Trường Đại học Trà Vinh QT7.1/PTCT1-BM7
Lý thuyết tài chính – tín dụng
1
TÊN MÔN HỌC:
LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ
MÃ SỐ:
THỜI LƯỢNG
CHƯƠNG TRÌNH:
Lý thuyết: 45 tiết
Thực hành: 00 giờ
Tổng công:
45 tiết/giờ
Giờ tự học cần có: 40 giờ
ĐIỀU KIỆN TIÊN QUYẾT/
SONG HÀNH:
MÔ TẢ MÔN HỌC:
Giúp sinh viên hiểu rõ những vấn đề cơ bản về tài
chính; nguồn ngân sách nhà nước, hoạt động của
các tổ chức trung gian và thị trường tài chính; Nhận
biết được các hình thức hoạt động tài chính vĩ mô;
hiểu rõ những vấn đề cơ bản của tiền tệ và lưu
thông tiền tệ và tín dụng; Xác định được tầm quan
trọng của hệ thống ngân hàng trong nền kinh tế thị
trường;
Mô tả được lạm phát và chính sách kiềm chế
lạm của ngân hàng trung ương; Mô tả được các hình
thức quan hệ thanh toán và tín dụng quốc tế
ĐIỂM ĐẠT:
- Tiểu luận: 100%
Trường Đại học Trà Vinh QT7.1/PTCT1-BM7
Lý thuyết tài chính – tín dụng
2
CẤU TRÚC
MÔN HỌC
KQHT 1: Trình bày những vấn đề cơ bản về tài chính
KQHT 2: Trình bày nguồn ngân sách nhà nước
KQHT 3: Mô tả các tổ chức trung gian và thị trường tài
chính
KQHT 4: Nhận biết các hình thức hoạt động tài chính vĩ
mô
KQHT 5: Trình bày những vấn đề cơ bản của tiền tệ và
lưu thông tiền tệ
KQHT 6: Trình bày những vấn đề cơ bản của tín dụng
KQHT 7: Xác định tầm quan trọng của hệ thống ngân
hàng trong nền kinh tế thị trường
KQHT 8: Mô tả lạm phát và chính sách tiền tệ của ngân
hàng trung ương
KQHT 9: Mô tả các hình thức quan hệ thanh toán và tín
dụng quốc tế
Trường Đại học Trà Vinh QT7.1/PTCT1-BM7
Lý thuyết tài chính – tín dụng
3
KẾT QUẢ VÀ CÁC TẬP
Kết quả học tập Các bước học tập Các hoạt động phục vụ học
tập (Tài liệu, phương tiện
học tập)
1. Trình bày những vấn đề cơ
bản về tài chính
1.1 ả sự ra đời và phát triển
của tài chính
1.2. Trình bày bản chất – ch
ức
năng và vai trò của tài chính
1.3 Trình bày tổng quan về hệ
thống tài chính
- Tài liệu hướng dẫn môn học
- Tài liệu tham khảo
- Các trang web hỗ trợ học
tập
2. Trình bày nguồn ngân sách
nhà nước
2.1. Trình bày khái niệm và
vai trò của ngân sách nhà
nước
2.2. Xác định quá trình thu –
chi
ngân sách nhà nước
- Tài liệu hướng dẫn môn học
- Tài liệu tham khảo
- Các trang web hỗ trợ học
tập
3. Mô tả các tổ chức trung
gian và thị trường tài chính
3.1. Xác định các tổ chức tài
chính chính thức và phi chính
thức
3.2. Mô tả thị trường tài chính
- Tài liệu hướng dẫn môn học
- Tài liệu tham khảo
- Các trang web hỗ trợ học
tập
4. Nhận biết các hình thức
hoạt động tài chính vĩ mô
4.1. Mô tả các xí nghiệp
công và xí nghiệp tư
4.2. Trình bày hoạt động tài
chính vi mô
- Tài liệu hướng dẫn môn học
- Tài liệu tham khảo
- Các trang web hỗ trợ học
tập
5. Trình bày những vấn đề cơ
bản của tiền tệ và lưu thông
tiền tệ
5.1. Trình bày những vấn đề
cơ bản của tiền tệ
5.2. Trình bày những vấn đề c
ơ
bản của lưu thông tiền tệ
- Tài liệu hướng dẫn môn học
- Tài liệu tham khảo
- Các trang web hỗ trợ học
tập
6. Trình bày những vấn đề cơ
bản của tín dụng
6.1. Trình bày sự ra đời và
phát triển của tín dụng
6.2. Trình bày các hình th
ức của
tín dụng
- Tài liệu hướng dẫn môn học
- Tài liệu tham khảo
- Các trang web hỗ trợ học
tập
7. Xác định tầm quan trọng
của hệ thống ngân hàng trong
nền kinh tế thị trường
7.1. Trình bày sự ra đời và
phát triển của ngân hàng
7.2. Mô tả các loại ngân hàng
trong nền kinh tế thị trường
- Tài liệu hướng dẫn môn học
- Tài liệu tham khảo
- Các trang web hỗ trợ học
tập
8. Mô tả lạm phát và chính
sách tiền tệ của ngân hàng
trung ương
8.1. Mô tả lạm phát
8.2. Trình bày các chính sách
tiền tệ của ngân h
àng trung ương
- Tài liệu hướng dẫn môn học
- Tài liệu tham khảo
- Các trang web hỗ trợ học
tập
9. Mô tả các hình thức quan
hệ thanh toán và tín dụng
quốc tế
9.1. Mô tả các quan hệ thanh
toán quốc tế
9.2. Mô tả hình thức tín dụng
quốc tế
- Tài liệu hướng dẫn môn học
- Tài liệu tham khảo
- Các trang web hỗ trợ học
tập
Trường Đại học Trà Vinh QT7.1/PTCT1-BM7
Lý thuyết tài chính – tín dụng
4
KẾ HOẠCH ĐÁNH GIÁ MÔN HỌC
Kết quả học tập
Thời lượng
giảng dạy
Mức độ yêu
cầu đạt được
Hình thức đánh giá
Viết
Thao
tác
Bài
tập
về
nhà
Thực
tập
thực tế
Đề
tài
Tự
học
1. Trình bày những
vấn đề cơ bản về tài
chính
Sau khi nghiên cứu xong các kết quả học tập, sinh viên sẽ nộp đề tài
tự chọn gửi về cho giáo viên bộ môn
Đề tài có thể liên quan đến những vấn đề kinh tế vĩ mô như là:
- Lạm phát
- Tài chính
- Tiền tệ
- Ngân hàng
- Thanh toán quốc tế
- Các tỷ giá
Trong nền kinh tế
2. Trình bày nguồn
ngân sách nhà nước
3. Mô tả các tổ chức
trung gian và thị
trường tài chính
4. Nhận biết các hình
thức hoạt động tài
chính vĩ mô
5. Trình bày những
vấn đề cơ bản của
tiền tệ và lưu thông
tiền tệ
6. Trình bày những
vấn đề cơ bản của tín
dụng
7. Xác định tầm quan
trọng của hệ thống
ngân hàng trong nền
kinh tế thị trường
8. Mô tả lạm phát và
chính sách tiền tệ của
ngân hàng trung ương
9. Mô tả các hình
thức quan hệ thanh
toán và tín dụng quốc
tế
Trường Đại học Trà Vinh QT7.1/PTCT1-BM7
Lý thuyết tài chính – tín dụng
5
ĐÁNH GIÁ CUỐI MÔN HỌC
HÌNH THỨC ĐÁNH GIÁ
● Gửi về các đề tài do giáo viên yêu cầu
THỜI GIAN
Kết thúc môn học sau 2 tuần
NỘI DUNG ĐÁNH GIÁ:
• Trình bày khái niệm và vai trò của ngân sách
nhà nước
• Xác định quá trình thu – chi ngân sách nhà nước
• Trình bày sự cần thiết của các tổ chức tài chính
trung gian và thị trường tài chính đối với nền
kinh tế
• Nhận biết các tổ chức tài chính chính thức và
các tổ chức tài chính phi chính thức
• Mô tả thị trường tài chính
• Xác định tầm quan trọng của hệ thống ngân
hàng trong nền kinh tế thị trường
• Mô tả lạm phát và chính sách tiền tệ của ngân
hàng trung ương
• Mô tả các hình thức quan hệ thanh toán và tín
dụng quốc tế
• Các kiến thức về kinh tế hiện tại
Trường Đại học Trà Vinh QT7.1/PTCT1-BM7
Lý thuyết tài chính – tín dụng
6
NỘI DUNG CHI TIẾT MÔN HỌC
KẾT QUẢ HỌC TẬP 1: Trình bày những vấn đề cơ bản về tài chính
Bài hướng dẫn : 1
SỰ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA TÀI CHÍNH
I. Tiền đề ra đời của tài chính.
Tài chính là một phạm trù kinh tế - lịch sử. Sự ra đời, tồn tại và phát triển của nó gắn
liền với sự phát triển của lịch sử xã hội loài người. Từ toàn bộ lịch sử phát sinh, phát triển của
tài chính chúng ta thấy: Tài chính chỉ ra đời và tồn tại trong những điều kiện lịch sử nhất
định, khi mà ở đó có những hiện tượng kinh tế - xã hội khách quan nhất định xuất hiện và tồn
tại. Có thể xem những hiện tượng kinh tế - xã hội khách quan đó là những tiền đề khách quan
quyết định sự ra đời, tồn tại và phát triển của tài chính.
Karl Marx trong các tác phẩm nghiên cứu Kinh tế chính trị học đã chỉ ra hai tiền đề ra
đời của tài chính, đó là sự ra đời và tồn tại của Nhà nước, và sự xuất hiện; phát triển của nền
sản xuất hàng hoá - tiền tệ.
a- Tiền đệ thứ nhất: sự ra đời và tồn tại của Nhà nước.
Trong các hình thái xã hội có Nhà nước, tài chính đã từng tồn tại với tư cách là một
công cụ trong tay Nhà nước để phân phối sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân, bảo đảm
cho sự tồn tại và hoạt động của Nhà nước.
Nhà nước đầu tiên trong xã hội loài người, là Nhà nước chủ nô, cùng với sự xuất hiện
và tồn tại của nó, những hình thức sớm của tài chính như thuế cũng bắt đầu xuất hiện.
Khi một hình thái xã hội mới thay thế một hình thái xã hội cũ, thì một nền tài chính
mới ra đời phù hợp với hình thái Nhà nước mới. F.Ăngghen viết: “Để duy trì quyền lực công
cộng đó, cần phải có những sự đóng góp của những người công dân của Nhà nước, đó là thuế
má. Với những bước tiến của văn minh thì bản thân thuế má cũng không đủ nữa; Nhà nước
còn phát hành hối phiếu vay nợ, tức là phát hành công trái”.
Trong các chế độ xã hội phát triển, các Nhà nước với chức năng quản lý xã hội trong
mọi lĩnh vực kinh tế, văn hoá, giáo dục, quốc phòng… đều tăng cường tài chính của mình.
Như vậy, có thể nói rằng trong điều kiện lịch sử nhất định, khi có sự xuất hiện, tồn tại
và hoạt động của Nhà nuớc (thuế) thì đã có sự xuất hiện, tồn tại và hoạt động của tài chính.
b- Tiền đề thứ hai: sự tồn tại và phát triển của kinh tế hàng hoá - tiền tệ.
Lịch sử phát triển của tài chính cho thấy rằng, khi những hình thức tài chính đầu tiên
xuất hiện theo sự xuất hiện của Nhà nước (thuế) thì đã có sự xuất hiện và tồn tại của sản xuất
hàng hoá - tiền tệ, và hình thức tiền tệ đã được sử dụng trong lĩnh vực của các quan hệ tài
chính như một tất yếu.
Trong chế độ chiếm hữu nô lệ, thuế bằng tiền đã được áp dụng (như thế quan, thuế gián
thu, thuế chợ, thuế tài sản…)
Trong chế độ phong kiến, theo với sự mở rộng các quan hệ thị trường, sản xuất hàng
hoá và tiền tệ, lĩnh vực của các quan hệ thuế bằng tiền được mở rộng và tiến hành thường
xuyên hơn (như: thuế đất, thuế gián thu với vật phẩm tiêu dùng, thuế hộ gia đình…) tín dụng
Nhà nước cũng bắt đầu phát triển.
Với sự phát triển vượt bậc của kinh tế hàng hoá - tiền tệ, thu nhập bằng tiền qua thuế và
công trái đã trở thành nguồn thu chủ yếu của Nhà nước. Theo với thu nhập bằng tiền, chi tiêu
bằng tiền đã làm phong phú các hình thức chi tiêu và linh hoạt trong sử dụng vốn.
Chính trong thời kỳ phát triển kinh tế tư bản, ngân sách Nhà nước - một loại quỹ tiền tệ
tập trung đã hình thành và ngày càng có tính hệ thống chặt chẽ, ngày càng đóng vai trò quan
trọng phân phối của cải xã hội dưới hình thức giá trị
Nền kinh tế tư bản ra đời và phát triển, thì hình thức của các quan hệ tài chính đã là
một yếu tố bản chất của tài chính.
Như vậy, sự tồn tại và phát triển của kinh tế - tiền tệ là một tiền đề khách quan quyết
định sự ra đời và phát triển của tài chính.
Trường Đại học Trà Vinh QT7.1/PTCT1-BM7
Lý thuyết tài chính – tín dụng
7
Khi nói đến tiền tệ của tài chính, một số nhà lý luận kinh tế nhấn mạnh đến tiền đề thứ
nhất - tức là nhấn mạnh đến sự tồn tại của Nhà nước; nhưng một số nhà kinh tế khác không
tán thành quan điểm đó; các nhà kinh tế này đưa ra ví dụ về một Nhà nước Khơ-me không
thừa nhận nền kinh tế hàng hoá tiền tệ, do đó không có nền tài chính.
Nhiều nhà lý luận kinh tế nhất trí nhấn mạnh đến tiền đề thứ hai. Theo các nhà kinh tế
học này, đặc biệt nhấn mạnh đến sự ra đời và tồn tại của tiền tệ và cho rằng đây là tiền đề có
tính chất quyết định sự ra đời và tồn tại của tài chính. Các nhà lý luận này dẫn chứng bằng
thời kỳ kinh tế xã hội chủ nghĩa, khi đó Nhà nước XHCN không thừa nhận nền kinh tế hàng
hoá, nhưng tồn tại tiền tệ nên vẫn tồn tại nền tài chính.
II. Sự cần thiết khách quan của tài chính.
Khi nghiên cứu các tiền đề của tài chính, chúng ta thấy rằng: Chính sự tồn tại của Nhà
nước và sự tồn tại của nền kinh tế hàng hoá – tiền tệ quyết định tất yếu khách quan tồn tại của
tài chính.
Trong quá trình phát sinh, phát triển của nền kinh tế hàng hoá tiền tệ, Nhà nước ra đời;
để tồn tại và phát triển cũng như để thực hiện chức năng quản lý toàn diện xã hội của các Nhà
nước ở các quốc gia và ở mọi thời kỳ, cần thiết phải sử dụng tài chính. Vì:
- Để thực hiện phân phối của cải xã hội theo yêu cầu phát triển quốc gia.
- Điều tiết một phần thu nhập của các thành phần kinh tế, phục vụ các mục tiêu kinh
tế xã hội trong các giai đoạn phát triển.
- Đảm bảo tái sản xuất xã hội và thực hiện đầu tư phát triển kinh tế.
- Thực hiện giám sát toàn bộ các hoạt động của quốc gia, đảm bảo sử dụng các nguồn
tài chính có hiệu quả.
Tóm lại, sự cần thiết khách quan của tài chính là do sự tồn tại khách quan của các tiền
đề tài chính. Trong đó, để đáp ứng nhu cầu phát triển nền kinh tế và quản lí xã hội, Nhà nước
của các quốc gia cần thiết phải nắm lấy tài chính như một công cụ sắc bén để quản lý quốc
gia.
Câu hỏi củng cố :
1. Trình bày sự ra đời của tài chính
2. Trình bày sự cần thiết khách quan của tài chính
Bài hướng dẫn 2:
BẢN CHẤT - CHỨC NĂNG CỦA TÀI CHÍNH
I. Bản chất của tài chính
Khi nghiên cứu lịch sử phát triển của tài chính, chúng ta thấy quá trình phát triển kinh
tế xã hội đã thúc đẩy sự phát triển của tài chính, và trong các hình thái xã hội khác nhau thì
nền tài chính cũng có những biểu hiện thay đổi.
Các nhà lý luận kinh tế ở các thời kỳ khác nhau và chế độ xã hội khác nhau, nhận thức
về bản chất của tài chính không có sự nhất quán hoàn toàn. Tuy nhiên, K.Marx khi nghiên
cứu về nền kinh tế tư bản cũng đã nghiên cứu về tài chính tín dụng xã hội chủ nghĩa.
Lý thuết về tài chính, tín dụng, tiền tệ và ngân hàng của K.Marx tuy có hạn chế vì
điều kiện lịch sử (Marx nghiên cứu vấn đề này từ cuối TK 19), nhưng giá trị của nó hiện
nay nhiều nhà kinh tế học hiện đại vẫn phải thừa nhận.
Nghiên cứu một phạm trù kinh tế, đòi hỏi phải xem xét hình thức biểu hiện bên ngoài
và bản chất bên trong của nó.
1. Hiện tượng tài chính.
Các khoản chi trả chuyển từ doanh nghiệp này thành các khoản thu của doanh nghiệp
khác, các khoản nộp (chi) chuyển từ các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế, dân cư thành các
khoản thu của Ngân sách Nhà nước, các khoản chi chuyển từ ngân sách Nhà nước thành các
khoản thu của các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế xã hội, dân cư…
Trường Đại học Trà Vinh QT7.1/PTCT1-BM7
Lý thuyết tài chính – tín dụng
8
Từ các hiện tượng tài chính đó cho thấy, trong điều kiện nền kinh tế hàng hoá tiền tệ,
sự vận động của vốn tiền tệ là tất yếu và diễn ra liên tục. Sự vận động đó của vốn tiền tệ, xét
theo ý nghĩa là sự thay đổi chủ sở hữu vốn tiền tệ đó, có thể thấy các hiện tượng tài chính
biểu hiện các quan hệ giữa những người chi trả vơí những người thu nhận vốn tiền tệ. Sự vận
động của vốn tiền tệ đã làm thay đổi lợi ích kinh tế của họ.
2. Bản chất của tài chính.
Tài chính là một mặt của quan hệ phân phối biểu hiện dưới hình thái tiền tệ, được sử
dụng để phân phối của cải xã hội, xây dựng và hình thành nên những quỹ tiền tệ tập trung và
không tập trung, và sử dụng các quỹ tiền tệ đó nhằm đảm bảo cho quá trình tái sản xuất và
nâng cao đời sống cho mọi thành viên trong xã hội.
Có thể nói tài chính là một phạm trừu được khái quát lên từ sự vận động của tiền tệ gắn
liền với sự hoạt động của con người.
Cũng có nhà lý luận kinh tế nói rằng, tài chính là phương thức tạo lập và sử dụng tiền tệ
của con người.
II. Chức năng của tài chính
Chức năng của tài chính là sự cụ thể hoá bản chất của tài chính, nó mở ra nội dung của
tài chính và vạch rõ tác dụng xã hội của tài chính. Chức năng của tài chính là khả năng bên
trong, biểu lộ tác dụng xã hội của nó và tác dụng đó chỉ có thể có được với sự tham gia nhất
thiết của con người.
Tài chính vốn có hai chức năng: Thứ nhất là: Phân phối tổng sản phẩm xã hội dưới
hình thái tiền tệ; Thứ hai là: Giám đốc bằng tiền đối với toàn bộ hoạt động kinh tế xã hội (gọi
tắt là chức năng giám đốc).
1. Chức năng phân phối:
Tài chính được coi là khu trung tâm trong việc phân phối của cải xã hội. Chức năng
phân phối là chức năng quan trọng nhất của tài chính.
Phân phối của cải xã hội, trải qua quá trình phân phối lần đầu và nhiều lần phân phối
lại.
Phân phối lần đầu là phân phối tiến hành trong lĩnh vực sản xuất vật chất, hình thành
nên quỹ bù đắp tư liệu sản xuất, những khoản thu nhập ban đầu cho người lao động và thu
nhập thuần tuý của xã hội (thu nhập thuần tuý của các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, dân cư
và thu nhập thuần tuý tập trung của Nhà nước).
Trong các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, dân cư, sản phẩm làm ra sau khi tiêu thụ và
thu được tiền, được phân phối một phần để bù đắp vốn cố định và vốn lưu động đã tiêu hao,
một phần trả lương cho người lao động, một phần nộp thuế cho Nhà nước dưới hình thức các
loại thuế, một phần nộp quỹ bảo hiểm xã hội và một phần nữa làm lợi nhuận xí nghiệp, doanh
nghiệp (để hình thành các quỹ doanh nghiệp, tổ chức kinh tế và phân chia lợi tức cho người
góp vốn).
Phân phối lần đầu, mới chỉ tạo ra những khoản thu nhập cơ bản, chưa thể đáp ứng nhu
cầu của toàn xã hội. Do đó phải trải qua quá trình phân phối lại.
Phân phối lại thu nhập là tiếp tục phân phối những phần thu nhập cơ bản được hình
thành qua phân phối lần đầu, để đáp ứng nhu cầu tích luỹ và tiêu dùng của toàn xã hội (các
ngành không sản xuất: Quân đội, Giáo dục, Y tế …).
Mục đích của phân phối lại là:
Bổ sung thêm vào ngân sách Nhà nước để đáp ứng nh cầu chi tiêu cho toàn xã hội.
Tạo nguồn thu nhập cho các lĩnh vực không sản xuất vật chất và những người làm
việc trong các lĩnh vực đó.
Điều kiện thu nhập giữa các ngành, giữa cá doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế,
các tầng lớp dân cư.
Điều tiết các hoạt động kinh tế trên phạm vi vĩ mô.
Phân phối lại được tiến hành thông qua ba biện pháp: Biện pháp tài chính- tín dụng,
biện pháp giá cả về hoạt động phục vụ. Trong đó biện pháp tài chính- tín dụng giữ vai trò
trung tâm.
Trường Đại học Trà Vinh QT7.1/PTCT1-BM7
Lý thuyết tài chính – tín dụng
9
2. Chức năng giám đốc.
Chức năng giám đốc của tài chính là chức năng mà nhờ vào đó việc kiểm tra bằng đồng
tiền được thực hiện với quá trình phân phối của cải xã hội thành các quỹ tiền tệ và sử dụng
chúng theo các mục đích đã định.
Như vậy, đối tượng Giám đốc của tài chính là quá trình phân phối của cải xã hội dưới
hình thái tiền tệ - quá trình hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ tập trung và không tập trung
theo các mục tiêu đã định.
Thực hiện chức năng giám đốc tài chính nhằm mục đích sau:
- Bảo đảm cho các cơ sở kihn tế cũng như toàn bộ kinh tế phát triển theo những mục
tiêu định hướng của Nhà nước.
- Đảm bảo việc sử dụng các nguồn lực khan hiếm một cách có hiệu quả, tiết kiệm tới
mức tối đa các yếu tố sản xuất trong xã hội.
- Bảo đảm vốn đạt hiệu quả cao.
- Bảo đảm việc chấp hành pháp luật trong mọi hoạt động sản xuất kinh doanh.
Nội dung giám đốc tài chính, gồm có những nội dung chính sau:
- Giám đốc tài chính trong quá trình lập và thực hiện kế hoạch Ngân sách Nhà nước.
- Giám đốc tài chính trong các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế dựa trên cơ sở hạch
toán kinh tế và hợp đồng kinh tế.
- Giám đốc tài chính trong quá trình cấp phát, cho vay và thanh toán vốn đầu tư XDCB.
Ngoài ra, Giám đốc tài chính còn được thực hiện trong các hộ kinh tế dân cư.
Giám đốc tài chính dù thực ở đâu, cũng điều là sự giám đốc toàn diện đối với quá trình
hình thành phân phối và sử dụng các nguồn vốn trong quá trình hoạt động của từng khâu và
trong toàn xã hội.
Hai chức năng của tài chính có mối quan hệ hửu cơ, bổ sung cho nhau, trong đó việc
thực hiện chức năng phân phối là tiền đề để thực hiện chức năng giám đốc, và ngược lại việc
thực hiện tốt chức năng giám đốc sẽ tạo điều kiện để thực hiện chức năng phân phối tốt hơn.
Trên cơ sở nhận thức được bản chất, chức năng của tài chính hoạt động tài chính mới
phát huy được vai trò của nó trong nền kinh tế.
Câu hỏi củng cố :
Trình bày bản chất, chức năng của tài chính?
Bài hướng dẫn 3: TỔNG QUAN VỀ HỆ THỐNG TÀI CHÍNH
I. Vai trò của hệ thống tài chính
Trong thực tế, các quan hệ tài chính diễn ra rất phức tạp và đa dạng, chúng đan xen
nhau trong một tập hợp hàng loạt các hoạt động khác nhau của nền kinh tế. Tuy nhiên, đó
không phải là những hoạt động hỗn loạn, mà ngược lại chúng tuân thủ những nguyên tắc,
những quy luật nhất định, trong đó những quan hệ tài chính có tính chất đặc thù giống nhau
nhóm lại thành một bộ phận riêng. Giữa các bộ phận này luôn có mối liên hệ, tác động ràng
buộc lẫn nhau và tạo thành hệ thống tài chính.
Do vậy, hệ thống tài chính hoạt động trên các lĩnh vực: tạo ra các nguồn lực tài chính,
thu hút các nguồn lực tài chính và chu chuyển các nguồn tài chính (dẫn vốn). Với các lĩnh
vực hoạt động này, toàn bộ hệ thống tài chính thực hiện vai trò đặc biệt quan trọng trong nền
kinh tế quốc dân là đảm bảo nhu cầu về vốn cho phát triển xã hội.
II. Cấu trúc của hệ thống tài chính
Cấu trúc của hệ thống tài chính bao gồm các tụ điểm vốn và bộ phận dẫn vốn được tổ
chức theo sơ đồ sau:
Trường Đại học Trà Vinh QT7.1/PTCT1-BM7
Lý thuyết tài chính – tín dụng
10
Các tụ điểm vốn là bộ phận mà ở đó các nguồn tài chín được tạo ra, đồng thời cũng là
nơi thu hút trở lại các nguồn vốn, tuy nhiên ở các mức độ và phạm vi khác nhau. Trong hoạt
động kinh tế, các tụ điểm vốn này có mối liên hệ thường xuyên với nhau thông qua những
mối liên hệ nhất định.
1. Tài chính doanh nghiệp
Chính tại đây nguồn tài chính xuất hiện và đồng thời đây cũng là nơi thu hút trở lại
phần quan trọng các nguồn tài chính trong nền kinh tế. Trong hệ thống tài chính, tài chính
doanh nghiệp được coi như những tế bào có khả năng tái tạo ra các nguồn tài chính. Do vậy,
nó có tác động rất lớn đến đời sống xã hội, đến sự phát triển hay suy thoái của nền sản xuất.
Tài chính doanh nghiệp có quan hệ mật thiết đến tất cả các bộ phận của hệ thống tài chính
trong quá trình hình thành và sử dụng vốn có nội dung khác nhau, quá trình kinh doanh
chứng khoán trên thị trường chứng khoán. Mỗi quan hệ điều có những nét khác biệt và có
những tác động khác nhau đến tài chính doanh nghiệp. Chính sự đa dạng này phản ánh mối
quan hệ giữa tài chính doanh nghiệp với các bộ phận khác trong hệ thống tài chính.
Trong nền kinh tế thị trường, đặc trưng cơ bản của bộ phận tài chính doanh nghiệp thể
hiện ở chỗ, nó bao gồm những quan hệ tài chính vận hành theo cơ chế kinh doanh hướng tới
lợi nhuận cao. Chính nhờ cơ chế này mà nguồn tài chính được tăng cường và mở rộng không
ngừng đáp ứng tốt nhất nhu cầu về vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh.
2. Ngân sách nhà nước:
Ngân sách nhà nước gắn liền với các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước; đồng thời là
phương tiện vật chất cần thiết để hệ thống chính quyền nhà nước thực hiện được nhiệm vụ
của mình. Trong điều kiện của nền kinh tế thị trường, ngân sách nhà nước còn có vai trò to
lớn trong việc điều tiết vĩ mô nền kinh tế - xã hội. Đó là vai trò định hướng phát triển sản
xuất, điều tiết thị trường, bình ổn giá cả, điều chỉnh đời sống xã hội…Để thực hiện các vai trò
đó, ngân sách nhà nước phải có nguồn vốn được tập trung từ các tụ điểm vốn thông qua các
chính sách thu thích hợp. Ngân sách nhà nước thực hiện các khoản chi cho tiêu dùng thường
xuyên và chi cho đầu tư kinh tế. Việc cấp phát vốn ngân sách nhà nước cho các mục đích
khác nhau này sẽ làm tăng nguồn vốn ở các tụ điểm nhận vốn. Như vậy hoạt động thu chi
ngân sách nhà nước đã làm nảy sinh các mối quan hệ kinh tế giữa một tụ điểm vốn quan
trọng ngân sách nhà nước với các tụ điểm khác của hệ thống tài chính.
3. Tài chính dân cư
Đây là một tụ điểm vốn quan trọng trong hệ thống tài chính. Hoạt động tài chính của
các nước có nền kinh tế phát triển và hoạt động tài chính ở nước ta những năm gần đây đã chỉ
ra rằng: nếu có những biện pháp thích hợp, chúng ta có thể huy động được một khối lượng
vốn đáng kể từ các hộ gia đình để phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế, đồng thời còn góp
phần to lớn vào việc thực hiện các chính sách về định hướng tích lũy và tiêu dùng của Nhà
nước.
Tài chính
doanh nghiệp
Ngân sách
nhà nước
Thị trường tài chính và tổ chức
tài chính trung gian
Tài chính dân
cư, tổ chức xã
Tài chính đối
ngoại
Trường Đại học Trà Vinh QT7.1/PTCT1-BM7
Lý thuyết tài chính – tín dụng
11
Tuy nhiên cũng cần nhận thấy rằng: tính chất phân tán và đa dạng là đặc điểm nổi bậc
của tài chính hộ gia đình. Nguồn lực tài chính không quy tụ vào những tụ điểm lớn mà phân
bố rải rác, không đồng đều trong hàng triệu tế bào nhỏ của nền kinh tế: đó là các hộ gia đình.
Nhưng tổng quy mô của nguồn vốn tiềm tàng trong các hộ gia đình thì rất lớn và cần phải có
các biện pháp lưu tâm thích đáng.
Tài chính hộ gia đình có thể có quan hệ thường xuyên với tất cả các tụ điểm vốn và các
bộ phận trong hệ thống tài chính.
4. Tài chính đối ngoại:
Trong nền kinh tế thị trường, khi các quan hệ kinh tế đã quốc tế hóa thì hệ thống tài
chính cũng là một hệ thống mở với những quan hệ tài chính đối ngoại hết sức phong phú.
Trên thực tế, những quan hệ này không tập trung vào một tụ điểm nhất định mà chúng phân
tán, đan xen vào các quan hệ tài chính khác. Tuy nhiên, do tính chất đặc thù và vị trí đặc biệt
quan trọng của các quan hệ tài chính đối ngoại cho nên người ta thừa nhận nó hình thành một
bộ phận tài chính có tính chất độc lập tương đối.
Những kênh vận động của tài chính đối ngoại gồm:
- Quan hệ nhận viện trợ hoặc vay vốn nước ngoài cho quỹ NSNN hoặc cho các doanh
nghiệp, thậm chí cho cả dân cư.
- Quan hệ về tiếp nhận vốn đầu tư nước ngoài giữa các tổ chức kinh tế trong nước và
nước ngoài.
- Quá trình thanh toán xuất - nhập khẩu giữa các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế trong
và ngoài nước.
- Việc thực hiện các hợp đồng tái bảo hiểm, chuyển phí bảo hiểm và thanh toán bảo hiểm
đối với các pháp nhân nước ngoài hoặc ngược lại, thu nhận phí bảo hiểm và nhận bồi thường
từ các tổ chức nước ngoài.
- Quá trình chuyển tiền và tài sản giữa các cá nhân ngoài nước cho thân nhân trong nước
và ngược lại.
5. Bộ phận dẫn vốn thực hiện các chức năng truyền dẫn vốn giữa các tụ điểm vốn trong hệ
thống tài chính bao gồm thị trường tài chính và các tổ chức tài chính trung gian.
Hoạt động của thị trường tài chính thực hiện chức năng dẫn vốn từ những người có vốn
sang những người cần vốn thông qua hoạt động tài chính trực tiếp. Hoạt động dẫn vốn trực
tiếp được thực hiện bằng cách những người cần vốn bán ra thị trường các công cụ nợ, các cổ
phiếu hoặc thực hiện các món vay thế chấp. Những người có vốn sẽ sử dụng tiền vốn của
mình để mua vào các công cụ nợ hoặc các cổ phiếu đó, như vậy vốn đã được chuyển từ người
có vốn sang người cần vốn một cách trực tiếp. Với chức năng này, thị trường tài chính có tác
dụng thu hút mọi nguồn vốn cần thiết cho đầu tư phát triển kinh tế, làm nâng cao hiệu quả
chung của toàn bộ nền kinh tế và cải thiện mức sống của người tiêu dùng ngay cả khi khả
năng thực tế về tài chính của họ chưa cho phép.
Trong hệ thống tài chính, các trung gian tài chính thực hiện việc dẫn vốn thông qua
hoạt đông tài chính gián tiếp. Trước hết, các trung gian tài chính huy động vốn từ những
người có vốn (người tiết kiệm) bằng nhiều hình thức để tạo thành vốn kinh doanh của mình.
Sau đó, họ sử dụng vốn kinh doanh này để cho những người cần vốn vay lại hoặc thực hiện
các hình thức đầu tư khác nhau. Bằng cách này, các trung gian tài chính đã tập trung được các
nguồn vốn nhỏ từ các hộ gia đình, các tổ chức kinh tế thành một lượng vốn lớn, đáp ứng nhu
cầu của người cần vốn từ những khối lượng vay nhỏ đến những khối lượng vay lớn, từ những
cá nhân chưa từng được ai biết đến tới những công ty lớn có tiếng trên thị trường. Chính vì
vậy, các trung gian tài chính đã đáp ứng đượcnhững nhu cầu mà thị trường tài chính không
giải quyết được, hoặc giải quyết không có hiệu quả.
Tùy theo lĩnh vực và phạm vi hoạt động, các trung gian tài chính được chia ra thành
- Các ngân hàng thương mại
- Các tổ chức tài chính trung gian phi ngân hàng: Công ty bảo hiểm, quĩ trợ cấp, công ty
tài chính, quỹ đầu tư…
Trường Đại học Trà Vinh QT7.1/PTCT1-BM7
Lý thuyết tài chính – tín dụng
12
Câu hỏi củng cố:
Trình bày tổng quan về hệ thống tài chính?
Trường Đại học Trà Vinh QT7.1/PTCT1-BM7
Lý thuyết tài chính – tín dụng
13
KẾT QUẢ HỌC TẬP 2: Trình bày nguồn ngân sách nhà nước
Bài hướng dẫn 1:
KHÁI NIỆM VÀ VAI TRÒ CỦA NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
I. Khái niệm và vai trò của ngân sách nhà nước
1. Khái Niệm Về Quản Lý Ngân Sách Nhà Nước (NSNN)
Ngân sách Nhà nước ra đời cùng với sự xuất hiện của Nhà nước. để chi tiêu, Nhà nước
đã đạt ra chế độ thuế hóa bắt toàn dân phải đóng góp. Từ các khoản thu từ thuế, hình thành
lên quỹ tiền tệ của Nhà nước. Lúc đầu, Nhà nước sử dụng quỹ này để nuôi hộ may Nhà nước
và binh lính, về sau, Nhà nước còn dùng tiền quỹ của mình để chi tiêu cho phút lệ xã hội và
phát triển kinh tế.
Quỹ tiền tệ được hình thành và sử dụng như trên chính là NSNN.
Chưa có sự thống nhất trong khái niệm về NSNN, nhưng có sự thống thất về nội dung
của NSNN – là bảng tổng hợp các khoảng thu và các khoản chi của Nhà nước. Nhà nước thực
hiện quyền lập pháp về NSNN (qui định các khoản thu, các khoản chi, tổng số thu, tổng số
chi, phân cấp quản lý…), còn có quyền hành pháp giao cho, Chính phủ thực hiện. Do đó, có
khi người ta còn gọi là ngân sách Chính phủ.
Ở nước ta sau khi cách mạng tháng 8 – 1945, Nhà nước Việt Nam đã thực hiện quyền
lực về ngân sách Nhà nước và đã cho thực hiện một số sắc lệnh về bãi bỏ thuế thân, hình
thành hệ thống thuế mới, giảm gánh nặng thuế cho dân nghèo.
Tuy nhiên, trong thời kháng chiến (1946 – 1954) mọi vấn đề huy động và chỉ tiêu của
NSNN đến nhằm mục đích phục vụ kháng chiến. Giai đoạn 1954 – 1975, là giai đoạn khôi
phục và củng cố kinh tế ở Miền Bắc, đấu tranh giải phóng Miền Nam, đặc điểm nổi bật của
NSNN thời kỳ này là thu của NSNN được tài trợ của nước ngoài rất lớn. Tính bao cấp trong
thời kỳ này là do sự bao cấp quốc tế đối với NSNN ta.
Sau tháng 4. 1975, khi mọi điều kiện đảm bảo cho sự tồn tại của cơ quan quản lý tập
trung, bao cấp đã hết, nhưng chúng ta vẫn duy trì khá lâu cơ chế đó trong quan lý NSNN. Bội
chi NSNN từ 1976 đến 1989, nhất là giai đoạn 1986 – 1989, do vậy tỉ lệ phát nhanh để bù đắp
thiếu hụt NS ngày càng tăng; nếu tỉ lệ phát hành so với tổng số thu NSNN năm 1985 là
8,58%, năm 1986: 23,37%, năm 1987: 20,94%, năm 1988: 33:,54% thì năm 1989 là 36,38%.
Có nhiều nguyên nhân về trình trạng bội chi NSNN: Sự tri trệ của nền kinh tế cơ quan
quản lý bao liêu bao cấp, luật pháp lỏng lẻo… Nhưng dù sao, cũng không thể duy trì tình
trạng quản lý NSNN như vậy, mà cần có sự chuyển biến thực sự và cơ bản trong nhận thức
cũng như trong thực tiển quản lý.
2. Vai trò của NSNN trong nền kinh tế thị trường.
Trong nền kinh tế thị trường vai trò của NSNN được thay đổi và trở nên hết sức quan
trọng, trong quản lý vĩ mô nền kinh tế quốc gia. Ngân sách Nhà nước có vai trò sau:
+ Thứ nhất: NSNN là công cụ để điều tiếp thị trường, bình ổn và chống lạm phát.
Trong nền kinh tế thị trường, qui luật cung cầu là quy luật chi phối rất mạnh cả người
sản xuất lẫn người tiêu dùng. Để đảm bảo lệ ích cho họ (người sản xuất và người tiêu dùng),
đồng thời để giữ vững xu hướng phát triển cơ cấu kinh tế đã được hoạch định, chính phủ có
cần sự tác động tích cực trên thị trường (thị trường hàng hóa, thị trường tiền tệ. thị trường
vốn, thị trường xuất lao động…)
Việc điều chỉnh các thị trường này phải được thực hiện đồng bộ giữa các công cụ về tài
chính, tiền tệ, giá cả… trong đó, công cụ NS thông qua các biện pháp phát hành trái khoán,
hoặc các biện pháp chi tiêu của chính phủ…
+ Thứ hai: NSNN định hướng phát triển sản xuất.
Thông qua các khoản chi kinh tế và đầu tư xây dựng hệ thống các công trình giao
thông, thủy lợi, thông tin liên lạc… Chính phủ có thể tạo điều kiện và hướng dẫn nguồn vốn
đầu tư của xí nghiệp vào những lĩnh vực và những vùng cần thiết để hình thành cơ cấu kinh
tế thích hợp, điều hòa thị trường hàng hóa và thị trường sức lao động giữa các vùng, các khu
vực.
Trường Đại học Trà Vinh QT7.1/PTCT1-BM7
Lý thuyết tài chính – tín dụng
14
Một chính sách khác của NSNN có tác động trực tiếp đến sản xuất, là thuế đặt ra các
loại thuế và tỉ xuất có ưu đãi có tác dụng kích thích mạnh mẽ đối với doanh nghiệp.
+ Thứ ba: NSNN có vai trò điều chỉnh thu nhập.
Chúng ta đã đem xét vấn đề này trong chính sách tài chính của nhà nước. Qua đó
chúng ta thấy rằng, NSNN đóng vai trò trung tâm phân phối lại, nhằm chuyển một phần thu
nhập từ các tầng lớp giàu có sang các tầng lớp những người nghèo và những người thuộc diện
được hưỡng chính sách xã hội.
Mặc khác, thông qua một số công vụ NSNN khác để thực hiện phân phối đó là thuế,
việc sử dụng các sắc thuế với suất hợp lý sẽ có tác dụng một mặt đảm bảo nguồn thu cho
NSNN, nhưng mặt khác công cụ này có tác dụng điều chỉnh thu nhập rất công hiệu, điều hoà
giữa các ngành kinh tế, các vùng doanh nghiệp và các tầng lớp dân cư có mức thu nhập khác
nhau.
Các vai trò trên của NSNN cho thấy tính chất quan trọng của NSNN với các công cụ
của nó có thể quản lý toàn diện và các hiệu quả đối với toàn bộ nền kinh tế.
Câu hỏi củng cố:
Trình bày khái niệm và vai trò của ngân sách nhà nước
Bài hướng dẫn 2:
QUÁ TRÌNH THU - CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
I. Thu ngân sách nhà nước
Thu NSNN, bao gồm hai nội dung lớn:
- Thu từ thuế và một số khoản khác không mang tính chất thuế như: Thu lợi tức cổ
phần của Nhà nước tại các công ty cổ phần thu về bán tài sản thuộc sở hữu Nhà nước, thu sổ
kiến thiết. Đây là những khoản thu mang tính chất không hoàng trả, nó phục vụ trực tiếp cho
nhu cầu chỉ tiêu của chính Phủ.
- Thu từ các khoản vay nợ, viện trợ của chính phủ. Đây là những khoản vay để bù đắp
thiếu hụt NSNN.
Đối với những khoản thu thuộc nội dung thứ nhất, được gọi là thu trong cân đối ngân
sách, đây là khoản thu chủ yếu, quan trong trong đó thuế là một khoản thu có ý nghĩa đặc biệt
đối với NSNN. Những khoản thu thuộc nội dung thứ hai, được gọi là thu để bù đắp, thiếu hụt
ngân sách.
1. Thu trong cân đối ngân sách
Có 4 khoản thu thuộc nội dung thu này, nhưng khoản thu quan trọng nhất, mà sự tác
động của nó cón vượt khỏi phạm vi của tài chính là thuế.
Thuế không chỉ đơn thuần là một nguồn thu chủ yếu của NSNN, mà thuế còn gắn liền
các vấn đề về việc tăng trưởng kinh tế, về sự công bằng trong phân phối và sự ổn định xã hội.
Trong phạm vi nghiên cứu các vấn đề của tài chính và NSNN, chúng ta sẽ xem xét thuế
với các vai trò cơ bản của nó là: tạo nguồn cho NSNN, kích thích tăng trưởng và điều chỉnh
thu nhập.
+ Tạo nguồn thu cho NSNN: Là vai trò đầu tiên của thuế, vai trò này xuất phát từ yêu
cầu của Nhà nước và quyền lực của Nhà nước đối với xã hội.
Nhà nước có thể dùng công cụ hành chính để đặt ra các loại thuế và các mức thuế một
cách tuỳ ý. Tuy nhiên khi xét về mục đích lâu dài, khi định ra các loại thuế, Chính phủ không
chỉ đơn thuần thỏa mãn nhu cầu tăng thu của NSNN, mà phải thỏa mãn yêu cầu tăng trưởng
kinh tế và điều chỉnh thu nhập việc đáp ứng cà 3 yêu cầu đó đòi hỏi chính phủ phải tính toán,
cân nhắc kỷ lưỡng khi ban hành các sắc thuế cũng như tỉ lệ thuế suất.
Trong thực tế nhiều khi chính phủ quá chú trọng đến yêu cầu tăng thu để giải quyết các
nhiệm vụ chi cấp bách, mà không thấy tác động làm giảm nguồn vốn dành cho đầu tư của các
doanh nghiệp.
Trường Đại học Trà Vinh QT7.1/PTCT1-BM7
Lý thuyết tài chính – tín dụng
15
Mặt khác, sự yếu kém về nhiệm vụ và thiếu trách nhiệm của người thừa hành trong hệ
thống quản lý thuế đã làm giảm, thậm chí gây tác động ngược lại vai trò tích cực của thuế.
Thực tế công tác thuế của nước ta trong thời gian qua đã bộc lộ sự yếu kém của hệ
thống bộ máy thu thuế. Chưa có số liệu điều tra chính thức để xác định hiệu quả của một sắc
thuế, cũng như những tổn thất về thuế ở ta trong thời gian qua. Nhưng chỉ với con số thất thu
không dưới 40% về doanh số về hộ kinh doanh, cũng cho thấy tình hình quản lý thuế của
chúng ta còn có những kẻ hở nghiêm trọng cần được xử lý.
+ Kích thích tăng trưởng kinh tế, là một vai trò không kém phần quan trong biểu hiện
của vai trò này rất phức tạp. Về phương diện tổng hợp thì khi tỉ lệ thuế trong thu nhập quốc
dân tăng lên sẽ làm giảm khả năng tăng trưởng kinh tế của các doanh nghiệp.
Thực tế vấn đề không hoàn toàn đơn giản như vậy, vì khi nói đến thuế thì phải đề cập
toàn diện một cơ cấu thuế hoàn chỉnh và tác động nhiều mặt của nó đối với các hoạt động
kinh tế - xã hội.
Ở nước ta, một thời gian chúng ta cố gắng nâng lãi suất một số loại thuế như hàng hóa,
thuế doanh thu, thuế lợi tức, nhưng lại không chú ý tới thuế tài nguyên, do đó mặt thất thu
cho NSNN, mặt khác tài nguyên bị sử dụng một cách lãng phí, gây thiệt hại cho nền kinh tế.
Một khía cạnh khác ảnh hưởng của thuế đối với sự tăng trưởng đó là vai trò của NSNN
đối với sự tăng trưởng. có những ngành kinh tế (kinh tế công cộng) cần có sự đầu tư của Nhà
nước. Điều đó đòi hỏi phải huy động thuế ở một tỉ lệ tương đối cao đối với một số ngành, một
số khu vực nhất định (có điều kiện thuận lợi) và trong những thời kỳ nhất định, để tạo cơ sở
hạ tầng cho nền kinh tế.
Tuy vậy, chính sách thuế cũng cần phải dành quyền ưu đãi cho một số ngành kinh tế,
một số vùng kinh tế để kích thích sự tăng trưởng. Như áp dụng một tỉ lệ lãi suất thấp, hoặc
thực hiện miễn, giảm thuế.
+ Vai trò quan trọng thứ ba của thuế là điều chỉnh thu nhập.
Trong hoạt động của NSNN, vai trò tạo nguồn thu điều chỉnh thu nhập thường để thể
hiện trong mối quan hệ phụ thuộc và hổ trợ lẫn nhau. Việc tăng thuế một số loại (thuế thu
nhập, thuế lợi tức) sẽ làm giảm thu nhập ở một số ngành, một số người (có thu nhập cao) và
làm tăng nguồn vốn để phân phối lại cho một số ngành khác, một số người khác có thu nhập
khác thông qua chính sách chi ngân sách.
Mặt khác, mục đích của Chính phủ không chỉ giới hạn ở hai yêu cầu trên và những nhà
kinh doanh cũng không thể suốt đời phục vụ cho mục đích tăng trưởng nếu thu nhập của họ
bị chia sẻ một cách vô lý. Đây là mâu thuẫn rất cơ bản trong nền kinh tế thị truờng mà chính
sách tài chính của chính phủ phải giải quyết.
Thực ra, vẫn có một mối quan hệ phụ thuộc để tồn tại giữa các nhà kinh doanh với
người lao động. Tức là, có một giới hạn phân phối lại mà ở đó độ nhạy cảm về sự tăng trưởng
bị hạn chế, các nhà kinh doanh sẵn sàng đóng góp một phần thu nhập cho xã hội mà không
làm suy giảm sự tăng trưởng của họ. Chính sách thuế phải xác định được khung giới hạn đó
thông qua phản ứng của các doanh nghiệp đối với thuế suất của từng loại thuế và có sự điều
chỉnh phù hợp.
Có thể xử lý mối quan hệ giữa mục đích tăng trưởng và phân phối lại thu nhập theo
một hướng khác, là tăng cường các hình thức khác, tăng cường các hình thức đánh thuê dán
tiếp váo các mặt hàng hoặc các dịch vụ mà đối tượng sử dụng chúng là các đối tượng có thu
nhập cao. Nguyên lý của phương pháp này là: Chính phủ đánh thuế vào những gì mà đối
tượng chịu thuế lấy đi của xã hội sẽ tác dụng tốt hơn là đánh thuế vào những gì mà đối tượng
chịu thuế nhập vào xã hội. Đây là một biện pháp được coi là có hiệu quả cả về mặt tâm lý và
cả về phương diện quản lý.
Ngoài thuế, thu trong cân đối ngân sách còn bao gồm các khoản thu về bán tài sản
thuộc sở hữu Nhà nước và thu về lợi tức cổ phần của Nhà nước.
+ Thu về bán tài sản thuộc sở hữu Nhà nước thực chất là khoản thu hồi số vốn còn lại
đối với các tài sản của các doanh nghiệp công cộng (quốc doanh) trong quá trình tư nhân hóa,
hay cổ phần hóa các doanh nghiệp này, hoặc các khoản thu khi Nhà nước chủ trương bỏ vốn
Trường Đại học Trà Vinh QT7.1/PTCT1-BM7
Lý thuyết tài chính – tín dụng
16
đầu tư xây dựng các xí nghiệp để bán lại cho các nhà doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh
tế khác.
+ Thu về lợi tức cổ phần của Nhà nước được hình thành khi Nhà nước tham gia góp
vốn cổ phần để hình thành các công ty xí nghiệp cổ phần và được hưởng lợi tức từ vốn góp.
Trong quá trình cổ phần hóa các doanh nghiệp quốc doanh hiện nay ở nước ta thì khoản thu
về lợi tức cổ phần là một nguồn thu đáng kể của ngân sách Nhà nước.
Nước ta trong quá trình tư nhân quá trình cổ phần hóa các doanh nghiệp công cộng,
một mặt tạo thêm nguồn thu đáng kể cho NSNN, mặt khác, tạo điều kiện cho việc khac thác
sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn của ngân sách Nhà nước.
2. Thu để bù đắp thiếu hụt ngân sách.
Trong quá trình thu chi ngân sách, các Chính phủ thường có nhu cầu chi nhiều hơn số
tiền thu được (các khoản thu trên) và việc cắt giảm các khoản chi rất là khó khăn. Do đó bắt
buộc Chính phủ phải tính tới những giải pháp để bù đắp cho sự thâm hụt của ngân sách Nhà
nước. Giải pháp quan trọng, chủ yếu là chính phủ phải tiến hành vay thêm tiền để chi tiêu,
bao gồm vay các tầng lớp dân cư các tổ chức kinh tế - xã hội, vay ngân hàng và vay nước
ngoài.
+ Vay các tầng lớp dân cư và các tổ chức kinh tế - xã hội, được thực hiện dưới hình
thức phát hành các loại trái phiếu quốc gia (công trái).
Vay dưới hình thức phát hành công trái, được sử dụng ở hầu hết các quốc gia trong
nhiều thời kỳ để bù đắp thâm thủng ngân sách. Ở nước ta, ngay từ kế thế kỉ trước, thực dân
Pháp đã phát hành công trái để thu hút nguồn vốn trong nhân dân ta. Từ năm 1896 đến năm
1944 họ đã phát hành 12 lần và huy động được trên 2.000 triệu Francs và hơn 54 triệu đồng
bạc.
Sau khi cách mạng tháng 8 – 1945, Nhà nước ta cũng tiến hành công trái để huy động
tài lực nhân dân. Tháng 7 – 1946 phát hành công trái ở Nam Bộ vay của dân 5 triệu đồng, lãi
suất động viên 5%. Năm 1948, chính phủ phát hành công phiếu kháng chiến nhằm huy động
vốn phục vụ sản xuất và chiến đấu, mặt khác công phiếu được coi như một số tiền dự trữ.
Tổng phát hành 500 triệu đồng, lãi huy động 3%, thời hạn 5 năm. Nhưng do mục đích không
rõ ràng, nên kết quả thu được thấp, đến năm 1949 mới bán được 40% số phiều phát hành.
Năm 1950, Chính phủ phát hành công trái lần thứ 3 ghi bằng thóc để đảm bảo giá trị số tiền
cho vay, tổng số phát hành 100.000 tấn thóc, lãi suất 3% thời hạn 5 năm, nhưng thực tế chỉ
đạt được 30% kết quả dự kiến.
Kinh nghiệm phát hành công trái cho thấy: Việc phát hành chưa thu được kết quả tốt,
một phần là do nhân dân ta chưa quen với hình thức cho vay này và chưa hiểu được ý nghĩa
của nó. Hơn nữa, mức lãi suất của công trái định ra quá thấp so với lãi suất thông thường nên
không có tác dụng kích thích. Mặt khác là do việc thanh toán không đúng kỳ hạn.
Giai đoạn gần đây, chính phủ ta đã khôi phục lại hình thức phát hành công trái bằng
tiền, bằng thóc, bằng vàng, nhưng do yếu tố tâm lý và do yếu tố trược giá, nên việc huy động
bằng công trái rất khó khăn, mang tính chất cưỡng ép nhiều hơn là tự nguyện. Thực trạng đó
đòi hỏi phải nhìn nhận và sử lý vấn đề vay dân một cách nghiêm túc hơn và khách quan hơn.
Hình thức huy động vốn bằng công trái có hai vấn đề quan trọng nhất là lãi suất và trả
nợ.
Nếu lãi suất của công trái quá thấp so với lãi suất NH (ngân hàng) và lợi tức cổ phần
hoặc tỉ lệ lạm phát (tỉ lệ trược giá hàng hóa và dịch vụ) thì người mua công trái sẽ bị thiệt thòi
và không kích thích người dân bỏ vôn cho vay.
Hơn nữa, việc thanh toán công trái không được thực hiện sòng phẳng tiền gốc và tiền
lãi theo đúng thời gian quy định có tác động rất lớn đến yếu tố tâm lý và tập quán cho vay của
người dân.
Thực chất của hình thức huy động vốn này trong nền kinh tế thị trường, nhất là trong
điều kiện kinh tế chưa ổn định thị trường vốn và thị trường tiền tệ chưa phát triển, thì yếu tố
rủi ro cao mà người gánh chịu rủi ro có thể là người dân mà có thể là Nhà nước.
Trường Đại học Trà Vinh QT7.1/PTCT1-BM7
Lý thuyết tài chính – tín dụng
17
Vì vậy, hình thức này phải được tính toán một cách chi tiết và thận trọng trong việc xác
định lãi suất huy động, hình thức và thời hạn thanh toán… phù hợp với thực tế của nền kinh
tế và xu hướng phát triển theo dự báo.
+ Vay ngân hàng Nhà nước cũng là một hình thức ngân hàng làm đại lý mua (để phát
hành) các phiếu công trái của kho bạc Nhà nước, cho vay đối với NSNN và được bảo đảm
bằng các trái phiếu kho bạc sinh lãi do bộ tài chính giao cho NHNN.
Ở nước ta, pháp lệnh về NGNN Việt Nam qui định các trái phiếu kho bạc này có kỳ
hạn tối đa là 180 ngày và có thể chuyển nhượng.
+ Nguồn vốn nước ngoài, cũng là nguồn vốn bù đắp có vai trò quan trọng. Nguồn vốn
này được thể hiện dưới hai hình thức: Viện trợ của các Chính phủ, các tổ chức quốc tế và
hoặc các công ty tư nhân. Chúng ta hãy xem xét ỹ vần đề này trong phần hoạt động tài chính
đối ngoại.
Thực trạng ngân sách nước ta giai đoạn vừa qua thâm hụt khá lớn, nhưng các biện pháp
huy động để bù đắp lại bị hạn chế, đặc biệt là nguồn vay dân cư qua phát hành công trái còn
chưa đáng kể (năm 1986 – 0, 04%, năm 1987 –2,2% và năm 1988 – 1,6% tổng số thâm hụt
ngân sách).
II. Chi ngân sách nhà nước
Chi ngân sách, một công cụ của chính sách tài chính quốc gia có tác động rất lớn đối
với nền kinh tế vĩ mô. Chi ngân sách bao gồm nhiều khoản, người ta thường chia làm hai loại
chi lớn và chi tích lũy và chi tiêu dùng. Trên thế giới người ta chia thành: Chi đầu tư phát
triển sản xuất (chi XDCB) và chi tiêu dùng (các chi còn lại)
1. Chi đầu tư phát triển kinh tế
NSNN với vai trò quan trọng của nó, được coi là một công cụ quan trọng trong quản lý
kinh tế vĩ mô, nhằm tạo ra môi trường và điều kiện thuận lợi cho việc bỏ vốn đầu tư của các
doanh nghiệp vào các lĩnh vực cần thiết, phù hợp với các mục tiêu của nền kinh tế. Nói khác
đi, là việc chi tiêu cho đầu tư phát triển kinh tế NSNN cần nhằm mục đích tạo ra một sự khởi
động ban đầu, kích thích quá trình vận động các nguồn vốn trong xã hội để hướng tới sự tăng
trưởng. Với ý nghĩa đó, thì điều cần thiết có tính chất quyết định không phải chỉ là khối lượng
vốn mà còn là đối tượng bỏ vốn.
Chi ngân sách cho đầu tư kinh tế, thời gian không phải là nhỏ. Chúng ta có số liệu về
đầu tư sau:
Đơn vị tính:%
1981 - 1985 1986 – 1990
1. Tỉ trọng chi phí đầu tư phát triển kinh tế so với tổng
chi ngân sách Nhà nước
31,5 28,0
2. Tỉ trọng chi đầu tư phát triển kinh tế so với TNQD sản
xuất
8,6 8,5
Khi so sánh với tỉ lệ chi kinh tế của chính phủ các nước đang phát triển (4,1%GDP) thì
chỉ trọng chi được của chúng ta cao hơn từ 1,5 đến 2 lần. Như vậy, chi NSNN cho phát triển
kinh tế ở nước ta không phải là nhỏ, nhưng tác động khối lượng đầu tư đem lại đối với tăng
trưởng kinh tế không tương xứng, chưa khởi động được nguồng máy kinh tế. chúng ta có thể
nhìn nhận một số nguyên nhân sau:
Thứ nhất: Trong nền kinh tế nước ta thời gian qua tồn tại chủ yếu hai thành phần kinh
tế: quốc dân và tập thể. nguồn vốn dành cho kinh tế tập thể rất hạn chế, còn nguồn vốn kinh
tế quốc doanh lại tập trung vào NSNN. Do đó, trên thực tế toàn bộ nguồn vốn đầu tư cho nền
kinh tế được cấp từ NSNN. Như vậy, “sự khởi động” mà ngân sách tạo ra đã rơi vào một
khoảng trống, không có tác động lan truyền.
Thứ hai: Đối tượng bỏ vốn. Các nhà nghiên cứu kinh tế trên thế giới điều cho rằng,
nguồn vốn của tăng trưởng kinh tế bao gồm hai yếu tố. một là yếu tố nguồn vốn, hai là yếu tố
đối tượng bỏ vốn lĩnh vực đầu tư. Các nghiên cứu kinh tế cũng cho thấy, ở các quốc gia mà
thu nhập bình quân đầu người thấp thì tỉ trọng phần nông nghiệp và tỉ trọng phần công nghiệp
Trường Đại học Trà Vinh QT7.1/PTCT1-BM7
Lý thuyết tài chính – tín dụng
18
và dịch vụ trong TNQD ngang nhau. Tỉ trọng nông nghiệp có xu hướng cùng với sự tăng lên
của thu nhập bình quân trên đầu người. Như vậy, nếu muốn tăng trưởng nhanh không thể dựa
vào nông nghiệp chỉ ở một giới hạn vừa phải để tập trung cho đầu tư phát triển công nghiệp.
Các nhà kinh tế cũng đưa ra hai quan điểm về đối tượng đầu tư trong công nghiệp. Một
quan điểm đầu tư cho rằng cần phát triển đồng bộ tất cả các ngành công nghiệp, mà chỉ tập
trung một số ngành có ưu thế, nhất là các nước nghèo nên chính phủ biết lựa chọn lĩnh vực
đầu tư một cách chính xác thì đảm bảo có sự tăng trưởng đáng kể.
Đâu là tiêu chuẩn để lựa chọn thứ tự đầu tư? Khi nghiên cứu tình hình đầu tư ở một số
nước có tốc độ tăng trưởng cao (các nước Á rập, Malaixia, Hồng kông, Nam triều tiên,
Singapore), các nhà kinh tế thấy rằng: Không có nước nào đầu tư ồ ạt ngay từ đầu vào các
ngành công nghiệp nặng cần nhiều vốn. Ngược lại họ đều chú trọng trước hết đến một số
ngành sản xuất hành tiêu dùng thiết yếu như. Dệt, điện tử, chế biến thực phẩm… Đó là ngành
có khả năng thu hồi vốn nhanh, thu hút nhiều lao động, dễ thích ứng với thị trường.
Như vậy chúng thấy được tính kém hiệu quả trong việc đầu tư vốn của ta làsai lầm về
đối tượng đầu tư. Đây cũng chính là hậu quả của một cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu
và bao cấp mà chúng ta đã cưu mang trong một thời kỳ dài.
Thứ ba: Sự phân tán tình trạng tuỳ tiện và tham nhũng trong lĩnh vực đầu tư. Đây là
một nguyên nhân không nhỏ dẫn tới lãng phí không ít nguồn vốn đầu tư làm giảm hiệu quả
của chi cho phát triển kinh tế.
Ngoài những nguyên nhân trên, còn có những nguyên nhân về cơ chế đầu tư và hình
thức cấp vốn. Song về phương tiện vĩ mô, thì vấn đề cần quan tâm ở đây trong giai đoạn tới.
chính sách đầu tư của chính phủ như thế nào cho phù hợp với khả năng của nguồn vốn và nhu
cầu tăng trưởng.
Một chính sách khả thi là một chính sách có những bước đi thích hợp cho từng giai
đoạn. Chính sách đầu tư sắp tới ở nước ta có thể tiến hành qua các giai đoạn sau:
+ Giai đoạn 1: Là giai đeọan khuyến khích các nhà đầu tư huy động vốn cho việc phát
triển mạnh mẽ các ngành sản xuất hàng hóa tiêu dùng thay thế nhập khẩu và các ngành sản
xuất hàng xuất khẩu với công nghệ hiện đại và chất lượng cao, như dệt, da, may mặc, điện tử,
chế biến lương thực, thực phẩm… những ngành cần vốn đầu tư ít, khả năng thu hồi vốn
nhanh, thu hút nhiều lao động, có thị trường tiêu thụ trong nước và ngoài nước.
Vốn đầu tư của NSNN trong giai đoạn này chủ yếu để tạo ra những điều kiện tiền đề
cho sự ra đời của các ngành doanh nghiệp tư doanh và liên doanh. Đó là đầu tư cải tạo, mở
rông và xây dựng cơ sở hạ tầng cho nền kinh tế. Giai đoạn này khoảng 3 – 5 năm. Giai đoạn
này cần thiết áp dụng hình thức góp vốn đầu tư của Nhà nước bằng phương thức mua hoặc
bán cổ phiếu, hình thức này có thể áp dụng cho các giai đoạn tiếp theo.
+ Giai đoạn 2: Là giai đoạn khuyến khích các doanh nghiệp đi vào các ngành sản xuất
có vốn đầu tư lớn hơn và các công nghệ phức tạp hơn, như sản xuất hàng tiêu dùng cao cấp
(xe hơi, máy lạnh…) và các ngành chế tạo máy móc, thiết bị tinh vi phục vụ nền kinh tế và
xuất khẩu.
Vốn đầu tư của NSNN giai đoạn này vẫn chú trọng nâng cấp cơ sở hạ tầng, đồng thời
đi vào một số lĩnh vực sản xuất mũi nhọn của nền kinh tế để thúc đẩy sự phát triển các ngành
khác, như cơ khí chính xác, luyện kim…
Giai đoạn này, các quy luật của kinh tế thị trường sẽ đảm nhận phần lớn việc hướng
dẫn xu thế vận động và giao lưu của các nguồn vốn trong nền kinh tế, giảm bớt giai vai trò
điều tiết của NSNN.
Tuy nhiên, mỗi mô hình đặt ra không thể là hoàn hảo, việc thực hiện có thể nhanh hơn
hoặc chậm hơn và kết quả chưa hẳn như dự kiến. Vì vậy, nó phải được kiểm tra phân tích và
điều chỉnh kịp thời trong từng giai đoạn để bảo đảm tính hiệu quả của chi phí đầu tư.
2. Chi tiêu dùng.
Chi tiêu dùng của NSNN được coi là các khoản chi còn lại ngoài chi về đầu tư kinh tế,
bao gồm:
Trường Đại học Trà Vinh QT7.1/PTCT1-BM7
Lý thuyết tài chính – tín dụng
19
+ Chi quản lý hành chính và chi an ninh quốc phòng, nội dung chi bao gồm: Chi lương,
chi mua sắm, bão dưỡng các phương tiện, công cụ và trụ sở làm việc, chi trang bị vũ khí quân
trang… đây là một khoản chi phục vụ cho công tác quản lý Nhà nước và ổn định an ninh xã
hội.
Đây là khoản chi tương đối lớn so với các khoản chi khác về tiêu dùng, ở nhiều quốc
gia trên thuế giới cũng như ở nước ta. Tùy theo mục đích và yêu cầu trong từng thời kỳ mà
khoản chi này có thể thay đổi. thực ra đây là hai khoản chi: Một là chi cho quản lý hành chính
Nhà nước, hai là chi cho an ninh quốc phòng, do vậy thay đổi của từng khoản không giống
nhau.
Mặc dù khoản chi này chiếm tỉ trọng lớn, nhưng thực tế cũng đáp ứng được các nhu
cầu cần thiết. Điều kiện làm việc và tiền lương của viên chức và binh lính chưa được đảm
bảo.
Nguyên nhân yếu tố là do tổ chức bộc máy quá cồng kềnh, chức năng nhiệm vụ còn
nhiều bất hợp lý, gây tốn kém không cần thiết.
Hướng đổi mới khoản chi này là nhắm vào việc cải tiến triệt để chế độ tiền lương, tách
chi phí trợ cấp bảo hiểm xã hội ra khỏi nguồn chi của NSNN (do tổ chức tài chính trung gian:
quỹ hưu trí, quỹ bảo hiểm sức khỏe …). Xu hướng chung hiên nay đối với chi phí cho an
ninh, quốc phòng của các quốc gia đều cắt giảm do xu thế đối thoại thay cho đối đầu trên thế
giới.
+ Chi sự nghiệp ở nước ta là một nội dung chi tiêu dùng khá lớn và ngày càng tăng lên.
Đó là các khoản chi cho nghiên cứu khoa học, đào tạo, giáo dục, y tế, xã hội.
Thời kỳ kế hoạch tập trung, NSNN bao cấp toàn bộ các nhu cầu chi đó, hơn nữa, các
khoản chi nay mang nặng tính bình quân chủ nghĩa, chi dàn trải hơn là tính chất phân phối lại
để điều chỉnh thu nhập.
Thực chất của chi sự nghiệp là chi đầu tư cho các lĩnh vực nghiên cứu khoa học, giáo
dục, đào tạo, y tế, tạo cơ sở phát triển toàn diện kinh tế - xã hội có tính chất chiến luợc của
một quốc gia. Do vậy, nhu cầu chi này rất lớn, nếu chỉ dựa vào NSNN thì không thể đáp ứng
được. Nhu cầu chi cho đầu tư trong lĩnh vực này, phải có sự đóng góp, hỗ trợ cho toàn xã hội.
Vấn đề chúng ta cần xem xét ở đây là, hình thức và cơ cấu chi sự nghiệp của NSNN
trong nền kinh tế thị trường như thế nào để có hiệu quả tác động tích cực tới các mục tiêu của nền kinh tế
vĩ mô.
Phương thức chi sự nghiệp ở có thể xem xét một số nội dung sau:
+ Chi nghiên cứu khoa học cần được cũng cố và tăng cường nhằm khuyến khích các
nhà khoa học tiếp cận với nền khoa học thế giới và tạo cơ sở vững chắc cho phát triển kinh tế
xã hội ở nước ta.
+ Chi đào tạo nên chuyển sang hình thức trợ cấp (một số lĩnh vực và một số đối tượng),
số còn lại thực hiện nguyên tắc đóng góp kinh phí hoặc theo đơn nộp hàng.
+ Chi giáo dục vẫn cần sự đầu tư lớn của Nhà nước, nhất là giáo dục tiểu học và trung
học để nâng cao dân trí căn bản cho toàn xã hội. Để phổ cập giáo dục rộng rãi giáo dục trong
toàn xã hội và để nâng cao chất lượng giáo dục cũng như đáp ứng nhu cầu giáo dục của nhiều
tầng lớp dân cư, cần khuyến khích và cho phép nhiều hình thức đào tạo (trường tư thục,
trường dân lập), huy động sự đóng góp vốn chi cho sự nghiệp này.
+ Chi y tế có thể thực hiện cơ chế bảo hiểm y tế, hình thành các quỹ bảo hiểm khám,
chữa bệnh… với sự tham gia rộng rãi của các tầng lớp dân cư, giảm bớt gánh nặng chi NSNN
nhưng vẫn bảo đảm phát triển sự nghiệp y tế.
+ Chi trợ giá, thực chất là một biện pháp để bảo hộ cho người sản xuất hoặc cho người
tiêu dùng, được áp dụng đối với các mặt hàng được khuyến khích sản xuất và ổn định tiêu
dùng.
Hầu hết các quốc gia đều thi hành chính sách này (ngay cả các nước phát triển), để trợ
giá cho những mặt hàng nhất định phổ biến, là trợ giá trong nông nghiệp. Ngoài trợ còn được
áp dụng trong trợ cấp cho lãi suất tiền gửi của nhân dân (trường hợp lãi suất cho vay của NH
Trường Đại học Trà Vinh QT7.1/PTCT1-BM7
Lý thuyết tài chính – tín dụng
20
thấp hơn lãi suất huy động - thực chất là trợ cấp cho ngân hàng ). Chính sách này nhằm thu
hút tiền trong lưu thông và bảo trợ một số ngành sản xuất, một số lĩnh vực.
Đánh giá hiệu quả của chi trợ giá là chuyện rất khó, vì đây không chỉ là chính sách
kinh tế mà có liên quan đến vân đề xã hội.Để giảm gánh nặng chi ngân sách, đồng thời bảo
đảm khuyến khích tăng trưởng nên giới hạn hình thức trợ giá đối với một số mặt hàng chiến
lược, như lương thực, hàng xuất khẩu…, đồng thời giảm mức trợ giá hoặc kiên quyết cắt bỏ
chi trợ giá không hợp lý (xăng dầu, điện nước sinh hoạt, phương tiện giao thông, nhà ở…)
+ Trợ cấp xã hội là những khoản chi mà xã hội quan tâm. Đó là những khoản trợ cấp
cho thương binh, gia đình liệt sĩ, người già, người tàn tật, trè mồ côi, người chưa có việc làm,
nhân dân vùng bị thiên tai địch hoạ.
Đây là một khoản chi không nhỏ, ở nước ta đối tượng hưởng trợ cấp khá lớn. Hiệu quả
của khoản chi này chủ yếu về phương diện xã hội, do vậy để chi phí này của NSNN thật sự
hiệu quả cần xác định đúng đối tượng để chi, mặt khác, mức chi cho từng đối tượng phải tính
toán để có tác động thật sự tích cực đối với xã hội. Trong đó, các khoản chi trợ cấp cho người
chưa có việc làm còn có tác động mạnh về mặt kinh tế. Ở các nước kinh tế phát triển, đây là
một vấn đề nan giải.
+ Hai khoản chi quan trọng khác của NSNN là chi dự trữ và chi trả nợ.
Chi dự trữ bao gồm dự trữ cho mục đích đều chỉnh các hoạt động của thị trường, ổn
định giá cả và dự trữ phòng ngừa những trường hợp rủi ro bất thường xảy ra cho nền kinh tế -
xã hội.
Chi trả nợ bao gổm trả nợ dân và trả nợ nước ngoài. Đây là các khoản chi chính phủ
phải trả cho hậu quả thiếu hụt ngân sách của các năm trước. Dây là khoản chi rất lớn đối với
các nước đang phát triển ( trong đó có nước ta).
Đây là khoản chi rất lớn cần thiết đối với các nước này, để ổn định và phát triển kinh tế
- xã hội. Vấn đề là phải sử dụng có hiệu quả các nguồn vay cũng như thanh toán sòng phẳng các
khoản vay.
Câu hỏi củng cố:
Mục đích của việc thu – chi ngân sách của nhà nước?
Trường Đại học Trà Vinh QT7.1/PTCT1-BM7
Lý thuyết tài chính – tín dụng
21
KẾT QUẢ HỌC TẬP 3: Mô tả các tổ chức tài chính trung gian và thị trường tài chính
Bài hướng dẫn 1:
CÁC TỔ CHỨC TÀI CHÍNH CHÍNH THỨC VÀ CÁC TỔ
CHỨC TÀI CHÍNH PHI CHÍNH THỨC
I. Các tổ chức tài chính chính thức
1. Các ngân hàng thương mại (NHTM):
Trong số tổ chức các tài chính trung gian, hệ thống các NHTM chiếm vị trí quan trọng
nhất về qui mô tài sản và về thành phần tín dụng ngân hàng.
2. Các công ty tài chính (CTTC):
Các công ty tài chính là các hội thương mại, hoạt động chủ yếu của chúng là thu hút
vón để đóng góp vào quản lý các dự án dầu tư, cho vay để mua bán hàng hoá, dịch vụ.
Đặc điểm quan trọng để phân biệt với các NHTM là CTTC không thực hiện các dịch
vụ thanh toán, không huy động tiền gửi tiết kiệm của dân và không sử dụng vốn vay của dân
để làm phương tiện thanh toán. Các CTTC hoạt động nguồn vốn của mình hoặc vay của dân
cư bằng phát hành tín phiếu.
Ngoài dịch vụ cho vay tín dụng, các CTTC còn thực hiện hàng loạt các dịch vụ khác,
như cầm cố các loại hàng hoá, vật tư, ngoại tệ, các giấy tờ có giá và các dụng cụ khác, tư vấn
và maketing giám định các công việc chuẩn bị để ký kết hợp đồng hoặc thành lập các công ty
liên doanh.
Trên thế giới, sử xuất hiện và phát triển của các CTTC diễn biến rất nhanh. Ở Thuỵ
Điểm các công ty tài chính được thành lập từ giữa những năm 60, phát triển mạnh vào những
năm 70 và hiện nay trở thành một trong những nhân tố thực hiện chính sách tín dụng của Nhà
nước. Ở Nhậ Bản, các công ty tài chính được hình thành từ những năm 50, đến nay có hàng
loạt CTTC ra đời, nhiều công ty đã nổi lên chiếm giữ vị trí quan trọng hệ thống các cơ quan
tài chính của Nhật và chi phối hạot động rất nhiều lĩnh vực trong nền kinh tế xã hội Nhật Bản.
Trên thế giới, các công ty tài chính này bành trướng ngày càng lớn và nắm quyền kiểm
soát (trực tiếp hoặc gián tiếp) nhiều ngân hàng hoặc tổ chức tín dụng - hoạt động của các
CTTC đã bao trùm lên hoạt động cảu các NHTM và chi phối hoạt động cảu các ngành kinh
tế.
Ở nước ta, việc Hội đồng Nhà nước ban hành pháp lệnh về ngân hàng, hợp tác xã tín
dụng và công ty tài chính ngày 23 – 5 – 90 có ý nghĩa quan trọng, tạo cơ sở pháp lý đầu tiên
cho sự ra đời của các công ty tài chính. Hiện nay, đã xuất hiện một số CTTC ở nước ta như
Công ty Tài chính cổ phần Vũng Tàu và Công ty tài chính đá quí ở Thành Phố Hồ Chí Minh,
theo pháp lệnh trên Như Vậy trong thời gian tới với sự xuất hiện ngày càng nhiều các công ty
cổ phần thì vai trò trung gian tài chính của các CTTC càng trở nên quan trọng. Vì lẽ đó, mà
Nhà nước cần khuyến khích hơn nữa phát triển loại hình tổ chức tài chính cổ phần trên cơ sở
ban đầu của Nhà nước và vốn đóng góp của nhân dân trong lĩnh vực đầu tư kinh tế. thay vì
đầu tư trực tiếp vào các cơ sở kinh tế, Nhà nước sẽ chuyển số vốn đó thành nguồn vốn đóng
góp cổ phần với các CTTC để hình thành vốn cho vay đầu tư kinh tế của công ty.
3. Hợp tác xã tín dụng:
Trong nền kinh tế thị trường, bên cạnh các tổ chức tín dụng lớn như ngân hàng, các
công ty tài chính, còn tồn tại và phát triển các hội tín dụng, các HTX tín dụng để phục vụ cho
các cơ sở kinh doanh nhỏ và các hộ nông dân. Ở Nhật Bản, nguồn vốn và các khoản tiền cho
vay của tất cả các tổ chức (HTX) nông nghiệp năm 1976 lên tới 177,8 nghìn tỷ yên, bằng trên
12% tổng số tiền gửi và chứng khoáng của tất cả các NH trong nước.
Các HTX tín dụng hoặc hiệp hội tín dụng là tổ chức thuộc sỡ hữu tập thể, được thành
lập chủ yếu theo nguyên tắc góp vốn cổ phần và hoạt động theo nguyên tắc: Tập thể, tự
nguyện, hợp tác và bình đẳng.
Vốn pháp định của các hợp tác xã tín dụng do các cổ đông đóng góp bằng cách mua
các thẻ xã viên có mệnh giá bằng nhau. Vốn góp cổ phần có thể là tiền mặt hay hiện vật. Các
giấy chứng thư này không được phép mua bán trên thi trường chứng khoán.
Trường Đại học Trà Vinh QT7.1/PTCT1-BM7
Lý thuyết tài chính – tín dụng
22
Các HTX tín dụng thực hiện huy động vốn trong nhân dân, trong các tổ chức kinh tế -
xã hội và cho vay đối với mọi đối tượng theo lãi suất thoả thuận, nhưng không được huy
động vốn tiền gửi tiết kiệm và chỉ được phép huy động vốn trong giới hạn tiền gửi của xã
viên.
Số tiền huy động được, HTX tín dụng chỉ dùng để cho vay hay chiết khấu, không được
sử dụng vào hùn vốn, liên kết, liên doanh, mua cổ phần, mua tài sản và trả chi phí hoạt động
của tổ chức tín dụng.
Ngoài nghiệp vụ vay cho vay, các HTX tín dụng có thể thực hiện một số dịch vụ khác
như: nhận gửi vàng, bạc, đá quý, thanh toán hộ giữa các chủ thể kinh tế, giữa nhân dân với
nhau, dịch vụ cân thử vàng, bạc, cầm đồ…
Ngoài những nghiệp vụ trên, còn một số nghiệp vụ khác thuộc nghiệp vụ ngân hàng,
nhưng HTX tín dụng, nếu có đủ điều kiện và khả năng cũng có thể thực hiện như: dịch vụ về
mua bán, chuyển nhượng, quản lý chứng khoán. Các nước có nền kinh tế thị trường, HTX tín
dụng hầu hết đều thực hiện các nghiệp vụ này và được hưởng các khoản lệ phí hoa hồng.
Ở nước ta, HTX ra đời từ những năm 1956, với tư cách là một tổ chức huy động vốn
cho phát triển nông thôn. Nhưng do nhận thức chưa đầy đủ về vai trò của các HTX tín dụng,
và trong cơ chế tập trung bao cấp, nên các HTX không phát huy được vai trò và dần dần bị
tan vỡ… Từ năm 1982 chúng ta chủ trương khôi phục lại các HTX tín dụng, hàng loạt HTX
tín dụng, quỹ tín dụng đã mọc lên, nhất là ở thành phố, ven đô có thể nói đây là thời kỳ phát
triển rầm rộ của các HTX và Quỹ tín dụng, mạnh nhất là thời kỳ 1988 – 1989. Nhưng sau đó
hàng loạt cơ sở này đã bị đổ bể do không có khả năng thanh toán và diển ra nhanh chóng vào
năm 1990.
Có nhiều nguyên nhân của sự đổ vỡ này, trong đó nguyên nhân nhận thức và trách
nhiệm là nguyên nhân rõ nét nhất (có thể nói là chủ yếu) cụ thể hơn là chúng ta không có một
thể chế pháp lý hoàn chỉnh. Việc thực hiện các nghiệp vụ vay và cho vay không tuân theo các
nguyên tắc của tín dụng thậm chí có HTX tín dụng thực hiện phân phát vốn cho các nhân
viên để họ cho vay nặng lãi.
HTX và quỹ tín dụng thực hiện được vai trò của mình cần thiết phải tổ chức lại HTX
tín dụng. Vì vậy ngày 13 – 5 – 1990 Hội đồng Nhà nước đã ban hành Pháp lệnh Ngân hàng,
HTX tín dụng và công ty tài chinhhs nói riêng vào khuôn khổ quy định của luật pháp. Đây
chính là cơ sở pháp lý quan trọng, để khôi phục và phát triển các tổ chức tín dụng nhân dân,
bao gồm HTX tín dụng, các Quỹ tín dụng và các Hội tín dụng.
4. Các công ty bảo hiểm:
Trong nền kinh tế thi trường các hoạt động sản xuất kinh doanh và cuộc sống đời
thường không thể không tránh khỏi các rủi ro hoặc tai nạn bất ngờ. Để phòng ngừa các hiện
tượng nói trên các công ty bảo hiểm như một tổ chức tài chính trung gian thực hiện thu hút
vốn nhàn rỗi của xã hội, phục vụ cho nhu cầu của các doanh nghiệp.
Hoạt động bảo hiểm rất rộng, nó đi vào từng lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội. ở
những nước phát triển, hầu như mọi tài sản, mọi hoạt động đều được bảo hiểm. Ở nước ta,
hoạt động bảo hiểm nói chung còn chưa phát triển và chủ yếu mới đáp ứng được một phần
nhu cầu phòng ngừa rủi ro trong các hoạt động kinh tế và đời sống xã hội. Trong bảo hiểm tài
sản. Chúng ta đã và đang đi vào các lĩnh vực hàng hoá xuất nhập khẩu, bảo hiểm tàu biển, tàu
pha sông biển, tàu ca, ngư cụ, bảo hiểm xe cộ, máy bay, bảo hiểm hoả hoạn, bảo lụt, trộm
cắp, bảo hiểm một số cây trồng và vật nuôi.
Trong lĩnh vực bảo hiểm con người, đã tiến hành bảo hiểm toàn bộ khách hàng, bảo
hiểm tai nạn lao động, bảo hiểm học sinh, bảo hiểm khách vu lịch, bảo hiểm y tế…. tiến tới
mở rộng các dịch vụ bảo hiểm như bảo hiểm hưu trí.
Nguyên tắc tham gia bảo hiểm là: Mỗi thể nhân hya pháp nhân muốn bảo hiểm một
lĩnh vực nào đó, thì mua bảo hiểm của công ty bảo hiểm. Mức phí này do công ty bảo hiểm
ấn định, căn cứ vào khả năng rủi ro, giá trị của đối tượng bảo hiểm, nhu cầu và mức độ bảo
hiểm. Nói chung mức phí không lớn so với nhu cầu của người mua bảo hiểm. Ví dụ, trong
Trường Đại học Trà Vinh QT7.1/PTCT1-BM7
Lý thuyết tài chính – tín dụng
23
bảo hiểm tai nạn lao động ở nước ta, năm 1990, mức bồi thường tối đa là 2 triệu đồng, mức
phí quy định là 1600 đ/năm.
Ngoài mục đích nhân đạo (huy động sự đóng góp của số đông để bồi thường cho một
số ít người), các tổ chức bảo hiểm còn đảm nhận chức năng môi giới tài chính rất quan trọng
trong nền kinh tế - xã hội. Do tập trung được nguồn vốn lớn từ tất cả các pháp nhân và thể
nhân trong xã hội, ngoài yêu cầu để lại một số vốn cần thiết để chi trả bảo hiểm thường
xuyên, các công ty bảo hiểm tích cực tham gia vào các hạot động mua bán tín hiệu, cổ phiếu,
trái phiếu và gởi vào các tài khoản tiền gửi ở ngân hàng.
Sự bành trướng của các công ty bảo hiểm mạnh tới mức, mà ở một số nước, người ta
phải quy định giới hạn mua cổ phiếu của các công ty bảo hiểm này trong các doanh nghiệp
sản xuất. Chẳng hạn ở Thuỵ Điển các công ty bảo hiểm chỉ được phép qua cổ phiếu của các
công ty tư nhân không quá 10% tổng số quyền bỏ phiếu của các công ty đó.
Khi nói tới vai trò của các tổ chức tài chính trung gian, bên cạnh NHTM, người ta
không thể nói tới các công ty bảo hiểm với số vốn huy động khổng lồ của nó. Một trong
những công ty bảo hiểm lớn nhất thế giới là State Farm Mutual Automobile Insuance
Company. Năm 1985 công ty này đứng đầu thế giới về số tiền thu bảo hiểm. Hoạt động của
nó chủ yếu là ở Mỹ và Canada dưới hình thức ký hợp đồng bảo hiểm với các cá nhân và các
tổ chức kinh tế xã hội về bảo đảm phương tiện giao thông, bảo hiểm trong trường hợp mất
mát, hư hỏng tài sản do đâm vào nhau, hoả hoạn, giông bảo, bảo hiểm tai nạn, sức khoẻ, bảo
hiểm hàng không, tái bảo hiểm, bảo hiểm quốc tế…Tài sản của công ty năm 1985 là 23,783
tỷ dolla, phí bảo hiểm trên 14 tỷ dolla, lợi nhuận đạt 584,2 triệu dolla và thu nhập từ đầu tư
lên tới 5,6 tỷ dolla, Ở Thuỵ Điển, hiện nay có tới 500 công ty bảo hiểm trong nước và 15
công ty bảo hỉêm nước ngoài với tổng số vốn là 260 tỷ Krone. Ở Nhật Bản, công ty bảo hiểm
lớn nhất trong nước và đứng thứ ba trên thế giới là công ty bảo hiểm Nhân Thọ Nippon
(1985). Công ty này thực hiện tất cả các dạng bảo hiểm tính mạng cá nhân, đồng thời quản lý
quỹ hưu trí của các công ty và bảo hiểm cho những người đi ra nước ngoài. Công ty có rất
nhiều cơ quan đại lý ở khắp đất nước và nhiều công ty con, nó có quan hệ chặc chẽ với các
công ty công nghiệp, thương nghiệp vào các ngân hàng lớn nhất, cùng góp vốn, quản lý, quỹ
hưu trí, cho vay vốn tín dụng. Công ty thực hiện tham gia quản lý các khoảng tiền cho tư
nhân và Nhà nước ở nước ngoài vay, tự tổ chức các hợp đồng giao kèo vay vốn nước ngoài
và mời các ngân hàng lớn nhất Nhật Bản cùng tham gia.
Về hình thức sở hữu vốn, có thể phân công các công ty bảo hiểm ra làm hai loại: Công
ty bảo hiểm Nhà nước (100% vốn ban đầu do Nhà nước đóng góp) và công ty bảo hiểm tư
nhân (cổ phần). Ở các nước kinh tế thị trường phát triển, hầu hết các công ty bảo hiểm là các
công ty tư nhân. Ví dụ ở Malaixia đang có 59 công ty bảo hiểm thì tất cả 59 công ty này là
các công ty tư nhân.
Ở Việt Nam, các công ty bảo hiểm cho đến nay thuộc sở hữu Nhà nước, chúng ta vẫn
chưa có các công ty bảo hiểm tư nhân, một phần là do chưa có phương án mở rộng các dịch
vụ bảo hiểm tư nhân, một phần kinh tế khác và đồng thời cũng chưa có phương án sử dụng
bảo hiểm như một tổ chức trung gian cung ứng vốn cho nền kinh tế. Việc nhanh chóng tổ
chức lại hoạt động bảo hiểm rõ ràng phải được nhìn nhận như một yêu cầu thiết yếu khách
quan của nền kinh tế và xã hội.
Khi chuyển sang một nền kinh tế thị trường, với chính sách khuyến khích nhiều thành
phần phát triển kinh tế
- xã hội cùng với chính sách “mở cửa”, nhu cầu bảo hiểm và tái bảo
hiểm ngày càng trở thành một đòi hỏi không thể thiếu được trong nền kinh tế nước ta. Dó đó
phải đẩy mạnh hoạt động bảo hiểm với nhiều hình thức rộng rãi, trong mọi lĩnh vực của đời
sống kinh tế - xã hội và với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế. Như vậy, không những
thực hiện được mục tiêu nhân đạo của hoạt động bảo hiểm, mà còn góp phần phân phối, điều
hoà và cung ứng vốn cho nền kinh tế, phát huy đúgn vai trò của nó- một tổ chức chính trung
gian.
5. Ở một số nước có nền kinh tế phát triển, bên cạnh các công ty bảo hiểm, còn hình
thành các quỹ hưu trí hoặc các quỹ tiết kiệm theo hợp đồng. Các tổ chức này được hình
Trường Đại học Trà Vinh QT7.1/PTCT1-BM7
Lý thuyết tài chính – tín dụng
24
thành bắt nguồn từ thực tế là ngày càng có nhiều người múôn tiết kiệm để dự phòng cho lúc
về hưu sau này.
Nguyên tắc hoạt độg của các tổ chức này cũng rất đơn giản. Sau khi được phép thành
lập quỹ, người sáng lập sẽ đứng ra huy động số tiền tiết kiệm dự phòng các tầng lớp nhân dân
- người lao động, trên nguyên tắc: Huy động từng phần trong thời gian lao động có thu nhập,
để trả từng phần khi về hưu hoặc mất sức lao động. Chẳng hạn, ở Thuỵ Điển người ta tổ chức
quỹ hưu trí quốc gia. Mọi đối tượng sử dụng sức lao động phải đóng góp vào quỹ này theo
một tỷ lệ phần trăm nhất định trên tổng số tiền lương phải trả của người sử dụng lao động. Ở
Mai lai xi a người ta cũng đã tổ chức quỹ bảo hiểm xã hội, tham gia góp vốn cho tổ chức này
là người lao động và cả người sử dụng lao động. Thông thường người lao động phải trích 11
% tiền lương tháng và Nhà nước nộp 9%, khi về hưu người lao động sẽ nhận tiền lương hưu
bằng 20 % số lương tháng.
Về phương tiện cung ứng vốn tài chính, các quỹ hưu và tổ chức tương tự cũng đóng vai
trò quan trọng, vì trong quá trình huy động vốn, khi số tiền đóng góp và số tiền lãi vượt quá
số tiền phải trả lương hưu trí, các quỹ này sẽ còn một khoảng vốn khá lớn để xâm nhập vào
thị trường tài chính ( mua các tin phiếu, trái phiếu hoặc bỏ vốn vào các tổ chức tài chính khác
). Ví dụ, Ở Thuỵ Điển năm 1986 số tiền dự trữ của quỹ này lên tới 270 tuỷ Krone, nó nắm
giữ ¼ tổng số giá trị tín phiếu ở nước này.
Việc hình thành quỹ hưu trí quốc gia của Thuỵ Điển và quỹ hộ trợ bảo hiểm xã hội ở
Malaixia tương đối giống với cơ chế hình thành quỹ bảo hiểm xã hội hiện nay ở nước ta. Vì
vậy, nếu áp dụng kinh nghiệm của các nước này chúgn ta có thể nâng cao được vai trò của
công tác quản lý bảo hiểm xã hội khi hình thành một tổ chức quản lý và sử dụng quỹ theo
nguyên tắc tự chủ về tài chính.
II. Các tổ chức tài chính không chính thức
Hoạt động cung ứng dịch vụ tài chính không chính thức ( không hợp pháp) ra đời và
phát triển rất sớm ở các nớc trên thế giới. Sức sống của nó mãnh liệt tới mức nhiều Chính phủ
đã tìm mọi biện pháp kinh tế và hành chính để ngăn chặn nhưng đều bất lực
Gọi là các tổ chức tài chính không chính thức vì các tổ chức này hoạt động trốn tránh
trách nhiệm của mình với Nhà nước, bất chấp pháp luật và hoạt động “ngầm”. Nhưng các tổ
chức tài chính này có ý nghĩa kinh tế to lớn trong việc cung cấp bổ sung vốn đầu tư cho nền
kinh tế và có tác động hỗ trợ cho thị trường vốn chính thức, khi thị trường này chưa đủ mạnh.
Thuộc loại này, có hoạt động cho vay nặng lãi, chơi hụi, cho vay cầm cố…
Hoạt động cho vay nặng lãi là một dịch vụ tài chính không chính thức ra đời rất sớm
và chiếm ưu thế trên thị trường tài chính ngầm. Thực chất, đây là hình thức tín dụng ngắn hạn
với lãi suất cao hơn lãi suất thị trường ( có khi gấp 2 – 3 lần ). Đối tượng có nhu cầu về hoạt
động cho vay nặng alĩ chủ yếu là các thương gia và các hộ sản xuất cá thể. Học cần vốn để
trang trải những nhu cầu nhất thời nào đó, như một vụ làm ăn không thể bỏ lở, một trách
nhiệm tài chính đến hạn, hoặc một nhu cầu cấp bách nào đó. đây là một hình thức tín dụng
ngắn hạn không cần vật bảo đảm. Thông thường, quan hệ giữa người đi vay và người cho vay
là quan hệ lâu dài, họ đã biêt nhau và đã từng làm ăn với nhau , hoặc có sự giới thiệu của
người thứ ba. Thời gian tín dụng cũng rất đa dạng có trường hợp vay trong một vài ngày, có
trường hợp trong 1 tháng, có trường hợp vay “nóng” trong vài giờ với lãi suất rất cao.
Ngoài việc cho vay không cần vật đảm bảo như trên, trong thực tế còn có hình thức
vay ngắng hạn của các chủ cầm đồ. Trong hình thức này, người đi vay mang vật có giá trị của
mình tới người cầm đồ, người cầm đồ giữ lại vật đó và cho vay một khoản tiền cần thiết đối
với người vay ( thường không quá 7% giá trịc của vật cầm cố ) theo lãi suất thõa thuận và
thời gian trả nợ thoả thuận. Tới hạn trả, nếu có tiền trả thì con nợ mang tiền tới trả ( cả lãi ) và
thu hồi lại hiện vật đem về. Đây là một hình thức tín dụng có bảo đảm và ngừoi cho vay chỉ
cần thông thạo về giá trị của các đồ vật cầm cố để định giá có lợi cho mình.
Ngoài hình thức tín dụng ngắn hạn trên, các tổ chức tài chính không chính thức còn
cung cấp tín dụng dài hạn
Trường Đại học Trà Vinh QT7.1/PTCT1-BM7
Lý thuyết tài chính – tín dụng
25
Ở nông thôn, khi chưa tới mùa vụ thu hoạch, họ thường cần tiền để chi tiêu các khoản
chi cần thiết, như mua phân bón, thuốc trừ sâu, làm nhà… các nhà có khả năng tài chính và
có óc tín toán thường lợi dụng cơ hội này để cung cấp tín dụng cho họ và thu lãi (nhiều khi là
các thương gia), và thường mua rẻ nông sẳn của họ dưới hình thức bắt họ phải “bán lúa non”.
Ngoài hình thức này, ở nông thôn còn hình thức chơi hụi. Trong hình thức này, người nông
dân muốn dành một phần thu nhập nhất định mỗi vụ ( thường bằng thóc) làm nguồn tiết kiệm
để sau một năm có thể mang ra giải quyết một số việc lớn, như làm nhà, cưới vợ gả chồng
cho con…, vì vậy họ đứng ra tổ chức hụi, mỗi người trong hội có trách nhiệm đóng góp một
số nông sản nhất định theo từng vụ, và tuỳ theo nhu cầu của mỗi hội viên và số hội viên mà tổ
chức hốt hụi ( thường một năm một hội viên hốt một lần )
Ngoài hình thức tín dụng dài hạn theo “ hụi” bằng tiền ( nhất là ở thành phố và ngoai
ô) loại này bao gồm tín dụng ngắn hạn và cả dài hạn: Tổ chức chơi hụi này thường do các “
chủ hụi” đứng ra tổ chức khá chặt chẽ. Có nhiều loại “hụi” như hụi ngày, hụi tuần, hụi
tháng,… “con hụi” sẽ tham gia góp hụi hằng ngày, hoặc tuần hay tháng tuỳ theo loại hụi, việc
“khui hụi” cũng vậy (hốt hụi ), còn người hốt hụi là người “kêu giá” cao nhất nếu chưa tới
lượt hốt. Những người “nuôi hụi” là người hốt cúôi cùng. đây là một hình thức cung cấp tín
dụng bất hợp pháp, nhưng sức sống của nó rất mảnh liệt và phát triển rộng rãi.
Các tổ chức tài chính không chính thức, xét về phương diện cung ứng vốn tài chính,
có vai trò khá quan trọng ( mà trong một thời gian dài chúng ta đã phủ nhận và cấm đoán), vì
chúng đáp ứng một cách linh hoạt các yêu cầu về vốn ngắn hạn và vốn nhiều hạn cho nhiều
đối tượng, phục vụ được các lợi ích kinh tế - xã hội của đất nước.
Trong số các hoạt động tài chính không chính thức, tổ chức chơi hụi là một dạng tín
dụng ( vừa ngắn hạn vừa dài hạn ) có tác động bổ sung các nguồn vốn tài chính cho sự phát
triển kinh tế xã hội và hoạt động sản xuất kinh doanh của các thành phần kinh tế. Nhưng, tổ
chức chơi hụi cũng chỉ hoạt động trong phạm vi của thị trường vốn không chính thức ( thị
trường “ chợ đen” ) và sự bành trướng của nó là dấu hiệu hoạt động không lành mạnh và kém
hiệu quả của thị trường vốn chính thức. Do đó cần phải định hướng hoạt động của nó sau cho
có tác dụng đến sự hình thành thị trường vốn có tổ chức, và hướng các hoạt động tài chính
không chính thức vào quỹ đạo của thị trường có tổ chức.
Câu hỏi củng cố:
Xác định tổ chức tài chính chính thức và tổ chức tài chính không chính thức?
Bài hướng dẫn 2: THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH
Thị trường tài chính
Trong các lĩnh vực tài chính, cùng với sự tồn tạic ủa các tổ chức tài chính chuyên kinh
doanh một loại hàng hoá là tiền, cũng tồn tại một thị trường đặc biệt là thị trường tài chính.
Do đặc điểm của chúng, thị trowngf tài chính thường phân làm 2 loại là thị trường tiền tệ (
hoặc thị trường tín dụng) và thị trường vốn ( hay thị trường tài chính hoặc thị trường tư bản)
1. Các nghiệp vụ của thị trường tiền tệ
Các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng huy động vốn với mục đích cho
vay để thu được lãi suất cao hơn. Tuy nhiên công nghệ này chúng ta phải chịu một điểm ràng
buộc: Thứ nhất theo luật cố định, tổ chức tín dụng phải ký quỹ tại Ngân hàng Trung ương
(NHTW), khoản tiền ký quỹ này không được trả lãi xuất. Thứ hai: trong nhiều trường hợp,
vốn đã huy động được bị ứ đọng tạm thời tức là không cho vay được, trong khi vẫn phải trả
lãi cho khách hàng ( người gửi tiền), và trong nhiều trường hợp thì ngược lại, số vốn đã huy
động được không đủ để phục vụ cho khách hàng (người vay tiền)
NHTW giữ tiền ký quỹ của các tổ chức tín dụng để bảo đảm chi sự hoạt động an toàn
của chúng và của các hoạt động tiền tệ, tín dụng nói chung trong nền kinh tế. Do số lượng các