Tải bản đầy đủ (.doc) (87 trang)

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP NGÀNH NGỮ VĂN NGHỆ THUẬT TỰ SỰ TRONG TIỂU THUYẾT CỦA LÊ LỰU

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (505.49 KB, 87 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT
KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
---o0o---

BÁO CÁO TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Đề tài:
NGHỆ THUẬT TỰ SỰ TRONG TIỂU THUYẾT CỦA LÊ LỰU
(KHẢO SÁT QUA CÁC TÁC PHẨM: THỜI XA VẮNG,
CHUYỆN LÀNG CUỘI VÀ SÓNG Ở ĐÁY SÔNG)

Sinh viên thực hiện

: Lê Ngọc Bích Hạnh

Lớp

: D15NV03

Khoá

: 2015 – 2019

Ngành

: Sư phạm Ngữ Văn

Giảng viên hướng dẫn

: ThS. Nguyễn Thị Thanh Xuân

Bình Dương, tháng 05 năm 2019




TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT
KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
---o0o---

BÁO CÁO TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Đề tài:
NGHỆ THUẬT TỰ SỰ TRONG TIỂU THUYẾT CỦA LÊ LỰU
(KHẢO SÁT QUA CÁC TÁC PHẨM: THỜI XA VẮNG,
CHUYỆN LÀNG CUỘI VÀ SÓNG Ở ĐÁY SÔNG)

Sinh viên thực hiện

: Lê Ngọc Bích Hạnh

Lớp

: D15NV03

Khoá

: 2015 - 2019

Ngành

: Sư phạm Ngữ Văn

Giảng viên hướng dẫn


: ThS. Nguyễn Thị Thanh Xuân

Bình Dương, tháng 05 năm 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả được trình bày trong báo cáo là trung
thực và chưa từng được công bố trong bất kì công trình
nghiên cứu nào trước đây, nếu có điều gì sai sót tôi xin hoàn
toàn chịu trách nhiệm.
Thủ Dầu Một, ngày 15 tháng 05 năm 2019
Sinh viên

LÊ NGỌC BÍCH HẠNH

i


LỜI CẢM ƠN
Trước hết, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến quý thầy
cô, cán bộ và nhân viên trong khoa Khoa học Xã hội và Nhân
văn đã quan tâm, tận tình giảng dạy, giúp đỡ tôi trong những năm
tháng học tập và nghiên cứu tại trường.
Qua đây, tôi cũng bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến quý Ban
lãnh đạo trường Đại học Thủ Dầu Một, các trung tâm, phòng ban
đã tạo mọi điều kiện thuận lợi về cơ sở vật chất và tinh thần cho
tôi. Cụ thể, thư viện của trường đã hết lòng phục vụ, cung cấp
nguồn tài liệu quý báu để tôi có thể hoàn thành báo cáo này.
Đặc biệt, tôi muốn gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến Cô

Nguyễn Thị Thanh Xuân, người đã đồng hành cùng tôi trong
nhiều học phần và sau tất cả, đã trực tiếp hướng dẫn, dành nhiều
thời gian, tâm huyết giúp tôi hoàn thành báo cáo tốt nghiệp.
Cảm ơn gia đình, anh chị và những người bạn đã luôn bên
cạnh, động viên và giúp đỡ tôi trong suốt thời gian vừa qua.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Sinh viên

LÊ NGỌC BÍCH HẠNH

ii


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài.................................................................................................1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề.................................................................................3
3. Mục tiêu nghiên cứu...........................................................................................7
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu......................................................................8
5. Phương pháp nghiên cứu....................................................................................8
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài...........................................................8
7. Cấu trúc của đề tài..............................................................................................9
NỘI DUNG
Chương 1
TIỂU THUYẾT CỦA LÊ LỰU TRONG BỐI CẢNH TIỂU THUYẾT
VIỆT NAM THỜI KỲ ĐỔI MỚI
1.1. Khái lược về tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới......................................10
1.2. Đôi nét về tiểu sử và quá trình sáng tác của Lê Lựu.....................................13
1.2.1. Tiểu sử........................................................................................................13

1.2.2. Quá trình sáng tác của Lê Lựu...................................................................15
1.3. Tiểu thuyết và quan niệm sáng tác của Lê Lựu.............................................17
Chương 2
NGHỆ THUẬT TỰ SỰ TIỂU THUYẾT CỦA LÊ LỰU QUA
KHẮC HỌA NHÂN VẬT, ĐIỂM NHÌN TRẦN THUẬT VÀ
HÌNH TƯỢNG NGƯỜI KỂ CHUYỆN
2.1. Nghệ thuật khắc họa nhân vật và tạo tình huống truyện...............................22
2.1.1. Nghệ thuật khắc họa nhân vật....................................................................22
2.1.2. Nghệ thuật tạo tình huống truyện...............................................................29
iii


2.2. Nghệ thuật tổ chức điểm nhìn trần thuật.......................................................32
2.2.1. Điểm nhìn nhân vật....................................................................................34
2.2.2. Điểm nhìn không gian và thời gian............................................................37
2.3. Hình tượng người kể chuyện.........................................................................41
Chương 3
NGHỆ THUẬT TỰ SỰ TIỂU THUYẾT CỦA LÊ LỰU
QUA NGÔN NGỮ VÀ GIỌNG ĐIỆU
3.1. Nghệ thuật ngôn ngữ.....................................................................................47
3.1.1. Ngôn ngữ người kể chuyện........................................................................47
3.1.2. Ngôn ngữ độc thoại nội tâm.......................................................................50
3.2. Nghệ thuật giọng điệu...................................................................................52
3.2.1. Giọng điệu trữ tình xót xa..........................................................................52
3.2.2. Giọng điệu chiêm nghiệm triết lí...............................................................55
3.2.3. Giọng điệu suy tư, khắc khoải....................................................................58
3.2.4. Giọng điệu châm biếm phê phán................................................................60
KẾT LUẬN.........................................................................................................64
TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................................66
PHỤ LỤC..............................................................................................................v


iv


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Văn học Việt Nam từ sau 1975 đến nay là một giai đoạn văn học phát
triển sôi động với sự ra đời của hàng loạt tác phẩm, sự đóng góp tích cực không
chỉ của những cái tên “kì cựu” mà ở đó còn có vô số những cây viết trẻ tài năng.
Đặc biệt, từ sau Đại hội lần thứ VI của Đảng (1986) cả nước hướng đến mục tiêu
đổi mới toàn diện trong đó có Văn học và nghệ thuật mà Nghị quyết số 05 của
Bộ Chính trị đã khẳng định: “Thực hiện chủ trương đổi mới của Đảng trong
hoàn cảnh cách mạng khoa học - kỹ thuật đang diễn ra với quy mô và tốc độ
chưa từng có trên thế giới và việc giao lưu giữa các nước, các nền văn hóa ngày
càng mở rộng... Văn nghệ nước ta cũng phải đổi mới, đổi mới tư duy, đổi mới
cách nghĩ, cách làm... Phát huy khả năng sáng tạo, đưa văn học, nghệ thuật phát
triển lên một bước mới” [3]. Trước yêu cầu cấp thiết cần phải đổi mới về thi
pháp, tư duy nghệ thuật cho phù hợp với xu thế của thời đại, văn học giai đoạn
này vừa kế thừa những tinh hoa của văn học giai đoạn trước vừa có những cách
tân, đột phá mang tính “cách mạng” để từng bước hoàn thiện mình. Trong bối
cảnh đó, tiểu thuyết đương đại ngày càng khẳng định được vị trí trung tâm với
những ưu thế vốn có của một loại hình tự sự cỡ lớn. Đó là sự tổng hòa, linh hoạt,
khả năng bao quát hiện thực vô cùng rộng lớn để không ngừng đi sâu, thâm nhập
vào mọi “ngóc ngách” của đời sống kể cả những tâm tư, tình cảm sâu kín, muôn
hình, vạn trạng của con người.
1.2. Chiến tranh đã lùi xa vào quá khứ, một thời đại mới mở ra cho toàn
dân tộc, văn học sau 1975 đã chứng kiến những bước chuyển mình đầu tiên cả về
nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật. Trong số những nhà văn đi đầu “mở
đường” cho tinh thần đổi mới văn học sau 1975 như Nguyễn Minh Châu, Ma
Văn Kháng, Nguyễn Khải, Nguyễn Huy Thiệp,... thì nhà văn Lê Lựu cũng góp

phần vào công cuộc đổi mới này. Lê Lựu – một nhà văn với sức sáng tạo dồi dào,
1


ông thành công ở nhiều thể loại như tiểu thuyết, truyện ngắn, bút ký, tạp văn,...
với nhiều đề tài khác nhau. Đặc biệt, với thể loại tiểu thuyết, sáng tác của ông
gắn liền với quá trình đổi mới bộ mặt tiểu thuyết của văn học Việt Nam. Trên
con đường sáng tạo nghệ thuật, Lê Lựu đã để lại dấu ấn vô cùng sâu đậm trong
lòng bạn đọc trong nước và quốc tế, không chỉ bằng tài năng mà còn bằng tất cả
tâm huyết của một nhà văn chân chính. Với những tiểu thuyết đặc sắc như Thời
xa vắng, Chuyện làng Cuội và Sóng ở đáy sông, ông được xem là người đã có
những đóng góp to lớn trong việc đặt nền móng cho tiểu thuyết thời kỳ đổi mới
và góp phần đưa tiểu thuyết Việt Nam đạt đến đỉnh cao.
1.3. Sự ra đời lần lượt các tiểu thuyết Thời xa vắng (1986), Chuyện làng
Cuội (1991), Sóng ở đáy sông (1994), tên tuổi Lê Lựu đã ghi dấu ấn sâu sắc
trong lòng người đọc. Sáng tác tiểu thuyết - một thể loại tự sự cỡ lớn, nhà văn đã
tái hiện và khám phá bức tranh cuộc sống một cách sinh động rõ nét nhất, đồng
thời cũng mở ra cách nhìn đa dạng, nhiều chiều về số phận con người. Năm
2000, tiểu thuyết Sóng ở đáy sông của Lê Lựu đã được đạo diễn Lê Đức Tiến
chuyển thể thành bộ phim điện ảnh thu hút đông đảo người xem, đến nay đã gắn
liền với nhiều thế hệ người Việt. Không lâu sau đó, Thời xa vắng cũng được Hồ
Quang Minh lựa chọn để dựng thành bộ phim truyện nhựa nổi tiếng vào năm
2003 (phim đã đoạt giải Cánh diều Bạc vào năm 2004). Người ta có thể chưa
từng đọc tác phẩm nhưng một khi đã xem phim thì không ai có thể quên được số
phận của các nhân vật như “Thằng Núi”, anh “Cu Sài”,... thậm chí nó còn “ám
ảnh” họ đến mãi sau này. Một trong những lí do tiên quyết giúp tiểu thuyết của
ông thuyết phục người đọc là nhờ nghệ thuật xây dựng tác phẩm, cụ thể là nghệ
thuật tự sự. Với niềm đam mê nghiên cứu văn học và yêu thích tiểu thuyết của
Lê Lựu, chúng tôi - sinh viên thuộc chuyên ngành Ngữ văn mong muốn được
góp thêm vào tiếng nói, cảm nhận, đánh giá về nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết

của ông nhằm khẳng định thêm những giá trị, tài năng và đóng góp của Lê Lựu
cho văn chương Việt Nam hiện đại.
2


Trên đây là những lí do để chúng tôi chọn đề tài Nghệ thuật tự sự trong
tiểu thuyết của Lê Lựu (Khảo sát qua các tác phẩm: Thời xa vắng, Chuyện làng
Cuội và Sóng ở đáy sông).
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Những sáng tác của Lê Lựu từ khi ra đời đến nay vẫn luôn được đông đảo
bạn đọc chú ý, đón nhận và rất nhiều giới nghiên cứu, phê bình quan tâm. Những
vấn đề tranh biện cũng góp phần đưa tác phẩm của nhà văn đến gần hơn với
công chúng và Lê Lựu ngày càng khẳng định tài năng, bản lĩnh của mình trên
văn đàn dân tộc.
Sau đây, chúng tôi sẽ lần lượt điểm qua một số bài viết, công trình nghiên
cứu, phê bình văn học về Lê Lựu, những tác phẩm của ông nói chung và tiểu
thuyết thời kỳ đổi mới nói riêng trong đó có Thời xa vắng, Sóng ở đáy sông và
Chuyện làng Cuội.
Trong bài viết “Tiểu thuyết Lê Lựu thời kỳ đổi mới”, Đỗ Hải Ninh đã trình
bày khá cụ thể khuynh hướng nhận thức lại hiện thực, sự trở lại của cảm hứng bi
kịch và một số hiệu ứng nghệ thuật trong tiểu thuyết của Lê Lựu. Qua đó, ông
cũng nhận định rằng: “Lê Lựu là một cây bút có đóng góp quan trọng đối với
văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới. Khuynh hướng nhận thức lại hiện thực cùng
với sự trở lại của cảm hứng bi kịch trong Thời xa vắng và các tác phẩm tiếp theo
của ông. Đã góp phần đổi mới tư duy tiểu thuyết nước ta. Sự thành công của
Thời xa vắng và những cuốn tiểu thuyết được dư luận chú ý như Đại tá không
biết đùa, Chuyện làng Cuội, Sóng ở đáy sông, Hai nhà, không những khẳng
định được phong cách Lê Lựu mà còn ghi dấu ấn đậm nét tên tuổi nhà văn trong
quá trình vận động của tiểu thuyết Việt Nam đương đại” [6;tr.37].
Bàn về tiểu thuyết Thời xa vắng, Trần Đăng Khoa - một “người bạn”,

người em trong nghề rất thân thiết với Lê Lựu cũng đã có những nhìn nhận, đánh
giá “thẳng thắn” về thành tựu cũng như hạn chế của tác phẩm: “Với ba trăm
3


trang sách, tiểu thuyết Thời xa vắng đã ôm chứa một dung lượng lớn. Đấy là
một chặng đường lịch sử oai hùng. Chặng đường ba mươi năm, từ buổi lập nước
đến lúc giải phóng xong toàn bộ đất nước” [13;tr.674]. Và, ông cũng cho rằng:
“Xét về mặt nghệ thuật, cuốn sách không có gì cách tân, tìm tòi, lối viết rất cũ,
tốc độ truyện chậm, hơi văn ở phần một và phần hai hình như lạc nhau, không
liền mạch. Có cảm giác như đấy là hai cuốn tiểu thuyết cùng một nội dung gộp
lại” [13;tr.678].
Với tiểu thuyết này, nhà văn Bảo Ninh cũng từng nhận định như sau:
“Những quan niệm về tiểu thuyết có thể đúc rút được từ Thời xa vắng cũng
không lạ thường gì song, với những người viết văn trẻ tuổi hồi đó thì vẫn có tác
dụng dường như là một sự bừng tỉnh” [1;tr.47].
Hay Vũ Xuân Triệu trong bài “Những đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết của
Lê Lựu trong Chuyện làng Cuội” bên cạnh việc khái lược tình hình tiểu thuyết
Việt Nam thời kỳ đổi mới, tác giả cũng đã rút ra được những cách tân về nghệ
thuật tiểu thuyết của Lê Lựu trong Chuyện làng Cuội như sau: “Dường như
chuyển động đằng sau các sự kiện, sự việc là dòng tư tưởng, là những chiêm
nghiệm mà ông muốn gửi gắm tới bạn đọc. Đặc biệt, những tư tưởng ấy được
người cầm bút khéo léo đưa vào giữa các dòng, các chương, giữa các sự kiện,
chi tiết ngồn ngộn của đời sống” [35;tr.183].
Tác phẩm của Lê Lựu ra đời lúc bấy giờ thực sự đã góp phần làm cho đời
sống văn học Việt Nam thêm sôi động, điều này đã được Lê Hồng Lâm nhận
định: “Ông Lê Lựu từ khi được bạn đọc chú ý, hễ cứ viết ra cuốn nào là lại gây
dư luận cuốn đó. Có cuốn nổi tiếng nhờ bản thân nội dung đặc sắc, nó đi vào
mạch ngầm trong tư tưởng, tình cảm nhân vật như Thời xa vắng, có cuốn nổi
tiếng... bởi tai tiếng (Chuyện làng Cuội), lại có cuốn mãi vài năm sau khi lên

phim mới nổi đình, nổi đám kéo theo đó là tai bay vạ gió như Sóng ở đáy sông”
[13;tr.708].
4


Nhận xét về một trong những thành công về nghệ thuật của Lê Lựu trong
Thời xa vắng, nhà nghiên cứu Thiếu Mai cho rằng: “Cách nhìn thấu đáo của
anh, tấm lòng thiết tha của anh đã thể hiện đầy đủ ở giọng văn, một giọng văn
trầm tĩnh vừa giữ được vẻ đầm ấm chân tình, vừa khách quan không thêm bớt tô
vẽ, đặc biệt không cay cú, chính giọng văn như vậy đã góp phần đáng kể vào sức
thuyết phục, hấp dẫn của tác phẩm” [13;tr.83].
Đọc tiểu thuyết của Lê Lựu, nhà nghiên cứu – phê bình văn học Đinh
Quang Tốn cũng phải công nhận rằng: “Văn anh không rành rẽ, không mạch lạc
nhưng có một chất nhựa gì đấy ở bên trong. Nhiều khi cả đoạn, cả trang cứ
thùng thình mà người đọc vẫn thấy thích. Không ai chê vì người ta biết đấy là
văn tự nhiên của anh, chứ không phải anh làm văn mà chê anh về văn phạm”
[5;tr.17].
Nói về sự đổi mới, cách tân trong nghệ thuật trần thuật của Lê Lựu, đặc
biệt là về hình tượng người trần thuật, Ngô Thảo từng nhận định: “Hầu như anh
không vừa lòng với bất cứ bề mặt phẳng phiu, một kết cấu quen thuộc nào. Anh
dẫn người đọc đi từ xa tới gần từ gần lại bật ra xa, đang chuyện hôm nay bỗng
quay bật về quá khứ, đang từ tuyến trước sang chuyện tuyến sau, từ phía trong
ra phía ngoài, từ nội tâm trực tiếp qua lời kể người kể của người khác,...”
[27;tr.215].
Cùng nhìn nhận tiểu thuyết Lê Lựu ở góc độ nghệ thuật trần thuật, nhà
nghiên cứu Hoàng Ngọc Hiến lại chú ý đến kết cấu lời văn, ông đặc biệt thích
thú với cách đặt câu của Lê Lựu khi cho rằng: “Trong Thời xa vắng câu văn lùa
thùa có khi mềm và rối như bún nhưng lại rất được. Câu văn Lê Lựu là một sự
thách đố với cách đặt câu quá mạch lạc, gãy gọn do sự thấm nhuần ngữ pháp
của một ngôn ngữ phương Tây tạo ra” [8;tr.119].

Hay, trong bài viết “Lê Lựu và giọng điệu trần thuật trong Thời xa vắng”,
tác giả đã có những phân tích, đánh giá khá tỉ mỉ về giọng điệu trần thuật trong
5


Thời xa vắng để chứng minh cho lời nhận định: “Thời xa vắng là tác phẩm tiêu
biểu mang trong mình dấu hiệu của sự đổi mới, đánh dấu tên tuổi của Lê Lựu
trong làng văn Việt Nam hiện đại, mở đầu cho khuynh hướng nhận thức lại hiện
thực của văn học Việt Nam sau năm 1975” [23].
Ở một góc độ khác, nhà nghiên cứu - phê bình văn học Bích Thu đã nhận
xét về việc khai thác đề tài trong tiểu thuyết Lê Lựu, đồng thời khẳng định tính
tích cực trong việc đề cập đến cái “bản chất tự nhiên”, vốn có của con người
thông qua tiểu thuyết Hai nhà của ông đó là: “Tiểu thuyết đã không ngần ngại
miêu tả sắc dục, tình yêu nhục thể là một lĩnh vực rất riêng của mỗi cá nhân.
Miêu tả những con người tự nhiên, khai thác những yếu tố tích cực của con
người tự nhiên cũng là một khía cạnh nhân bản của văn học” [2;tr.231].
Nhìn lại những đóng góp của Lê Lựu ở cả hai thể loại truyện ngắn và tiểu
thuyết, nhà nghiên cứu Đinh Quang Tốn đã phải công nhận: “Lê Lựu viết đều cả
truyện ngắn và tiểu thuyết và cả hai thể loại anh đều thành công, nhưng thành
công hơn vẫn là tiểu thuyết. Đề tài hậu phương nông thôn miền Bắc trong chiến
tranh chống Mĩ có nhiều người viết, nhưng Lê Lựu là người viết thành công hơn
cả. Hình ảnh anh nông dân mặc áo lính trở thành viên chức ở thành thị cũng có
những nhà văn đề cập đến, nhưng Lê Lựu đã thành công hơn. Có lẽ đó là hai
thành công tiêu biểu nhất của Lê Lựu” [5;tr.22].
Trong bài viết Chất đời thường, dân dã trong tiểu thuyết Lê Lựu, tác giả
Đinh Trí Dũng đã có những nhìn nhận xác đáng về tiểu thuyết của Lê Lựu đó là:
“Sáu cuốn tiểu thuyết của ông, đặc biệt là Thời xa vắng, Sóng ở đáy sông,
Chuyện làng Cuội đã thể hiện một sự nhạy cảm đặc biệt trong việc phát hiện
những vấn đề nóng hổi của đời sống... Một trong những nét độc đáo tạo nên sức
hấp dẫn của tiểu thuyết Lê Lựu chính là thứ ngôn ngữ rất giản dị, đời thường,

“ngấm chất bùn đất thôn quê” nhưng đấy là cái giản dị của một ngòi bút từng

6


trải, rất có nghề, am hiểu con người và cuộc sống trong tính bộn bề phức tạp
của nó” [37].
Với đề tài Tiểu thuyết Lê Lựu thời kỳ đổi mới, tác giả Nguyễn Thị Hiền đã
nghiên cứu tiểu thuyết của Lê Lựu trên cả hai phương diện nội dung và nghệ
thuật qua ba tiểu thuyết Thời xa vắng, Chuyện làng Cuội và Sóng ở đáy sông.
Cụ thể, về nội dung, luận văn đã khám phá cảm hứng bi kịch và sự nhận thức lại
hiện thực. Về nghệ thuật, luận văn nghiên cứu các vấn đề về kết cấu truyện (thủ
pháp đồng hiện; hiện tượng phân rã cốt chuyện; tình huống truyện; kết thúc
truyện) và giọng điệu trần thuật (giọng điệu hài hước, trào tiếu; giọng triết lý,
ngậm ngùi xót thương; giọng phê phán, lên án tố cáo) [28].
Nhìn chung, tiểu thuyết của Lê Lựu thời kỳ đổi mới cả về nội dung và
nghệ thuật đã được giới nghiên cứu quan tâm, bàn luận khá sôi nổi. Họ đã chỉ ra
được những ưu điểm, hạn chế, những cái “đạt” và “chưa đạt” thể hiện trên trang
viết của Lê Lựu. Vì vậy, trên cơ sở học tập, kế thừa những công trình nghiên cứu
đi trước, chúng tôi mong muốn đi sâu vào tìm hiểu Nghệ thuật tự sự trong tiểu
thuyết của ông để một lần nữa khẳng định vị trí, vai trò và những đóng góp tích
cực của Lê Lựu trong sự đổi mới của nền văn học Việt Nam hiện đại.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Với đề tài Nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết của Lê Lựu (Khảo sát qua ba
tác phẩm: Thời xa vắng, Chuyện làng Cuội và Sóng ở đáy sông), chúng tôi sẽ tập
trung nghiên cứu các vấn đề: Khái quát tiểu thuyết Lê Lựu trong bối cảnh tiểu
thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới và tìm hiểu một số nghệ thuật đặc sắc trong tiểu
thuyết của Lê Lựu như: xây dựng nhân vật, điểm nhìn trần thuật, hình tượng
người kể chuyện, ngôn ngữ và giọng điệu. Qua đây, chúng tôi có thêm những
hiểu biết về cuộc đời, sự nghiệp sáng tác của Lê Lựu với những khám phá mới

mẻ xoay quanh nghệ thuật tiểu thuyết của ông qua bộ ba tiểu thuyết nổi tiếng
Thời xa vắng, Chuyện làng Cuội và Sóng ở đáy sông. Từ đó, giúp người đọc có
7


cái nhìn chân thực, khái quát và toàn diện hơn về tiểu thuyết Lê Lựu trong dòng
chảy của tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới. Đồng thời, thấy được những
đóng góp, cách tân về nội dung và nghệ thuật của ông trong quá trình vận động,
đổi mới thể loại tiểu thuyết ở nước ta.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết của Lê Lựu.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung khảo sát ba cuốn tiểu thuyết tiêu biểu thời kỳ đổi mới của
Lê Lựu: Thời xa vắng, Chuyện làng Cuội và Sóng ở đáy sông.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện báo cáo này, chúng tôi sử dụng phối hợp các phương pháp
nghiên cứu sau đây:
Phương pháp thi pháp học: Dựa vào những đặc điểm cơ bản của thi pháp
học để tìm hiểu, triển khai và đi sâu phân tích các vấn đề liên quan đến thể loại
tiểu thuyết như nhân vật, người kể chuyện, ngôn ngữ, giọng điệu,...
Phương pháp phân tích, tổng hợp: Qua việc tìm hiểu, đi sâu từng khía
cạnh để làm rõ vấn đề và khẳng định được những đóng góp nhất định của nhà
văn ở thể loại tiểu thuyết.
Phương pháp hệ thống - cấu trúc: Phương pháp được sử dụng nhằm xem
xét tác phẩm trong một chỉnh thể giữa nội dung và hình thức, từ đó làm sáng tỏ
những giá trị làm nên thành công của tiểu thuyết Lê Lựu.
Phương pháp so sánh, đối chiếu: Đây là phương pháp giúp chỉ ra sự tương
đồng và khác biệt trong sáng tác của Lê Lựu với một số tác phẩm của những nhà


8


văn cùng thời. Từ đó, thấy được sự sáng tạo, nét riêng của tiểu thuyết Lê Lựu
trong nền văn học thời kỳ đổi mới.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Đề tài Nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết của Lê Lựu không chỉ phục vụ
cho công tác học tập, nghiên cứu của chúng tôi mà còn đóng góp vào việc nghiên
cứu những giá trị nghệ thuật trong sáng tác của Lê Lựu.
Trong quá trình thực hiện, chúng tôi có cơ hội hiểu thêm về con người,
quan niệm và sự nghiệp sáng tác của nhà văn Lê Lựu. Đồng thời, báo cáo hoàn
thành còn là cơ sở tiền đề, nguồn tài liệu tham khảo hữu ích không chỉ cho chúng
tôi trong quá trình nghiên cứu chuyên sâu mà còn cho những ai cùng có chung sự
quan tâm đến những tác phẩm của nhà văn Lê Lựu nói riêng và tiểu thuyết Việt
Nam thời kỳ đổi mới nói chung.
7. Cấu trúc của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, báo cáo tốt
nghiệp của chúng tôi được trình bày trong ba chương:
Chương 1: Tiểu thuyết của Lê Lựu trong bối cảnh tiểu thuyết Việt Nam
thời kỳ đổi mới.
Chương 2: Nghệ thuật tự sự tiểu thuyết của Lê Lựu qua xây dựng nhân
vật, điểm nhìn trần thuật và hình tượng người kể chuyện.
Chương 3: Nghệ thuật tự sự tiểu thuyết của Lê Lựu qua ngôn ngữ và
giọng điệu.

9


NỘI DUNG
Chương 1

TIỂU THUYẾT CỦA LÊ LỰU TRONG BỐI CẢNH TIỂU THUYẾT
VIỆT NAM THỜI KỲ ĐỔI MỚI
1.1. Khái lược về tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới
Trước thời kỳ đổi mới, tiểu thuyết Việt Nam phát triển tương đối chậm và
tìm thấy hướng đi muộn hơn so với những thể loại văn học khác, tuy nhiên, tiểu
thuyết thời gian này không phải không có những thành tựu nhất định. Từ 1930
-1945 được xem là giai đoạn tiểu thuyết định hình, từng bước phát triển theo
hướng hiện đại. Tạo được tiếng vang lúc bấy giờ là những tác phẩm của Nhất
Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo thuộc nhóm Tự lực văn đoàn cùng với một số nhà
văn hiện thực chủ nghĩa tiêu biểu như Nam Cao, Ngô Tất Tố, Nguyên Hồng, Vũ
Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan,... Từ 1945 - 1975, tiểu thuyết tiếp tục phát
triển nhưng trong hoàn cảnh vô cùng đặc biệt của lịch sử khi cả dân tộc phải trải
qua ba mươi năm kháng chiến khốc liệt. “Lúc đó, Đảng đề ra cho văn nghệ sỹ
phải đứng trên lập trường kháng chiến, phải tuyên truyền chính trị, cổ vũ chiến
đấu, mọi cây bút chân chính đều thấy là hết sức hợp lý, hợp tình, thậm chí là lẽ
đương nhiên. Họ sẵn sang nhập cuộc với tinh thần ấy. Nghĩa vụ công dân là cao
cả nhất, là thiêng liêng nhất” [29;tr.20]. Cùng với những thể loại khác như: thơ,
truyện ngắn, ký,... tiểu thuyết giai đoạn này đã kịp thời phản ánh, hướng đến tinh
thần chung của dân tộc là cổ vũ, khích lệ, quyết chiến, quyết thắng kẻ thù xâm
lược, làm tròn sứ mệnh cao cả của “nền văn học kháng chiến” đó là hướng về đại
chúng, phục vụ chính trị và cổ vũ chiến đấu. Tiểu thuyết vẫn không ngừng phát
triển, dần khẳng định vị trí của mình trên văn đàn dân tộc và những thành tựu đạt
được trong giai đoạn này thật đáng tự hào có thể kể đến những tác phẩm có tầm
ảnh hưởng to lớn như: Dấu chân người lính (Nguyễn Minh Châu), Đường trong
10


mây (Nguyễn Khải), Hòn Đất (Anh Đức), Gia đình má Bảy (Phan Tứ), Đường
thời đại (Đặng Đình Loan),... Bên cạnh đó, không thể không nhắc đến những hạn
chế mang tính tất yếu của nền văn học giai đoạn này nói chung và tiểu thuyết

thời điểm này nói riêng. Chính vì yếu tố thời đại, sự chi phối bởi khuynh hướng
sử thi và cảm hứng lãng mạn cách mạng mà quá trình sáng tác của nhà văn còn
bị giới hạn về cảm hứng, đề tài và hiện thực phản ánh. Những hạn chế đó của
văn học là điều không thể tránh khỏi khi vận mệnh của dân tộc là điều thiêng
liêng và trân quý nhất.
Đại thắng mùa xuân năm 1975 đã mở ra một kỷ nguyên mới cho toàn dân
tộc - một kỷ nguyên độc lập, tự do và thống nhất. Cùng với thắng lợi to lớn đó
thì thách thức đặt ra lúc này cũng không hề nhỏ khi mà chiến tranh qua đi nhưng
vết thương thì vẫn còn đó, cả dân tộc tiếp tục bắt tay vào sự nghiệp khôi phục
nền kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh. Trong bối cảnh đó, nền văn học
tưởng như cứ thế mà “thừa thắng xông lên” giành những thành tựu rực rỡ hơn
nữa [27;tr.55]. Nhưng người cầm bút bỗng nhận thấy một sự hụt hẫng, “lệch
pha” đối với chính bạn đọc của mình, bởi lẽ thời thế đã thay đổi mà văn học vẫn
viết theo lối mòn đó là lý do khiến cho khoảng mười năm đầu sau giải phóng văn
học vẫn “trượt dài theo quán tính cũ”, khi chưa thể “làm quen” với hiện thực đời
sống mới để rồi có những lúc gần như bị “chững lại”. Thực tế này đòi hỏi đội
ngũ nhà văn “cần phải nhận thức nhiều vấn đề và tự nhận đường” nếu không
muốn “mất điểm” trong lòng bạn đọc và đánh mất đi chính mình. Công cuộc đổi
mới văn học thực sự trở thành một phong trào mạnh mẽ kể từ sau Đại hội lần thứ
VI (1986) thông qua Nghị quyết, Đại hội Đảng đã coi đổi mới là “yêu cầu bức
thiết”, là “vấn đề có ý nghĩa sống còn” đối với dân tộc và trên cơ sở đó, yêu cầu
tác phẩm văn học phải: “Phản ánh các nhân tố mới trong xã hội, cổ vũ cái tốt
đẹp trong quan hệ giữa con người với con người, giữa con người với xã hội, với
thiên nhiên, phê phán cái sai, lên án cái xấu, cái ác, hướng tới chân, thiện, mỹ”
[34;tr.112]. Trước yêu cầu này, văn học đã nhanh chóng chuyển hướng, trở về
11


với quy luật đời thường, tìm lại “bản chất vốn có” của mình trong việc tiếp cận,
khám phá cuộc sống. Cũng từ đây, tiểu thuyết bắt đầu hành trình “tìm đường”

đến những “vùng đất mới” để có thể đào sâu, khai phá mọi mặt, kể cả những
“góc khuất” của đời sống nhằm tìm ra hướng đi mới. Trên hành trình nhọc nhằn
đó, những nhà văn tiên phong đã không ngừng đổi mới, tìm tòi, sáng tạo nhưng
vẫn theo đúng phương châm “Nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật và
nói rõ sự thật”. “Sự thật” ấy cũng từng được nhà Lí luận - Phê bình văn học Lê
Ngọc Trà khẳng định như sau: “Những nhà văn nhạy cảm với cuộc sống, thiết
tha với công cuộc đổi mới do Đảng đề ra đã nhìn thấy phải bắt đầu quá trình
đổi mới văn học đúng ngay từ chỗ phải bắt đầu nói sự thật. Mà người đọc từng
trải, thông minh chân tình của chúng ta cũng hiểu như vậy. Họ chú ý đến tác
phẩm mới, hoan nghênh nhà văn trước hết ở sự trung thực, ở lời nói thật. Cái
nhìn mới mẻ, trước hết bắt nguồn từ thái độ trung thực và tinh thần trách nhiệm
đối với cuộc sống, từ niềm tin vào chính nghĩa và sức mạnh của cách mạng. Do
đó mà có đủ ý thức và dũng cảm nói lên sự thật, dù đó là sự thật không đơn
giản, thậm chí phũ phàng” [16;tr.88].
Nói về tiểu thuyết thời kỳ đổi mới, Cao Tiến Lê cho rằng: “Tiểu thuyết của
ta mấy năm gần đây đã khởi sắc, nhất là những năm 1988, 1989, 1990 có đổi
mới, tự do hơn, nêu được nhiều vấn đề... Văn học đã đi vào đời thường, mỗi con
người đều bình đẳng trước cái nhìn của nhà văn. Tất cả mọi người trước nhà
văn đều là nhân vật, nhà văn coi trọng ở chỗ số phận của họ đóng góp được gì
cho văn học” [3;tr.73]. Tiểu thuyết nước ta thời kỳ này đã có sự chuyển biến
ngoạn mục so với thời kỳ trước, từ chỗ nắm được những diễn biến tinh vi nhất
của cuộc sống mới đa dạng có phần phức tạp đến việc phơi bày những mặt trái,
hiện tượng tiêu cực, nhức nhối của đời sống xã hội. Lúc này, con người được
nhìn nhận, soi chiếu ở nhiều góc độ với đầy đủ những “phẩm chất và thuộc tính,
bản năng và ý thức, cao cả và thấp hèn, phần con và phần người”,... ở bình diện
đời tư, thế sự. Cuộc sống thường nhật cũng như đời sống tâm hồn được thể hiện
12


một cách chân thực rất “đời” trên từng trang tiểu thuyết, ở đó không đơn giản chỉ

có niềm vui, hạnh phúc, sự bình yên mà còn đầy rẫy những nỗi buồn, bi kịch, trớ
trêu. Tất cả đã trở thành những “vùng đất mới” để tiểu thuyết không ngừng khai
phá, lật xới từng ngõ ngách, có thể kể đến những tiểu thuyết nổi tiếng như Bến
không chồng (Dương Hướng), Thời xa vắng (Lê Lựu), Mùa lá rụng trong vườn
(Ma Văn Kháng), Mảnh đất lắm người nhiều ma (Nguyễn Khắc Trường), Ăn
mày dĩ vãng (Chu Lai), Mảnh đất tình yêu (Nguyễn Minh Châu), Chim én bay
(Nguyễn Trí Huân), Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh),...
Như vậy, cùng với nhu cầu bức thiết của thời đại, sự đổi mới về tư duy
nghệ thuật thì văn học nói chung và tiểu thuyết thời kỳ đổi mới nói riêng đã có
một “mùa bội thu” khi được “tự do” trở lại là chính mình. Chưa bao giờ, tiểu
thuyết phát triển rực rỡ và đạt đến đỉnh cao như lúc này, bởi lẽ, đứng trước vận
hội mới tiểu thuyết đã không ngừng tự làm mới mình, không ngại thử sức ở tất
cả lĩnh vực trong cuộc sống, mở rộng tối đa biên độ và đề tài phản ánh. Một điều
đặc biệt, đó là tiểu thuyết đã dám “đương đầu” với vô vàn thách thức, khó khăn
để từng bước khẳng định khả năng, vị thế của mình trong lòng bạn đọc, trong sự
vận động và phát triển không ngừng của nền văn học nước nhà.
1.2. Đôi nét về tiểu sử và quá trình sáng tác của Lê Lựu
1.2.1. Tiểu sử
Nhà văn Lê Lựu sinh ngày 12 tháng 12 năm 1942, tại xã Tân Châu, huyện
Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên, nơi đây vốn là một vùng quê nghèo, thường xuyên
bị ngập lụt [42]. Xuất thân trong một gia đình bình dân, bố ông vốn là một cụ đồ
nho có tiếng còn mẹ ông là một nông dân thuần khiết. Ông đã sống những tháng
ngày tuổi thơ hồn nhiên cùng với những biến động dữ dội của lịch sử dân tộc. Đó
là những năm tháng kháng chiến khốc liệt, sau đó, miền Bắc được giải phóng đi
lên xây dựng chủ nghĩa xã hội và làm hậu phương cho tiền tuyến miền Nam.
13


Từ đầu những năm 60, Lê Lựu rời ghế nhà trường để gia nhập quân đội.
Chính sự thay đổi mạnh mẽ của đất nước cộng với lòng nhiệt huyết của tuổi trẻ

đã thôi thúc nhà văn cầm bút ghi lại những chuyển biến đó. Trong kháng chiến,
ông từng làm phóng viên tại Quân khu Ba, mặt trận chiến trường 559. Hòa bình
lập lại, ông tiếp tục làm biên tập viên, Trưởng ban văn xuôi rồi Thư ký tòa soạn
tại Tạp chí Văn nghệ Quân đội. Từ năm 1974, ông là thành viên của Hội nhà văn
Việt Nam. Ông từng đảm nhận chức vụ Giám đốc Trung tâm Văn hóa Danh
nhân Việt Nam và Tổng biên tập Tạp chí Văn hóa Doanh nhân Việt Nam tại Hà
Nội. Ngày 25 tháng 02 năm 2014, ông thành lập Quỹ Văn học Lê Lựu - đây là
Quỹ văn học đầu tiên mang tên một nhà văn còn sống, nhằm tạo điều kiện và
khích lệ tinh thần sáng tác của những thế hệ nhà văn trẻ [42].
Về gia đình, Lê Lựu từng trải qua hai cuộc hôn nhân không hạnh phúc và
có tất cả ba người con. Thế nhưng những năm tháng cuối dốc nắng của cuộc đời,
mang trong mình nhiều căn bệnh quái ác, ông vẫn phải sống trong cảnh cô đơn,
không vợ không con, nhờ người dưng chăm sóc. Căn nhà của tổ tiên để lại cùng
với căn hộ được Quân đội cấp cho tại khu phố nhà binh từ sau khi li hôn vợ, ông
đã mất trắng tất cả. Sau đó, ông được Quân đội cấp cho một căn nhà rộng 50 mét
vuông xây 3 tầng tại số 8, đường Lý Nam Đế để công tác và nương náu những
năm tháng tuổi già.
Năm 2006, Lê Lựu bị xuất huyết não, cũng bởi dây thần kinh xúc cảm bị
tổn thương nên nhà văn đã khóc rất nhiều trong suốt những ngày tháng cô độc,
bạo bệnh. Năm 2009, Lê Lựu bị tai biến mạch máu não lần thứ ba, phải nằm viện
giành giật giữa sự sống và cái chết, thay vì chăm sóc ông thì người vợ thứ hai đã
đem đơn đòi li hôn còn hai đứa con chỉ chầu chực bố cho phép bán căn nhà ở
đường Lý Nam Đế. Ông cay đắng, bất đắc dĩ phải bán đi căn nhà đã 10 năm gắn
bó được 5 tỉ đồng, ba mẹ con họ đã lấy đi 3 tỉ, để lại cho ông 2 tỉ và từ đó cảnh
nhà li tan. Với số tiền này Lê Lựu trích ra một nửa để thành lập Quỹ Văn học Lê
14


Lựu. Năm 2012, mảnh đất của tổ tiên mà cha mẹ ông để lại ở Khoái Châu Hưng Yên cũng bị người vợ cả đã ly hôn 40 năm trước kê khai sổ đỏ chiếm đoạt,
ông không đủ sức lực để tranh đấu, đòi lại mảnh đất nên đã từ bỏ vụ kiện.

Lê Lựu mang trong mình 14 căn bệnh hành hạ ông về thể xác, còn vợ con
thì nhẫn tâm triệt hạ ông về tinh thần. Ông từng nói: “tôi chỉ có thể mang nỗi
đau này sang thế giới bên kia trong cô đơn” [41], để rồi nước mắt cay đắng đã
theo ông hóa thân vào những nhân vật bất hạnh, khổ đau như: Giang Minh Sài
(Thời xa vắng), Núi (Sóng ở đáy sông) hay trong các tác phẩm sau này như Thời
loạn, Ở quê ngày ấy, Gã dở hơi,... Trong một cuộc phỏng vấn, người ta hỏi ông
mong muốn điều gì lúc này? Ông thì thầm và bảo rằng: “Ông khao khát được trẻ
lại 50 tuổi, khỏe mạnh để được đi khắp đất nước, đi viết báo, viết văn. Ông sẽ lại
được sống thời tuổi trẻ, được yêu thương trọn vẹn một ai đó, để trái tim ông
không bị tổn thương và tâm hồn được bay bổng như thể không bao giờ phải chịu
đựng những năm tháng đắng cay và cô đơn ở kiếp sống này” [45].
Trái tim nhỏ bé của của một nhà văn đa sầu đa cảm, nước mắt của ông đã
chảy dài trong những năm tháng thăng trầm, nhọc nhằn của cuộc đời. Và phải
chăng, chính bi kịch cuộc đời và những đau khổ ấy đã nhào nặn, gọt giũa nên
một tài năng Lê Lựu từng trải, sâu sắc nhưng cũng đầy bản lĩnh, ông đã ghi dấu
ấn sâu đậm trong làng văn chương Việt Nam bằng những sáng tác độc đáo.
1.2.2. Quá trình sáng tác của Lê Lựu
Lê Lựu bắt đầu sự nghiệp sáng tác từ giữa những năm 60, là một trong
những nhà văn trưởng thành từ cuộc kháng chiến chống Mĩ gian khổ mà hào
hùng với thể loại tâm đắc là tiểu thuyết và truyện ngắn. Ngoài ra, ông cũng thử
sức ở một số thể loại khác như kịch, bút ký và tạp văn,...
Vốn là một người tâm huyết với nghề, từ những trang viết đầu tiên ông đã
luôn thể hiện một sự cần mẫn và nghiêm túc. Bản thân ông không bao giờ chấp
nhận thứ văn chương nhạt nhẽo, tầm thường. Chính vì vậy, trong quá trình sáng
15


tác, Lê Lựu thường hay thức đêm để viết vì khi đó không gian yên tĩnh, đầu óc
tập trung cao độ. Thế nhưng nhề văn không phải nói viết là viết ngay ra được, có
khi mỗi ngày khoảng được vài ba trang hoặc chỉ mấy mươi dòng. Dường như

mỗi chữ, mỗi câu viết ra Lê Lựu luôn phải suy nghĩ, đắn đo, khổ sở vô cùng đến
nỗi “có những đêm lặn ngụp bì bõm, xẻ xắn từng khối chữ, vật lên trang giấy,
sáng ra mắt đỏ kè...” [31;tr.80].
Tác phẩm đầu tay của ông là Tết làng Mụa (1964), sau đó là hàng loạt
những truyện ngắn khác ra đời như Trong làng nhỏ, Phía mặt trời, Truyện kể từ
đêm trước,... Đặc biệt, với truyện ngắn Người cầm súng, ông đã xuất sắc đạt giải
Nhì (không có giải Nhất) cuộc thi truyện ngắn của Báo Văn nghệ năm 1968.
Cùng với đó, ông cũng vinh dự nhận giải Nhất cuộc thi do Bộ Lao động Thương
binh và Xã hội, Hội Nhà văn Việt Nam và Bộ Văn hóa tổ chức năm 1971 với
truyện vừa Người về đồng cói.
Từ những thành công đã đạt được ở thể loại truyện ngắn, Lê Lựu tiếp tục
thử sức mình với thể loại tiểu thuyết và một lần nữa thành công rực rỡ với các
tác phẩm Mở rừng (1976); Chuyện làng Cuội (1991); Sóng ở đáy sông (1994);...
Có thể nói, gây được tiếng vang và đạt đến đỉnh cao không thể không nhắc đến
Thời xa vắng (1986) - tiểu thuyết đã đưa tên tuổi của Lê Lựu vào hàng ngũ
những nhà văn tiêu biểu trên văn đàn lúc bấy giờ và cũng chính tác phẩm “để
đời” này, ông được trao giải A của Hội Nhà văn Việt Nam vào năm 1998. Bên
cạnh đó, Sóng ở đáy sông cũng là bộ tiểu thuyết nổi tiếng, từng gây chấn động
dư luận một thời vì tính thời sự và giá trị đặc sắc của nó. Nhà văn Lê Lựu đã
sáng tạo ra nhiều nhân vật đau khổ, bất hạnh trên con đường kiếm tìm hạnh phúc
như phản chiếu chính cuộc đời thực đầy bi kịch của mình. Không giấu khỏi vẻ
xót xa, ông từng chia sẻ rằng: “Thằng Núi trong Sóng ở đáy sông cũng tìm được
chỗ đứng của nó, đến thằng Sài trong Thời xa vắng, nó khốn khổ như thế mà

16


cũng chưa khổ bằng tôi. Tôi đúng là bố của chúng nó về nhục nhã, mất mát”
[43].
Mặc dù, cuộc sống gia đình đã gây ra cho ông biết bao tổn thương, cùng

với đó là tuổi già, bệnh tật hành hạ nhưng Lê Lựu vẫn là một nhà văn đầy nghị
lực và có sức viết bền bỉ. Ngoài những tác phẩm kể trên, ông còn một số sáng tác
như: Đánh trận núi con Chuột (truyện dài thiếu nhi, 1976); Ranh giới (tiểu
thuyết, 1977); Campuchia một câu hỏi lớn (truyện ngắn, 1979); Phía sau anh
(tiểu thuyết, 1980); Đồng bằng chiến sỹ (truyện ký, 1980); Mặt trận của người
lính (truyện ngắn, 1986); Một thời lầm lỗi (bút ký, 1988); Trở lại nước Mỹ (bút
ký, 1989); Đại tá không biết đùa (tiểu thuyết, 1990), Hai nhà (tiểu thuyết,
2000),... Đặc biệt là cuốn tiểu thuyết có tựa đề Kẻ chạy trốn còn dang dở, ông
viết nó trong những ngày nằm trên giường bệnh giữa những cơn tỉnh, cơn mê.
Theo như ông nói: “Đó là một cuốn tiểu thuyết tâm huyết, chứa đầy nỗi buồn và
đau đớn của một kiếp người là ông, nó xót xa bởi nhân tình thế thái, nó có hình
bóng của ông với những đau khổ của sự đơn độc trong chặng cuối cuộc hành
trình làm người” [41].
Với những đóng góp to lớn và sự nghiệp sáng tác đáng ngưỡng mộ như
vậy. Năm 2001, nhà văn Lê Lựu đã vinh dự nhận giải thưởng Nhà Nước về Văn
học Nghệ thuật. Ông đã đem đến cho nhiều thế hệ bạn đọc những tác phẩm vô
cùng giá trị bằng tất cả tâm huyết và tài năng của mình.
1.3. Tiểu thuyết và quan niệm sáng tác của Lê Lựu
Lê Lựu là một nhà văn bình dân, một người từng trải, giàu kinh nghiệm và
có vốn sống phong phú. Nhờ đó, không quá khó khăn để ông chuyển hướng từ
truyện ngắn sang tiểu thuyết, một thể loại với những đặc trưng, ưu điểm vượt trội
về dung lượng và phạm vi phản ánh so với truyện ngắn. Và “mảnh đất màu mỡ”
ấy đã giúp Lê Lựu được là chính mình để thỏa sức sáng tạo, khai phá.
17


Tiểu thuyết đầu tiên của ông là Mở rừng (1976), một tác phẩm khá thành
công viết về đề tài chiến tranh với hình tượng tiêu biểu là những người lính
Trường Sơn với cái nhìn hiện thực mới mẻ, có phần mạnh dạn của tác giả. Theo
Trần Đăng Khoa: “Đây là cuốn tiểu thuyết vào loại khá của văn học Việt Nam

những năm 70... Cuốn sách quả thật cuốn hút tôi, bởi Lê Lợi đã đề cập đến một
lớp người trong chiến tranh. Oai hùng và bi thảm. Giản đơn và phức tạp. Mỗi
người là một cánh rừng âm u rậm rịt, phải tự mở lấy lối mà đi. Chẳng ai giống
ai, bằng những con đường riêng, số phận riêng, họ đã đến với cuộc chiến tranh
bi tráng” [33;tr.78]. Tuy nhiên, cái tên Lê Lựu chỉ thật sự được khẳng định khi
Thời xa vắng ra đời, tác phẩm gần như một cuốn tự truyện về chính cuộc đời của
tác giả, xoay quanh số phận bi thảm của anh Giang Minh Sài. Có thể nói, Lê Lựu
đã dành không biết bao nhiêu công sức, thời gian và tâm huyết cho “đứa con
tinh thần lớn” của mình, chẳng thế mà nhà thơ Trần Đăng Khoa từng chia sẻ:
“Viết cuốn sách này, Lê Lựu đã xổ hết ruột gan mình ra trang giấy. Anh bơ phờ
rời bàn viết, bủn rủn và rệu rạo như người đàn bà vừa đẻ xong” [33;tr.83]. Thời
xa vắng vừa xuất hiện đã tốn không biết bao nhiêu giấy mực của giới nghiên
cứu, phê bình trong và ngoài nước. Tác phẩm đã làm xôn xao dư luận một thời,
đi đến đâu cũng nghe người ta bàn tán về nó để rồi ngay cả Lê Lựu cũng được
mọi người gọi với cái tên thân mật là “anh Cu Sài”. Tầm ảnh hưởng của Thời xa
vắng thực sự đã vượt quá sức tưởng tượng của người sáng tạo ra nó, đến năm
2003 tác phẩm nổi tiếng này đã được chuyển thể thành bộ phim điện ảnh cùng
tên bởi đạo diễn Hồ Quang Minh và xuất sắc đoạt giải Cánh diều Bạc vào năm
2004.
Không dừng lại ở Thời xa vắng, Lê Lựu tiếp tục con đường sáng tác
không biết mệt mỏi, không ngừng đào sâu, khám phá đến mọi giới hạn để tìm
hướng đi mới cho tiểu thuyết của mình. Cây bút ấy đã không ít lần vò đầu bứt
tai, trăn trở về hiện thực “trần trụi” có phần tàn nhẫn của cuộc đời cần phải nhận
thức lại, hướng đến những vấn đề nhức nhối của đời tư, thế sự để đối mặt với nó,
18


giải quyết nó. Và, Đại tá không biết đùa (1990), Chuyện làng Cuội (1991),
Sóng ở đáy sông (1994), Hai nhà (2000) đã lần lượt được ra đời. Mặc dù, không
phải sáng tác nào cũng thành công vang dội nhưng điều mà nhiều thế hệ độc giả

chẳng thể phủ nhận về sự hấp dẫn kỳ lạ ở mỗi tác phẩm của ông đó là sự chân
thực, mới mẻ và chưa từng lặp lại mình. Qua những trang viết của Lê Lựu, người
đọc không khỏi bồi hồi khi trông thấy bộ mặt của xã hội Việt Nam từ làng quê
cho đến thành thị lúc bấy giờ, có đôi khi phải giật mình khi bắt gặp ai đó ở ngoài
đời hay chính bản thân mình trong tác phẩm và cảm nhận một cách sâu sắc
những chuyển biến dù là tế vi nhất trong tư tưởng, tình cảm của con người thời
đại với đủ mọi chiều kích.
Nếu mỗi tác phẩm ra đời là “đứa con tinh thần” của nhà văn, là nơi thể
hiện rõ nhất quan điểm nghệ thuật của người cầm bút thì đối với bản thân Lê
Lựu cũng vậy. Trong một buổi phỏng vấn hỏi chuyện tác giả tìm hiểu tác phẩm,
ông từng phát biểu: “Tôi là người ít học, ít đọc vì lười nghĩ ngợi. Toàn bộ những
trang viết của tôi chỉ theo đuổi một nguyên tắc đó là sự thật. Tôi không thể viết
được nếu không bám vào sự thật...” [13;tr.501]. Và, trong một dịp khác, ông
cũng từng khẳng định: “Tôi nghĩ văn chương phải đối thoại được với cuộc sống,
viết thật lòng, không nói dối, nhờ cái thật mà đối thoại được với cuộc đời và
người đang sống” [13;tr.547]. Và, hầu hết những tác phẩm trong đó tiêu biểu như
Thời xa vắng, Sóng ở đáy sông hay Chuyện làng Cuội chính là minh chứng cho
thấy quan điểm “tôn trong sự thật” của ông.
Nói như vậy, Lê Lựu hoàn toàn ý thức được bản chất của văn học đó là
cuộc sống và vai trò của của người cầm bút là phải phản ánh một cách trung
thực, chính xác cái hiện thực vốn có của cuộc sống. Bởi, đối với ông “không thể
viết được nếu không bám vào sự thật”. Đó là lí do mà trong quá trình sáng tác Lê
Lựu với tư cách là một “thư ký trung thành” của sự thật đã không ngần ngại phơi
bày hiện thực ngay cả những điều trước đây người ta vốn né tránh, không ai dám
19


×