MỞ ĐẦU
Hôn nhân là cơ sở để hình thành gia đình, gia đình là cơ sở để hình thành xã hội.
Một xã hội muốn phát triển cần có một gia đình tốt và một cuộc hôn nhân càng phải tốt.
Vì lẽ đó, Nhà nước ta luôn quan tâm, củng cố chế độ hôn nhân và gia đình và đề ra những
biện pháp ổn định quan hệ xã hội này.Tinh thần này đã được cụ thể hóa và ghi nhận trong
đạo luật cơ bản của quốc gia- Hiến pháp- như sau: Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia
đình1. Vậy nên khi xảy ra vi phạm vi phạm về hôn nhân và gia đình, Nhà nước sẽ đặt ra
những chế tài xử lý để bảo vệ này không bị xâm phạm. Cách thức xử lý đối với các
trường hợp kết hôn trái pháp luật cũng là một trong các chế tài pháp luật đưa ra để bảo vệ
quan hệ hôn nhân và gia đình . Để làm rõ hơn vấn đề này, bài viết tập trung tìm hiểu,
nghiên cứu đề tài số 02 “Đánh giá cách thức xử lý đối với các trường hợp kết hôn trái
pháp luật theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014”.
Tuy nhiên, do kiến thức còn hạn chế, những con số, dữ liệu thực tế được tìm chủ
yếu thông qua mạng internet nên không thể tránh khỏi những sai sót nên em rất mong sẽ
nhận được sự nhận xét, chỉnh sửa của các thầy cô để bài viết được hoàn thiện hơn!
NỘI DUNG
I. Khái quát chung về kết hôn và kết hôn trái pháp luật
1. Kết hôn
Từ xa xưa, dân gian đã có câu “Trai khôn thì dựng vợ, gái lớn thì gả chồng”. Hôn
nhân là cơ sở hình thành gia đình và gia đình là thành tố cấu thành của xã hội 2. “Gia đình
tốt thì xã hội mới tốt, xã hội tốt thì gia đình càng tốt”3.
Kế thừa Luật HN&GĐ năm 2000, Luật HN&GĐ năm 2014 giải thích kết hôn là
việc nữ xác lập quan hệ vợ chồng với nhau theo quy định của luật này về điều kiện kết
hôn và đăng ký kết hôn. Theo Luật HN&GĐ năm 2014 Kết hôn là việc nam và nữ xác lập
1 Khoản 2 Điều 36 Hiến pháp 2013
2 Lời nói đầu của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000
3 Giáo trình Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam, Trường Đại học Luật Hà nội, Nxb. CAND, Hà Nội, 2014, tr.88.
1
quan hệ vợ chồng với nhau theo quy định của Luật này về điều kiện kết hôn và đăng ký
kết hôn.
2. Kết hôn trái pháp luật
2.1. Khái niệm kết hôn trái pháp luật
Kết hôn là quyền tự do của công dân được pháp luật ghi nhận. Hôn nhân được Nhà
nước ghi nhận và bảo hộ nên việc kết hôn được pháp luật giới hạn trong một khuôn khổ
nhất định. Khi nam và nữ vi phạm những điều kiện kết hôn do Nhà nước đặt ra nhưng vẫn
cố tình đăng ký kết hôn là kết hôn trái pháp luật
Tại Khoản 6 Điều 3 Luật HN&GĐ năm 2014 đã giải thích “Kết hôn trái pháp luật
là việc nam nữ đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhưng một bên hoặc
cả hai bên vi phạm điều kiện kết hôn theo quy định tại điều 8 của luật này” Theo đó để có
thể khẳng định việc kết hôn là trái pháp luật thì:
(i) Việc kết hôn đó đã được ghi nhận bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền tức là đã
có đăng ký kết hôn;
(2) Có một viên nam nữ hoặc cả hai bên vi phạm một trong các điều kiện kết hôn
theo luật định
2.2.. Các trường hợp kết hôn trái pháp luật
(1)
Nam và nữ kết hôn khi chưa đạt độ tuổi kết hôn theo quy định của
pháp luật;
(2)
Thiếu sự tự nguyện của một bên hoặc cả hai bên nam nữ khi kết hôn;
(3)
Người mất năng lực hành vi dân sự kết hôn
(4)
Người đang có vợ, có chồng kết hôn với người khác;
(5)
Kết hôn giả tạo;
(6)
Kết hôn giữa những người cùng dòng máu về trực hệ, những người
có họ trong phạm vi ba đời mà kết hôn với nhau;
2
(7)
Cha mẹ nuôi kết hôn với con nuôi, người đã từng là cha mẹ nuôi với
con nuôi; bố chồng với con dâu; mẹ vợ với con rể; bố dượng với con riêng của vợ; mẹ kế
với con riêng của chồng kết hôn với nhau;
(8)
Hai người cùng giới tính kết hôn với nhau.
2.3. Pháp luật của một số quốc gia về kết hôn trái pháp luật
II. Xử lý kết hôn trái pháp luật theo quy định của pháp luật hiện hành
1. Đường lối xử lí kết hôn trái pháp luật
Việc kết hôn trái pháp luật tùy vào hành vi vi phạm, mức độ vi phạm, hoàn cảnh vi
phạm sẽ có các biện pháp xử lý khác nhau từ hành chính, dân sự tới hình sự.
Trong phạm vi bài viết, sẽ tập trung nghiên cứu cách thức xử lí dân sự đối với các
trường hợp kết hôn trái pháp luật theo pháp luật về HN&GĐ.
Hủy việc kết hôn trái pháp luật là một loại việc dân sự. Do đó, việc xử lí việc kết
hôn trái pháp luật được Tòa án giải quyết theo pháp luật tố tụng dân sự. Theo đó, kết hôn
trái pháp luật sẽ bị hủy tuy nhiên, cũng tồn tại một số ngoại lệ thể hiện tính mềm dẻo, linh
hoạt trong việc xử lý kết hôn trái pháp luật mà vẫn bảo đảm tinh thần chung theo pháp
luật về HN&GĐ (4)
2. Cách thức xử lý đối với các trường hợp kết hôn trái pháp luật
2.1. Cách thức xử lý chung đối với việc hủy kết hôn trái pháp luật
Thẩm quyền hủy kết hôn trái pháp luật hoặc công nhận quan hệ hôn nhân đều
thuộc về Tòa án nhân dân .
Khi xem xét, giải quyết yêu cầu có liên quan đến việc hủy kết hôn trái pháp luật,
Tòa án phải căn cứ vào yêu cầu của đương sự và điều kiện kết hôn quy định tại Điều 8,
đường lối xử lý việc kết hôn trái pháp luật tại Điều 11 của Luật HN&GĐ năm 2014 và
cách thức xử lý tại TTLT số 01/2016 để xem xét, quyết định: hủy kết hôn trái pháp luật
hoặc trong trường hợp cả hai bên đã đủ điều kiện kết hôn và cùng có yêu cầu thì công
nhận quan hệ hôn nhân.
4
3
Khi xử lý yêu cầu hủy kết hôn trái pháp luật, Tòa án phải căn cứ vào quy định của
pháp luật hôn nhân và gia đình có liệu lực tại thời điểm xác lập quan hệ hôn nhân để xác
định quan hệ hôn nhân có trái pháp luật hay không tại thời điểm giải quyết.
Về việc thụ lý, giải quyết đơn yêu cầu hủy kết hôn trái pháp luật được hướng
dẫn tại Điều 3TTLT số 01/2016 như sau:
(i) Người có quyền yêu cầu hủy kết hôn trái pháp luật nộp đơn yêu cầu và tài liệu,
chứng cứ chứng minh việc kết hôn vi phạm điều kiện kết hôn. Trường hợp người yêu cầu
là người bị cưỡng ép, bị lừa dối kết hôn (Khoản 1 Điều 10) phải nộp Giấy chứng nhận
đăng ký kết hôn; trường hợp vợ chồng có đăng ký kết hôn nhưng không cung cấp được
Giấy chứng nhận kết hôn do thất lạc thì phải có xác nhận của UBND đã cấp Giấy chứng
nhận kết hôn.
(ii) Tòa án thụ lý, giải quyết yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp khi việc kết hôn đó
đã được đăng ký tại đúng cơ quan có thẩm quyền. Trường hợp nam, nữ đăng ký kết hôn
tại đúng cơ quan có thẩm quyền đăng ký kết hôn mà yêu cầu Tòa án hủy việc kết hôn trái
pháp luật thì Tòa án xử lý yêu cầu hủy kết hôn trái pháp luật.
- Trường hợp nam, nữ có đăng ký kết hôn nhưng việc kết hôn đăng ký tại không
đúng cơ quan có thẩm quyền (không phân biệt có vi phạm điều kiện kết hôn hay không)
mà có yêu cầu Tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật hoặc yêu cầu ly hôn thì Tòa án tuyên
bố không công nhận quan hệ hôn nhân giữa họ đồng thời hủy Giấy chứng nhận kết hôn và
thông báo cho cơ quan hộ tịch đã đăng ký kết hôn để xử lý việc đăng ký kết hôn không
đúng thẩm quyền.
- Trường hợp nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không có đăng ký
kết hôn (không phân biệt có vi phạm điều kiện kết hôn hay không) và có yêu cầu hủy việc
kết hôn trái pháp luật hoặc yêu cầu ly hôn thì Tòa án thụ lý, giải quyết tuyên bố không
công nhận quan hệ hôn nhân giữa họ.
4
2.2. Cách thức xử lý đối với từng trường hợp kết hôn trái pháp luật cụ thể
2.2.1. Trường hợp hai bên kết hôn trái pháp luật tại thời điểm kết hôn nhưng sau đó
có thể đáp ứng đủ điều kiện kết hôn
2.2.1.1 Xử lý trong trường hợp kết hôn vi phạm về độ tuổi
Theo Điều 4 Luật HN&GĐ năm 2014 thì độ tuổi kết hôn được quy định như sau:
“Nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lêm”. Như vậy, trong mọi trường hợp
nam, nữ chưa đủ tuổi quy định như trên mà kết hôn nên sẽ bị coi là trái pháp luật. Luật
HN&GĐ năm 2000 còn quy định nam từ 20 tuổi trở lên, nữ từ 18 tuổi trở lên thì được kết
hôn tức là không cần phải đủ 20 tuổi đối với nam và 18 tuổi đối với nữ. Tuy nhiên Luật
HN&GĐ năm 2014 đã quy định định độ tuổi kết hôn theo hướng nam, nữ phải đủ tuổi
tròn. Khi xác định độ tuổi kết hôn của nam, nữ để xác định điều kiện kết hôn cũng như để
giải quyết yêu cầu hủy kết hôn trái pháp luật, Tòa án phải lưu ý: Độ tuổi của nam, nữ
được xác định theo ngày, tháng, năm sinh. Trường hợp không xác định được ngày sinh,
tháng sinh thì: (i) Nếu xác định được năm sinh những không xác định được tháng sinh thì
tháng sinh được xác đình là tháng một của năm sinh, (ii) Nếu xác định được năm sinh,
tháng sinh những không xác định được ngày sinh thì ngày sinh được xác định là ngày
mùng một của tháng sinh.5
Các trường hợp kết hôn do vi phạm về độ tuổi được xử lý theo Điều 11 Luật
HN&GĐ năm 2014, Điều 4 TTLT 01/2016 như sau:
(i) Trường hợp tại thời điểm kết hôn, hai bên kết hôn không đủ tuổi kết hôn nhưng
sau đó đã đủ độ tuổi kết hôn thì:
- Tại thời điểm giải quyết yêu cầu hủy kết hôn trái pháp luật, nêu hai bên kết hôn
cùng yêu cầu Tòa án công nhận quan hệ hôn nhân thì Tòa án quyết định công nhận quan
hệ hôn nhân đó kể từ thời điểm các bên kết hôn đủ tuổi kết hôn
- Nếu một hoặc hai bên yêu cầu hủy kết hôn trái pháp luật hoặc có một bên yêu cầu
công nhận quan hệ hôn nhân hoặc có một bên yêu cầu ly hôn mà bên còn lại không có yêu
cầu thì Tòa án quyết định hủy việc kết hôn trái pháp luật.
5 Khoản 1 Điều 2 TTLT số 01/2016
5
- Trường hợp hai bên cùng yêu cầu Tòa án cho ly hôn hoặc có một bên yêu cầu ly
hôn còn bên kia yêu cầu công nhận quan hệ hôn nhân thì Tòa án giải quyết cho ly hôn.
(ii) Trường hợp hai bên đã đăng ký kết hôn nhưng tại thời điểm Tòa án giải quyết
hai bên kết hôn vẫn không đủ tuổi kết hôn theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình
thì:
- Nếu có yêu cầu hủy kết hôn trái pháp luật thì Tòa án quyết định hủy việc kết hôn
trái pháp luật;
- Nếu một hoặc cả hai yêu cầu ly hôn hoặc yêu cầu công nhận quan hệ hôn nhân
thì Tòa án bác yêu cầu của họ và quyết định hủy việc kết hôn trái pháp luật.
Nhận xét: Luật HN&GĐ năm 2014 cũng như các văn bản hướng dẫn thi
hành Luật HN&GĐ năm 2014 đã nhất quán và quy định chặt chẽ về độ tuổi kết hôn cũng
như cách xác định độ tuổi kết hôn tạo điều kiện áp dụng chính xác pháp luật trong thực
tiễn. Cách thức xử lý đối với các trường hợp vi phạm về độ tuổi kết hôn tại thời điểm
đang ký kết hôn hợp lý, linh hoạt.
Ngoại trừ trường hợp tại thời điểm Tòa án giải quyết, các bên vẫn không đủ tuổi
kết hôn sẽ bị Tòa án quyết định hủy kết hôn trái pháp luật thì việc xử lý đối với các
trường hợp vi phạm độ tuổi kết hôn nhưng tại thời điểm Tòa án giải quyết đã đủ tuổi kết
hôn mang tính mềm dẻo, linh hoạt, hợp lý với thực tế của xã hội: tạo điều kiện để nam, nữ
xây dựng hạnh phúc gia đình; tôn trọng sự tự nguyện của các bên. Nếu cả hai bên muốn
tiếp tục chung sống với nhau thì Tòa án công nhận quan hệ hôn nhân và ngược lại, nếu có
sự phản đối của ít nhất một bên trong quan hệ hôn nhân thì Tòa án không công nhân quan
hệ hôn nhân. Điều này hoàn toàn có cơ sở, vừa giải quyết được một cách hợp tình, hợp
lý; tránh các thủ tục chồng chéo, mất thời gian, gây khó khăn cho người dân; thể hiện tính
mềm dẻo, linh hoạt, phù hợp với thực tiễn của pháp luật.
2.2.1.2 Xử lý trong trường hợp kết hôn do bị cưỡng ép, bị lừa dối
Theo Điều 11 Luật HN&GĐ năm 2014, Điều 4 TTLT 01/2016 việc xử lý trường
hợp này được quy định như sau:
6
- Tại thời điểm có yêu cầu hủy kết hôn trái pháp luật mà sự vi phạm vẫn chưa được
khắc phục, một trong hai bên không thể tiếp tục chung sống với nhau hoặc chỉ có một bên
yêu cầu công nhận quan hệ hôn nhân của họ thì Tòa án sẽ quyết định hủy kết hôn trái
pháp luật.
- Nếu tại thời điểm yêu cầu hủy kết hôn trái pháp luật, các bên đã tự khắc phục
được sự vi phạm về sự tự nguyện, họ đã bỏ qua sự lừa dối, cưỡng ép, yêu thương, muốn
tiếp tục chung sống với nhau và đồng thời cả hai bên yêu cầu Tòa án công nhận quan hệ
hôn nhân của họ thì Tòa án sẽ không hủy kết hôn trái pháp luật mà sẽ ra quyết định yêu
cầu công nhận quan hệ hôn nhận của họ tại thời điểm họ đủ điều kiện kết hôn.
Nhận xét: Cũng như trường hợp hủy kết hôn do vi phạm độ tuổi kết hôn,
không phải trường hợp vi phạm sự tự nguyện khi kết hôn đều bị Tòa án tuyên bố hủy mà
tùy từng trường hợp khi có yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật lại có cách thức xử lý
khác nhau. Nếu tại thời điểm Tòa án giải quyết mà họ đã tự nguyện chung sống, xây dựng
gia đình hạnh phúc thì pháp luật tôn trọng quyền quyết định của họ mà đảm bảo nguyên
tắc của Luật Hôn nhân gia đình là Hôn nhân tự nguyện, tiến bộ; gia đình ấm no, tiến bộ,
hạnh phúc.
2.2.1.3 Xử lý trong trường hợp vi phạm nguyên tắc hôn nhân một vợ, một chồng
Trường hợp vi phạm nguyên tắc hôn nhân một vợ, một chồng được xử lý như sau:
- Tại thời điểm Tòa án giải quyết, nếu một trong hai bên hoặc cả hai bên vẫn đang
tồn tại một quan hệ hôn nhân hợp pháp thì Tòa án sẽ quyết định hủy kết hôn trái pháp
luật; hoặc tuy không còn tồn tại quan hệ hôn nhân hợp pháp nào khác nhưng chỉ có một
bên hoặc không có bên nào yêu cầu công nhận quan hệ hôn nhân của họ thì Tòa án vẫn
quyết định hủy kêt hôn trái pháp luật.
- Trường hợp tại thời điểm có yêu cầu hủy kết hôn trái pháp luật mà cả hai bên
không tồn tại quan hệ hôn nhân hợp pháp (do vợ, chồng trước của họ đã chết hoặc đã ly
hôn sau thời điểm hai bên đăng ký kết hôn) nhưng sau đó đã đủ điều kiện kết hôn và cả cả
hai bên cùng yêu cầu Tòa án công nhận quan hệ hôn nhân của họ thì Tòa án không quyết
7
định hủy kết hôn trái pháp luật mà sẽ ra quyết định công nhận quan hệ hôn nhận của họ có
hiệu lực tại thời điểm mà họ đủ điều kiện kết hôn.
Nhận xét: Cách thức xử lý trên thể hiện rất rõ thái độ của Nhà nước trong
việc bảo hộ hôn nhân và gia đình, bảo vệ chế độ hôn nhân một vợ một chồng, bảo đảm
quyền và lợi ích của người vợ, người chồng hợp pháp. Hôn nhân sau chỉ được công nhận
khi đáp ứng đầy đủ các điều kiện kết hôn tại thời điểm giải quyết yêu cầu.
Mặt khác, theo Khoản 4 Điều 4 TTLT 01/2016, đối với yêu cầu hủy kết hôn trái
pháp luật thuộc trường hợp cán bộ và bộ đội miền Nam tập kết ra miền Bắc từ năm 1954,
đã có vợ, có chồng ở miền Nam mà lấy vợ, lấy chồng ở miền Bắc thì vẫn xử lý theo
Thông tư số 60/TATC/1978 của Tòa án nhân dân tối cao “Hướng dẫn giải quyết các
trường hợp cán bộ. bộ đội trong Nam tập kết ra Bắc mà lấy vợ, lấy chồng khác”. Theo đó,
đây là trường hợp có tính ngoại lệ, có vi phạm điều kiện kết hôn của Luật HN&GĐ năm
2014 nhưng không nhất thiết phải xử lý hủy kết hôn sau của họ mà tùy từng trường hợp,
khi có yêu cầu của đương sự, Tòa án có thể giải quyết cho ly hôn nếu các đương sự mong
muốn chấm dứt hôn nhân. Trong trường hợp hoặc người chồng hoặc người vợ ở miền
Nam yêu cầu hủy kết hôn cho vợ hoặc chồng mình với người ở miền Bắc thì Tòa án cần
giải thích cho họ thấy rõ hoàn cảnh của đất nước dẫn đến tình trạng này bà khuyên họ rút
đơn. Vì trong trường hợp này, Tòa án sẽ không chấp nhận yêu cầu của đương sự. Đây là
quy định ngoại lệ, bởi do hoàn cảnh lịch sử đặc biệt của đất nước khi có nhiều bộ đội
miền Nam ra kháng chiến tại miền Bắc trước những năm 1975 không tìm lại được ra
đình, thêm đó thời đại loạn lạc, thông tin kém, hiểu biết về pháp luật về hôn nhân, gia
đình còn hạn chế nên những người này đã tiến hành xây dựng một gia đình mới để chung
sống.
Nhận xét: Quy định như vậy là hợp lý, tạo điều kiện pháp lý để họ có một
gia đình hạnh phúc trong thời kỳ đất nước độc lập.
2.2.1.4. Xử lý trong trường hợp kết hôn với người mất năng lực hành vi dân sự
Theo quy định tại Điều 8 Luật HN&GĐ năm 2014, người mất năng lực hành vi
dân sự sẽ không thể kết hôn. Tuy nhiên, người mất năng lực hành vi dân sự kết hôn trái
8
pháp luật sẽ đủ điều kiện kết hôn khi họ được phục hồi năng lực hành vi dân sự của mình
theo quyết định của Tòa án.
- Khi có yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật nếu bên mất năng lực hành vi dân
sự đã được phục hồi năng lực hành vi dân sự và cả hai bên có yêu cầu công nhận quan hệ
hôn nhận của họ thì Tòa án sẽ không quyết định hủy bỏ việc kết hôn trái pháp lyật và ra
quyết định công nhận quan hệ hôn nhân của họ từ thời điểm họ có đủ điều kiện kết hôn
(tại thời điểm quyết định phục hồi năng lực hành vi dân sự của Tòa án có hiệu lực).
- Tuy nhiên, nếu tại thời điểm giải quyết, có một bên vẫn bị Tòa án tuyên bố mất
năng lực hành vi dân sự hoặc đã được phục hồi nhưng chỉ có một bên yêu cầu công nhận
quan hệ hôn nhân của họ thì Tòa án quyết định hủy việc kết hôn trái pháp luật.
Nhận xét: Cũng như các trường hợp trên, quy định này là hoàn toàn phù
hợp, khi bên bị mất năng lực hành vi dân sự đã phục hồi theo quyết định của Tòa án và
có yêu cầu công nhận của hai bên kết hôn trái pháp luật thì không nhất thiết phải hủy kết
hôn trái pháp luật giữa họ nữa mà sẽ hướng tới sự công nhận quan hệ hôn nhân hợp pháp
giữa họ.
2.2.2. Trường hợp hai bên kết hôn trái pháp luật tại thời điểm kết hôn và và những
vi phạm tại thời điểm kết hôn không bao giờ có thể khắc phục được.
2.2.2.1. Xử lý trong trường hợp kết hôn giả tạo
Kết hôn giả tạo là việc lợi dụng kết hôn để xuất cảnh, nhập cảnh, cư trú, nhập
quốc tich Việt Nam, quốc tịch nước ngoài; hưởng chế độ ưu đãi của Nhà nước hoặc để
đạt được mục đích khác không nhằm mục đích xây dựng gia đình6.
Trong trường hợp này, tuy xuất phát từ sự tự nguyện của hai bên nam, nữ nhưng
không có mục đích chung sống, xây dựng gia đình mà lại hướng tới một mục đích khác
nên sau khi kết hôn, họ thường không chung sống với nhau mà chỉ cố gắng đạt được các
mục đích như xuất, nhập cảnh hay nhập quốc tịch. Mọi trường hợp kết hôn giả tạo nếu bị
phát hiện đều sẽ bị Tòa án tuyên bố hủy. Trên thực tế rất khó bị phát hiện vì khi đi đăng
6 Khoản 1 Điều 3 Luật H2014
9
ký kết hôn hai bên đều bày tỏ sự tự nguyện của mình trước cơ quan nhà nước có thẩm
quyền và việc chứng minh hai người không có mục đích xây dựng gia đình rất khó khăn.
Nhận xét: Có thể thấy, đối với trường hợp này, hành vi kết hôn giả tạo đi
ngược lại với nguyên tắc của Hôn nhân và gia đình, hai bên kết hôn cố ý lừa dối cơ quan
nhà nước để thực hiện các mục đích khác mà không phải là chung sống, xây dựng gia
đình. Ngay từ đầu, đã không tồn tại bất cứ một mối quan hệ gia đình giữa họ: hai người
không có quyền, nghĩa vụ nào đối với nhau; không phát sinh quan hệ liên quan đến tài
sản, con cái. Vậy nên khi cả hai bên đã không có ý thức về việc xây dựng gia đình, tức
không muốn phát sinh quan hệ hôn nhân và gia đình với nhau thì cần thiết phải đưa ra
quyết định hủy kết hôn trái pháp luật giữa họ.
2.2.2.2. Xử lý trong trường hợp kết hôn giữa những người có cùng dòng máu trực hệ;
giữa những người có họ trong phạm vi ba đời
Trong mọi trường hợp, khi có yêu cầu thì Tòa án sẽ ra quyết định hủy việc kết hôn
trái pháp luật vi phạm điều cấm trên.
Nhận xét: Xét về mặt y học, khoa học chứng minh hôn nhân cận huyết khiến
những đứa trẻ được sinh ra có khả năng cao mắc các bệnh di truyền do sự ảnh hưởng của
môi trường đối với sự kết hợp của các gien lặn mang bệnh. Trẻ mắc bệnh có thể bị biến
dạng xương mặt, bụng phình to, có thể dẫn đến nguy cơ tử vong. Nếu những gen lặn bệnh
lý ở chồng và vợ kết hợp với nhau còn có thể sinh ra con dị dạng hoặc bệnh di truyền như
mù màu, bạch tạng, da vảy cá, đặc biệt phổ biến là căn bệnh tan máu bẩm sinh
Thalassemia. Nó không chỉ ảnh hưởng tới sự phát triển sinh học của thế hệ con cái mà
còn gây ra áp lực đối với gia đình và gánh nặng đối với toàn xã hội. Ngoài ra, xét về mặt
xã hội, kết hôn giữa những người có quan hệ huyết thống là “loạn luân”, đi ngược lại với
phong tục tập quán, truyền thống đạo đứa của cha ông ta. Bởi vậy, Luật HN&GĐ năm
2014 như vậy là hoàn toàn phù hợp
10
2.2.2.3. Xử lý trong trường hợp kết hôn giữa cha mẹ nuôi kết hôn với con nuôi, người đã
từng là cha mẹ nuôi với con nuôi; bố chồng với con dâu; mẹ vợ với con rể; bố dượng với con
riêng của vợ; mẹ kế với con riêng của chồng với nhau
Trong mọi trường hợp, khi có yêu cầu, Tòa án sẽ ra quyết định hủy việc kết hôn
trái pháp luật nếu việc kết hôn thuộc các trường hợp kể trên.
Nhận xét: Khác với trường hợp trên, việc kết hôn giữa những người này tuy không
gây ảnh hưởng xấu về mặt sinh học, ảnh hưởng tới chất lượng dân số, giống nòi mà nó
ảnh hưởng nghiêm trọng tới nguyên tắc của Hôn nhân gia đình “Kế thừa, phát huy truyền
thống văn hóa, đạo đức tốt đẹp của dân tộc Việt Nam về hôn nhân và gia đình” 7 Tuy rằng
có một số ý kiến đã cho rằng, có thể cho phép những người này kết hôn với nhau bởi giữa
họ không có mối quan hệ huyết thống và để phù hợp với sự hội nhập quốc tế khi một số
quốc gia phương Tây cũng quy định về điều này. Nhưng theo cá nhân tác giả nhận thấy,
đây là phong tục tập quán lâu đời, mang đậm bản sắc Việt nên việc Tòa án ra quyết định
hủy việc kết hôn trái pháp luật trong trường hợp trên là có cơ sở. Chúng ta hòa nhập với
thế giới nhưng chúng ta không thể hòa tan nên việc Tòa án không công nhận việc kết hôn
giữa những người này là việc làm cần thiết để giữ gìn thuần phong mỹ tục, nét đẹp văn
hóa của Việt Nam. Vì vậy, khi có yêu cầu hủy kết hôn trái pháp luật, Tòa án sẽ ra quyết
định hủy việc kết hôn trái pháp luật do vi phạm điều cấm trên.
2.2.2.4 Xử lý trong trường hợp kết hôn giữa những người cùng giới tính
Hiện nay, Nhà nước ta vẫn chưa thừa nhận hôn nhân đồng tính, mặc dù đã bỏ quy
định kết hôn giữa những người cùng giới tính. Đây là sự tiến bộ lớn trong cả trong nhận
thức và trong áp dụng pháp luật về tôn trọng quyền, lợi ích chính đáng, hợp pháp của
người đồng tính nói riêng, cộng đồng người yếu thế nói chung.Vậy nên, các trường hợp
kết hôn cùng giới nếu có yêu cầu Tòa án sẽ ra quyết định hủy kết hôn trái pháp luật.
Nhưng đối với những người chuyển giới, họ có quyền thay đổi về hộ tịch, thông tin
về giới tính mới của họ theo quy định của pháp luật dân sự 8. Tuy nhiên, pháp luật Việt
7 Khoản 5 Điều 2. Những nguyên tắc cơ bản của chế độ hôn nhân và gia đình. Luật H2014
8 Điều 37 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định “Việc chuyển đổi giới tính được thực hiện thao quy định của luật. Cá
nhân đã chuyển đổi giới tính cá quyền, nghĩa vụ đăng ký thay đổi hộ tịch theo quy định của pháp luật về hộ tịch; có
quyền nhân thân phù hợp với giới tính đã được chuyển đổi theo quy định.”
11
Nam chưa có những quy định cụ thể về các trường hợp được công nhận là người chuyển
giới nên còn khá nhiều những vướng mắc xung quanh vấn đề này (Ví dụ như người
chuyển giới từ nam sang nữ có được thay đổi giới tính không? Người chuyển đổi giới tính
phẫu thuật tới đâu thì được pháp luật công nhận về chuyển đổi giới tính?, v.v....)
III. Thực tế việc xử lí kết hôn trái pháp luật ở Việt Nam hiện nay
1. Việc xử lý kết hôn trái pháp luật trên thực tế của Tòa án
Tuy đã được quy định, hướng dẫn chi tiết về cách thức xử lý trong các trường hợp
kết hôn trái pháp luật nhưng nhìn chung trong các vụ việc về hôn nhân và gia đình đã thụ
lý, giải quyết thì số lượng các vụ việc xử lý kết hôn trái pháp luật chiếm tỉ lệ rất nhỏ, con
số chỉ đếm trên đầu ngón tay hoặc có những Tòa án, có năm không xử lý một vụ việc nào.
Ví dụ, bảng số liệu thống kế về tình hình giải quyết các vụ việc kết hôn trái pháp
luật từ năm 2011 đến năm 2015 của TAND huyện Biên Đông9
2. Những khó khăn, vướng mắc trong việc liên quan đến việc xử lý kết hôn
trái pháp luật trên thực tế
- Trên thực tế, yêu cầu do các chủ thể Cơ quan quản lý nhà nước về gia đình, Cơ
quan quản lý nhà nước về trẻ em, Hội liên hiệp phụ nữ hầu như không được triển khai
9Hủy kết hôn trái pháp luật tại Tòa án nhân dân huyện Điện Biên Đông, tỉnh Điện Biên, Luận văn thạc sĩ
luật học, Tráng A Say, TS. Nguyễn Phương Lan hướng dẫn, tr.54
12
trên thực tế mà chủ yếu do các cá nhân chủ động tiến hành hủy kết hôn trái pháp luật.
Điều đó, dẫn tới việc phát hiện và xử lý các trường hợp kết hôn trái pháp luật chưa đầy
đủ, toàn diện, còn bỏ sót rất nhiều trường hợp kết hôn trái pháp luật trên thực tế. Ví dụ
như các trường hợp tảo hôn, cưỡng ép, ép buộc hôn nhân tự nguyện, tiến bộ chưa đượ xử
lí đặc biệt là ở những nơi có điều kiện kinh tế- xã hội chưa phát triển, chịu ảnh hưởng
nặng nề của phong tục, tập quán.
- Chất lượng đội ngũ cán bộ Tư pháp xã chưa cao, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ
còn hạn chế, cơ sở vật chất nghèo nàn. Điều đó dẫn tới tình trạng gặp khó khăn trong việc
xác minh tình trạng hôn nhân hoặc quan hệ huyết thống, sự tự nguyện của các bên khi
đăng ký kết hôn dẫn đến việc kết hôn trái pháp luật.
- Tính khả thi của việc thực hiện các quyết định của Tòa án khi thực hiện việc hủy
kết hôn trái pháp luật. Khi tòa án buộc các bên chấm dứt việc sống chung như vợ chồng
chưa được quy định cụ thể về cơ chế kiểm soát, chế tài xử lí nếu các bên vẫn cố tình sống
chung với nhau.
Những vướng mặc, hạn chế trên đã ảnh hưởng không nhỏ tới việc xử lý những
trường hợp hủy kết hôn trái pháp luật và có tác động tiêu cực tới việc xây dựng, củng cố
chế độ HN&GĐ tiến bộ, bền vững
IV. Phương hướng giải quyết và các đề xuất giải pháp hạn chế kết hôn
trái pháp luật
1. Phương hướng giải quyết
Phương hướng giải quyết và hoàn thiện pháp luật về hủy kết hôn trái pháp luật
Quan hệ xã hội, cũng giống như các sự vật hiện tượng khác, luôn luôn vận động và
phát triển. Vì vậy, đòi hỏi Nhà nước luôn phải điều chỉnh các quy phạm pháp luật nói
chung và pháp luật hôn nhân gia đình nói riêng sao cho phù hợp với hiện thực khách quan
của xã hội. Trong giai đoạn hiện nay, nhìn chung, có thể hoàn thiện luật hôn nhân và gia
đình theo những hướng sau :
13
Thứ nhất lấy quyền của người tham gia quan hệ hôn nhân và gia đình là mục tiêu
phát triển. Qua đó nhà nước ban hành những quy phạm pháp luật hướng tới việc bảo vệ
quyền con người, quyền của phụ nữ nữ và trẻ em trong quan hệ hôn nhân và gia đình
Thứ hai, thể hiện chủ trương của đảng trong việc xây dựng gia đình giàu mạnh
tiến bộ và phát triển
Thứ ba, đảm bảo việc thống nhất và đồng bộ các văn bản quy phạm pháp luật
trong hệ thống luật hôn nhân và gia đình
Thứ tư, xây dựng chế độ hôn nhân gia đình thể hiện rõ truyền thống văn hóa tốt
đẹp của dân tộc.
2. Các đề xuất giải pháp
2.1. Đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật
Thứ nhất, cần có hướng dẫn cụ thể hơn về trường hợp nào được coi là kết hôn do
bị lừa dối . Theo khoản 2 điều 2 Thông tư liên tịch số 01/2016 thì lừa dối kết hôn theo quy
định tại điểm b khoản 2 điều 5 của Luật HN&GĐ là hành vi cố ý của một bên hoặc để
của người thứ ba nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch và dẫn đến việc đồng ý kết hôn; nếu
không có hành vi này thì bên bị lừa dối đã không đồng ý kết hôn .
Tuy nhiên khi xem xét hủy kết hôn trái pháp luật với căn cứ là một bên bị lừa dối
thì thì rất khó để có thể xác định hành vi lừa đó có đủ nghiêm trọng đến mức phải hủy kết
hôn hay không. Ví dụ như lừa dối về nghề nghiệp, thu nhập, tài sản sở hữu, hứa hẹn, bệnh
tật,...
Thứ hai, về điều kiện kết hôn liên quan tới người bị mất năng lực hành vi dân sự.
Bởi lẽ hiện nay khi một người bị Tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự mới bị coi
là không đủ điều kiện kết hôn. Nếu người đó bị tâm thần thật trên thực tế nhưng chưa bị
tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự thì vẫn không có căn cứ để cấm người đó kết
hôn và hủy kết hôn trái pháp luật. Trên thực tế thế rất hiếm trường hợp người thân của
người mắc các bệnh về thần kinh nộp đơn yêu cầu tòa án tuyên bố người đó mất năng lực
hành vi dân sự khiến cho việc hủy kết hôn trong trường hợp này còn rất hạn chế .
14
Thứ ba, cần có quy định bắt buộc về điều kiện kết hôn trong trường hợp một hoặc
cả hai bên được sinh ra theo phương pháp khoa học. Ngày nay với sự phát triển của y học
số lượng người được sinh ra theo phương pháp khoa học ngày càng nhiều. Vì vậy nếu một
trong hai người hoặc cả hai người được sinh ra theo phương pháp khoa học này thì có thể
rơi vào trường hợp kết hôn cận huyết . Bởi vậy để tránh trường hợp kết hôn cận huyết.
Theo quan điểm của tác giả khi một hoặc cả hai bên nam, nữ được sinh ra theo phương
pháp khoa học đăng ký kết hôn thì cơ quan chức năng có thẩm quyền cần yêu cầu họ xuất
trình giấy xét nghiệm ADN khẳng định không phải là là có quan hệ huyết thống mà pháp
luật quy định cấm kết hôn.
Thứ tư, cần quy định rõ thủ tục xác minh nhân thân của các bên khi đăng ký kết
hôn. Trên thực tế khi thực hiện đăng ký kết hôn các cán bộ Tư pháp chủ yếu xem xét lời
khai của các bên. Như vậy rất dễ xảy ra trường hợp những người đã có vợ có chồng kết
hôn với người khác hay trường hợp kết hôn giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi; giữa những
người từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi; bố chồng với con dâu; mẹ vợ với con rể; mẹ kế
với con riêng của chồng .
Thứ năm, đề xuất công nhận kết hôn giữa những người cùng giới tính. Theo luật
HN&GĐ năm 2014, Nhà nước ta không còn cấm kết hôn giữa những người cùng giới tính
nhưng vẫn chưa được sự thừa nhận của Nhà nước và pháp luật. Vì vậy việc kết hôn giữa
những người cùng giới tính ở Việt Nam vẫn bị coi là trái phép và cơ quan nhà nước có
thẩm quyền hiện nay cũng không thực hiện việc đăng ký kết hôn cho hai người đồng tính.
Thiết nghĩ nhà nước ta nên dần dần từng bước công nhận kết hôn đồng tính qua việc cho
phép họ đăng ký kết hôn như những công dân khác, công nhận giá trị pháp lý của việc kết
hôn đồng tính. Bởi lẽ, đồng tính không phải lỗi của họ mà là một xu hướng tính dục tự
nhiên và những người kết hôn đồng tính trong xã hội ngày nay sau khi về chung sống với
nhau vẫn có thể xây dựng gia đình hạnh phúc, tạo ra của cải vật chất góp phần xây dựng
xã hội, đất nước. Hơn nữa về mặt nhân quyền khi con người sinh ra ai cũng có quyền mưu
cầu hạnh phúc. Bởi vậy việc cho phép kết hôn đồng tính sẽ tạo điều kiện cho họ có đời
sống thuận lợi hơn cũng như có cơ sở pháp lý để bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng
của họ .
15
2.2. Các giải pháp khác:
Thứ nhất, cần tăng cường phổ biến, tuyên truyền và giáo dục pháp luật về
HN&GĐ đặc biệt đối với vùng cao và dân tộc thiểu số.
Thứ hai, nâng cao trình độ chuyên môn, tinh thần trách nhiệm của đội ngũ cán bộ
tư pháp, thẩm phán giải quyết các vấn đề HN&GĐ.
16
KẾT LUẬN
Qua những tìm hiểu của bài viết, ta có thể nhìn nhận tổng quan về cách thức xử lý
của Nhà nước đối với các trường hợp kết hôn trái pháp luật. Đường lỗi xử lý được đánh
giá trên nhiều góc độ, khía cạnh khác nhau để bảo đảm xử lý tốt nhất mà vẫn bảo đảm
quyền, lợi ích chính đáng của nam, nữ kết hôn trái pháp luật, bảm đảm chất lượng dân số,
bảo đảm nguyên tắc HN&GĐ, bảo vệ chế độ HN&GĐ một cách thấu tình, đạt lý, đủ sức
răn đe, giáo dục.
Như vậy, có thể kết luận rằng cách thức xử lý quy định trong luật là khá phù hợp
với thực tiễn của xã hội. Theo đó những trường hợp kết hôn trái pháp luật nhưng các bên
nam, nữ trong đó đã khắc phục được tình trạng vi phạm, có sự yêu thương, muốn chung
sống với nhau để xây dựng gia đình hạnh phúc thì sẽ được thừa nhận quan hệ hôn nhân.
Ngược lại, những trường hợp kết hôn trái pháp vi phạm điều cấm của Luật HN&GĐ sẽ bị
tuyên bố hủy trong mọi trường hợp. Những cách thức xử lý thể hiện tính thích nghi, linh
hoạt và mềm dẻo của pháp luật mà vẫn đảm bảo tinh thần chung của HN&GĐ.
Ngoài ra, bài viết đã đưa ra thực tiễn về kết hôn trái pháp luật, đưa ra những hạn
chế của pháp luật về vấn đề này cũng như đưa ra một số những giải pháp, kiến nghị để
góp phần hoàn thiện hơn nữa pháp luật hôn nhân và gia đình trên cơ sở bảo vệ quyền con
người và vì con người.
17
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hiến pháp nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam 2013.
2. Luật HN&GĐ năm 2000;
3. Luật HN&GĐ năm 2014;
4. Thông tư liên tịch số 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 06/01/2016
của Tòa án nhân dân Tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao, Bộ Tư pháp hướng
dẫn thi hành một số quy định của Luật hôn nhân và gia đình số 52/2014/QH13
(Luật hôn nhân và gia đình năm 2014);
5. TS. Ngô Thị Hường (chủ biên), Hướng dẫn học tập, tìm hiểu Luật Hôn nhân và gia
đình Việt Nam, NXB Lao động năm 2015;
6. Bất cập của quy định hủy kết hôn trái pháp luật, Huyền Trang, Dân chủ và pháp
luật, Số chuyên đề Sửa đổi, bổ sung Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, 2013,
tr.144-149;
7. Hủy kết hôn trái pháp luật tại Tòa án nhân dân huyện Điện Biên Đông, tỉnh Điện
Biên, Luận văn thạc sĩ luật học, Tráng A Say, TS. Nguyễn Phương Lan hướng dẫn,
Hà Nội, 2016
8. Hủy kết hôn trái pháp luật và hậu quả pháp lý, Luận văn thạc sĩ luật học, Nguyễn
Tuấn Anh, GS.TS.Nguyễn Văn Cừ hướng dẫn, Hà Nội, 2016
9. />
ItemID=5773
18
toc/Pages/Default.aspx?
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU............................................................................................................................ 1
NỘI DUNG........................................................................................................................ 1
I. Khái quát chung về kết hôn và kết hôn trái pháp luật............................................1
1. Kết hôn..................................................................................................................... 1
2. Kết hôn trái pháp luật...............................................................................................2
II. Xử lý kết hôn trái pháp luật theo quy định của pháp luật hiện hành...................3
1. Nguyên tắc chung về xử lí kết hôn trái pháp luật.....................................................3
2. Cách thức xử lý đối với các trường hợp kết hôn trái pháp luật.................................3
III. Thực tế việc xử lí kết hôn trái pháp luật ở Việt Nam hiện nay..........................11
1. Việc xử lý kết hôn trái pháp luật trên thực tế của Tòa án........................................11
2. Những khó khăn, vướng mắc trong việc liên quan đến việc xử lý kết hôn trái pháp
luật trên thực tế..........................................................................................................12
IV. Phương hướng giải quyết và các đề xuất giải pháp hạn chế kết hôn trái pháp
luật................................................................................................................................ 13
1. Phương hướng giải quyết.......................................................................................13
2. Các đề xuất giải pháp.............................................................................................14
KẾT LUẬN...................................................................................................................... 16
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................17
19