Tải bản đầy đủ (.pdf) (64 trang)

SẮC THÁI NAM BỘ TRONG THƠ VĂN NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.44 MB, 64 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA NGỮ VĂN


HỌC PHẦN

PHONG CÁCH NGHỆ THUẬT CỦA MỘT SỐ TÁC GIẢ
VĂN HỌC TRUNG ĐẠI VIỆT NAM

SẮC THÁI NAM BỘ
TRONG THƠ VĂN
NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU

Thực hiện: NGUYỄN HỮU THIỆN
MSSV:

43.01.601.079

Lớp:

43.01.VAN.B

Tp. Hồ Chí Minh – năm 2019


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA NGỮ VĂN


HỌC PHẦN


PHONG CÁCH NGHỆ THUẬT CỦA MỘT SỐ TÁC GIẢ
VĂN HỌC TRUNG ĐẠI VIỆT NAM

SẮC THÁI NAM BỘ
TRONG THƠ CA
NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU
Giảng viên hướng dẫn:
ThS. Lê Văn Lực
Sinh viên thực hiện:
Nguyễn Hữu Thiện
MSSV:
43.01.601.079
Lớp:
43.01.VAN.B
Mã lớp HP: LITR148001

Tp. Hồ Chí Minh – năm 2019


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 5
1. Lý do chọn đề tài .................................................................................... 5
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ...................................................................... 6
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ........................................................... 8
4. Mục đích nghiên cứu .............................................................................. 8
5. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................ 9
6. Cấu trúc bài tiểu luận .............................................................................. 9
CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG ................................................ 10
1.1. Khái niệm sắc thái ............................................................................ 10
1.2. Đặc điểm của sắc thái Nam Bộ.......................................................... 10

1.3. Cơ sở hình thành nên sắc thái Nam Bộ trong thơ văn Nguyễn Đình
Chiểu ........................................................................................................ 14
1.3.1. Thời đại sinh sống ...................................................................... 14
1.3.2. Cuộc đời ..................................................................................... 16
CHƯƠNG 2. VẺ ĐẸP CON NGƯỜI NAM BỘ TRONG THƠ VĂN
NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU ........................................................................... 18
2.1. Trọng nghĩa khinh tài ........................................................................ 18
2.2. Cương trực, thẳng thắn, yêu ghét phân minh ..................................... 22
2.3. Hào hiệp, phóng khoáng .................................................................... 26
2.4. Ứng xử có văn hóa, hợp tình, hợp nghĩa ............................................ 27
2.5. Tinh thần yêu nước mang sắc thái riêng............................................. 31
CHƯƠNG 3. DẤU ẤN VĂN HÓA NAM BỘ TRONG THƠ VĂN
NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU THỂ HIỆN QUA CÁC HOẠT ĐỘNG VĂN
HÓA DÂN GIAN........................................................................................ 36
3.1. Dấu ấn các hoạt động tín ngưỡng dân gian Nam Bộ .......................... 37


3.1.1. Các hình thức nghi lễ truyền thống ............................................. 37
3.1.2. Sự đan xen nhiều hình thức tín ngưỡng trong dân gian Nam Bộ......... 40
3.2. Dấu ấn của các hoạt động văn nghệ dân gian Nam Bộ ....................... 43
3.2.1. Hình thức diễn xướng của sân khấu tuồng .................................. 43
3.2.2. Hình thức diễn xướng qua những câu hò, điệu hát dân gian ........ 46
CHƯƠNG 4. NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN SẮC THÁI NAM BỘ TRONG
THƠ VĂN NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU ........................................................ 48
4.1. Ngôn ngữ........................................................................................... 48
4.1.1. Từ ngữ địa phương mang đậm sắc thái Nam Bộ ......................... 48
4.1.2. Sự đa dạng của lớp từ Nam Bộ ................................................... 53
4.2. Hình ảnh ............................................................................................ 56
4.3. Bút pháp miêu tả................................................................................ 59
TỔNG KẾT ................................................................................................ 63

TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................... 64


Phong cách nghệ thuật của một số tác giả văn học trung đại Việt Nam

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nhắc đến văn học giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX thì không thể không đề
cập đến kho tàng thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu - một nhà thơ yêu nước lớn
nhất của miền Nam Việt Nam được các bậc tài năng văn chương cùng thời và
hiện đại tỏ lòng kính trọng, ngưỡng mộ sâu sắc.
Thời đại Nguyễn Đình Chiểu sống là thời kỳ lịch sử với những biến động
lớn lao. Sự phát triển của chế độ phong kiến Việt Nam khựng lại với triều đình
nhà Nguyễn, nhưng mầm mống cho sự kết thúc của nó bắt đầu bằng tiếng súng
xâm lược của chính quyền thực dân Pháp. Trên những hoang tàn trong sự sụp
đổ của hệ thống giá trị cũ, những giá trị tốt đẹp của văn hóa dân tộc vẫn tồn tại
và lấp lánh trong đời sống tinh thần nhiều thế hệ mà những trang văn, vần thơ
của Nguyễn Đình Chiểu là một hiện tượng điển hình.
Ông sinh ra tại quê mẹ Gia Định thành, kết duyên với vợ là người huyện
Cần Giuộc, sau đó lại chạy giặc và mất ở Ba Tri (Bến Tre). Chính vì vậy, trong
những tác phẩm của mình, Nguyễn Đình Chiểu sử dụng rất nhiều hình ảnh, từ
ngữ mang đậm sắc thái của vùng đất Nam Bộ. Là một nhà Nho phong kiến,
chịu sự chi phối của khoa bảng, thi cử khó khăn nên những sáng tác của Nguyễn
Đình Chiểu tuân thủ nghiêm ngặt hệ thống thi pháp trung đại thế nhưng các đặc
điểm thi pháp ấy lại giao thoa và bị “nhúng” vào toàn bộ không gian văn hóa,
chịu sử ảnh hưởng sâu đậm của những đặc sắc riêng vùng bản địa.
Nam Bộ - ngày xưa nhiều sông rạch, đầm lầy nay trở thành vùng đất trù
phú, cây cối xanh tươi, phong cảnh hữu tình…, và đặc biệt là con người Nam
Bộ rất thật thà, chất phác, thẳng thắn bộc trực,… Tất cả những điều này góp
phần tạo nên một vẻ đẹp riêng về văn hóa. Nơi đây, Nguyễn Đình Chiểu được

sinh ra, lớn lên và sáng tác văn chương. Những vẻ đẹp và phong vị quê hương

Sắc thái Nam Bộ trong thơ ca Nguyễn Đình Chiểu

5


Phong cách nghệ thuật của một số tác giả văn học trung đại Việt Nam
đã thấm sâu vào tâm hồn cụ Đồ qua những câu hò, điệu hát dân gian, và lẽ tất
yếu, đã để lại dấu ấn khá sâu đậm cũng như làm nên nét đặc trưng riêng trong
tác phẩm của Nguyễn Đình Chiểu. Đọc tác phẩm của Nguyễn Đình Chiểu, điều
ấn tượng nhất là chất văn hóa của vùng đất Nam Bộ nổi bật qua thơ văn của cụ.
Có thể nói, đây là những yếu tố góp phần làm nên giá trị đặc sắc cho thơ văn
Nguyễn Đình Chiểu.
Thông qua việc tìm hiểu, nghiên cứu thơ văn Nguyễn Đình Chiểu, chúng
ta sẽ thấy rõ đôi nét về tư tưởng, tính cách, những suy tư, trăn trở, những nỗi
đau và trái tim nhân nghĩa mà tác giả gửi gắm, cũng như những vẻ đẹp của văn
hóa, người dân Nam Bộ được tác giả khắc họa bằng ngồi bút của mình. Bởi
niềm húng thú, say mê với nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu và những tác phẩm của
ông để lại; bên cạnh đó, là một người con của vùng đất Nam Bộ - một vùng đất
mới được khởi sinh, khai phá với bề dày lịch sử khoảng hơn 300 năm nhưng
tồn tại nhiều loại hình văn hóa riêng đặc sắc - nên tôi quyết định chọn đề tài
Sắc thái Nam Bộ trong thơ văn Nguyễn Đình Chiểu để làm tiểu luận cuối phần.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Trải qua bao thăng trầm lịch sử nhưng thơ văn Nguyễn Đình Chiểu vẫn
giữ một vị trí quan trọng cho lòng độc giả. Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã
từng nhận xét: “Nguyễn Đình Chiểu đã kế thừa truyền thống văn hóa chung
của dân tộc, trong cái vẻ riêng của miền Nam, vốn đã được xuất hiện trước đó
trong văn học Đàng Trong.” Các tác phẩm của ông đã gây nên sự chú ý, đón
nhận rộng rãi và đạt được nhiều thành công trong việc sưu tầm, giới thiệu,

nghiên cứu về cuộc đời và sự nghiệp văn chương.
Cho đến nay, có rất nhiều công trình, bài viết nghiên cứu thơ văn Nguyễn
Đình Chiểu trên nhiều phương diện, góc độ cũng như đưa ra nhiều quan niệm,
cách nhìn nhận và đánh giá khác nhau. Nhưng có thể nói đề tài Sắc thái Nam

Sắc thái Nam Bộ trong thơ ca Nguyễn Đình Chiểu

6


Phong cách nghệ thuật của một số tác giả văn học trung đại Việt Nam
Bộ trong thơ văn Nguyễn Đình Chiểu chưa được nhiều người quan tâm và
nghiên cứu một cách trực tiếp.
Trong bài Nguyễn Đình Chiểu, ngôi sao sáng trong văn nghệ dân tộc của
cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng có viết: “Tóm lại, Nguyễn Đình Chiểu là một
chí sĩ yêu nước, một nhà thơ lớn của nước ta. Đời sống và sự nghiệp của
Nguyễn Đình Chiểu là một tấm gương sáng, nêu cao địa vị và tác dụng của văn
học, nghệ thuật, nêu cao sứ mạng của người chiến sĩ trên mặt trận văn hóa tư
tưởng.” Bài viết đã đánh giá cao tác phẩm Lục Vân Tiên không chỉ hay về nội
dung mà còn đẹp về hình thức vì nó được gắn liền với văn hóa tinh thần của
người dân Nam Bộ.
Quyển Lục Vân Tiên – tác phẩm và lời bình (Nhiều tác giả), trong bài
nghiên cứu của Huỳnh Ngọc Trảng viết: “…không thể chối cãi là chính truyện
“Lục Vân Tiên” đã sản sinh ra một hình thức diễn xướng truyện thơ mang tên
gọi của nó, mà sau này trở thành hình thức độc xướng truyện thơ chủ yếu của
các truyện thơ Nam Bộ”. Tác giã đã chứng minh ảnh hưởng của Lục Vân Tiên
lên đời sống tinh thần của nhân dân, điều này làm tăng thêm dấu ấn văn hóa
Nam Bộ trong sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu.
Hoàng Tuệ, Phạm Văn Hảo và Lê Văn Trường trong bài viết Tiếng địa
phương miền Nam trong tác phẩm của Nguyễn Đình Chiểu đã chỉ ra giá trị hiện

thực của văn thơ cụ Đồ được tạo nên từ nhiều yếu tố nhưng phương ngữ miền
Nam là yếu tố quan trọng, chính điều đó ghi lại những sắc thái Nam Bộ trong
các tác phẩm: “Phương ngữ miền Nam chính là một yếu tố trong giá trị hiện
thực của thơ văn Nguyễn Đình Chiểu”.
Ngoài ra, trong bài viết Mấy nhận xét tổng quát về ngôn ngữ thơ văn
Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn Thạch Giang có viết: “…những từ ngữ và những
thể cách hành văn địa phương đậm đà trong “Lục Vân Tiên, Dường Từ - Hà

Sắc thái Nam Bộ trong thơ ca Nguyễn Đình Chiểu

7


Phong cách nghệ thuật của một số tác giả văn học trung đại Việt Nam
Mậu, Ngư Tiều vấn đáp nho y diễn ca” đã tạo nên một không khí đặc biệt, nôm
na đến mức thật thà chân chất, phản ánh hiện thực những xứ sở của những con
người bộc trực, cũng thắng thắn, thật thà”. Chúng ta thấy, không quá khó khăn
để nhìn nhận ra những con người thật thà, đôn hậu và thẳng thắn tựa như tính
cách của người dân Nam Bộ qua các nhân vật trong các tác phẩm của cụ Đồ
Chiểu và trong những sáng tác ấy, tính cách của con người Nam Bộ được khắc
họa sâu sắc và sinh động hơn nữa qua ngôn ngữ hành văn của tác giả.
Nhìn chung, các công trình, bài viết được khảo sát trên đều có cái nhìn
rộng rãi trong việc nghiên cứu, đánh giá về cuộc đời, con người cũng như các
giá trị về nội dung, nghệ thuật thơ văn Nguyễn Đình Chiểu ở nhiều phương
diện và khía cạnh khác nhau, đặc biêt còn chú ý đến những giá trị văn hóa dân
tộc nói chung và cả văn hóa, sắc thái Nam Bộ nói riêng trong các sáng tác của
nhà thơ.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Trong giới hạn của đề tài khảo sát, người viết chủ yếu tìm hiểu về tác giả
Nguyễn Đình Chiểu qua cuộc đời, bối cảnh thời đại sinh sống, các sáng tác thơ

văn và khảo sát, nghiên cứu sắc thái Nam Bộ ở các khía cạnh như: vẻ đẹp con
người Nam Bộ, dấu ấn văn hóa Nam Bộ qua các hoạt động văn hóa dân gian
và nghệ thuật thể hiện những sắc thái ấy như từ ngữ địa phương, hình ảnh, bút
pháp miêu tả thông qua các tác phẩm, bài viết, công trình nghiên cứu có liên
quan đến đề tài bài tiểu luận.
4. Mục đích nghiên cứu
Nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu là một trong những tác gia lớn của nền văn
học Việt Nam, một đại diện tiêu biểu và xuất sắc của nền văn học yêu nước,
chống Pháp trong giai đoạn lúc bấy giờ. Các tác phẩm của ông được đưa vào
chương trình giáo dục trung học phổ thông, cao đẳng, đại học. Chính vì vậy,

Sắc thái Nam Bộ trong thơ ca Nguyễn Đình Chiểu

8


Phong cách nghệ thuật của một số tác giả văn học trung đại Việt Nam
khi nghiên cứu, tìm hiểu về những sắc thái Nam Bộ trong các sáng tác của
Nguyễn Đình Chiểu, người viết góp phần nêu lên được những ảnh hưởng của
văn hóa Nam Bộ đối với quá trình sáng tác của tác giả thông qua từ ngữ và các
hoạt động dân gian. Đồng thời, làm nổi bật lên vẻ đẹp những nhân vật trong tác
phẩm của Nguyễn Đình Chiểu nói riêng và những vẻ đẹp của người dân Nam
Bộ nói chung .
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, người viết đã sử dụng, phối hợp linh
hoạt các phương pháp sau:
o Phương pháp phân tích;
o Phương pháp tổng hợp;
o Phương pháp đối chiếu, so sánh;
o Phương pháp liệt kê.

6. Cấu trúc bài tiểu luận
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung bài tiểu luận còn được chia
thành bốn chương:
Chương 1: Một số vấn đề chung
Chương 2: Vẻ đẹp con người Nam Bộ trong thơ văn Nguyễn Đình Chiểu
Chương 3: Dấu ấn văn hóa Nam Bộ trong thơ văn Nguyễn Đình Chiểu
thể hiện qua các hoạt động văn hóa dân gian
Chương 4: Nghệ thuật thể hiện sắc thái Nam Bộ trong thơ văn Nguyễn
Đình Chiểu

Sắc thái Nam Bộ trong thơ ca Nguyễn Đình Chiểu

9


Phong cách nghệ thuật của một số tác giả văn học trung đại Việt Nam
CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Khái niệm sắc thái
Theo Từ điển Tiếng Việt do Giáo sư Hoàng Phê chủ biên thì “sắc thái là
nét tinh tế làm phân biệt những sự vật về cơ bản giống nhau”.
Từ đây, có thể nói: Sắc thái Nam Bộ là những nét tinh tế, đặc sắc riêng
về văn hóa, lối sống, tính cách con người,… làm phân biệt Nam Bộ với những
vùng miền khác trên đất nước Việt Nam.
1.2. Đặc điểm của sắc thái Nam Bộ
Nam Bộ là vùng đất thiêng liêng, phía cực nam Tổ quốc. Cũng giống
như các vùng miền khác trên cả nước, Nam Bộ có những vẻ đẹp, sắc thái riêng,
tạo nên những đặc điểm nổi bật góp phần làm phong phú thêm nền văn hóa dân
tộc nước nhà.
Về ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên, Nam Bộ là một vùng đồng bằng
rộng lớn, mạng lưới sông ngòi chằng chịt nên địa hình tương đối bằng phẳng,

thấp trũng và không có độ dốc. Khí hậu quanh năm chỉ có hai mùa: mùa nắng
và mùa mưa. Vì thế, vào những tháng mùa mưa, lượng nước từ thượng nguồn
đổ về nhiều gây lụt lội và ngập úng ở những khu vực ven sông, nhất là các tỉnh
đồng bằng sông Cửu Long, người dân nơi đây gọi đó là “mùa nước nổi”. Chính
hiện tượng tự nhiên này, đã hình thành nên lối sống, cách sinh hoạt của người
dân vùng sông nước mang đặc điểm riêng, luôn thích nghi với lũ “sống chung
với lũ”, thích di chuyển, không cố định… Bên cạnh đó, do có khí hậu nhiệt đới
ẩm gió mùa, ít mưa bão, thiên tai nên cuộc sống nơi đây luôn được thoải mái
và dễ chịu, người dân ở đây làm chơi mà ăn thiệt, ăn ở tạm bợ, không lo xa hay
tích trữ phòng cơ như người dân ở những vùng miền khác trên cả nước.
Về lao động sản xuất, đến với vùng đất mới, người dân Nam Bộ làm rất

Sắc thái Nam Bộ trong thơ ca Nguyễn Đình Chiểu

10


Phong cách nghệ thuật của một số tác giả văn học trung đại Việt Nam
nhiều nghề khác nhau, nhưng chủ yếu là làm nghề nông và do sớm biết được
kĩ thuật canh tác kết hợp chặt chẽ giữa ruộng và vườn nên việc phát triển về
đời sống kinh tế của họ mang lại đặc điểm riêng, khác biệt so với các vùng
miền khác. Điều này đã tạo nên một nét văn hóa hết sức độc đáo trong đời sống
sinh hoạt, sản xuất của cư dân nơi đây mà người ta thường gọi đó là “văn hóa
miệt vườn”, hay “văn hóa sông nước”,…
Về cách thức tổ chức xã hội, ban đầu những lưu dân đến vùng đất này đã
tự biết phân bố theo đơn vị cư trú như xã, ấp. Xã, ấp của người Nam Bộ thường
tập hợp những cư dân đến từ nhiều vùng miền và nhiều họ tộc khác nhau. Họ
xây dựng nhà ở không kiên cố như cư dân miền Bắc, miền Trung (thường tận
dụng những nguyên liệu tự nhiên có sẵn như đước, tràm, tre, nứa,… để làm cột
kèo; sử dụng lá dừa nước, cỏ tranh,… để lợp mái, đóng vách) và giúp đỡ nhau

trong công việc. Vì thế, họ gắn bó với nhau theo quan hệ láng giềng, hàng xóm
chứ không còn theo mối quan hệ dòng tộc huyết thống như ở nơi cố hương.
Về trang phục, do sống trong điều kiện môi trường thiên nhiên quanh
năm nóng ẩm và phải quần quật với những công việc nên người Nam Bộ cũng
thiết kế và lựa chọn những trang phục sao cho vừa thích ứng với môi trường
thiên nhiên lại vừa phù hợp, tiện lợi cho sinh hoạt, lao động của mình. Trang
phục truyền thống của người Nam Bộ thường mặc là áo bà ba sẫm màu và
choàng thêm khăn rằn, được dùng cho cả nam lẫn nữ. Những trang phục này
vừa rất dung dị, tiện lợi, thoải mái trong sinh hoạt, cả trong lao động sản xuất
mà vừa kín đáo, duyên dáng. Từ đó tạo nên văn hóa trang phục người dân Nam
Bộ mang nét đẹp riêng và họ rất đỗi tự hào khi khoác lên mình bộ trang phục
này.
Về văn hóa phi vật thể, có thể nói Nam Bộ là nơi hội đủ các tôn giáo của
nước ta: Phật giáo, Thiên Chúa giáo, Tin Lành giáo, Cao Đài giáo, Phật giáo

Sắc thái Nam Bộ trong thơ ca Nguyễn Đình Chiểu

11


Phong cách nghệ thuật của một số tác giả văn học trung đại Việt Nam
Hòa Hảo, Hồi giáo, Hiếu Nghĩa. Tuy nhiên, dù khác nhau về nội dung giáo lý
nhưng điểm chung giữa các tôn giáo này là khuyên dạy con người làm lành,
lánh ác, biết hiếu thảo với ông bà, cha mẹ, biết yêu thương đùm bọc, đoàn kết
với nhau từ những người thân thuộc trong gia đình cho đến mọi người trong xã
hội. Chính vì thế, từ xưa cho đến ngày nay, các tôn giáo ở Nam Bộ đã và đang
cùng chung tay góp sức xây dựng xã hội phát triển lành mạnh, tiến bộ và tốt
đẹp. Bên cạnh đó, người dân Nam Bộ còn có những phong tục, tập quán, lễ hội
riêng mang nếp sinh hoạt chung của cư dân nông nghiệp ở miền sông nước,
như làm nhà ven sông, di chuyển bằng xuồng ghe, lễ hội đua ghe ngo, đua trâu

bò, nghinh ông,... thể hiện được tinh thần lạc quan và ước mơ, khát vọng về
cuộc sống bình an, tốt đẹp của người dân nơi đây. Ngoài ra, Nam Bộ còn là nơi
hình thành, lưu giữ và phát triển các loại hình nghệ thuật như tuồng, những câu
hò, điệu lý, đờn ca tài tử, cải lương, hát bội,… Tất cả đã góp phần làm cho văn
hóa Nam Bộ thêm phong phú, đa dạng và có nhiều điểm khác biệt so với các
vùng văn hóa khác trên đất nước.
Do ảnh hưởng từ điều kiện môi trường tự nhiên, phương thức sản xuất
và có sự giao thoa văn hóa nên trong mưu sinh, người dân Nam Bộ luôn sống
bình dị, chịu khó bươn chải, cần cù, nhạy bén với cái mới, dám nghĩ dám làm,…
Còn trong đối nhân xử thế thì luôn phóng khoáng, cởi mở, không thích sự ràng
buộc khuôn khổ; tính cách luôn hiền lành, chân chất, thẳng thắn, bộc trực,
khảng khái, hiếu khách, hào hiệp, trọng nghĩa khinh tài, không màn danh lợi,…
Chính những phẩm chất nổi bật, riêng biệt ấy đã ảnh hưởng vào trong nền văn
học của vùng đất “mới” này về cả hình thức lẫn nội dung, tư tưởng.
Vào cuối thế kỷ XVI, văn học dân gian được thể hiện bằng phương thức
truyền miệng đã phổ biến và phát triển mạnh mẽ nhằm đáp ứng cho nhu cầu
của nhân dân về đời sống tinh thần. Nội dung của các tác phẩm văn học dân
gian hầu như đều ca ngợi, đề cao cái thiện, cái tốt, căm ghét cái xấu, cái ác và

Sắc thái Nam Bộ trong thơ ca Nguyễn Đình Chiểu

12


Phong cách nghệ thuật của một số tác giả văn học trung đại Việt Nam
thể hiện ước mơ của con người về một xã hội tốt đẹp,… Chính vì thế, văn học
dân gian ở Nam Bộ vừa thể hiện được ước mơ, khát vọng, vừa phù hợp với
trình độ nhận thức cũng như tâm tư, tình cảm của người dân nơi đây. Từ đó làm
cho dòng văn học dân gian ở Nam Bộ được nở rộ ngay những buổi đầu đi mở
đất với nhiều thể loại, như thần thoại, truyền thuyết, cổ tích, truyện cười, tục

ngữ, ca dao,…
Văn chương bác học Nam Bộ trong buổi đầu được thể hiện qua các nhóm
tác giả, tiêu biểu là Bạch Mai thi xã được thành lập giữa thế kỷ XIX, do những
sĩ phu Nam Bộ từng xướng vịnh ở gò Cây Mai sáng lập và sớm chuyển đổi
thành dòng văn học yêu nước, với những tên tuổi lớn như Nguyễn Đình Chiểu,
Thủ khoa Nguyễn Hữu Huân, Thủ khoa Bùi Hữu Nghĩa, Phan Văn Trị, Nguyễn
Thông, Huỳnh Mẫn Đạt,… Trong đó, Nguyễn Đình Chiểu được xem là ngôi
sao sáng trên bầu trời văn học Nam Bộ nói riêng, của dân tộc nói chung ở giai
đoạn nửa cuối thế kỉ XIX. Nhìn chung, nội dung chủ yếu của văn chương bác
học Nam Bộ lúc bấy giờ là tập trung ca ngợi cảnh đẹp quê hương, ca ngợi cuộc
sống khẩn hoang và tinh thần yêu nước, tự cường, tự chủ của lưu dân trên vùng
đất mới.
Ngoài ra, đặc điểm ngôn ngữ cũng góp phần vào những sắc thái riêng
biệt của Nam Bộ so với các vùng miền khác trên cả nước. Theo nhiều tài liệu
nghiên cứu thì các yếu tố về môi trường tự nhiên và xã hội đã tác động, ảnh
hưởng sâu sắc đến việc hình thành và phát triển của ngôn ngữ Nam Bộ. Vì thế,
giọng nói của lưu dân Nam Bộ luôn được thanh thoát, ngân dài, nhẹ nhàng và
trong trẻo hơn so với giọng nói đục, trầm của người miền Trung, hay giọng
mạnh, cao của người miền Bắc. Hơn nữa, tính cách bộc trực, phóng khoáng,
thoải mái của người dân nơi đây cũng làm cho ngôn ngữ giao tiếp của họ trở
nên mộc mạc, ít trau chuốt, gọt giũa, nghĩ sao nói vậy, ngắn gọn, miễn là diễn
đạt được ý mình muốn nói. Tất cả những yếu tố trên đã hình thành nên ngôn

Sắc thái Nam Bộ trong thơ ca Nguyễn Đình Chiểu

13


Phong cách nghệ thuật của một số tác giả văn học trung đại Việt Nam
ngữ Nam Bộ mang những đặc điểm khác biệt so với tiếng Việt phổ thông phương ngữ Nam Bộ. Từ đó góp phần làm phong phú và giàu có thêm ngôn

ngữ của dân tộc Việt Nam.
Từ những điểm trên cho thấy, dù nằm chung trong không gian đất nước
Việt Nam, nhưng Nam Bộ mang trong mình những sắc thái tách biệt với nhiều
nét độc đáo. Chính những nét độc đáo này đã ảnh hưởng đến thơ văn Nguyễn
Đình Chiểu trong việc truyền tải nội dung cũng như xây dựng, khắc họa các
hình tượng nhân vật mang đậm phong thái, tính cách con người miền Nam.
1.3. Cơ sở hình thành nên sắc thái Nam Bộ trong thơ văn Nguyễn Đình Chiểu
1.3.1. Thời đại sinh sống
Thời đại Nguyễn Đình Chiểu sinh sống là giai đoạn lịch sử nước ta với
nhiều biến động lớn lao khi sự phát triển của nhà nước phong kiến bị khựng lại
dưới triều đình Nguyễn. Nhưng dấu hiệu của sự chấm dứt chế độ phong kiến
nước ta lại bắt đầu bằng sự xâm lược của bọn thực dân Pháp.
Trước khi Pháp xâm lược, Việt Nam là một quốc gia độc lập, có chủ
quyền, đạt được những tiến bộ nhất định về kinh tế, văn hóa. Tuy nhiên, ở giai
đoạn này, chế độ phong kiến nước ta đang có những biểu hiện khủng hoảng,
suy yếu nghiêm trọng như nông nghiệp sa sút, công - thương nghiệp bị đình
đốn, quân sự lạc hậu, chính sách đối ngoại mắc những sai lầm,… dẫn đến nhiều
cuộc khởi nghĩa chống triều đình nổ ra.
Năm 1858, liên quân Pháp - Tây Ban Nha nổ tiếng súng tấn công và đổ
bộ lên bán đảo Sơn Trà (Đà Nẵng), đây là tín hiệu bắt đầu cho những chính
sách xâm lược và bình định Việt Nam. Thế nhưng, do chính sách “vườn không
nhà trống” của nhân dân đã gây cho Pháp nhiều khó khăn, liên quân hai nước
bị cầm chân suốt 5 tháng (8/1858 – 2/1859) trên bán đảo. Về sau, Tây Ban Nha
rút khỏi cuộc xâm lược.

Sắc thái Nam Bộ trong thơ ca Nguyễn Đình Chiểu

14



Phong cách nghệ thuật của một số tác giả văn học trung đại Việt Nam
Khí thế kháng chiến sục sôi trong nhân dân cả nước. Tại Đà Nẵng, nhân
dân tổ chức thành đội ngũ, chủ động tìm địch mà đánh. Thực dân Pháp đã phải
thừa nhận “dân quân gồm tất cả những ai không đau ốm và không tàn tật”. Từ
Nam Định, Đốc học Phạm Văn Nghị tự chiêu mộ nhân dân, chủ yếu là học trò
của ông, lập thành cơ ngũ, lên đường vào Nam xin vua được ra chiến trường.
Thấy không chiếm được Đà Nẵng, Pháp quyết định đưa quân vào Gia
Định. Năm 1859, hạm đội Pháp tới Vũng Tàu rồi theo sông Cần Giờ lên Sài
Gòn. Từ năm 1860, cục diện chiến trường Nam Kì có sự thay đổi, Pháp phải
rút toàn bộ số quân ở Đà Nẵng vào Gia Định. Tháng 7/1860, hàng nghìn nghĩa
dũng do Dương Bình Tâm chỉ huy đã xung phong đánh đồn Chợ Rẫy, vị trí
quan trọng nhất trên phòng tuyến của địch. Pháp bị sa lầy ở cả hai nơi (Đà Nẵng
và Gia Định), rơi vào tình thế tiến thoái lưỡng nan. Lúc này, trong triều đình
nhà Nguyễn có sự phân hóa, tư tưởng chủ hòa lan ra làm lòng người li tán.
Năm 1861, Pháp chiếm được Đại đồn Chí Hòa, Định Tường, Biên Hòa
đến năm 1862, Vĩnh Long cũng rơi vào tay giặc. Trước tình cảnh đó, cuộc
kháng chiến của nhân dân miền Nam càng phát triển mạnh hơn. Ngày
10/12/1861, đội quân của Nguyễn Trung Trực đã đánh chìm tài chiến Ét-pêrăng (Hy Vọng) của địch trên sông Vàm Cỏ Đông, làm nức lòng quân dân ta.
Giữa lúc phong trào kháng chiến của nhân dân ngày một dâng cao, khiến
quân giặc vô cùng bối rối thì triều đình Nguyễn kí với Pháp Hiệp ước Nhâm
Tuất (5/6/1862). Mặc dù vậy, phong trào chống Pháp của nhân dân ba tỉnh miền
Đông Nam Kì vẫn tiếp diễn. Các sĩ phu yêu nước vẫn bám đất, bám dân, cỗ vũ
nghĩa binh đánh Pháp và chống phong kiến đầu hàng. Nhưng cuối cùng thất
bại, ba tỉnh miền Đông bị Pháp xâm chiếm.
Đến tháng 6 năm 1867, thực dân Pháp chiếm gọn ba tỉnh miền Tây Nam
Kì (Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên) mà không tốn một viên đạn. Chính vì điều

Sắc thái Nam Bộ trong thơ ca Nguyễn Đình Chiểu

15



Phong cách nghệ thuật của một số tác giả văn học trung đại Việt Nam
này, phong trào kháng chiến trong nhân dân lại tiếp tục dâng cao. Một số văn
thân, sĩ phu yêu nước bất hợp tác với giặc, tìm cách vượt biển ra vùng Bình
Thuận nhằm mưu cuộc kháng chiến lâu dài. Một số ở lại bám đất, bám dân,
tiếp tục tiến hành cuộc vũ trang chống Pháp. Đến năm 1867, sáu tỉnh Nam Kì
rơi vào tay Pháp. Từ đó, Nam Kì được hưởng quy chế thuộc địa, với chính
quyền thực dân, đứng đầu là một thống đốc người Pháp.
Ta có thể thấy, cuộc kháng chiến của nhân dân Nam Kì là những biểu
hiện cụ thể, sinh động về lòng yêu nước nồng nàn, ý chí bất khuất chống ngoại
xâm của nhân dân ta, cụ thể là tinh thần yêu nước của người dân Nam Kì. Chính
điều này, đã ảnh hưởng sâu sắc đến việc xây dựng và khắc họa các hình tượng
nhân vật mang những phẩm chất, tài năng, tính cách của người địa phương
trong các sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu.
1.3.2. Cuộc đời
Nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu (阮廷炤) tự Mạnh Trạch, hiệu Trọng Phủ,
sau khi mù đổi hiệu Hối Trai, mọi người quen gọi là Đồ Chiểu, sinh ngày 1
tháng 7 năm 1822 ở quê mẹ, làng Tân Thới, huyện Bình Dương, tỉnh Gia Định
(nay là Thành phố Hồ Chí Minh).
Ông xuất thân trong một gia đình nhà Nho. Cha là Nguyễn Đình Huy
(1793 - ?) hiệu Dương Minh Phủ, quê ở xã Bồ Điền, tổng Phò Ninh, huyện
Quảng Điền, phủ Triệu Long, xứ Thuận Hóa (nay là làng Bồ Điền, xã Phong
An, huyện Hương Điền, tỉnh Thừa Thiên - Huế). Tổ tiên gốc ngoài Kinh Bắc
(Bắc Ninh ngày nay), tị nạn nội chiến Lê - Mạc, vào Bồ Điền lập nghiệp từ niên
hiệu Hồng Ninh (1591 - 1592) đến ông Huy là 11 đời. Lớn lên, ông Huy cưới
vợ ở đây và đã có hai con. Mùa hạ, tháng 5 năm Canh Thìn (1820), Tả quân Lê
Văn Duyệt được triều đình Huế phái vào làm Tổng trấn Gia Định Thành (lần
thứ hai). Đến đầu mùa thu, Nguyễn Đình Huy đi theo Tả quân để tiếp tục làm


Sắc thái Nam Bộ trong thơ ca Nguyễn Đình Chiểu

16


Phong cách nghệ thuật của một số tác giả văn học trung đại Việt Nam
thư lại ở Văn hàn ty thuộc dinh Tổng trấn. Ở Gia Định, ông Huy có thêm người
vợ là bà Trương Thị Thiệt (1800 - 1848), sinh được bảy người con và Nguyễn
Đình Chiểu chính là đứa con đầu lòng.
Thuở nhỏ, Nguyễn Đình Chiểu được má nuôi dạy. Lên 6, 7 tuổi, ông
theo học với một thầy đồ trong làng. Đến năm 1833, vụ biến Vệ Khôi xảy ra
ngay trong dinh của quan Tổng trấn. Ông Huy trốn về Thừa Thiên, bị cách
xuống làm thường dân, ông lén trở vào Gia Định, đưa Nguyễn Đình Chiểu ra
Huế, gửi nhờ ăn học. Năm 1840, Nguyễn Đình Chiểu về Gia Định để thi, đỗ
Tú tài khoa Quý Mão, năm 1843, ông được một nhà họ Võ hứa gã con gái.
Năm 1847, Nguyễn Đình Chiểu trở lại Huế, học thêm chờ thi tiếp khoa
sau (Kỷ Dậu 1849). Ngày rằm tháng 11 năm Mậu Thân (31 tháng
12 năm 1848), má Nguyễn Đình Chiểu mất ở Gia Định. Được tin, ông bỏ thi,
dẫn người em cùng đi thi theo đường bộ trở về Nam chịu tang mẹ. Đường xa
lại đau dớn trong lòng, ông ngã bệnh nằm lại dọc đường chạy chữa. Kết cục bị
mù cả hai mắt. Về đến nhà, người vợ chưa cưới đã từ hôn khi thấy ông bị mù.
Nguyễn Đình Chiểu sau khi mãn tang mẹ (khoảng năm 1851), thì mở
trường dạy học và làm thuốc ở Bình Vi, bên ngoài thành Gia Định. Năm 1854,
ông lấy vợ là bà Lê Thị Điền (1835 - 1886), người làng Thanh Ba, huyện Cần
Giuộc, tỉnh Gia Định (nay thuộc Long An).
Ngày 10/2/1859, tàu chiến Tây vào cửa Cần Giờ. Ngày 17/2/1859, thành
Gia Định vỡ. Đồ Chiểu đưa gia đình chạy giặc về làng Thanh Ba, tức quê vợ
ông. Cuối năm 1861, giặc úp đồn Cần Giuộc. Hiệp ước Nhâm Tuất 1862 được
kí kết, triều đình cắt ba tỉnh Đông Nam Kì dâng cho Pháp. Đồ Chiểu dắt vợ con
chạy xuống An Bình Tây, Vĩnh Long (nay thuộc Ba Tri, Bến Tre). Tại đây, ông

tiếp tục dạy học, làm thuốc và đem ngòi bút yêu nước của mình ra phục vụ cho
cuộc đấu tranh anh dũng của đồng bào Nam Kì trong suốt 20 năm dù đã bị mù

Sắc thái Nam Bộ trong thơ ca Nguyễn Đình Chiểu

17


Phong cách nghệ thuật của một số tác giả văn học trung đại Việt Nam
lòa. Năm 1867, miền Tây thuộc hết về tay giặc, nhiều người tị địa ra miền
Trung nhưng ông ở lại. Đến ngày 3 tháng 7 năm 1888, Nguyễn Đình Chiểu qua
đời tại Ba Tri do buồn rầu vì thương vợ, vì cảnh nước mất nhà tan đã bấy lâu,
vì bệnh tật ngày thêm trầm trọng. Ngày đưa tiễn nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu
về cõi vĩnh hằng, cánh đồng An Đức rợp trắng khăn tang của những người mến
mộ ông.
Nguyễn Đình Chiểu là tấm gương hiếu nghĩa nhân từ, một nho sĩ bình
dân bản lĩnh và tiết tháo, khiến cả thực dân cũng không cưỡng nỗi sự tò mò và
công nhiên kính phục.
Chính hoàn cảnh cuộc đời như thế đã làm cho các tác phẩm của Nguyễn
Đình Chiểu như nhuốm màu hiện thực cuộc sống của chính tác giả. Bên cạnh
đó, Nguyễn Đình Chiểu sinh ra - lớn lên - sáng tác văn chương - mất đi đều
trên mảnh đất Nam Bộ nên những sáng tác của ông, ta bắt gặp được rất nhiều
sắc thái Nam Bộ từ hình ảnh, tính cách con người, vẻ đẹp văn hóa thông qua
bút pháp miêu tả, khắc họa không gian, hình tượng nhân vật của nhà thơ.
CHƯƠNG 2. VẺ ĐẸP CON NGƯỜI NAM BỘ TRONG THƠ VĂN
NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU
2.1. Trọng nghĩa khinh tài
Trọng nghĩa khinh tài là một trong những tính cách nổi bật của người
dân Nam Bộ. Họ vốn là những lưu dân rời bỏ cội nguồn quê hương, bỏ lại gia
đình và dòng tộc để tìm đến xứ sở này mà khai hoang, lập ấp mở làng. Chính

cuộc sống như vậy, con người nơi đây đã gắn bó, đoàn kết với nhau và cùng
nhau hợp tác trong lao động sản xuất cũng như giúp đỡ, hỗ trợ nhau khi gặp
khó khăn hoạn nạn - “Bán bà con xa, mua láng giềng gần” là thế. Cho nên,
trong đối nhân xử thế, người dân Nam Bộ luôn cảm thông với những ai đồng
cảnh ngộ và sẵn sàng cưu mang, che chở cho nhau mà không cần đền ơn nghĩa.

Sắc thái Nam Bộ trong thơ ca Nguyễn Đình Chiểu

18


Phong cách nghệ thuật của một số tác giả văn học trung đại Việt Nam
Bằng các hình tượng nhân vật điển hình, nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu đã
làm nổi bật lên vẻ đẹp “hành hiệp trượng nghĩa” của nhân dân Nam Bộ. Trong
tác phẩm Lục Vân Tiên, tác giả không những đề cao vấn đề “trung, hiếu, tiết,
hạnh”:
“Trai thời trung hiếu làm đầu
Gái thời tiết hạnh làm câu trau mình.”
mà còn ca ngợi, đề cao chuyện đạo đức, nghĩa nhân trong mối quan hệ giữa
người với người. Vì vậy, không phải ngẫu nhiên mà những chữ “nghĩa, nghì,
ngãi” được nhà thơ nhắc nhiều lần trong tác phẩm của mình. Đồng thời, việc
nhắc đi nhắc lại nhiều lần chữ “nghĩa” làm cho người đọc thấy rằng, dường
như tác giả đã thấm nhuần sâu sắc tư tưởng nhân nghĩa của nhân dân Nam Bộ
lúc bấy giờ:
“Nhớ câu kiến nghĩa bất vi
Làm người thế ấy cũng phi anh hùng.”
Ta thấy, tất cả hành động của những nhân vật đều xuất phát từ tinh thần
trọng nghĩa như việc Lục Vân Tiên một mình xông vào đánh bọn cướp Phong
Lai để giải cứu cho Kiều Nguyệt Nga:
“Tôi xin ra sức anh hào

Cứu người cho khỏi lao đao buổi nầy.”
“Vân Tiên ghé lại bên đàng
Bẻ cây làm gậy nhắm làng xông vô.”
“Vân Tiên tả đột hữu xung
Khác nào Triệu Tử mở vòng Đương Dang
Lâu la bốn phía vỡ tan
Đều quăng gươm giáo tìm đàng chạy ngay”
(Lục Vân Tiên)

Sắc thái Nam Bộ trong thơ ca Nguyễn Đình Chiểu

19


Phong cách nghệ thuật của một số tác giả văn học trung đại Việt Nam
Hay việc Kiều Nguyệt Nga đã tự vẽ lại hình ảnh của Lục Vân Tiên và nguyện
thủy chung suốt đời với chàng cũng xuất phát từ lòng mến nghĩa anh tài:
“Nguyện cùng Nguyệt lão hỡi ông
Trăm năm cho vẹn chữ tòng mới an.
[…]
Trở vào bèn lấy bút nghiên
Đặt bàn hương án chúc nguyền thần linh.
Làu làu một tấm lòng thành,
Họa ra một bức tượng hình Vân Tiên.
Than rằng: “Ngàn dặm sơn xuyên,
Chữ ân để dạ, chữ duyên nhuốm sầu.”
Ngay cả nhân vật đầy tớ Tiểu đồng, ngỡ Lục Vân Tiên đã chết nên chàng ta
quyết một lòng trung thành với chủ bằng cách ở lại nơi đất khách quê người mà
che chòi giữ mộ Vân Tiên cho đến những ba năm. Không những vậy, khi đỗ
Trạng, lập công lớn, Lục Vân Tiên đã nghĩ đến Tiểu đồng hơn bao giờ hết.

Nặng ơn người giúp việc tận tụy, trung thành, luôn luôn hết lòng vì mình trong
cơn hoạn nạn, Lục Vân Tiên truyền quân sĩ bày lễ tế Tiểu đồng và đích thân
“Quốc Trạng” đọc bài văn tế:
“Đọc văn nhớ tới chau mày,
Đôi hàng lụy ngọc tuôn ngay ròng ròng”
Không chỉ các hình tượng nhân vật trong Lục Vân Tiên mà ở Ngư Tiều y
thuật vấn đáp, hình tượng nhân vật Kì Nhân Sư cũng hành động vì nghĩa. Bằng
tấm cả tấm lòng đức độ của một người thầy thuốc, Kì Nhân Sư đã hết lòng chữa
bệnh cho bất cứ ai, kể cả “đứa ăn mày” khốn khổ chứ không phân chia giai
cấp, không biệt giàu sang phú quý hay nghèo hèn thấp kém, và tuyệt nhiên
không màn đến danh lợi cho riêng mình:

Sắc thái Nam Bộ trong thơ ca Nguyễn Đình Chiểu

20


Phong cách nghệ thuật của một số tác giả văn học trung đại Việt Nam
“Ăn mày cũng đứa trời sinh
Bệnh còn cứu đặng, thuốc đành cho không”
Hoặc trong tác phầm Dương Từ - Hà Mậu, nhân vật Tần Khanh đã sẵn
lòng nhận nuôi hai con của Hà Mậu đang gặp hoạn cảnh bơ vơ, không nơi
nương nựa mà không một chút đắn đo, tính toán:
“Tuyết, Băng là gái của Trời
Ta xin nuôi lấy, cải đời theo ta.”
Ngoài ra, trong Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, Nguyễn Đình Chiểu cũng có
đề cập đến việc những người nông dân “Cui cút làm ăn – Toan lo nghèo khó”
vì mến nghĩa mà ra trận đánh giặc xâm lăng:
“Vốn chẳng phải quân cơ, quân vệ, theo dòng ở lính diễn binh
Chẳng qua là dân ấp, dân lân, mến nghĩa làm quân chiêu mộ.”

Cũng vì trọng nghĩa nên họ khinh tài, xem tiền bạc, vật chất như áng phù
du – “Tiền tài như phấn thổ - Nghĩa trọng tợ thiên kim”. Đối với nhân dân,
nhân nghĩa mới là cái đáng quý và cần phải dành cho nhau. Từ đây nhận thấy,
các nhân vật trong sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu đều quên mình, xả thân để
cứu giúp người khác mà không cần đối phương phải đền ơn đáp nghĩa lại mình.
Như nhân vật Lục Vân Tiên trong tác phẩm cùng tên, không cần được Kiều
Nguyệt Nga báo đáp khi giúp nàng đánh đuổi gian tà:
“Gặp đây đương lúc giữa đàng,
Của tiền chẳng có, bạc vàng cũng không.
Gẫm câu báo đức thù công
Lấy chi cho phỉ tấm lòng cùng ngươi
Vân Tiên nghe nói liền cười:
Làm ơn há dễ trông người trả ơn.”
(Lục Vân Tiên)

Sắc thái Nam Bộ trong thơ ca Nguyễn Đình Chiểu

21


Phong cách nghệ thuật của một số tác giả văn học trung đại Việt Nam
Hay, nhân vật ông Ngư cùng gia đình cứu sống Vân Tiên khi bị Trịnh
Hâm hãm hại, khi nghe nói đến chuyện đền ơn đáp nghĩa thì ông đã khẳng khái
khước từ:
“Ngư rằng: Lòng lão chẳng mơ
Dốc lòng nhân nghĩa há chờ trả ơn.”
(Lục Vân Tiên)
Thông qua những phân tích trên, có thể nói, tính cách trọng nghĩa khinh
tài của các hình tượng nhân vật trong thơ văn Nguyễn Đình Chiểu đã làm toát
lên vẻ đẹp tính cách của người dân Nam Bộ. Họ là những con người luôn coi

trọng đạo đức nhân nghĩa, sống hết lòng với người, với đời và xem việc cứu
giúp, cưu mang những người gặp khó khăn hoạn nạn là hiển nhiên, là trách
nhiệm nên không hề đắn đo, tính toán, mưu cầu danh lợi cho cá nhân mình.
2.2. Cương trực, thẳng thắn, yêu ghét phân minh
Trong nói năng, giao tiếp thường ngày, người dân Nam Bộ không cần
phải dùng quá nhiều lời và khi nói ra cũng không cần trau chuốt từ ngữ cho thật
bóng bẩy mà nói sao miễn người nghe hiểu ý mình là được. Họ là những người
ăn ngay, nói thẳng nhưng trong lòng lại không hề có ác ý và khi đã nói xong
thì coi như phủi bỏ hết chớ không hề ghi lòng, để dạ chờ có cơ hội thì hiềm
khích nhau. Trong ứng xử, họ bộc trực thẳng thắn, ít chữ nghĩa, văn chương
rào đón, là những người ưa hành động. Chính điều này đã hình thành nên tính
cách riêng của người dân Nam Bộ là cương trực, thẳng thắn, yêu ghét phân
minh và những sắc thái này, người đọc cũng sẽ bắt gặp trong sáng tác của
Nguyễn Đình Chiểu.
Ở truyện Lục Vân Tiên, sự cương trực, thẳng thắn được thể hiện qua lời
nói và hành động của các nhân vật. Cụ thể như, nhân vật ông Quán dù chỉ là
người bán thức ăn cho khách qua đường nhưng đã thẳng thừng, không chút

Sắc thái Nam Bộ trong thơ ca Nguyễn Đình Chiểu

22


Phong cách nghệ thuật của một số tác giả văn học trung đại Việt Nam
kiêng dè đối với hai tên Trịnh Hâm và Bùi Kiệm: “Quán rằng: Cười kẻ bất tài
đồ thơ”. Hoặc trong chi tiết, khi biết được Tử Trực thi đỗ trở về tìm Lục Vân
Tiên, Võ Công đã mưu mô, dụ dỗ chàng yêu con gái hắn nhằm hám danh trục
lợi cho bản thân thì liền bị chàng mắng tát vào mặt:
“Nói sao không biết hổ thàm
Người ta há phải là cầm thú sao?”

Hay, sau bao năm đèn sách, luyện võ, Lục Vân Tiên xin thầy về thăm
nhà để chuẩn bị lai kinh ứng thí. Trong đường về quê, gặp cảnh bọn cướp đang
quấy nhiễu dân lành, không chút do dự, Lục Vân Tiên đã dũng cảm “bẻ cây
làm gậy xông vào” đánh tan bọn Phong Lai để giúp người hoạn nạn. Hành động
của Lục Vân Tiên được xem như là giữa đường thấy chuyện bất bình liền ra
tay cứu giúp.
Trong Ngư Tiều y thuật vấn đáp, nhân vật Kì Nhân Sư mà Nguyễn Đình
Chiểu khắc họa là một lương y rất giỏi, suốt đời luôn có khát vọng chữa bệnh
cho nhân dân, giúp đời. Chắc vì lẽ đó, nên khi đất nước bị giặc Liêu xâm lược,
Kì Nhân Sư đã tỏ rõ thái độ căm thù, bất hợp tác bằng những hành động khảng
khái, quyết liệt, điển hình như ông đã tự xông mù đôi mắt của mình để được
giữ trọn đạo trung hiếu với nhân dân:
“Sự đời thà khuất đôi tròng thịt
Lòng đạo xin tròn một tấm gương.”
Bên cạnh đó, tính cách cương trực, thẳng thắn còn thể hiện rõ ở thái độ
yêu ghét phân minh. Thông qua tình cảm đối với các nhân vật, tác giả luôn
hướng tới những người dân đen gặp bao nhiêu là cảnh hoạn nạn, đau khổ. Trong
Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, Nguyễn Đình Chiểu đã miêu tả họ là những người
dân hiền lành, chất phát, quanh năm vun vén lo cho miếng cơm manh áo “Cui

Sắc thái Nam Bộ trong thơ ca Nguyễn Đình Chiểu

23


Phong cách nghệ thuật của một số tác giả văn học trung đại Việt Nam
cút làm ăn - Toan lo nghèo khó” luôn gặp cảnh khó khăn, ngoại bang xâm lược
nhưng bọn quan lại nào đoái hoài, quan tâm:
“Tiếng phong hạc phập phồng hơn mươi tháng,
trông tin quan như trời hạn trông mưa;

Mùi tinh chiên vấy vá đã ba năm,
ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ.”
Hay khi bị bọn giặc tra tấn nhẫn tâm, dã man, giết chóc cũng chẳng ai cứu giúp
như trong Văn tế nghĩa sĩ trận vong Lục tỉnh đã viết:
“Phạt cho đến người hèn kẻ khó, thâu của quay treo,
tội chẳng tha con nít đàn bà, đốt nhà bắt vật;
Trải mười mấy năm trầy khốn khó, bị khảo, bị tù,
bị đày, bị giết, trẻ già nghe nào xiết đến tên.”
Chính những hành động mang rợ của bọn thực dân, thái độ căm ghét của tác
giả của như của đồng bào Nam Bộ càng lên đến đỉnh điểm khi “ghét thói mọi
như nhà nông ghét cỏ”, “muốn tới ăn gan”, “muốn ra cắn cổ”, “Kẻ đam
ngang, người chém dọc, làm cho mã tà, má ní hồn kinh”. Từ thái độ căm phẫn
này đã biến thành lòng căm thù giặc sâu sắc, bộc lộ thành tiếng chửi sâu cay,
mạnh mẽ nhất khi lôi cả tông ti, họ hàng “bát cơm manh áo ở đời, mắc mớ chi
ông cha nó”. Hơn thế nữa, Nguyễn Đình Chiểu còn lớn tiếng chê trách những
kẻ đang tâm làm tay sai cho giặc:
“Sống làm chi theo quân tả đạo, quăng vùa hương,
xô bàn độc, thấy lại thêm buồn;
Sống làm chi ở lính mã tà, chia rượu lạt,
gặm bánh mì, nghe càng thêm hổ.”
(Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc)

Sắc thái Nam Bộ trong thơ ca Nguyễn Đình Chiểu

24


Phong cách nghệ thuật của một số tác giả văn học trung đại Việt Nam
Không những vậy, thái độ căm ghét những cái ác, cái xấu trong xã hội
đương thời cũng được nhìn thấy qua các nhân vật ở các tác phẩm. Trước hết là

thái độ căm ghét đối với những tên vua xấu xa, độc ác:
“Ghét đời Kiệt Trụ mê dâm;
Ghét đời U Lê đa đoan”
(Lục Vân Tiên).
Đây là những ông vua đại diện cho kẻ xấu làm ác trong xã hội phong
kiến lúc bấy giờ. Thứ đến là căm ghét bọn quan lại, bọn thầy bói, lang băm gian
xảo, bịp bợm… đầy rẫy trong xã hội:
“Đời xưa tôi nịnh biết bao
Thái sư nay cũng khác nào đờ xưa”
(Lục Vân Tiên)
“Kêu là thầy pháp dối lừa thế gian”
(Dương Từ - Hà Mậu)
Cuối là chửi bọn theo Tây rắp tâm bán nước cầu vinh:
“Dù đuôi mà khỏi danh nhơ
Còn hơn có mắt ăn dơ tanh rình.”
(Ngư Tiều y thuật vấn đáp)
Thế nhưng, đối với những ai lầm đường lạc lối, thông qua lời nói của
nhân vật, Nguyễn Đình Chiểu đã tìm mọi lời lẽ để khuyên răn bản thân họ thấy
được sự thiệt hơn mà tìm đường hối cải, sửa sai và quay về với con đường của
chánh đạo:
“Trối ra ai sức muông săn
Mai mai hết thỏ cọp ăn đến mình”
(Dương Từ - Hà Mậu)

Sắc thái Nam Bộ trong thơ ca Nguyễn Đình Chiểu

25



×