Tải bản đầy đủ (.doc) (81 trang)

LVThS Nghiên cứu tình hình sử dụng kháng sinh và tính kháng thuốc của một số loài vi khuẩn được phân lập tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Quảng Ngãi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (586.75 KB, 81 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y - DƯỢC

MAI VŨ KHA

NGHIÊN CỨU TÌNH HÌNH SỬ DỤNG KHÁNG SINH
VÀ TÍNH KHÁNG THUỐC CỦA MỘT SỐ LOÀI VI KHUẨN
ĐƯỢC PHÂN LẬP TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA
TỈNH QUẢNG NGÃI

LUẬN VĂN THẠC SĨ Y HỌC

HUẾ - 2019


MỤC LỤC
ĐẶT VẤN ĐỀ...................................................................................................1
Chương I: TỔNG QUAN..................................................................................3
1.1. Tổng quan chung về kháng sinh.............................................................3
1.1.1. Lịch sử và nguồn gốc của kháng sinh..............................................3
1.1.2. Định nghĩa về kháng sinh.................................................................3
1.1.3. Phân loại kháng sinh.........................................................................4
1.1.3.1. Phân nhóm kháng sinh theo cấu trúc hoá học............................4
1.1.3.2. Phân nhóm kháng sinh theo phổ tác dụng.................................5
1.1.3.3. Phân nhóm kháng sinh theo tác động trên vi khuẩn..................6
1.1.4. Cơ chế tác dụng của kháng sinh.......................................................7
1.1.4.1. Ức chế tổng hợp vách tế bào vi khuẩn.......................................7
1.1.4.2. Ức chế chức năng của màng nguyên tương...............................7
1.1.4.3. Ức chế tổng hợp protein.............................................................7
1.1.4.4. Tác dụng ức chế hình thành Acid Nucleic.................................8


1.1.5. Sự kháng kháng sinh của vi khuẩn...................................................8
1.1.5.1. Thế nào là vi khuẩn kháng kháng sinh.......................................8
1.1.5.2. Các kiểu kháng kháng sinh của vi khuẩn...................................8
1.1.5.3. Cơ chế kháng thuốc của vi khuẩn..............................................9
1.1.6. Những nguyên tắc sử dụng kháng sinh..........................................10
1.1.6.1. Chỉ sử dụng kháng sinh khi thật sự bị nhiễm khuẩn................10
1.1.6.2. Lựa chọn kháng sinh phải phù hợp..........................................10
1.1.6.3. Dùng kháng sinh phải đúng liều, đúng cách............................11
1.1.6.4. Dùng kháng sinh đúng thời gian..............................................11
1.1.6.5. Chỉ phối hợp nhiều loại kháng sinh khi cần thiết.....................11
1.1.6.6. Phòng ngừa bằng thuốc kháng sinh phải thật sự hợp lý..........12
1.1.7. Những nguyên tắc sử dụng kháng sinh trong dự phòng nhiễm
khuẩn........................................................................................................12
1.2. Tình hình kháng kháng sinh trên thế giới và Việt Nam........................13


Chương II: ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU..................15
2.1 Đối tượng nghiên cứu............................................................................15
2.1.1 Với mục tiêu 1.................................................................................15
2.1.1.1 Tiêu chuẩn lựa chọn..................................................................15
2.1.1.1 Tiêu chuẩn loại trừ....................................................................15
2.1.2 Với mục tiêu 2.................................................................................15
2.2 Thiết kế nghiên cứu...............................................................................15
2.2.1 Phương pháp nghiên cứu.................................................................15
2.2.2 Cách thức chọn mẫu nghiên cứu.....................................................16
2.3.3 Một số quy định trong mẫu nghiên cứu..........................................18
2.4 Nội dung nghiên cứu..............................................................................19
2.4.1 Đặc điểm sử dụng kháng sinh.........................................................19
2.4.1.1 Một số đặc điểm của bệnh nhân nghiên cứu có liên quan đến
việc sử dụng kháng sinh........................................................................19

2.4.1.2 Tính hình sử dụng kháng sinh tại bệnh viện Đa khoa Tỉnh
Quảng Ngãi giai đoạn từ tháng 4 đến tháng 12 năm 2018....................20
2.4.2 Tình hình kháng kháng sinh............................................................20
2.4.2.1 Đặc điểm các loại vi khuẩn phân lập được...............................20
2.4.2.2 Tính hình kháng kháng sinh của một số loài phân vi khuẩn phân lập
được.......................................................................................................20
2.5 Phương pháp xử lý số liệu.....................................................................20
Chương III: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU.........................................................21
3.1 Khảo sát tình hình sử dụng kháng sinh..................................................21
3.1.1 Đặc điểm về người bệnh trong mẫu nghiên cứu.............................21
3.1.1.1 Đặc điểm về tuổi giới của mẫu nghiên cứu..............................21
3.1.1.2 Chẩn đoán ra viện.....................................................................23
3.1.1.1 Tình hình sử dụng kháng sinh tại bệnh viện Đa khoa Tỉnh
Quảng Ngãi giai đoạn từ tháng 4 đến tháng 12 năm 2018....................26
3.2 Khảo sát tình hình kháng kháng sinh.....................................................36
3.2.1 Đặc điểm chung trong mẫu nghiên cứu...........................................37


3.2.1.1 Đặc điểm tuổi và giới trong mẫu nghiên cứu............................37
3.2.1.2. Các loại bệnh phẩm thu thập được...........................................38
3.2.2 Các loại vi khuẩn phân lập được trong mẫu nghiên cứu.................39
3.2.3 Tính hình kháng kháng sinh của một số loài vi khuẩn phân lập được
trong mẫu nghiên cứu...............................................................................40
3.2.3.1 Tỷ lệ kháng thuốc của vi khuẩn đối với một số kháng sinh......40
3.2.3.2 Tỷ lệ kháng thuốc của từng dòng vi khuẩn khác nhau..............41
BÀN LUẬN....................................................................................................49
4.1 Một số đặc điểm về tình hình sử dụng kháng sinh và tính kháng thuốc49
4.1.1 Một số đặc điểm của mẫu nghiên cứu............................................49
4.1.2 Đặc điểm về tình hình sử dụng kháng sinh.....................................50
4.1.2.1 Đường dùng kháng sinh:...........................................................51

4.1.2.2 Về việc kê đơn kháng sinh tại bệnh viện:.................................52
4.1.2.3 Về thời gian điều trị của bệnh nhân:.........................................52
4.1.2.4 Về phát đồ điều trị kháng sinh..................................................53
4.1.2.5. Về mục đích sử dụng kháng sinh.............................................54
4.2.2 Đặc điểm về tình hình kháng kháng sinh........................................55
4.2.2.1 Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu..............................55
4.2.2.2 Tỷ lệ kháng kháng sinh của Escherichia coli............................56
4.2.2.3 Tỷ lệ kháng kháng sinh ở Klebsiella pneumoniae....................56
4.2.2.4 Tỷ lệ kháng kháng sinh ở Staphylococcus spp:........................57
4.2.2.5 Tỷ lệ kháng kháng của Pseudomonas aeruginosa.....................57
KẾT LUẬN – ĐỀ XUẤT................................................................................59
1. KẾT LUẬN..............................................................................................59
TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................................62


ĐẶT VẤN ĐỀ
Kháng sinh là nhóm thuốc rất quan trọng trên lâm sàng cũng như trong
danh mục thuốc chữa bệnh, với vai trò là giải pháp hữu ích nhất để điều trị
các bệnh lí nhiễm khuẩn. Tuy nhiên thực tế hiện nay, tình trạng lạm dụng
kháng sinh trong điều trị tại cộng đồng cũng như trong bệnh viện làm cho tỉ lệ
vi khuẩn đề kháng kháng sinh ngày càng tăng cao [12], [15].
Tại Việt Nam, tỉ lệ phế cầu kháng penicillin cao nhất châu Á [21], mức
độ đề kháng của A.baumannii tại bệnh viện Bạch Mai và Chợ Rẫy năm 2010
đối với ceftazidim là 77,8% và 92% [33], tại bệnh viện Nhân dân Gia Định
năm 2011, Klebsiella spp kháng imipenem là 75% [12], mức độ kháng thuốc
cao còn được phản ánh qua việc sử dụng kháng sinh theo kinh nghiệm ban
đầu không phù hợp với kết quả kháng sinh đồ là 74% [22].
Thực trạng kháng kháng sinh đã mang tính toàn cầu, đặc biệt là ở các
nước đang phát triển với các bệnh truyền nhiễm còn chiếm tỷ lệ cao trong cơ
cấu bệnh tật như: nhiễm khuẩn đường tiêu hoá, đường hô hấp, các bệnh lây

truyền qua đường tình dục và nhiễm khuẩn bệnh viện… đang là gánh nặng
thực sự vì sự gia tăng chi phí do phải bắt buộc thay thế các kháng sinh cũ
bằng các kháng sinh mới đắt tiền. Việc kiểm soát các loại bệnh này đã và
đang chịu sự tác động bất lợi của sự phát triển và lan truyền tình trạng kháng
kháng sinh của vi khuẩn.
Xu hướng kháng lại các thuốc kháng sinh thường dùng, làm cho thuốc
đó không còn tác dụng trên lâm sàng, không còn tác dụng tiêu diệt vi khuẩn
gây bệnh. Khi đó thuốc kháng sinh đang dùng điều trị cho người bệnh không
tiêu diệt được vi khuẩn gây bệnh. Ngay cả khi chúng ta sử dụng kháng sinh
với nồng độ cao, thời gian kéo dài. Việc kháng thuốc kháng sinh là một mối
hiểm họa to lớn bởi lẽ vi khuẩn gây bệnh sẽ thoải mái lộng hành, phát triển
mà không còn sợ hãi trước các vũ khí của con người.
1


Việc sử dụng kháng sinh hợp lý vẫn luôn là một thánh thức lớn của
toàn thế giới. Theo khảo sát của Tổ chức Y Tế Thế Giới năm 2015 tại 12
nước, khoảng 65% số người được hỏi có sử dụng kháng sinh trong 6 tháng
qua. Tại Việt Nam, tỷ lệ sử dụng kháng sinh ở người dân trong 6 tháng vừa
qua là 71%, và 38% người được phỏng vấn cho rằng nên ngưng sử dụng
kháng sinh ngay khi cảm thấy đỡ bệnh hơn [59].
Bệnh viện Đa khoa tỉnh Quảng Ngãi hằng năm có rất nhiều bệnh nhân
đến khám và điều trị. Theo số liệu thống kê của bệnh viện, tỷ lệ bệnh nhân
mắc các bệnh nhiễm khuẩn nằm điều trị tại bệnh viện luôn chiếm tỷ lệ cao
trong những năm gần đây. Các bệnh nhiễm khuẩn ngày càng gia tăng nên việc
sử dụng thuốc kháng sinh tại bệnh viện cũng trở nên phổ biến, nhiều loại
kháng sinh được đưa vào sử dụng. Việc sử dụng kháng sinh phải dựa trên
nguyên tắc có đầy đủ bằng chứng về tác nhân gây bệnh, thử nhạy cảm vi
khuẩn bằng kháng sinh đồ. Tuy nhiên, việc lựa chọn kháng sinh, lựa chọn
đường dùng và tính liều cho bệnh nhân chủ yếu dựa vào kinh nghiệm lâm

sàng của bác sĩ. Vì vậy dùng kháng sinh một cách hợp lý được xem như là
một trong những giải pháp tốt nhất để kiểm soát sự đề kháng của vi khuẩn với
kháng sinh ngay tại bệnh viện. Để góp phần hiểu rõ hơn về tình hình sử dụng
kháng sinh và tính kháng thuốc tại bệnh viện, chúng tôi thực hiện đề tài:
"Nghiên cứu tình hình sử dụng kháng sinh và tính kháng thuốc của
một số loài vi khuẩn được phân lập tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Quảng
Ngãi", với các mục tiêu sau:
1. Mô tả thực trạng sử dụng kháng sinh tại Bệnh viện đa khoa tỉnh
Quảng Ngãi
2. Xác định tỷ lệ kháng kháng sinh của một số loài vi khuẩn được phân
lập tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Quảng Ngãi.

2


Chương I
TỔNG QUAN
1.1. Tổng quan chung về kháng sinh
1.1.1. Lịch sử và nguồn gốc của kháng sinh
Trước đầu thế kỷ 20, bệnh nhiễm khuẩn được điều trị theo phương
pháp y học dân gian. Nhiều nền văn minh cổ đại bao gồm Hy lạp và Ai Cập
cổ đại sử dụng nấm mốc và nguyên liệu từ thực vật để chiết xuất các chất trị
nhiễm khuẩn. [3]
Năm 1895, Vincenzo Tibero, nhà vật lý học ở Đại học Naples đã phát
hiện ra nấm mốc (Penicillium) trong nước có hoạt động kháng khuẩn tốt.
Năm 1928, khi nuôi cấy Staphylococcus aureus, Fleming (Anh) đã
chiết xuất được chất kháng sinh đầu tiên là Penicillin từ nấm Penicillum
notaum chrysogenum và được xem là người mở đầu “thời đại kháng sinh”.
Với hàng loạt nghiên cứu của Florey và Chain trong gần 10 năm, đến năm
1941 Penicillin tinh khiết mới được sản xuất và đưa vào sử dụng.

Từ đó các kháng sinh mới lần lượt được xuất hiện: Streptomycin
(1944), Chloramphenicol (1947), Aurenomycin (1948), Neomycin (1949,
Terramycin (1950), Erythromycin (1952). Đến năm 1972, 4000 – 5000 kháng
sinh mới được ra đời, trong đó chỉ có khoảng 50 được ứng dụng vào lâm sàng
dưới dạng đơn độc hoặc phối hợp. [3]
Cho đến nay, tuy đã có nhiều nhóm kháng sinh được đưa vào sử dụng,
nhưng các nhà khoa học vẫn chạy đua trong việc tìm và tổng hợp các loại
kháng sinh mới.[3]
1.1.2. Định nghĩa về kháng sinh
Kháng sinh là một nhóm thuốc đặc biệt vì việc sử dụng chúng không
chỉ ảnh hưởng đến người bệnh mà còn ảnh hưởng đến cộng đồng. Với những
nước đang phát triển như Việt Nam, đây là một nhóm thuốc quan trọng vì
3


bệnh lý nhiễm khuẩn nằm trong số những bệnh đứng hàng đầu cả về tỷ lệ mắc
bệnh và tỷ lệ tử vong. [7]
Theo “Hướng dẫn sử dụng kháng sinh” của Bộ y tế, kháng sinh được
định nghĩa: “Kháng sinh (antibiotics) là những chất kháng khuẩn
(antibacterial substances) được tạo ra bởi các chủng vi sinh vật (vi khuẩn,
nấm Actinomycetes), có tác dụng ức chế sự phát triển của các vi sinh vật
khác”[7]
Hiện nay, trong vi sinh vật y học kháng sinh được định nghĩa một cách
hoàn chỉnh như sau: “Kháng sinh là những hợp chất hoá học có tác dụng kìm
khuẩn hoặc diệt khuẩn với cơ chế tác động ở mức phân tử, hữu hiệu ở liều
lượng thấp và có thể sử dụng để điều trị bệnh nhiễm khuẩn”.[3]
1.1.3. Phân loại kháng sinh
1.1.3.1. Phân nhóm kháng sinh theo cấu trúc hoá học
Các nhóm kháng sinh được sắp xếp theo cấu trúc hoá học. Theo cách
phân loại này, kháng sinh được chia thành các nhóm sau:

Nhóm betalactam:
- Penicilin:
+ Benzylpenicilin: Penicilin G procaine-penicilin, benzathinpenicilin
+ Phenoxypenicilin: Penicilin V (uống)
+ Penicilin kháng penicilinasea (chống tụ cầu): Oxacilin, dicloxacilin,
methicilin, nafacilin.
+ Aminopenicilin: Ampicilin, amoxicilin, bacampicilin.
+ Carboxypenicilin: Carbenicilin, ticarcilin
+ Ureidopenicillin (phổ tác dụng rộng): Azlocilin, mezlocilin, piperacilin.
+ Carbapenem: Imipenem
+ Loại ức chế beta-lactamase: Acid clavulanic, sulbac tam.
- Cephalosporin:
+ Thế hệ thứ I: Cephalothin, cefazolin, cephalexin, cefaclor, cefaloridin...
4


← + Thế hệ thứ II: Cefamandol, cefuroxim...
+ Thế hệ thứ III: Cefotaxim, cefoperazon, ceftriaxon, ceftazidim,
cefixim, latamoxef...
+ Thế hệ thứ IV: Cefepim, Cefpirom
- Các betalactam khác: carbapenem, monobartam, chất ức chế
betalactamase...
Nhóm aminoglycosid (aminosid): streptomycin, gentamicin, tobramycin...
Nhóm macrolid: erythromycin, clarythromycin, spiramycin....
Nhóm lincosamid: lincomycin, clindamycin.
Nhóm phenicol: cloramphenicol, thiamphenicol
Nhóm tretracyclin: tetracyclin, doxycyclin...........
Nhóm petid
- Glycopeptid: vancomycin
- Polypeptid: polymycin, bacitrancin.

Nhóm

quinolon



cacboxy

fluoroquinolon:

acid

nalidixic,

ciprofloxacin, ofloxacin.....
Nhóm Rifamycin
Các nhóm kháng sinh khác: Sulfonamid, Oxazolidinon, 5-nitroimidazol
[3][7]
1.1.3.2. Phân nhóm kháng sinh theo phổ tác dụng
Theo phân nhóm này, ta dựa theo phổ tác dụng của kháng sinh gồm các
nhóm:
Nhóm kháng sinh có hoạt phổ rộng:
Hoạt phổ rộng nghĩa là một kháng sinh có thể tác dụng trên nhiều loại
vi khuẩn (cả vi khuẩn gram dương và vi khuẩn gram âm), thuộc nhóm kháng
sinh có phổ tác dụng rộng gồm có:
+ Nhóm Aminoglycosid
+ Nhóm Tetracyclin
5



+ Nhóm Chloramphenicol
+ Nhóm sulfamid và Trimethoprim
+ Nhóm Quinolon
+ Nhóm Rifamycin
+ Thành viên nhóm Beta lactaminin: Ampicillin, Amoxcillin,
Piperacillin, Ticarcillin, Imipenem, Cephalosporin các thế hệ I, II, III, IV.
Nhóm kháng sinhcos hoat phổ chọn lọc;
Hoạt phổ chọn lọc nghĩa là một kháng sinh chỉ tác dụng trên một hoặc
một số loài vi khuẩn nhất định. Nhóm này gồm có:
+ Các dẫn xuất của acid isonicotinic
+ Nhóm Macrolid có tác dụng lên vi khuẩn Gram dương và một số ít vi
khuẩn Gram âm.
+ Nhóm Polymycin chỉ tác dụng lên trực khuẩn Gram âm.
+ Thành viên nhóm Beta lactamin: penicillin, Methicillin, Oxacillin,
Cloxacillin.[3][7]
1.1.3.3. Phân nhóm kháng sinh theo tác động trên vi khuẩn
Dựa vào tính nhạy cảm của vi khuẩn với kháng sinh, người ta chia kháng
sinh thành 02 nhóm chính: kháng sinh diệt khuẩn; kháng sinh kìm khuẩn.
Kháng sinh diệt khuẩn bao gồm:
+ Nhóm Beta lactaminin
+ Nhóm Amynoglycosid
+ Nhóm Peptid
+ Nhóm Quinolon
+ Nhóm Rifamycin
Kháng sinh kiềm khuẩn bao gồm:
+ Nhóm Tetracylin
+ Nhóm Chloramphenicol
+ Nhóm Macrolid
+ Nhóm Sulffamid [3][7].
6



1.1.4. Cơ chế tác dụng của kháng sinh
1.1.4.1. Ức chế tổng hợp vách tế bào vi khuẩn
Vách tế bào vi khuẩn chủ yếu được cấu tạo từ peptidoglycan, thành phần
quan trọng đảm bảo tính vững chắc của tế bào, vì vậy rất cần cho sự tồn tại và
phát triển của vi khuẩn. Các kháng sinh diệt khuẩn ức chế quá trình tổng hợp
vách tế bào vi khuẩn. Vi khuẩn không có vách che chở sẽ bị tiêu diệt.
Các betalactam có khả năng acyl hoá các D- alanin transpeptidase, ức
chế giai đoạn cuối của quá trình tổng hợp vách tế bào vi khuẩn (giai đoạn tạo
liên kết ngang giữa các peptidoglycan). Quá trình tổng hợp vách tế bào vi
khuẩn bị ngừng lại, vi khuẩn không có vách che chở sẽ bị tiêu diêt.
Vancomyin gắn vào D-ala-D-ala tận cùng của penteptid mới hình thành trong
chuỗi peptidoglycan do đó ức chế phản ứng transglycosylase, ngăn cản tạo
lưới peptidoglycan của vách tế bào vi khuẩn. Vi khuẩn kháng vancomycin
thường bằng cách thay đổi vị trí gắn D-ala-D-ala. D-ala tận cùng được thay
bằng D-lactat.[3][7]
1.1.4.2. Ức chế chức năng của màng nguyên tương
Màng tế bào vi khuẩn là nơi trao đổi chất giữa tế bào vi khuẩn với môi
trường bên ngoài. Màng có tính thấm chọn lọc đối với các ion để duy trì ổn
định cho thành phần bên trong màng. Các kháng sinh tác động lên màng, làm
thay đổi tính thấm của màng (các ion Mg+, Ca+, K+ thoát ra ngoài tế bào
nhiều), gây rối loạn quá trình trao đổi chất giữa tế bào vi khuẩn với môi
trường làm vi khuẩn bị tiêu diệt.[3][7]
Các kháng sinh nhóm Peptid như Polymycin có tác động ở màng
nguyên tương của vi khuẩn Gram âm, polyen có tác động ở màng nguyên
tương của nấm.[3]
1.1.4.3. Ức chế tổng hợp protein
Nhiều thuốc kháng sinh ức chế tổng hợp protein của vi khuẩn bằng
cách gắn các tiểu đơn vị 30S hoặc 50S, làm giảm quá trình tổng hợp protein

7


của vi khuẩn nên có tác dụng kìm khuẩn: cloramphenicol, tetracyclin,
macrolid và lincosamid. [7]
Hoặc gắn vào tiểu đơn vị 30s của ribosom làm sai lệch quá trình tổng
hợp protein cần thiết của vi khuẩn nên có khả năng tiêu diệt vi khuẩn:
aminoglycosid và spectinomycin.[3]
1.1.4.4. Tác dụng ức chế hình thành Acid Nucleic
Quá trình tổng hợp acid nhân: được thực hiện qua 2 giai đoạn sao chép
(replication), phiên mã (transcription).
Quá trình ức chế tổng acid nhân: Quinolon gắn vào topoismomerase II
của vi khuẩn (ADN- gyrase) làm mất hoạt tính emzym. Do đó không có khả
năng mở vòng xoắn để thực hiện việc sao chép mã di truyền được nên vi
khuẩn bị tiêu diệt.[3][7]
Rifamycin và các dẫn chất kết hợp với RNA polymerase phụ thuộc
DNA và như thế ức chế sự tổng hợp RNA ở vi khuẩn.[3]
1.1.5. Sự kháng kháng sinh của vi khuẩn
Kháng sinh muốn phát huy được tác dụng thì phải xâm nhập vào ổ
viêm và gắn được vào receptor ở tế bào vi khuẩn gây tác dụng ức chế hoặc
diệt khuẩn. Trong thực tế, nhiều khi sử dụng kháng sinh thất bại, đó chính là
do vi khuẩn kháng lại kháng sinh. Nguyên nhân kháng kháng sinh của vi
khuẩn gồm do yếu tố con người sử dụng kháng sinh (bừa bãi, không đúng
liều, đơn loại…) và do yếu tố bản thân vi khuẩn.[3]
1.1.5.1. Thế nào là vi khuẩn kháng kháng sinh
Vi khuẩn được coi là kháng một kháng sinh nào đó nếu sự phát triển
của nó không bị ngừng lại khi kháng sinh đó đã được dùng ở nồng độ tối đa
mà bệnh nhân còn dung nạp thuốc
1.1.5.2. Các kiểu kháng kháng sinh của vi khuẩn
- Kháng thuốc tự nhiên hay kháng thuốc nội tại: là tính kháng thuốc vốn

có của một số vi khuẩn đối với một số kháng sinh. Ví dụ: Các vi khuẩn Gram
8


âm luôn kháng vancomycin và penicilin. Các vi khuẩn không có vách tế bào
như Mycoplasma không chịu tác dụng của kháng sinh ức chế tổng hợp vách tế
bào như các penicilin, cephalosporin, vancomycin. Escherichia coli không
chịu tác dụng của erythromycin. Hay ở một vài trạng thái sinh lý đặc biệt vi
khuẩn trở nên kháng thuốc kháng sinh. Các vi khuẩn ở trạng thái ngủ có thể
không chịu tác động của thuốc kháng sinh như vi khuẩn lao (Đề kháng giả)
- Kháng thuốc thu được: là trường hợp vi khuẩn trước đây nhạy cảm
với kháng sinh nhưng sau một thời gian tiếp xúc với kháng sinh đó, vi khuẩn
trở nên kháng thuốc. Kháng thuốc kháng sinh ở vi khuẩn thu được chủ yếu do
sự hình thành những gen kháng thuốc ở nhiễm sắc thể hoặc plasmid.[3][7]
1.1.5.3. Cơ chế kháng thuốc của vi khuẩn
- Tăng sự phá huỷ thuốc do enzym: Đây là cơ chế đề kháng thông
thường qua trung gian plasmid. Vi khuẩn sản xuất ra enzym gay phân huỷ hoặc
làm bất hoạt kháng sinh. Ví dụ: Các vi khuẩn streptococus tạo ra betalactamase
phá huỷ vòng betalactam nên kháng được các kháng sinh betalactam.
- Biến đổi vị trí gắn kết: Hiện tường này là do các vi khuẩn kháng thuốc
có thể thay đổi theo cơ chế làm giảm độ ái lực của kháng sinh tại vị trí tác
dụng. Ví dụ: các vi khuẩn kháng aminoglycosid do nó thay đổi các receptor
trên tiểu phân đơn vị 30S. Các vi khuẩn kháng macrolid do thay đổi receptor
trên tiểu phân đơn vị 50S. Các vi khuẩn kháng thuốc có thể thay đổi vị trí
receptor gắn với thuốc, ví dụ: một số vi khuẩn kháng beta lactam do thay đổi
receptor PBP (Penicilin Binding Protein), penicilin không gắn được vào
receptor trên vi khuẩn nên không có tác dụng diệt khuẩn.
- Giảm tính thấm ở màng nguyên tương: Tính chất này là do sự thay đổi
hoặc mất hệ thống vận chuyển ở màng nguyên tương. Sự đề kháng này gặp ở
các kháng sinh như các beta lactamin, chloramphenicol, quinolon, tetracilin

và trimethoprim.

9


- Bơm đẩy thuốc ra khỏi tế bào: Sự thay đổi cấu trúc màng làm giảm sự
xâm nhập của thuốc hoặc sự có mặt của những protein có chức năng như là
cái bơm để đẩy kháng sinh ra khỏi bào tương. Kháng sinh không thể đạt đến
vị trí tác dụng do bơm đẩy chủ động đẩy kháng sinh ra khỏi tế bào vi khuẩn.
1.1.6. Những nguyên tắc sử dụng kháng sinh
Có 6 nguyên tắc sử dụng kháng sinh như sau:
1.1.6.1. Chỉ sử dụng kháng sinh khi thật sự bị nhiễm khuẩn
Các tác nhân gây bệnh cho người có thể là vi rút, vi khuẩn, nấm, sinh
vật đơn bào hoặc ký sinh vật (giun, sán...). Các kháng sinh thông dụng chỉ có
tác dụng với vi khuẩn, không có kháng sinh có tác dung với virus, nấm gây
bệnh, sinh vật đơn bào. Mỗi nhóm kháng sinh lại chỉ có tác dụng với một số
loại vi khuẩn nhất định; do đó trước khi quyết định sử dụng một loại kháng
sinh nào đó cần phải làm các bước sau:
- Thăm khám lâm sàng, bao gồm việc đo nhiệt độ bệnh nhân, phỏng
vấn và khám bệnh. Đây là bước quan trọng phải làm với mọi trường hợp.
- Sốt là dấu hiệu điểm hình khi bị nhiễm khuẩn nên nên việc đo nhiệt độ
góp phần quan trọng để khẳng đinh nhiễm khuẩn. Số do vi khuẩn thường gây
tăng thân nhiẹt trên 390C, trong khi sốt do virus chỉ có nhiệt độ khoản 3838,50c. Tuy nhiên, những trường họp ngoại lệ như nhiễm khuẩn ở bệnh nhân
suy giảm miễm dịch, bệnh nhân già yếu thì có thể sốt nhẹ. Trái lại, bệnh nhân
nhiễn virus quai bị, thuỷ đậu, sốt xuất huyết, bạn liệt… có thể thân nhiệt tăng
trên 390C.[3][7]
1.1.6.2. Lựa chọn kháng sinh phải phù hợp
Lựa chọn kháng sinh phụ thuộc vào 3 yếu tố:
- Độ nhạy cảm của vi khuẩn gây bệnh đối với kháng sinh: Mỗi kháng
sinh có tác dụng tốt trên một số loài vi khuẩn khác nhau, để đánh giá độ nhạy

cảm của vi khuẩn với khang sinh tốt nhất dựa vào kháng sinh đồ, vì nhiều lý
do nên không phải trường hợp nào cũng làm xét nghiệm vi khuẩn được, do đó
10


tham khám lâm sàng để định hướng mầm bệnh giúp ta lựa chọn kháng sinh
thích hợp.
- Vi trí nhiễm khuẩn: Muốn điều trị thành công, kháng sinh phải thấm
vào được vị trí nhiễm khuẩn, như vậy phải nắm được các đặc tính dược động
học của thuốc mới có thể chọn được kháng sinh thích hợp.
- Cơ địa bệnh nhân: Những khác biệt về sinh lý ở trẻ nhỏ, người cao
tuổi hoặc phụ nữ có thai… và những thay đổi ề bệnh lý như suy giảm miễn
dịch, bệnh gan, thận nặng làm giảm rõ rệt chuyển hoá và xuất các loại thuốc
để ảnh hưởng đến tác dụng của thuốc kháng sinh. Vì vậy lựa chọn kháng sinh
phù hợp với từng cá thể người bệnh cũng là một vấn đề rất quan trọng trong
nguyên tắc lựa chọn kháng sinh.[3][7]
1.1.6.3. Dùng kháng sinh phải đúng liều, đúng cách
Sử dụng kháng sinh không đúng liều làm tăng nguy cơ chọn lọc biến
chủng kháng thuốc, sử dụng kháng sinh không đúng cách làm tăng nguy cơ
tác dụng phụ, giảm tác dụng của thuốc, mất hoạt lực của thuốc…[3][7]
1.1.6.4. Dùng kháng sinh đúng thời gian
Tuỳ theo loại bệnh và tình trạng bệnh, thơi fgian dùng kháng sinh có
khi dài hoặc ngắn nhưng thông thường không dưới 5 ngày.Chỉ ngừng kháng
sinh khi không còn các triệu chứng lâm sàng. Tuy nhiên, nếu liệu trình quá
dài mà vẫn chưa cải thiện các triệu chứng lâm sàng rõ ràng thì phải kiểm tra
lại mức độ nhạy cảm thuốc của vi khuẩn, liều dùng, các dùng thuốc…[3][7]
1.1.6.5. Chỉ phối hợp nhiều loại kháng sinh khi cần thiết
Phối hợp kháng sinh để điều trị bệnh nhiễm khuẩn nhằm mục tiêu sau:
- Giảm khả năng xuất hiện chủng vi khuẩn đề kháng
- Điều trị các nhiễm khuẩn hỗn hợp

- Để tăng khả năng diệt khuẩn
- Để giảm độc tính của một số thuốc

11


Tuy nhiên tuỳ trường hợp cụ thể, đường dùng kháng sinh cụ thể và các
nhiễm khuẩn bởi các loại vi khuẩn cụ thể mà phối hợp.
- Hai kháng sinh phối hợp không thuộc cùng một cơ chế tác dụng hoặc
không gây độc trên cùng một cơ quan.
- Hai kháng sinh phối hợp không kích thích sự đề kháng.[3][7]
1.1.6.6. Phòng ngừa bằng thuốc kháng sinh phải thật sự hợp lý
Chỉ có những trường hợp đặc biệt, thầy thuốc mới cho dùng kháng sinh
gọi là phòng ngừa. Ví dụ, dung kháng sinh phòng ngừa trong phẫu thuật và
kháng sinh ngừa tái viêm nội tâm mạc tim.[3][7]
1.1.7. Những nguyên tắc sử dụng kháng sinh trong dự phòng nhiễm khuẩn
Kháng sinh dự phòng là dung kháng sinh để phòng nhiễm khuẩn hoặc
ngăn ngừa nhiễm khuẩn tái phát. Tuy nhiên, việc dùng kháng sinh dự phòng
dễ tạo ra các chủng vi khuẩn kháng thuốc nên chỉ dùng kháng sinh dự phòng
trong một số trường hợp nhất định: Phòng bội nhiễm do phẫu thuật, phòng
nguy cơ viêm màn tim do liên cầu khuẩn trong bệnh thấp khớp.[3]
* Những nguyên tắc sử dụng kháng sinh dự phòng nhiễm khuẩn trong
phẫu thuật.
Sử dụng kháng sinh trong trường hợp này nhằm ngăn chặn quá trình
nhiễm khuẩn có thể xảy ra cho người bệnh sau phẫu thuật. Trong điều kiện
của nước ta hiện nay, việc sử dụng kháng sinh dự phòng khi phẫu thuật là bắt
buộc vì điều kiện vệ sinh môi trường kém, khả năng vô trùng của phòng mổ
và tiệt trùng dụng cụ, bông, gạc, áo, quần... không phải lúc nào cũng đảm bảo;
vì lý do đó ngay cả với các loại phẫu thuật được xếp vào "phẫu thuật sạch"
như phẫu thuật tim, phẫu thuật thần kinh, phẫu thuật chỉnh hình, mổ đẻ qua

đường bụng... thì nguy cơ nhiễm khuẩn vẫn cao thì việc sử dụng kháng sinh
cần thiết. Tuy nhiên, trên thực tế do thời điểm đưa thuốc không đúng, lựa
chon kháng sinh không thích hợp nên các thầy thuốc sử dụng kháng sinh hiện
nay theo pháp đồ điều trị chứ không phải dự phòng:
12


- Đưa kháng sinh sau mổ, khi quá trình viêm đã xảy ra.
- Chưa coi trong việc lựa chon kháng sinh theo loại phẫu thuật nên hiệu
quả thất thường.
- Dùng kháng sinh kéo dài theo nguyên tắt điều trị (7-10 ngày), vì lý do
trên, phần hướng dẫn sử dụng kháng sinh dự phòng sau phẫu thuật là một
phần không thể thiếu được trong nguyên tắt sử dụng kháng sinh hợp lý, góp
phần nâng cao hiệu quả điều trị và giảm chi phí không cần thiết về kháng sinh
trong các bệnh viện hiện nay.
- Có 3 nguyên tắc cần nắm vững khi sử dụng kháng sinh dự phòng
nhiễm khuẩn trong phẫu thuật:
* Thời điểm đưa thuốc phải đúng
- Nhất thiết phải đưa kháng sinh trước lúc rạch dao nhưng không sớm
hơn 2 giờ so với thời điểm mổ.
* Chọn kháng sinh phải đúng
- Nên chọn loại phổ đủ rộng, có tác dụng lên hầu hết tác nhân gây bệnh
hay gặp nhất trong loại phẫu thuật đó.
- Thời gian bán thải không quá ngắn để có thể giảm được số lần đưa
thuốc.
- Phải thấm tốt vào tổ chức cần phẫu thuật.
* Độ dài của đợt điều trị phải đúng - Không kéo dài quá 24 giờ sau mổ.
- Trong đa số trường hợp, chỉ cần 1 đến 2 liều là đủ.[3][6][7]
1.2. Tình hình kháng kháng sinh trên thế giới và Việt Nam
Kháng sinh là một thành tựa lớn của nền y học, giúp giảm thiểu đáng

kể tỷ lệ mắc bệnh và tử vong do vi khuẩn. Tuy nhiên, thoái quen sử dụng
kháng sinh không hợp lý và tình trạng lạm dụng kháng sinh như hiện nay
đang tạo điều kiện cho vi khuẩn thích nghi với thuốc, từ đó hình thành nên
nhiều loại vi khuẩn kháng thuốc, làm giảm hiều quả điều trị và tăng chi phí

13


cho người bệnh. Tình trạng kháng thuốc không chỉ là nỗi lo của bác sỹ lâm
sàng mà còn là mối quan tâm của toàn xã hội.
Các ước tính gần đây nhất cho thấy AMR đã gây ra khoảng 23.000 ca tử
vong ở Hoa Kỳ (năm 2013) và 25.000 ca tử vong ở các nước EU (năm 2011).
Trên toàn cầu, 700.000 cái chết có thể được gây ra mỗi năm bởi ARM. [44]
Nghiên cứu từ năm 2011 đến 2015 tại Kwazulu, Nam Phi cho thấy,
Acinetobacter baumannii có tỷ lệ kháng kháng sinh đến 70%, tỷ lệ K.
pneumoniae sinh men beta-lactamase tăng từ 54% (2011) đến 65% năm 2015.
Kháng carbapenem giữa K. pneumoniae và Enterobacter spp tăng từ 4% năm
2014 lên 16% vào năm 2015.[53]
Tại Việt Nam, Nghiên cứu về đặc điểm kháng kháng sinh của vi khuẩn
gây viêm phổi thở máy tại bệnh viện Chợ Rẫy từ năm 2015 đến 2016 cho
thấy: Tỷ lệ đề kháng của các chủng vi khuẩn Gram [-] với các kháng sinh họ
carbapenem nhóm 2 như sau: A. baumannii > 85%, P. aeruginosa > 60%, K.
peumoniae > 30%, E. coli > 10%.[27]
- Tỷ lệ đề kháng của chủng vi khuẩn Gram [+]: St. aureus: đề kháng với
đa số các kháng sinh chỉ còn Teicoplanin, Tigecycline, Vancomycine, trong đó
tỷ lệ MRSA là 78%. [27]

14



Chương II: ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1 Đối tượng nghiên cứu
2.1.1 Với mục tiêu 1
Mô tả thực trạng sử dụng kháng sinh tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Quảng
Ngãi, đối tượng nghiên cứu là bệnh án bệnh nhân điều trị nội trú có chỉ định
sử dụng kháng sinh toàn thân trong toàn viện, đạt các tiêu chuẩn lựa chọn và
tiêu chuẩn loại trừ sau:
2.1.1.1 Tiêu chuẩn lựa chọn
- Bệnh nhân điều trị nội trú có chỉ định sử dụng kháng sinh
- Thời gian ra viện từ tháng 4 năm 2018 đến hết tháng 12 năm 2018
- Có thời gian nằm viện trên 24h
2.1.1.1 Tiêu chuẩn loại trừ
- Các trường hợp bệnh nhân có thời gian điều trị ngoại trú hoặc xuất
viện trong cùng một ngày.
- Được kê đơn điều trị bằng kháng sinh dùng tại chỗ (tra mắt, dùng
ngoài da).
- Các bệnh nhân suy giảm miễn dịch:
+ Bệnh nhân HIV dương tính.
2.1.2 Với mục tiêu 2
Xác định tỷ lệ kháng kháng sinh của một số loài vi khuẩn được phân
lập tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Quảng Ngãi, đối tượng nghiên cứu là toàn bộ
bệnh án có kết quả nuôi cấy vi sinh và có kháng sinh đồ, trong khoảng thời
gian từ tháng 4 đến tháng 12 năm 2018.
2.2 Thiết kế nghiên cứu
2.2.1 Phương pháp nghiên cứu
- Nghiên cứu được thiết kế theo phương pháp mô tả hồi cứu.

15



- Thông tin được thu thập từ bệnh án của bệnh nhân lưu tại kho lưu trữ
bệnh án, phòng Kế hoạch tổng hợp, Bệnh viện Đa khoa tỉnh Quảng Ngãi, và
phiếu kết quả vi sinh, kháng sinh đồ trong bệnh án điện tử tại Bệnh viện Đa
khoa tỉnh Quảng Ngãi.
2.2.2 Cách thức chọn mẫu nghiên cứu
Với mục tiêu 1: Mô tả thực trạng sử dụng kháng sinh tại Bệnh viện
đa khoa tỉnh Quảng Ngãi
- Tính toán số bệnh án cần lấy:
P(1-P)
 = Z

2

(1 - /2)


2

d

Trong đó:
- N là tổng số bệnh án nghiên cứu.
- P là tỉ lệ bệnh án sử dụng kháng sinh ước tính dựa trên nghiên cứu
trước đó. Vì không có nghiên cứu thử trước nên lấy P = 0,5.
- d là độ chính xác tuyệt đối mong muốn (P = 0,5 nên chọn d = 0,1 ).
- Z (1 -

/2)

là hệ số tin cậy, phụ thuộc vào giới hạn độ tin cậy (Z =1,96).


- Vậy cỡ mẫu cần lấy là N = 96 bệnh án. Vì có thể có sai số trong lấy
mẫu hay thất lạc bệnh án nên lấy hệ số lấy mẫu là 2, tính toán được N =192
bệnh án.
- Quy trình lấy mẫu:
+ Thu thập thông tin số lượng bệnh án nhập viện trong thời gian nghiên
cứu từ Phòng Kế Hoạch Tổng Hợp, Bệnh viện Đa khoa tỉnh Quảng Ngãi.
+ Từ tháng 4 năm 2018 đến hết tháng 12 năm 2018 có trên 29451 hồ sơ
bệnh án của bệnh nhân nội trú điều trị tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Quảng Ngãi.
+ Số bệnh án này được xếp trong 3 kệ, mỗi chồng có 35 hồ sơ bệnh án.
Tổng hết có 841 chồng bệnh án, đánh số theo thứ tự các chồng bệnh án từ 1
đến 84, từ trên xuống và từ trái qua phải mỗi kệ.
16


+ Dùng phần mềm Radom chọn ngẫu nhiên 11 chồng bệnh án, sau đó
lựa chọn số bệnh án đủ điều kiện để đưa và mẫu nghiên cứu. Nếu số bệnh án
không đủ, tiếp tục chọn ngẫu nhiên trong số các chồng bệnh án để đạt được số
mẫu cần có.
Sơ đồ quy trình lấy mẫu:
Phòng
Kế hoạch tổng hợp

Bệnh án ra viện từ tháng
4 đến tháng 12/2018

11 tập bện án, mỗi tập 35
bện án

Loại trừ theo tiêu chuẩn


Bệnh án loại trừ 163
bệnh án không đạt tiêu
chuẩn

Bệnh án được lựa chọn
222 bệnh án

17


- Trong số 385 bệnh án được chọn, có 222 bệnh án đạt tiêu chuẩn lựa
chọn, 163 bệnh án không đạt tiêu chuẩn lựa chọn, không có bệnh án nào có sử
sử dụng kháng sinh như bị loại trừ.
Với mục tiêu 2: Xác định tỷ lệ kháng kháng sinh của một số loài vi
khuẩn được phân lập tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Quảng Ngãi:
- Cỡ mẫu: Toàn bộ bệnh án có kết quả nuôi cấy vi khuẩn và kháng sinh
đồ tại bệnh viện từ ngày 1/4/2018 đến ngày 31/12/2018.
- Quy trình lấy mẫu:
+ Bước 1: Lập danh sách của tất cả người bệnh có kết quả nuôi cấy vi
khuẩn và kháng sinh đồ từ khoa Vi Sinh trong thời gian nghiên cứu
+ Bước 2: Truy cập vào bệnh án điện tử của từng bệnh nhân, thu thập
thông tin từ phiếu kết quả nuôi cấy vi khuẩn và kháng sinh đồ trong bệnh án
điện tử.
2.3.3 Một số quy định trong mẫu nghiên cứu
- Quy định về mục đích sử dụng kháng sinh: Theo mục đích sử dụng
kháng sinh được chia là hai mục đích là kháng sinh điều trị và kháng sinh dự
phòng, trong quá trình thu thập số liệu, những bệnh án có ghi chẩn đoán xác
định một bệnh nhiễm khuẩn mà được kê kháng sinh thì được xếp vào bệnh án
điều trị nhiễm khuẩn. Những bệnh án không có chẩn đoán nhiễm khuẩn mà

được kê kháng sinh thì xếp vào số bệnh án sử dụng kháng sinh dự phòng. Đối
với các bệnh án có phẫu thuật, những phẫu thuật sạch, sạch – nhiễm được
xếp vào mục đích sử dụng kháng sinh dự phòng [3][6][7].
- Một số chỉ tiêu trong nghiên cứu:
+ Thời gian điều trị trung bình của một kháng sinh
Đo cường độ tiếp xúc của bệnh nhân với kháng sinh trong 1 lần nhập
viện. Nó cũng đánh giá độ dài của thời gian sử dụng kháng sinh. Số ngày điều
trị bằng kháng sinh bao gồm số ngày của tất cả các kháng sinh được kê cho 1
bệnh nhân trong 1 lần nhập viện mà không phân biệt đường dùng hoặc thay
18


đổi liều. Tiêu chí này đo lường số ngày điều trị kháng khuẩn cấp tính cho mỗi
kháng sinh chung và không bao gồm kháng sinh dự phòng.[55]

+ Thời gian nằm viện trung bình của bệnh nhân sử dụng kháng sinh:
Đo lường thời gian nằm viện như một chỉ tiêu về hiệu quả điều trị[55].

+ Tỷ lệ nhập viện được kê đơn 1 hay nhiều kháng sinh
Đo lường mức độ sử dụng kháng sinh[55]

+ Lượng kháng sinh trung bình được kê đơn:[55]

2.4 Nội dung nghiên cứu
2.4.1 Đặc điểm sử dụng kháng sinh
2.4.1.1 Một số đặc điểm của bệnh nhân nghiên cứu có liên quan đến việc sử
dụng kháng sinh
- Độ tuổi – Giới tính
- Chẩn đoán ra viện
+ Bệnh chính

+ Bệnh mắc kèm
19


- Các bệnh nhiễm khuẩn
2.4.1.2 Tính hình sử dụng kháng sinh tại bệnh viện Đa khoa Tỉnh Quảng Ngãi
giai đoạn từ tháng 4 đến tháng 12 năm 2018
- Danh mục kháng sinh và mức độ sử dụng trong nghiên cứu
- Lý do sử dụng kháng sinh
- Tỷ lệ nhập viện được kê đơn 1 hay nhiều kháng sinh
- Số lượng kháng sinh trung bình được kê đơn
- Tỷ lệ sử dụng kháng sinh dự phòng trong phẫu thuật
- Thời gian sử dụng kháng sinh ở bệnh nhân phẫu thuật
- Khảo sát đường dùng kháng sinh
- Thời gian điều trị kháng sinh trung bình
- Thời gian nằm viện trung bình của bệnh nhân sử dụng kháng sinh
- Tỷ lệ bệnh án có nhật trình điều trị và công khai thuốc
- Hiệu quả điều trị
2.4.2 Tình hình kháng kháng sinh
2.4.2.1 Đặc điểm các loại vi khuẩn phân lập được
- Các loại vi khuẩn phân lập được trong thời gian nghiên cứu
- Các loại bệnh phẩm được xử dụng trong xét nghiệm vi sinh
- Tỷ lệ vi khuẩn phân lập theo từng khoa
2.4.2.2 Tính hình kháng kháng sinh của một số loài phân vi khuẩn phân lập được
- Tỷ lệ kháng thuốc của một số kháng sinh.
- Tính kháng kháng sinh của Staphylococcus
- Tính kháng kháng sinh của Enterobacter Coli
- Tính kháng kháng sinh của Pseudomonas
- Tính kháng kháng sinh của Acinetobacter
- Tính kháng kháng sinh của Klebsiella

2.5 Phương pháp xử lý số liệu

20


Số liệu được thu thập bằng phần mềm Epidata 3.1 và xử lý trên SPSS
16.0, sử dụng thống kê mô tả
Chương III: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1 Khảo sát tình hình sử dụng kháng sinh
Qua khảo sát 222 bệnh án điều trị nội trú có sử dụng kháng sinh tại
Bệnh viện Đa khoa tỉnh Quảng Ngãi từ ngày 1 tháng 4 đến ngày 31 tháng 12,
năm 2018. Kết quả như sau:
3.1.1 Đặc điểm về người bệnh trong mẫu nghiên cứu
3.1.1.1 Đặc điểm về tuổi giới của mẫu nghiên cứu
Bảng 3.1. Độ tuổi và giới tính của bệnh nhân trong mẫu nghiên cứu
Nhóm tuổi

Nam

Nữ

Tổng

n

%

N

%


n

%

0 - 14

4

1,8

2

0,9

6

2,7

15-59

52

23,4

46

20,7

98


44,1

60 trở lên

59

26,6

59

26,6

118

53,2

Tổng

115

51,8

107

48,2

222

100


Tuổi TB / SD

58,4 / 22,2

60,2 / 22,4

59,2 / 22,3

Nhận xét :
Độ tuổi trung bình của toàn mẫu nghiên cứu là 59,2; với bệnh nhân
nam 58,4; và bệnh nhân nữ 60,2.

21


×