, xét
nghiệm tế bào tăng, chủ yếu là limpho bào, genxpert (+).
2.2.3. Các phương pháp chẩn đoán hình ảnh.
2.2.3.1. Chụp X quang cột sống[25],[26].
Chụp XQ cột sống với tư thế thẳng, nghiêng. Khảo sát XQ nhằm đánh
giá được toàn bộ các tổn thương như sau:
- Chiều cong sinh lí cột sống.
- Số đốt sống tổn thương.
- Góc gù.
- Sự toàn vẹn của cung sau.


13

- Sự hiện diện của ổ lao phụ, đánh giá giai đoạn tiến triển bệnh.
- Sự có mặt của áp xe.
Đánh giá tổn thương không phải lúc nào cũng đạt được. Cần lưu ý rằng
việc chẩn đoán lao cột sống bằng XQ dễ thực hiện ở vùng đốt sống ngực giữa
và thấp T5-T12, khó ở vùng ngực cao vì có khối vai che phủ.
Dấu hiệu XQ thường xuất hiện muộn hơn dấu hiệu lâm sàng. Thường
tổn thương cột sống > 30% mới phát hiện được trên XQ.
Các tổn thương XQ trong lao cột sống được chia làm3 giai đoạn:
* Giai đoạn 1:
Khe khớp giữa các đốt sống hẹp lại.

Đường viền của đốt sống mờ, đốt sống bị tổn thương kém đậm so với
các đốt sống khác.
* Giai đoạn 2:
Khe khớp hẹp nhiều, đốt sống bắt đầu xẹp hình chêm (xẹp phần trước
đốt sống).
Hai bề mặt khớp bị phá hủy nham nhở, có thể thấy ổ khuyết do tiêu
xương bã đậu.
Có thể thấy áp xe lạnh, biểu hiện bằng bóng mờ hình thoi cạnh cột sống
vùng bị tổn thương.
* Giai đoạn 3:
Cột sống biến dạng, đốt sống bị dẹt hẳn xuống (chủ yếu phần trước), bờ
xương bị phá hủy nhiều.
Cột sống bị gập thành góc mở ra trước tương ứng điểm gù trên lâm sàng.
Đốt sống có thể trượt sang bên hoặc ra trước chèn ép vào tủy sống gây liệt.
* Một số hình ảnh ổ áp xe trong lao cột sống ngực:
- Hình thoi.
- Hình tròn.


14

- Hình tam giác.
- Hình tháp: nếu áp xe đoạn ngực thấp và đoạn nối ngực-thắt lưng.
2.2.3.2. Chụp cắt lớp vi tính (CLVT)[27].
Rất có giá trị trong chẩn đoán sớm lao cột sống. CLVT cho phép nhận biết
các tổn thương ở giai đoạn sớm như viêm xương nhỏ và hủy xương, mảnh
xương chết, áp xe cạnh sống, lắng đọng canxi vùng áp xe lạnh. Chụp CLVT còn
cho biết tình trạng phần mềm cạnh sống, có hay không sự chèn ép tủy sống.
Ngoài ra, nó còn giúp hướng dẫn sinh thiết lấy bệnh phẩm và chọc hút mủ.
* Một số chỉ định ưu thế của chụp cắt lớp vi tính:

- Khi nghi ngờ lao cột sống mà trên phim XQ thông thường không thấy
tổn thương, đặc biệt là khi có áp xe cạnh sống.
- Tìm hang lao, xương chết trên bệnh nhân tưởng xương đã lành.
- Xác định rõ số đốt sống tổn thương.
- Một số vùng cột sống khó thấy trên XQ thường: đoạn cổ ngực, đoạn
cùng, khớp cùng chậu, lao phía sau cột sống (tổn thương thường < 1,5cm khó
thấy trên phim XQ thường).
- Đánh giá mức độ huỷ xương.
2.2.3.3. Chụp cộng hưởng từ[28],[29].
Chụp CHT là phương pháp chẩn đoán hình ảnh dựa vào nguyên lí cộng
hưởng từ hạt nhân: nguyên tử hidro trong nước đặt trong từ trường sẽ thu
nhận và giải phóng năng lượng tương ứng. Sự phân bố nước giữa các cơ quan
trong cơ thể và giữa mô lành với mô bệnh khác nhau qua đó cho hình ảnh
khác nhau.
Chụp CHT bắt đầu được áp dụng trong chẩn đoán bệnh từ năm 1982,
chụp CHT rất có giá trị trong chẩn đoán các bệnh lý viêm đốt sống. CHT cho
phép xác định rõ tổn thương phần mềm, tình trạng ống tủy. Chụp CLVT và
CHT có thể gúp chẩn đoán phân biệt bệnh lý lao cột sống với các tổn thương


15

cột sống khác, đặc biệt là viêm đốt sống do vi khuẩn sinh mủ (tụ cầu vàng,
phế cầu..), viêm đốt sống do nấm, ung thư cột sống, thoái hóa cột sống.
* Một số ưu thế của chụp cộng hưởng từ trong chẩn đoán lao cột sống:
- Không bị nhiễm tia X như chụp XQ và cắt lớp vi tính.
- Phát hiện phù tủy xương thân đốt sống, có thể chẩn đoán lao cột sống
giai đoạn sớm.
- Phát hiện các thay đổi ở đĩa đệm.
- Đánh giá áp xe ngoài màng cứng, sự phá hủy các dây chằng của áp xe.

- Phát hiện các tổn thương rải rác.
- Phát hiện các tổn thương ảnh hưởng đến tủy sống, màng tủy.
2.2.3.4. Phân loại các tổn thương lao cột sống dựa vào chẩn đoán hình ảnh[12].
Tổn thương lao cột sống có thể ở thân đốt sống và hoặc các cấu trúc phía
sau cột sống, được chia làm 4 loại dựa vào vị trí: xung quanh đĩa đệm; trung
tâm thân đốt; phía trước thân đốt; các cấu trúc phía sau cột sống.
- Lao cột sống xung quanh đĩa đệm: là tổn thương thường gặp nhất, tổn
thương vị trí xung quanh đĩa đệm làm hẹp khe khớp. Khe khớp hẹp có thể do
phá hủy lớp xương dưới sụn, đĩa đệm bị thoát vị vào trong thân đốt sống hoặc
đĩa đệm bị tổn thương do thiếu dinh dưỡng. Cộng hưởng từ thấy giảm tín hiệu
trên T1 và tăng tín hiệu trên T2 vị trí xương dưới sụn, hẹp khe khớp, áp xe
ngoài màng cứng hoặc có thể có áp xe cạnh sống.
- Lao cột sống trung tâm thân đốt: tổn thương ở trung tâm thân đốt, đĩa
đệm không bị ảnh hưởng, vi khuẩn lao đến trung tâm thân đốt từ đám rối
Batxon’s hoặc từ động mạch phía sau cột sống. Tổn thương có thể gây xẹp
thân đốt. Cần phân biệt với tổn thương do u limpho hoặc u di căn cột sống.


16

- Lao cột sống phía trước thân đốt sống: là tổn thương lao dưới màng
xương phía sau dây chằng dọc trước. Mủ có thể lan qua nhiều thân đốt sống
làm lóc màng xương và dây chằng dọc trước khỏi bờ trước thân đốt sống. Lóc
màng xương phía trước làm cho thân đốt sống mất nuôi dưỡng và mất khả
năng chống lại vi khuẩn. Trên CT và CHT, sự xẹp thân đốt sống và hẹp khe
khớp thường nhỏ và xuất hiện muộn. CHT thấy áp xe dưới dây chằng, đĩa
đệm không bị tổn thương, có tín hiệu bất thường phía trước nhiều thân đốt
cạnh nhau. Tổn thương thường gặp ở cột sống ngực trẻ em.
- Lao các thành phần phía sau cột sống: thường ít gặp, chiếm khoảng 5%
lao cột sống nói chung. Là tổn thương của cuống sống, cung sau, mỏm ngang,

mỏm gai. Có thể xuất hiện đơn độc hoặc kết hợp với lao xung quanh đĩa đệm
điển hình. Tổn thương xuất hiện với ổ khuyết xương, đĩa đệm còn nguyên
vẹn, có thể gặp viêm bao hoạt dịch khớp.
2.2.4. Sinh thiết cột sống.
Sinh thiết cột sống có giá trị trong chẩn đoán lao cột sống giai đoạn sớm;
chẩn đoán phân biệt giữa viêm và ung thư cột sống. Nguyễn Khắc Tráng
(2016)[30]sinh thiết cột sống 40 trường hợp phát hiện lao cột sống 17 ca
(42,5%), sinh thiết cột sống chẩn đoán phân biệt chính xác 100% các trường
hợp ung thư cột sống.
2.3. Chẩn đoán lao cột sống.
2.3.1. Chẩn đoán xác định
- Dựa vào có một trong ba tiêu chuẩn chính sau:
 Bằng chứng về vi sinh: AFB hoặc nuôi cấy trực khuẩn lao dương tính
trong mủ áp xe cột sống hoặc mảnh tổ chức sinh thiết.
 Bằng chứng về gen: Genxpert hoặc LPA dương tính trong mủ áp xe cột
sống hoặc mảnh sinh thiết.


17

 Giải phẫu bệnh: viêm lao điển hình.
Đối với LCS, không phải lúc nào cũng lấy được bệnh phẩm để làm xét
nghiệm, đặc biệt LCS giai đoạn sớm. Trong các trường hợp đó cần kết hợp
lâm sàng và chẩn đoán hình ảnh để định hướng chẩn đoán và điều trị.
2.3.2. Chẩn đoán sớm lao cột sống.
Chẩn đoán lao cột sống giai đoạn sớm luôn là vấn đề khó đối với bác sĩ
lâm sàng vì giai đoạn này các triệu chứng lâm sàng, cận lâm sàng ít biểu hiện,
khó lấy bệnh phẩm để xác định các bằng chứng có mặt trực khuẩn lao. Chẩn
đoán lao cột sống giai đoạn sớm rất quan trọng vì giai đoạn này điều trị bằng
nội khoa có thể khỏi hoàn toàn mà không để lại di chứng. Người bệnh có thể

tránh được các biến chứng nặng nề, tránh được phẫu thuật cột sống.
Để chẩn đoán sớm lao cột sống có thể dựa vào các dấu hiệu sau:
- Lâm sàng: bệnh nhân có đau, căng cơ tại cột sống, đau âm ỉ, đau tăng
khi vận động, nghỉ ngơi đỡ đau nhưng không hết hẳn. Có thể kèm theo sốt
nhẹ về chiều[6],[19],[22].
- Cộng hưởng từ: có thể thấy tăng tín hiệu trên T2 do phù tủy xương; ổ
áp xe nhỏ trong thân đốt; cạnh thân đốt sống; bong nhẹ dây chằng dọc trước
hoặc dọc sau; đĩa đệm tổn thương ít hoặc không thấy tổn thương.[28],[29]
- Chụp cắt lớp vi tính: có thể thấy ổ khuyết xương nhỏ thân đốt sống.
(Không thấy trên XQ thường quy).[27]
- Sinh thiết cột sống: có bằng chứng về vi sinh và (hoặc) mô bệnh học.
- Kết hợp các bằng chứng xét nghiệm: tốc độ máu lắng tăng; CRP tăng;
Quantiferon dương tính.[21]
2.3.3. Chẩn đoán lao cột sống có biến chứng thần kinh.


18

- Lao cột sống có biến chứng thần kinh là giai đoạn muộn của lao cột
sống. Tổn thương lao gây phá hủy cấu trúc thân đốt sống, tạo áp xe, tổ chức
viêm, mảnh xương chết, đĩa đệm hỏng chèn ép vào tủy sống, rễ thần kinh gây
mất chức năng một phần hoặc toàn bộ thần kinh dưới tổn thương.
- Theo Jaswant Kumar (2012)[13], tỉ lệ lao cột sống có biến chứng thần
kinh tại các nước phát triển từ 10-20%; tại các nước đang phát triển từ 20-41%.
-Theo thời kì bệnh, LCS có biến chứng thần kinh chia làm 2 thể:
+ Liệt sớm: khi lao cột sống ở thể hoạt động, thường trong vòng 2 năm
đầu từ khi khởi bệnh. Can thiệp phẫu thuật giai đoạn này có thể giúp bệnh
nhân hồi phục[13].
+ Liệt muộn: khi lao cột sống đã liền xương thành khối và để lại di
chứng. Can thiệp phẫu thuật giai đoạn này ít hiệu quả [13].

-Theo vị trí tổn thương , LCS có biến chứng thần kinh biểu hiện[13]:
+ Lao cột sống đoạn ngực: liệt 2 chi dưới và (hoặc) cơ vòng bàng quang
trực tràng.
+ Lao cột sống đoạn thắt lưng: liệt rễ thần kinh, các nơ ron vận động thấp.
- Chẩn đoán giai đoạn liệt: dựa vào phân loại theo Tuli và Jain[13].
-Chẩn đoán mức độ liệt: dựa vào phân loại theo ASIA [31]
- Chẩn đoán một số thể lâm sàng của LCS có biến chứng thần kinh[13].
+ Hội chứng tủy bên (Brown-Sequard): mất cảm giác bản thể, vận động
một bên và cảm giác nhiệt độ, đau bên đối diện do chèn ép tủy bên.
+ Hội chứng tủy trước: Mất vận động và cảm giác đau, nhiệt độ trong
khi vẫn còn cảm giác bản thể.
+ Hội chứng nón tủy: Tổn thương nón tủy, các rễ thần kinh thắt lưng
trong ống tủy (vị trí B) làm mất phản xạ bàng quang, trực tràng và chi dưới.


19

Tổn thương đoạn cùng (vị trí A): có thể còn các phản xạ như phản xạ
hành hang; khả năng tiểu tiện.
+ Hội chứng đuôi ngựa: tổn thương các rễ thần kinh thắt lưng cùng trong
ống tủy gây mất phản xạ bàng quang, trực tràng và chi dưới (vị trí C).

Hình 2.2: Vị trí định khu hội chứng nón tuỷ và hội chứng đuôi ngựa
2.3.4. Chẩn đoán phân biệt.
Cần phân biệt lao cột sống với các tổn thương khác tại cột sống bao gồm:
2.3.4.1. Viêm đốt sống do vi khuẩn khác.
Thường xảy ra sau khi sinh đẻ, sau phẫu thuật vùng xương chậu, sau cắt
tiền liệt tuyến, tiêm tại chỗ cột sống. Lâm sàng biểu hiện một hội chứng
nhiễm trùng cấp với sốt cao, đau vùng tổn thương, bạch cầu tăng cao. Nguyên
nhân thường do tụ cầu vàng, liên cầu, salmonella, brucella, pseudomonas...



20

Chẩn đoán phân biệt dựa vào diễn biến lâm sàng, chụp CT và CHT, nuôi cấy
vi khuẩn.
* Các đặc điểm phân biệt tổn thương lao cột sống và viêm đốt sống do vi
khuẩn sinh mủ (tụ cầu vàng, não mô cầu, trực khuẩn mủ xanh...) dựa vào
phim chụp CT và cộng hưởng từ[28],[29],[32].
- Thay đổi tín hiệu trên T2 MRI: các nghiên cứu chỉ ra rằng 95-100%
viêm đốt sống do lao các đốt sống tổn thương có giảm tín hiệu trên T1 và Tăng
tín hiệu trên T2 MRI. Tuy nhiên, điều này không đặc hiệu, do vậy tăng tín hiệu
trên T2 chỉ có ý nghĩa trong phân biệt phù nề, xung huyết với tổ chức áp xe.
- Tổn thương đĩa đệm: trong viêm đốt sống do vi khuẩn sinh mủ, đĩa
đệm luôn bị phá hủy từ mức độ nặng đến phá hủy hoàn toàn. Trong lao cột
sống, đĩa đệm thường bị tổn thương nhẹ hoặc không tổn thương.

Hình 2.3: Viêm đốt sống do vi khuẩn sinh mủ, đĩa đệm bị phá hủy hoàn toàn
- Mức độ phá hủy xương:Trong lao cột sống, cấu trúc xương thường
tổn thương nghiêm trọng, từ độ 2 đến độ 4, trong khi đó trong viêm đốt sống
do vi khuẩn sinh mủ, cấu trúc xương thường tổn thương nhẹ, từ độ 0 đến độ 2.
- Sự phá hủy vỏ xương: trong lao cột sống, mô lao có thể phá hủy thành
trước và thành sau. Trong khi đó trong viêm đốt sống do vi khuẩn sinh mủ,
mô bệnh ít khi phá hủy các cấu trúc này.


21

- Áp xe đĩa đệm với tăng cản quang ở ngoại vị: tổn thương này thường
thấy trong viêm đốt sống do vi khuẩn sinh mủ, ít khi thấy trong viêm lao


Hình 2.4: Viêm đốt sống do vi khuẩn sinh mủ với áp xe đĩa đệm
- Sự ngấm thuốc của thân đốt sống: trong lao cột sống, các thân đốt
sống tổn thương ngấm thuốc cản quang khu trú và không đồng nhất. Trong
khi đó viêm đốt sống do vi khuẩn sinh mủ ngấm thuốc lan tỏa và đồng nhất.
- Áp xe thân đốt sống với viền tăng cản quang: đây là tổn thương phổ biến
trong lao cột sống nhưng ít gặp trong viêm đốt sống do vi khuẩn sinh mủ.
- Áp xe cạnh sống với viền tăng sáng: đây là tổn thương phổ biến trong
lao cột sống nhưng cũng có thể gặp trong viêm đốt sống do vi khuẩn sinh mủ.
- Áp xe khu trú: áp xe khu trú khá phổ biến trong lao cột sống và ít gặp
trong viêm đốt sống do vi khuẩn sinh mủ (82% và 30%).
- Tổn thương lan vào khoang ngoài màng cứng: đây là tổn thương
thường gặp ở lao cột sống hơn viêm đốt sống do vi khuẩn sinh mủ.
- Tín hiệu bất thường vùng cạnh sống: phần mềm cạnh sống có tín hiệu
rõ nét trong lao cột sống (tổ chức bã đậu) và tín hiệu không rõ nét trong viêm
đốt sống do vi khuẩn sinh mủ (tổ chức mủ).


22

- Phá hủy dây chằng dọc trước: đây là tổn thương thường gặp do lao cột
sống và ít gặp trong viêm đốt sống do vi khuẩn sinh mủ.
- Góc gù cột sống: gù có thể xuất hiện trong cả lao cột sống và viêm đốt
sống do vi khuẩn sinh mủ, tuy nhiên, trong lao cột sống góc gù thường lớn,
đặc biệt đoạn cổ và ngực.
- Can xi hóa mô cạnh sống: đây là tổn thương thường gặp trong lao cột
sống hơn trong viêm đốt sống do vi khuẩn sinh mủ.
- Phá hủy cuống sống: có thể gặp cả trong lao cột sống và viêm đốt sống
do vi khuẩn sinh mủ. Tuy nhiên thường thấy ở lao cột sống hơn (75% và 13%).
* Viêm đốt sống do Brucella (bệnh lây truyền từ gia súc)[12].

- Ưu thế ở cột sống thắt lưng.
- Cấu trúc thân đốt sống còn toàn vẹn mặc dù có bằng chứng viêm thân đốt
lan tỏa trên T2 MRI.
- Hiếm khi có gù cột sống.
- Khối áp xe cạnh sống thường nhỏ.
- Thường ảnh hưởng cả khớp cột sống (facet joint).
- Yếu tố nguy cơ: bệnh tiểu đường, bệnh lí tủy sống, bệnh giang mai, các
bệnh lí thần kinh cột sống khác.
2.3.4.2. Viêm cột sống dính khớp[6].
Có thể nhầm lẫn với lao cột sống khi có một hay hai thân đốt bị xẹp
nhiều. Bệnh cảnh lâm sàng viêm cột sống dính khớp ngoài đau, hạn chế vận
động vùng cột sống, còn đau, hạn chế vận động các khớp lớn, khớp nhỡ như:
khớp háng, gối, khớp cùng chậu, khớp vai.
Trên XQ thường cho thấy các triệu chứng đặc thù của viêm dính đốt
sống: vôi hoá dây chằng dọc trước, dây chằng dọc sau, biến dạng thân đốt
sống, hàn khớp cột sống, hàn khớp cùng chậu, hàn khớp háng.


23

2.3.4.3. Các tổn thương u[12]:
Ung thư cột sống, ung thư nơi khác di căn vào cột sống, u máu, u tế bào
khổng lồ tủy xương, u limpho, u hạt ưa eosin.
Trong ung thư di căn cột sống thường là ung thư vú, ung thư phổi, ung
thư tuyến giáp trạng, ung thư tiền liệt tuyến, ung thư thận.
Lâm sàng nổi bật là triệu chứng đau nhiều. Nếu ung thư XQ thường thấy
tổn thương huỷ xương vùng chân cung, đĩa đệm và khe khớp nguyên vẹn, câu
nói: “đĩa đệm tốt, tin xấu. Đĩa đệm xấu, tin tốt” cho biết tổn thương phá hủy cấu
trúc thân đốt nhưng đĩa đệm còn nguyên vẹn với lớp xương dưới sụn mỏng gợi ý
sự xâm nhập của ung thư cột sống. Chẩn đoán xác định bằng sinh thiết.

2.3.4.4. Các dị dạng bẩm sinh của cột sống[24].
Một số dị tật bẩm sinh có tổn thương dễ lầm với lao cũ như: gù vẹo cột
sống bẩm sinh, tật nửa đốt sống...Nghiên cứu kĩ hình ảnh và bệnh sử giúp
chẩn đoán phân biệt.
2.3.4.5. Xẹp đốt sống do loãng xương[19].
Dễ nhầm lẫn xẹp thân đốt sống do loãng xương mới và lao cột sống vì
cộng hưởng từ T2 MRI cùng thấy tăng tín hiệu do phù nề tủy xương từ đó dẫn
đến điều trị sai (bơm xi măng vào thân đốt tổn thương lao). Chẩn đoán phân
biệt bằng hỏi kĩ tiền sử bệnh, xét nghiệm MTB quantiferon, sinh thiết cột
sống.
2.3.4.6. Các bệnh khác ở đốt sống[19]: bệnh hẹp đốt sống thoái hóa, bệnh hư
cột sống, bệnh viêm khớp mạn tính thiếu niên, bệnh viêm đầu xương cột sống
ở trẻ em, di chứng chấn thương cột sống. Chẩn đoán bằng khai thác kĩ tiền sử
và chẩn đoán hình ảnh.


24
3. ĐẶC ĐIỂM GIẢI PHẪU, CHỨC NĂNG CỘT SỐNG NGỰC, THẮT
LƯNG.
3.1. Đặc điểm giải phẫu chung đoạn cột sống ngực, thắt lưng.
Cột sống gồm 33 đến 35 đốt sống chồng lên nhau, dài khoảng 70 cm (ở
nam) và 60 cm (ở nữ). Nhìn bên, cột sống gồm 4 chỗ cong : cổ, ngực, thắt lưng
và chậu hông. Đường cong ngực lõm ra trước từ T2-T12, khoảng 20 0-400. Chỗ
cong lõm nhất là đoạn từ T6-T9[1]. Đường cong này tạo nên do khoảng cách
phần sau các thân đốt sống ngực tăng. Đường cong thắt lưng lồi ra trước, khoảng
500- 800 ở phụ nữ thường cong hơn nam giới, bắt đầu từ T12, kết thúc ở góc thắt
lưng-cùng. Chỗ lồi nhất thuộc 3 đốt thắt lưng cuối.
3.1.1. Các đặc điểm chung của đốt sống ngực.[41]
- Thân đốt sống: dày hơn đốt sống cổ, đường kính ngang và đường kính
trước sau gần bằng nhau.

- Cuống: lõm ở bờ dưới nhiều hơn bờ trên và dính vào nửa trên mặt sau thân.
- Mảnh: rộng và dày.
- Mỏm gai: dài, chếch xuống dưới, ra sau.
- Mỏm khớp trên: có mặt khớp phẳng, hướng ra sau, hơi ra ngoài và lên trên.
Mặt khớp của mỏm khớp dưới hướng ra trước, hơi vào trong và xuống dưới.
- Mỏm ngang: có hõm khớp để tiếp khớp với củ sườn, gọi là hõm sườn
mỏm ngang.
3.1.2. Các đặc điểm chung của đốt sống thắt lưng.[41],[42]
- Thân: rất to, rộng, chiều ngang lớn hơn chiều trước sau.


25

- Cuống ngắn nhưng rất dày và dính vào thân ở 3/5 trên, khuyết đốt
sống dưới sâu hơn khuyết đốt sống trên.
- Mảnh chiều cao lớn hơn chiều rộng.
- Mỏm gai hình chữ nhật, chạy ngang ra sau.
- Mặt khớp của mỏm khớp trên hơi lõm, hướng vào trong, ra sau. Bờ
sau của mỏm xương nhô lên tạo thành củ vú. Mỏm khớp dưới có mặt khớp
hơi lồi nhìn ra ngoài và ra trước.
- Mỏm ngang dài và mỏng, được coi như xương sườn thoái hóa. Trên
mặt sau mỏm ngang có 1 củ gọi là mỏm phụ.
3.1.3. Ống sống và lỗ liên hợp.
Ống sống đoạn ngực, thắt lưng tiếp theo ống sống đoạn cổ từ T1 và kết
thúc tại L5. Ống sống được tạo bởi các đốt sống và đĩa đệm xếp chồng lên nhau.
Thành trước của ống sống tạo bởi thành sau của thân đốt sống , đĩa
đệm và dây chằng dọc sau. Thành sau của ống sống tạo bởi mảnh sống và dây
chằng vàng. Tủy sống tiếp theo hành tủy chạy trong ống sống đến ngang bờ trên
đốt sống L2.
Đường kính ống sống thay đổi theo từng tầng đốt sống. Ống sống

đoạn ngực hẹp, đặc biệt đoạn ngực cao và ngực thấp. Chỉ cần hẹp thêm 20%
đã gây ra chèn ép tủy[43]. Lỗ đốt sống đoạn thắt lưng hình tam giác, rộng
hơn lỗ đốt sống ngực nhưng nhỏ hơn lỗ đốt sống cổ. Tỉ lệ đường kính lỗ đốt
sống trên đường kính thân đốt sống dao động từ 1: 2 đến 1:5. [43].
Theo nghiên cứu của Roop Singh (2011)[44] nghiên cứu trên 100 xác,
đường kính trung bình cột sống ngực thay đổi trong khoảng 13,82 ± 1,39 mm
(T1) và 15,85± 1,59 (T12). Theo Tarek Aly (2013)[45] đo ống sống 300 người


×