Tải bản đầy đủ (.docx) (38 trang)

BỘ ĐỀ ÔN THI NGỮ VĂN THPT QUỐC GIA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (172.9 KB, 38 trang )

BỘ ĐỀ ÔN THI NGỮ VĂN THPT QUỐC GIA
ĐỀ THAM KHẢO
I. ĐỌC – HIỂU (3,0 điểm )
Đọc đoạn văn sau và trả lời câu hỏi:
Sẽ dối lòng nếu không thừa nhận trái tim tan vỡ, nhưng….
Sẽ dối lòng nếu mình nói rằng không mong chờ một chiến thắng
Sẽ dối lòng mình nếu không thừa nhận cảm thấy trái tim mình tan vỡ khi đội
tuyển chịu thất bại ở những giây cuối cùng
Nhưng tôi nghĩ kết quả như vậy thậm chí còn tuyệt vời hơn về lâu dài
Kết quả trận chung kết này tốt ở chỗ nó nhắc nhở tất cả chúng ta cách yêu
những điều không hoàn hảo. Yêu cả trong những lúc đau lòng. Trân trọng và nhìn
nhận sự cống hiến, chứ không đặt điều kiện tình yêu của mình vào sự tuyệt đối –
một thứ quá mong manh
Kết quả này cũng dạy cho chúng ta phải học cách vui với những gì mình đạt
được. Dù không thật sự tuyệt đối. Niềm vui dựa vào chiến thắng cũng như một
chất nghiện, nó liên tục cần những thứ lớn hơn, sẽ tốt hơn để tiếp tục vui. Nếu
không biết kiểm soát nó, nó sẽ biến chúng ta thành những người đòi hỏi vô lý, nó
cũng làm chúng ta quên lý do nên vui .
Cuối cùng, điều to lớn nhất chúng ta học được ở U23 Việt Nam lần này là với
những nỗ lực đến kiệt cùng, với kỷ luật sắt đá, với niềm tin tuyệt đối, và cái tôi của
từng cá nhân gạt qua một bên nhường cho tinh thần đồng đội mãnh liệt, họ đã làm
được điều kỳ diệu đến không tưởng.
Bao nhiêu người thấm được điều này? Tôi hy vọng là nhiều, rất nhiều. Và
biến nó thành động lực cho chính mình để đặt cho mình một mục tiêu khó hơn,
thách thức hơn và có quyết tâm cao hơn để vượt qua.
Tôi mong mỏi có những cuộc tập hợp, những cuộc xuống đường trong lòng
mỗi người. Và mong rằng nó kéo dài mãi. Nó biến sự hân hoan và ngưỡng mộ
thành năng lượng để chúng ta tự chiến thắng trong trận chiến của riêng mình.
Nếu được như thế, thì cái mà đội tuyển U23 đem lại không chỉ là: “mua vui
cũng được một vài trống canh” mà thực sự là một sự thay đổi đẹp đẽ trên dải đất
chữ S này. Thế nên hãy buồn hãy khóc. Hãy ôm nhau thổn thức vì một giấc mơ


1


vuột trôi đi. Nhưng sau đó hãy gạt nước mắt và đứng thẳng dậy. Để đất nước này
đẹp hơn, không thể chỉ dựa vào các chàng trai vàng. Các em ấy đã cho chúng ta
một cảm hứng mạnh mẽ, một sự tự tin chưa từng có. Nhưng chúng ta phải cùng
xắn tay áo lên và hành động.
Riêng tôi, năm nay tôi sẽ quyết tâm rũ bỏ thể trạng yếu đuối mà 40 năm qua
không thay đổi được. Bắt đầu bằng việc chạy. Tôi sẽ chạy half marthon ( cự ly
chạy bộ 21 km) trong năm 2018. Và sẽ không làm gì lung lay được mục tiêu này.
Còn bạn thì sao ?
(Trần Vinh Dự – ncwzing. vn 27/01/ 2018 )
Câu 1: Chỉ ra biện pháp tu từ cú pháp được sử dụng trong hai câu văn mở đầu văn
bản.
Câu 2: Vì sao tiến sĩ Trần Vinh Dự lại khẳng định: kết quả như vậy thậm chí còn
tuyệt vời hơn về lâu dài?
Câu 3: Theo anh/chị, thế nào là: những cuộc tập hợp, những cuộc xuống đường
trong lòng mỗi người?
Câu 4: Anh/chị có đồng tình với thông điệp mà tác giả đưa ra: Chúng ta phải cùng
xắn tay áo lên và hành động không ? Vì sao ?
II. LÀM VĂN (7,0 điểm)
Câu 1 (2,0 điểm)
Từ nội dung văn bản Đọc – hiểu và hình ảnh U23 Việt Nam được đón chào
giữa rừng cờ, rừng hoa và biển người trong ngày trở về Tổ quốc (28/1/2018),
anh/chị có suy nghĩ gì về những bài học cuộc sống? Hãy trình bày suy nghĩ bằng
một đoạn văn ngắn (khoảng200 chữ ).
Câu 2 (5,0 điểm)
Cảm nhận về đoạn thơ sau :
Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua

Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa
2


Làm sao được tan ra
Thành trăn con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ.
(Trích Sóng – Xuân Quỳnh, SGK Ngữ Văn 12 tập 1, NXBGD VN)
Từ đó, liên hệ với đoạn thơ :
Mau đi thôi ! Mùa chưa ngả chiều hôm
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây và cỏ ráng
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng
Cho no nê thanh sắc của thời tươi
– Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi !
(Trích Vội Vàng – Xuân Diệu, SGK Ngữ văn 11 tập 2, NXBGD VN)
Để thấy được khát vọng sống của hai nhà thơ.
…….…………..HẾT…………………

3


Đáp án:


Câu 1 (0,5 điểm) : Biện pháp tu từ : Điệp cấu trúc ( Sẽ là dối lòng mình
nếu )
I. Đọc

hiểu ( 3,0
điểm)

Câu 2 (0,5 điểm) : Tác giả khẳng định vì :
– Kết quả này nhắc nhở chúng ta còn nhiều việc phải làm, cần cố gắng
nhiều hơn nữa.
– Kết quả này cũng dạy chúng ta cách yêu những điều không hoàn hảo.
Trân trọng và nhìn nhận sự cống hiến. Không đặt điều kiện tình yêu của
mình vào sự tuyệt đối – một thứ quá mong manh. Kết quả này cũng dạy
cho chúng ta phải học cách vui với những gì mình đạt được. Dù không
thật sự tuyệt đối.
– Điều to lớn nhất lần này là với những nỗ lực đến kiệt cùng, với kỷ luật
sắt đá, với niềm tin tuyệt đối, và cái tôi của từng cá nhân gạt qua một bên
nhường cho tinh thần đồng đội mãnh liệt, họ đã làm được điều kỳ diệu
đến không tưởng.
Câu 3 ( 1,0 điểm): Những cuộc tập hợp, những cuộc xuống đường trong
lòng mỗi người. Nghĩa là mọi người đồng lòng, nhất trí, cùng hướng đến
một mục tiêu mục đích.
Câu 4 (1,0 điểm):
– Đồng với thông điệp của tác giả.
– Vì nếu muốn thay đổi thì điều tất yếu chúng ta cần phải hành động.
Hành động ở đây không chỉ là hoạt động của chân tay mà trước hết phải
4


ở trong suy nghĩ sau đó biến nó thành những hành động thiết thực, cụ

thể. Chỉ có hành động con người mới không bị ngừng trệ, xã hội mới có
thể phát triển.

Câu 1 ( 2,0 điểm) :
* Yêu cầu về hình thức (0,5 điểm):
– Viết đúng hình thức một đoạn văn, không quá 200 chữ
– Trình bày mạch lạc, rõ ràng, không mắc lỗi chính tả, dùng từ, đặt câu.
– Hiểu đúng yêu cầu của đề. Thí sinh có thể làm bài theo nhiều cách
khác nhau, có thể bày tỏ quan điểm, suy ngĩ riêng nhưng phải có lí lẽ và
căn cứ xác đáng, có thái độ chân thành, nghiêm túc, phù hợp với chuẩn
mực đạo đức và pháp luật.
* Yêu cầu về nội dung (1,5 điểm): Mỗi thí sinh rút ra bài học cuộc sống
cho riêng mình, có thể trình bày một trong các ý sau:
– Bài học về yêu những thứ không hoàn hảo, toàn vẹn.
– Bài học về đoàn kết, tinh thần đồng đội.
– Bài học về hành động để thành công
– Bài học về nỗ lực cố gắng…..
* Với mỗi bài học thí sinh cần đảm bảo được các nội dung sau:
– Giải thích được vấn đề nghị luận
II.
Làm
văn ( 7,0
điểm)

– Vai trò y nghĩa của vấn đề nghị luận trong cuộc sống
– Lấy dẫn chứng chứng minh vấn đề nghị luận
– Mở rộng vấn đề và liên hệ bản thân

Câu 2 (5,0 điểm) :
5



a. Yêu cầu về hình thức ( 0,5 điểm):
– Thí sinh biết kết hợp kiến thức và kĩ năng làm bài văn nghị luận văn
học để tạo lập văn bản.
– Bài viết có bố cục rõ ràng, văn viết có cảm xúc, không mắc lỗi chính
tả, diễn đạt trôi chảy, lập luận thuyết phục.
a. Yêu cầu về nội dung ( 2,5điểm)
* Mở bài: Giới thiệu tác giả Xuân Quỳnh, bài thơ Sóng và trích đoạn thơ:
+ Xuân Quỳnh là gương mặt tiêu biểu thuộc thế hệ những nhà thơ trưởng
thành trong thời kì kháng chiến chống Mĩ. Thơ Xuân Quỳnh là tiếng
lòng của một tâm hồn phụ nữ nhiều trắc ẩn, vừa hồn nhiên, vừa tươi tắn,
vừa chân thành, đằm thắm và luôn da diết trong khát vọng về hạnh phúc
bình dị đòi thường.
+ Sóng được sáng tác năm 1967, trong chuyến đi thức tế ở vùng biển
Diêm Điền (Thái Bình), là một bài thơ đặc sắc viết về tình yêu, tiêu biểu
cho phong cách thơ Xuân Quỳnh. Bài thơ in trong tập Hoa dọc chiến
hào. Trong đó tiêu biểu là đoạn thơ: Cuộc đời tuy dài thế…. Để ngàn
năm còn vỗ. Đoạn thơ thể hiện khát vọng được sống, được hóa thân vĩnh
viễn vào tình yêu muôn đời , muôn người.
* Thân bài:
+ Khái quát trước khi phân tích:
– Bài thơ Sóng mang âm hưởng của những con sóng biển và những con
sóng lòng đang khao khát tình yêu. Bài thơ có hai hình tượng cùng song
hành và hòa điệu, đó là Sóng và Em. Hai hình tượng này đã tạo nên nét
đáng
yêu
cho
bài
thơ.

– Đọc cả bài thơ ta thấy quan niệm về tình yêu của Xuân Quỳnh, ngoài
vẻ đẹp truyền thống là nỗi nhớ, lòng thủy chung son sắt và nghị lực niềm
tin. Đến hai khổ cuối, ta còn thấy nữ sĩ có một ước vọng thật đẹp là tình
yêu được tan vào sóng để dâng hiến và bất tử vĩnh hằng.
+ Khổ thơ thứ 8 là những suy tư về không gian, thời gian để từ đó bộc lộ
nỗi khắc khoải, tự nhận thức về mình về tình yêu và hạnh phúc
-> Có hai cặp đối lập ( Câu 1- 2; 3-4 )để khẳng định sự hữu hạn nhỏ bé
của đời người với dòng chảy vô thủy vô chung của thời gian và cái vô
6


hạn của vũ trụ. Khổ thơ thấm thía nỗi lo âu, buồn bã về sự trôi chảy của
thời gian và cái hữu hạn của cuộc đời, nhất là của tình yêu, cảm giác hữu
hạn này thường xuất hiện ở những con người từng trải, nhất là từng chịu
sự đổ vỡ, mất mát, tổn thương, và vì thế, luôn khao khát sự bình yên,
khao khát sự vĩnh hằng, vô hạn.
+ Khổ cuối: Suy nghĩ như thế nhưng Xuân Quỳnh không dẫn người ta
đến bế tắc, buồn chán mà thành khát vọng. Từ nhận thức khám phá mà
đã mang đến giải pháp (Làm sao được tan ra………ngàn năm còn vỗ).
Nhà thơ khao khát tình yêu của mình hòa trong tình yêu của mọi người,
tan ra không phải mất đi mà hòa giữa cái chung và cái riêng. Tình yêu
cũng đồng thời được nhập vào dòng thời gian vĩnh hằng, tình yêu sẽ
trường tồn cùng năm tháng, cùng đất trời, vũ trụ. Vậy là, con người sẽ
làm được điều kì diệu, sẽ chiến thắng được cái hữu hạn của cả thời gian
và không gian, sẽ vĩnh viễn hóa tình yêu ngay trong cái ngắn ngủi,
thoáng chốc của cuộc đời nếu họ dâng hiến và hi sinh trọn vẹn cho tình
yêu.
* Nghệ thuật (0,5 điểm): Thể thơ năm chữ với âm điệu nhịp nhàng dạt
dào như những đợt sóng biển sóng lòng bồi hồi da diết. Hình ảnh thơ
mộc mạc, ẩn dụ và nhân hóa tài hoa.

b. Liên hệ đoạn thơ trong bài Vội Vàng của Xuân Diệu (1.5điểm)
* Khát vọng sống trong đoạn thơ Vội Vàng(0,75 điểm)
Bằng việc sử dụng đại từ: tôi,ta; dùng hàng loạt các động từ mạnh theo
cấp độ tăng tiến: ôm, riết, say, thâu, cắn; sử dụng các bổ ngữ, các từ
láy: chếnh choáng, đã đầy…ta thấy nhà thơ khao khát một cách lạ lùng:
muốn thâu vào mình sắc hương, nhụy mật của cuộc đời để tận hưởng
cảm giác “chếnh choáng mùi thơm”, “đã đầy ánh sáng”, “no nê thanh
sắc” không chỉ bằng “cái hôn” mà còn mạnh hơn gấp ngàn lần “muốn
cắn vào ngươi”. Muốn cắn vào xuân là một ước muốn phi lí của thực tại
nhưng lại được chấp nhận trong thơ. Nó cho thấy khát vọng tình yêu với
cuộc sống mãnh liệt và nét độc đáo trong phong cách biểu hiện.
* Điểm tương đồng và khác biệt (0,75 điểm)
– Tương đồng : cả hai nhà thơ đều thể hiện quan niệm và khát vọng sống
mãnh liệt.
7


– Điểm khác biệt :
+ Với Xuân Quỳnh là sự khao khát được bất tử hóa tình yêu trong giọng
thơ dào dạt như những đợt sóng biểu hiện một trái tim phụ nữ vừa da
diết lại vừa nồng cháy.
+ Với Xuân Diệu lại là khát vọng tình yêu với cuộc sống mãnh liệt trong
giọng thơ sôi nổi trẻ trung.
– Nguyên nhân : Do phong cách của từng nhà thơ : Xuân Quỳnh là một
tiếng lòng của một tâm hồn phụ nữ đầy khát khao hạnh phúc đời thường
bình dị còn Xuân Diệu lại là một tiếng lòng rạo rực băn khoăn của một
tâm hồn yêu đời, yêu cuộc sống đến cuồng nhiệt.

——————————-HẾT——————————ĐỀ THAM KHẢO
I. Đọc – hiểu (3.0 điểm)

Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu:
Những đứa trẻ ngoan ngoãn, biết vâng lời, đợi cha mẹ sắp đặt học ở đâu, làm ở
đâu… thì rất dễ thương, nhưng chỉ dành cho trẻ em dưới 18 tuổi. Đã trên 18 tuổi,
bạn trẻ toàn cầu bây giờ chỉ cần “không hư” là được. Không hư là không hại
người, không hại mình, không phạm pháp. Còn lại, mình muốn học gì, làm gì,
quen ai, sống ở đâu, tiền bạc mình kiếm ra mình tiêu vào việc gì…thì mình quyết.
Tự chủ tài chính sẽ tự chủ về nhận thức. Và ngược lại.
Đừng sợ sai. Sai thì mình có trải nghiệm, có bài học.
Đúng thì mình hưởng.
Thông tin giờ nhiều, tự mình tìm tòi, phán đoán, quyết.
Giới trẻ thế giới bây giờ, ai ai cũng tâm niệm thế này. Bây giờ là lúc hành động
với sự nghiệp. Khi chết đi còn để lại thành tựu gì đó cho đời, 100 năm sau, 1000
năm sau nhân loại còn nhắc đến. Phải đi thật xa và thật nhiều, phải học, phải
làm….những khi sức khoẻ cho có thể cho mình đi, mình học, mình làm. Phải chịu
đựng gian khổ vào những năm tháng mình còn chịu đựng được. Một chén cơm
8


chan nước lã rồi húp, cũng no bụng. Một manh chiếu góc nhà nào đó vẫn ngủ
được, có chết đâu. Những cụm từ cảm tính và cái tôi lớn như “tôi không thích, tôi
thích, tôi ưa, tôi ghét, tôi ủng hộ, tôi tẩy chay, tôi đưa quan điểm, tôi phản đối, tôi
phàn nàn, tôi claim, tôi blame, tôi complain, tôi chán, tôi buồn, tôi cô đơn, tôi cực
khổ, tôi x tôi y”….gì đó đã từ lâu không còn nằm trong từ điển của giới trẻ giỏi và
tiến bộ.
Họ lặng lẽ làm và làm. Thành tựu sẽ khẳng định ai là ai. .
(Theo

/>
Ngày


17/02/2018)
Câu 1. Chỉ ra phương thức biểu đạt chính của văn bản trên.
Câu 2. Theo tác giả, vì sao “Đừng sợ sai”?
Câu 3. Theo tác giả, “Đã trên 18 tuổi, bạn trẻ toàn cầu bây giờ chỉ cần” và “tâm
niệm” điều gì?
Câu 4. Anh/ chị có đồng ý với quan niệm: “Giới trẻ thế giới bây giờ, ai ai cũng
tâm niệm thế này. Bây giờ là lúc hành động với sự nghiệp. Khi chết đi còn để lại
thành tựu gì đó cho đời”? Vì sao?
II. Làm văn (7.0 điểm)
Câu 1 (2.0 điểm)
Từ nội dung văn bản phần Đọc – hiểu, anh/ chị hãy viết một đoạn văn (khoảng 200
chữ) trình bày suy nghĩ về ý nghĩa của lòng tự tin trong cuộc sống.
Câu 2 (5.0 điểm)
Cảm nhận của anh/chị về nhân vật Hồn Trương Ba trong đoạn đối thoại giữa Hồn
Trương Ba và Xác hàng thịt (Hồn Trương Ba, da hàng thịt – Lưu Quang Vũ, Ngữ
văn 12, tập một, Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam, 2017).
Từ đó liên hệ với nhân vật Vũ Như Tô trong đoạn đối thoại với Đan Thiềm (Vĩnh
biệt Cửu Trùng Đài – Nguyễn Huy Tưởng, Ngữ văn 11, tập một, Nhà xuất bản
Giáo dục Việt Nam, 2017) để nhận xét quan niệm của các nhà văn về cuộc sống,
con người.
…………………………Hết………………………..

9


Đáp án:

Phầ
n


Câu

I
1

Nội dung

Điểm

ĐỌC – HIỂU

3,0

Phương thức biểu đạt chính: nghị luận

0,5

Học sinh dựa vào ngữ liệu để trả lời:
2

Theo tác giả, Đừng sợ sai. Sai thì mình có trải nghiệm, có
bài học.

0,5

Học sinh dựa vào ngữ liệu để trả lời:

3
4


Theo tác giả, “Đã trên 18 tuổi, bạn trẻ toàn cầu bây giờ chỉ
cần không hư” và có “tâm niệm” là “Bây giờ là lúc hành
động với sự nghiệp. Khi chết đi còn để lại thành tựu gì đó
cho đời”.
Đây là câu hỏi mở, học sinh trình bày suy nghĩ riêng của
mình song cần có quan điểm đúng đắn. Học sinh có thể
đồng ý/ không đồng ý/ kết hợp cả hai. Dưới đây là gợi ý
tham khảo:
– Đồng ý: Lập nghiệp có vai trò quan trọng đối với thanh
niên hiện nay. Đúng như ý kiến của Tony, “Giới trẻ thế giới
bây giờ, ai ai cũng tâm niệm thế này. Bây giờ là lúc hành
động với sự nghiệp. Khi chết đi còn để lại thành tựu gì đó
cho đời”. Trong cuộc sống, nhu cầu khẳng định tài năng,
bản lĩnh là của tất cả mọi người, nhất là giới trẻ hiện nay.
Sống trong cuộc sống hiện đại, các bạn trẻ – những người
đang ở độ tuổi tràn đầy sức sống, giàu ước mơ, khát vọng
sống có ý nghĩa – càng phải có những hành động thiết thực
để lập nên sự nghiệp to lớn. Việc làm đúng đắn đó không
chỉ để lại tên tuổi cho bản thân mà còn góp phần phát triển
xã hội giàu mạnh, tiến bộ. Muốn vậy, mỗi bạn trẻ cần tích
10

1,0
1,0


cực học tập, tu dưỡng phẩm chất để có thể lập nên sự
nghiệp, thành tựu như ước vọng.
– Không đồng ý: “Giới trẻ thế giới bây giờ, ai ai cũng tâm
niệm thế này. Bây giờ là lúc hành động với sự nghiệp. Khi

chết đi còn để lại thành tựu gì đó cho đời”. Ý kiến của
Tony không hẳn là đúng hoàn toàn. Trong cuộc sống, không
phải bạn trẻ nào cũng có ý thức “hành động với sự nghiệp”,
“để lại thành tựu gì đó cho đời”. Bởi nó phụ thuộc vào
nhiều yếu tố như điều kiện, năng lực bản thân, hoàn cảnh
gia đình,… Đáng tiếc là hiện nay, còn có một bộ phận
không nhỏ thanh niên chưa nhận thức đúng về trách nhiệm
và năng lực của bản thân. Họ sa đà vào các trò chơi thiếu
lành mạnh, những tội ác đáng sợ làm hủy hoại nhân cách,
tương lai của mình và ảnh hưởng tiêu cực tới xã hội.
– Kết hợp cả hai cách trên.
II
1

LÀM VĂN

7,0

Trình bày suy nghĩ về ý nghĩa của lòng tự tin trong cuộc
sống

2,0

a. Yêu cầu về hình thức đoạn văn
– Có thể trình bày theo cách diễn dịch/ quy nạp, tổng-phânhợp,…
– Diễn đạt chính xác, trong sáng, mạch lạc. Không mắc lỗi
hành văn.
– Sử dụng kết hợp linh hoạt, hiệu quả các thao tác lập luận.

0,5


b. Yêu cầu về nội dung
Học sinh trình bày suy nghĩ riêng của mình theo nhiều cách
nhưng cần làm rõ được ý nghĩa của niềm tin trong cuộc
sống.
– Lòng tự tin có vai trò quan trọng trong cuộc sống con

11

0,25


người.
– Vì trong cuộc sống, con người phải đối diện với nhiều
thách thức, khó khăn. Trên con đường lập nghiệp, con
đường đến thành công, nếu không có lòng tự tin vào năng
lực, bản lĩnh,…của mình thì con người sẽ thiếu ý chí nghị
lực, dễ bị nản chí, thất bại. Lòng tự tin sẽ tiếp cho con
người sức mạnh vươt qua mọi khó khăn.

0,75

0,25

– Con người sống cần có lòng tự tin, tránh tự ti nhưng
không được kiêu ngạo.
– Muốn vậy, mỗi người cần không ngừng học tập lĩnh hội
tri thức, bồi dưỡng nhân cách.

2


Cảm nhận về nhân vật Hồn Trương Ba trong đoạn đối
thoại giữa Hồn Trương Ba và Xác hàng thịt … Từ đó
liên hệ với nhân vật Vũ Như Tô … để nhận xét quan
niệm của các nhà văn về cuộc sống, con người.

0,25

5,0

a. Yêu cầu về hình thức
– Viết một bài văn nghị luận văn học
– Biết vận dụng kết hợp các thao tác lập luận và phương
thức biểu đạt.
– Bố cục rõ ràng; lập luận chặt chẽ; dẫn chứng tiêu biểu,
thuyết phục; trình bày sạch, đẹp; diễn đạt trong sáng, mạch
lạc; không mắc lỗi hành văn.

12

0,5


b. Yêu cầu về nội dung
Học sinh trình bày suy nghĩ riêng của mình theo nhiều cách
nhưng cần đáp ứng được những yêu cầu sau:
* Mở bài: Giới thiệu khái quát, ngắn gọn về tác giả Lưu
Quang Vũ, vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt, nhân vật
Hồn Trương Ba trong đoạn trích và vấn đề nghị luận.


0,5

* Thân bài:
– Cảm nhận nhân vật Hồn Trương Ba trong đoạn đối
thoại với Xác hàng thịt
+ Hồn Trương Ba bị rơi vào nghịch cảnh trớ trêu, bi kịch bị
tha hóa.
Hồn Trương Ba vốn thanh cao, nhân hậu nhưng khi trú ngụ
trong xác hàng thịt dung tục, tầm thường, hồn đã bị nhiễm
độc một số thói xấu và những nhu cầu vốn không phải của
hồn.
Hồn lên án, căm ghét, khinh rẻ, kết tội xác là dung tục, tầm
thường, “âm u đui mù”, “cái vỏ bên ngoài”.
Trước sự những lời lẽ của Xác (Xác vừa giễu cợt, mỉa mai,
vừa thanh minh, giãi bày, vừa vuốt ve, an ủi, thuyết phục
hồn thỏa hiệp), Hồn đau đớn đuối lý, thấm thía, bất lực
nhập lại Xác.
+ Hồn Trương Ba có khát vọng đấu tranh với nghịch cảnh
để được sống là chính mình (Hồn Trương Ba thoát xác, vì
không chấp nhận được tình cảnh sống hiện tại của Hồn); có
khát vọng có một đời sống tinh thần nguyên vẹn, trong
sạch, thẳng thắn, nguyên vẹn.
=> Hồn Trương Ba thể hiện bi kịch của con người bị rơi
vào nghịch cảnh không được sống là chính mình, bị tha
hóa, có khát vọng sống ý nghĩa, khát vọng đấu tranh với
nghịch cảnh để bảo vệ những giá trị tinh thần cao đẹp vốn
có của mình.

13


1,5


– Nghệ thuật:
+ Xung đột kịch gay gắt
+ Ngôn ngữ kịch giàu kịch tính, mang tính triết lý sâu sắc,
góp phần thể hiện rõ tính cách nhân vật.

0,5

+ Lời của Hồn ngắn, ngắt quãng, nhiều câu cảm thán, dấu
chấm lửng; lời Xác dài, thể hiện sự đuối lý, bất lực của
Hồn.
+ Giọng điệu hồn yếu ớt dần, giọng xác hả hê, đắc thắng,
mỉa mai,..
Tất cả góp phần thể hiện bi kịch của Hồn.

– Liên hệ đến nhân vật Vũ Như Tô trong đoạn đối thoại
với Đan Thiềm (Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài, trích Vũ Như
Tô- Nguyễn Huy Tưởng)
Hồn Trương Ba và Vũ Như Tô đều là những nhân vật
vốn có phẩm chất tốt đẹp nhưng cuối cùng bị rơi vào bi
kịch.
+ Vũ Như Tô là một kiến trúc sư thiên tài, có khát vọng lớn
lao; say mê nghệ thuật và cái đẹp phi thường, đến mức sẵn
lòng hy sinh tính mạng của mình; nhân cách cứng cỏi, cao
đẹp nhưng trong suy nghĩ, hành động mắc nhiều sai lầm. Vì
thế, nhân vật có kết cục bi thảm. Vũ Như Tô rơi vào bi kịch
“vỡ mộng” (ông đau đớn không hiểu vì sao Cửu Trùng Đài
lại bị đốt phá, bản thân ông bị nhân dân và quân nổi loạn

căm giận, đòi giết).
Còn Hồn Trương Ba chỉ là một người lao động bình thường,
nhân hậu, chất phác, thanh cao nhưng bị rơi vào hoàn cảnh
éo le (“Hồn Trương Ba, da hàng thịt”). Nhưng nhân vật vẫn
quyết tâm đấu tranh với nghịch cảnh để giữ gìn nhân cách
và được sống chân thực là chính mình.
+ Bi kịch của Vũ Như Tô là bi kịch của người nghệ sĩ say
14

0,5


mê với cái tài, cái đẹp, với nghệ thuật cao siêu, thuần túy
mà xa rời lợi ích trực tiếp, thiết thực của nhân dân.
Khác với bi kịch của Hồn Trương Ba là bi kịch tha hóa, bi
kịch không được sống chân thực là chính mình, không giữ
được những giá trị tinh thần đẹp đẽ, vốn có của mình.
– Nhận xét quan niệm của các nhà văn về cuộc sống, con
người:
Nguyễn Huy Tưởng và Lưu Quang Vũ đều thể hiện những
quan niệm đúng đắn, sâu sắc, nhân văn về cuộc sống, con
người:
+ Quan niệm sống đúng đắn: Sống là mình, với sự hài hòa
cả thể xác và tâm hồn, cả nhu cầu vật chất và nhu cầu tinh
thần, cả lợi ích trực tiếp, thiết thực với lợi ích lâu dài, muôn
thuở…
+ Phê phán lối sống giả tạo, chạy theo những nhu cầu vật
chất dung tục, tầm thường. Phê phán cả lối sống chỉ chú
trọng đến đời sống tinh thần, mà bỏ bê đời sống vật chất.
+ Trong con người có cả mặt tốt và xấu. Không được đổ lỗi

cho hoàn cảnh, con người cần phải biết đấu tranh với
nghịch cảnh, với chính mình, chống lại sự dung tục tầm
thường để hoàn thiện nhân cách.
+ Con người cần phải có khát vọng vươn tới những giá trị
tinh thần cao đẹp. Sự sống có ý nghĩa còn là khi con người
ta có hoài bão phi thường, đem tài năng để phụng sự cho
nhân dân, đất nước.
* Kết bài: Đánh giá chung về vấn đề nghị luận, giá trị tác
phẩm Hồn Trương Ba, da hàng thịt và tài năng, tư tưởng
của tác giả Lưu Quang Vũ.

15

1,0


ĐỀ THI THỬ THPT QUỐC GIA MÔN NGỮ VĂN 2018
THƠI GIAN 120 PHÚT
I. ĐỌC HIỂU (3,0 điểm)
Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu:
“…Tôi đứng lặng trước em
Không phải trước lỗi lầm
biến em thành đá cuội
Nhớ vận nước có một thời chìm nổi
Bắt đầu từ một tình yêu
Em hoá đá trong truyền thuyết
16


Cho bao cô gái sau em

Không còn phải hoá đá trong đời
Có những lỗi lầm phải trả bằng cả
một kiếp người
Nhưng lỗi lầm em lại phải trả bằng
máu toàn dân tộc
Máu vẫn thấm qua từng trang tập đọc
Vó ngựa Triệu Đà còn đau đến hôm nay…”
(Trần Đăng Khoa – Trước đá Mị Châu)
Câu 1. Xác định phong cách ngôn ngữ của văn bản trên. (0,5 điểm)
Câu 2.

“Em hoá đá trong truyền thuyết
Cho bao cô gái sau em
Không còn phải hoá đá trong đời” ? (0,5 điểm)

Ở những câu thơ này, theo tác giả sự “hoá đá” của Mị Châu “trong truyền
thuyết”có ý nghĩa như thế nào?
Câu 3. Em hãy nêu ngắn gọn ý nghĩa hai câu thơ sau:
“Máu vẫn thấm qua từng trang tập đọc
Vó ngựa Triệu Đà còn đau đến hôm nay…”. (1,0 điểm)
Câu 4. Bài học sâu sắc nhất mà em rút ra từ đoạn thơ trên ? (1,0 điểm)
II. PHẦN LÀM VĂN (7,0 điểm)
Câu 1: 2,0 điểm
Từ đoạn trích trong phần đọc – hiểu, em hãy viết một đoạn văn ngắn (khoảng 200
chữ) trình bày suy nghĩ về lỗi lầm của con người trong cuộc sống.
Câu 2: 5,0 điểm
Phân tích vẻ đẹp hình tượng người lính trong đoạn thơ sau:
… Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc,
17



Quân xanh màu lá dữ oai hùm.
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới,
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.
Rải rác biên cương mồ viễn xứ,
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh,
Áo bào thay chiếu anh về đất,
Sông Mã gầm lên khúc độc hành.
(Tây Tiến – Quang Dũng, Ngữ văn 12, Tập 1, NXB Giáo dục 2011)
Từ lí tưởng của người lính trong đoạn thơ trên hãy liên hệ với lí tưởng của người
chiến sĩ cách mạng trong đoạn thơ sau:
Tôi buộc lòng tôi với mọi người
Để tình trang trải với trăm nơi
Để hồn tôi với bao hồn khổ
Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời.
(Từ ấy – Tố Hữu, Ngữ văn 11, Tập 2, NXB Giáo dục 2011)
Qua đó, nêu suy nghĩ của anh/chị về trách nhiệm của tuổi trẻ với đất nước hôm
nay.

ĐÁP ÁN
I. ĐỌC HIỂU (3,0 điểm)
Câu 1: Phong cách ngôn ngữ: Nghệ thuật
Câu 2:

“Em hoá đá trong truyền thuyết
Cho bao cô gái sau em
18


Không còn phải hoá đá trong đời”

Theo tác giả, sự hoá đá của Mị Châu là bài học về tinh thần cảnh giác, về giải
quyết mối quan hệ giữa tình cảm gia đình và tình yêu nước, cá nhân với cộng
đồng, tình yêu đôi lứa và tình yêu đất nước. Đó là bài học quý báu để những cô gái
sau Mị Châu không bao giờ phạm phải sai lầm lớn lao và bị trừng phạt đau đớn.
Câu 3:
Câu thơ diễn tả nỗi đau mất nước của toàn dân tộc từ sự sai lầm, thờ ơ, mất cảnh
giác của An Dương Vương. Nỗi đau thấm máu ấy không chỉ là nỗi đau của hai
nghìn năm trước mà còn được nhân dân ta truyền lại cho con cháu qua từng trang
tập đọc và nỗi đau ấy còn đau đớn đến ngày hôm nay. Mỗi lần nhớ tới vó ngựa
xâm lược của Triệu Đà trái tim mỗi người dân Việt lại như thấm máu.
Câu 4: Bài học về tinh thần cảnh giác .
Bài học về ý thức xây dựng và bảo vệ đất nước .
Bài học về những lỗi lầm trong cuộc sống và trong sự nghiệp.
II: Làm văn
Câu 1: 2,0 điểm
1.

Giải thích:

Lỗi lầm là những sai lầm, tội lỗi con người mắc phải và để lại những hậu quả đáng
tiếc cho mình và mọi người.
2.

Bàn luận:

– Trong cuộc sống, không ai có thể tránh khỏi những lỗi lầm. Vì cuộc sống có
nhiều khó khăn, thử thách; khả năng của con người là có giới hạn; đôi khi chỉ vì
quá chủ quan, nhẹ dạ cả tin vào người khác mà con người dễ dàng mắc phải lỗi
lầm.
– Lỗi lầm để lại hậu quả đáng tiếc cho bản thân người phạm phải, nhưng có khi lỗi

lầm của một cá nhân dẫn đến sự an nguy, tồn vong của cả một quốc gia, dân tộc. Vì
thế, có những lỗi lầm có thể tha thứ, có những lỗi lầm không thể tha thứ. Người
phạm phải lỗi lầm thường sống trong dằn vặt, đau khổ và nhiều khi phải trả giá
bằng cả “một kiếp người”, thậm chí là “máu của một dân tộc”.
3.

Bài học:
19


– Phê phán những người không có ý thức rèn luyện bản thân, gây ra lỗi lầm đáng
tiếc.
– Nhận thức: Cần nhận thức, lỗi lầm là một điều tất yếu của cuộc sống, nhưng
không vì thế mà liên tiếp phạm lỗi lầm, vì hậu quả của những lầm lỗi nhiều khi rất
khó cứu vãn. Khi mắc lỗi cần trung thực, nghiêm khắc nhận lỗi và thay đổi để hoàn
thiện bản thân.
Câu 2: 5,0 điểm
1. Phân tích vẻ đẹp hình tượng người lính trong đoạn thơ
* Chân dung hiện thực của người lính:
– Bên ngoài: có vẻ kì dị, lạ thường: không mọc tóc, da xanh màu lá ® chiến trường
khắc nghiệt vì thiếu thốn, vì bệnh sốt rét đang hoành hành.=> gian khổ.
– Bên trong: dữ oai hùm, mắt trừng ® thậm xưng thể hiện sự dũng mãnh. Bề ngoài
thì lạ thường nhưng bên trong không hề yếu đuối, vẫn oai phong lẫm liệt ở tư thế
“ dữ oai hùm” => ý chí.
* Tâm hồn lãng mạn của người lính:
– Người lính Tây Tiến là những chàng trai lãng mạn, hào hoa với trái tim rạo rực,
khao khát yêu đương: gửi mộng, mắt trừng=> lãng mạn.
– Càng gian khổ => càng căm thù=> tạo thành ý chí + nhờ tâm hồn lãng mạn giúp
người lính vẫn sống, vẫn tồn tại trong đạn bom khắc nghiệt.
– “dáng kiều thơm”: không làm người lính nản lòng, thối chí mà cổ vũ, động viên

chiến sĩ, tiếp thêm sức mạnh cho chiến sĩ.
* Lí tưởng cao đẹp của người lính:
Câu thơ ”Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh” đã nâng cao chí khí và tầm vóc
người lính. Các anh ra trận vì một lý tưởng rất đẹp: “đời xanh” là đời trai trẻ, là
tuổi thanh xuân của “Những chàng trai chưa trắng nợ anh hùng…”, những học
sinh, sinh viên Hà Nội. Họ lên đường đầu quân vì nghĩa lớn. Họ “quyết tử cho tổ
quốc quyết sinh”. Câu thơ vang lên như một lời thề thiêng liêng, cao cả. Các anh
quyết đem xương máu để bảo vệ nền độc lập, tự do cho tổ quốc: “Chúng ta thà hi
sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”.
* Sự hi sinh cao cả của người lính:

20


– “ mồ viễn xứ”, “áo bào thay chiếu”: từ Hán Việt, nấm mồ của người chiến sĩ trở
thành mộ chí tôn nghiêm.
– “áo bào”: cái chết sang trọng.
– Cái bi nâng lên thành hùng tráng bởi lí tưởng của người nằm xuống -> cái chết bi
hùng, có bi nhưng không luỵ.
– Sông Mã: gợi điển tích Kinh Kha®khí khái của người lính. Cái chết đậm chất sử
thi bi hùng bởi tiếng gầm của sông Mã.
ó Cả đoạn thơ là cảm hứng bi tráng về cuộc đời chiến đấu gian khổ, tư tưởng lạc
quan và sự hi sinh gian khổ, anh dũng của người lính.
óNghệ thuật: Đoạn thơ có sự kết hợp giữa bút pháp lãng mạn và tinh thần bi tráng.
Ngoài ra thành công còn được tạo nên nhờ biện pháp đối lập được sử dụng triệt để,
biện pháp nói giảm tinh tế, cách sử dụng từ Hán Việt độc đáo…
2. Từ lí tưởng của người lính trong đoạn thơ trên liên hệ với lí tưởng của người
chiến sĩ cách mạng ở đoạn thơ trích trong “Từ ấy”- Tố Hữu.
– Lí tưởng của người lính trong bài “Tây Tiến”: “ Chiến trường….đời xanh” thể
hiện thái độ dứt khoát ra đi với tất cả ý thức trách nhiệm, không tính toán. Sẵn sàng

hiến dâng tuổi thanh xuân cho đất nước.
– Lí tưởng của người chiến sĩ cách mạng ở đoạn thơ trích trong “Từ ấy”: Giác ngộ
lý tưởng, giác ngộ nhận thức, lẽ sống đối với người cộng sản, trước hết là giác ngộ
về chỗ đứng. Người chiến sĩ cách mạng chủ động, tự giác hoà “cái tôi” với “cái ta”
chung của mọi người, tự nguyện đứng trong hàng ngũ những người lao khổ. Từ
“buộc” thể hiện ý thức tự nguyện sâu sắc và quyết tâm cao độ của Tố Hữu nguyện
gắn bó mật thiết, sống chan hoà với “mọi người” với “trăm nơi” với quần chúng
đông đảo khắp mọi niềm đất nước. Nhóm từ “để tình trang trải” thể hiện tâm hồn
nhà thơ như muốn trải rộng với cuộc đời rộng lớn, tạo ra khả năng đồng cảm sâu
xa với mọi cảnh ngộ của những cuộc đời cần lao.
– Hai câu sau: “Để hồn tôi với bao hồn khổ …. mạnh khối đời” khẳng định tình
cảm hữu ái giai cấp của Tố Hữu. Tâm hồn của thi sĩ từ đây sẽ nghiêng về phía
“bao hồn khổ” để cảm thông, chia sẻ, để cá nhân hoà vào tập thể, tạo nên một sức
mạnh quần chúng đông đảo, vĩ đại. Sau này, khi đã trải qua gần 40 năm đời thơ,
đời cách mạng, Tố Hữu cũng đã viết: “Tất cả cùng tôi. Tôi với muôn người. Chỉ là
một. Nên cũng là vô số!”
Qua đó, nêu suy nghĩ về trách nhiệm của tuổi trẻ với đất nước hôm nay.
21


– Người sống có trách nhiệm là người luôn hướng tới các giá trị chân, thiện, mĩ,
luôn hướng tới sự chan hòa, chia sẻ nhân ái, sống vì mọi người, muốn cống hiến tài
năng, sức lực cho quê hương, đất nước.
– Tuổi trẻ là những công dân ở lứa thành niên, thanh niên, là người đã đủ điều kiện,
đủ ý thức để nhận biết vai trò của mình đối với bản thân, xã hội. Tuổi trẻ của mỗi
thời đại là niềm tự hào dân tộc, là lớp người tiên phong trong công cuộc xây dựng,
đổi
mới,
phát
triển

đất
nước.
– Thế kỉ 21 là thế kỉ của sự phát triển, vì vậy tuổi trẻ cần: ra sức học tập văn hóa,
khoa học kỹ thuật; tu dưỡng đạo đức, tư tưởng chính trị; có lối sống lành mạnh, rèn
luyện kỹ năng, phát triển năng lực; có ý thức rèn luyện sức khỏe; tham gia các hoạt
động sản xuất; tham gia các hoạt động chính trị xã hội…
ĐỀ THAM KHẢO SỐ 35
Phần I: Đọc hiểu: (3.0 điểm)
Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi:
Khi học lớp 2, tôi thường nghe các bác khen anh nào thi đỗ Đại học bằng một câu
rất đặc
biệt: Thằng A, thằng B là cái “trán” của xóm tôi đấy. Tôi nhớ năm đó cả làng mới
có một
người thi đỗ Đại học Y, tổng điểm ba môn Toán, Hóa, Sinh lại rất cao và được sang
Hungary du học. Anh ấy trở thành cái trán được nhắc đến nhiều nhất của cả làng.
Như một huyền thoại.
Mấy năm liền đi đâu cũng nghe nhắc, nghe kể.
Rồi làng dần dần có nhiều người đỗ Đại học. Có năm truyền hình còn về làm cả
một phóng sự về một làng quê có số học sinh thi đỗ Đại học với tỉ lệ rất cao. Nói
theo cách của các bác là làng tôi giờ đi đâu cũng toàn thấy những trán là trán.
Ước vọng nhiều nên học vấn và tri thức thửa xưa đã thường xuyên được đánh đồng
với đỗ đạt.
Cũng như các bác của tôi cứ quy tất cả về “cái trán”, xem nó là biểu tượng của sự
thông minh sáng láng, của học hành đỗ đạt. Lớn lên tôi nhận ra đó là ước mong khi
thầm kín, khi bộc lộ, nhưng luôn mãnh liệt của thế hệ những người như bác tôi. Đi
học và đỗ đạt là cơ hội đổi đời, là phẩm giá, là mục tiêu của nhiều thế hệ, của dòng
họ, xóm, của làng, của huyện,…
22



Điều đó vô tình gây sức ép ngày càng nặng nề lên nhiều thế hệ học trò làng tôi.
Lớn lên đi xa, đến nhiều nơi, gặp nhiều người, tôi nhận ra có rất nhiều người chưa
từng được vinh danh là “cái trán” của khu phố, của xóm làng, của cộng đồng
nhưng họ sống vô cùng hạnh phúc. Họ đóng góp rất nhiều cho cuộc sống bằng sự
giàu có và rất yêu lao động. Một người trồng cây cảnh mỗi năm bán ra thị trường
thu về hàng trăm tỉ đồng. Một người chơi…thả diều đến đẳng cấp nghệ nhân, cũng
ngược Á xuôi Âu đi trình diễn nhiều kỳ lễ hội với những lời mời kèm tài trợ. Một
anh thợ mộc ven con sông Phổ Lợi làm những chiếc lồng chim và bán được với giá
ngang một chiếc xe hơi tầm trung. Hơn hết họ làm những điều đó bằng đam mê, và
rồi đam mê bù đắp lại cho chính họ, cho cuộc sống của cả những người xung
quanh.
Lại một mùa thi Đại học đã về. Đường phố sáng sớm cuồn cuộn người và xe. Thí
sinh và người nhà hộ tống. Rồi sau mỗi kỳ thi, lại có những bạn nhảy lầu, nhảy cầu
thương tâm. Cuộc sống không chỉ có đỗ đạt mới là hạnh phúc. Cũng như thành đạt
không chỉ có một con đường là đi học và đi thi. Trường thi chỉ là nơi ganh đua
chốc lát chứ không thể đủ chỗ cho tận cùng đam mê của mỗi người. Chính vì thế
mà báo Hoa Học Trò vẫn luôn khuyên bạn đọc “Hãy giữ cho mình niềm đam mê
khác biệt”.
(Đủ chỗ cho đam mê khác biệt, Bay xuyên những tầng mây, Hà Nhân,
NXB Văn học, tr.188)
Câu 1: (0.5 điểm) Nêu phương thức biểu đạt chính của văn bản.
Câu 2: (0.5 điểm) Theo tác giả văn bản, điều gì đã “gây sức ép ngày càng nặng nề
lên nhiều
thế hệ học trò”?
Câu 3: (1.0 điểm) Hãy giải thích ý nghĩa của câu nói: “Trường thi chỉ là nơi ganh
đua chốc lát chứ không thể đủ chỗ cho tận cùng đam mê của mỗi người”?
Câu 4:(1.0 điểm) Theo anh (chị), tâm lý coi “Đi học và đỗ đạt là cơ hội đổi đời, là
phẩm giá, là mục tiêu của nhiều thế hệ, của dòng họ, xóm, của làng, của huyện,
…” có ảnh hưởng như thế nào đến mỗi cá nhân và toàn xã hội?
Phần II: Làm văn: (7.0 điểm)

Câu 1: (2.0 điểm)

23


Hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) bày tỏ ý kiến của em về thông điệp trong
văn bản:
“Hãy giữ cho mình niềm đam mê khác biệt”.
Câu 2: (5.0 điểm)
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…” mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó…
Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm
Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”
Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi”
Thời gian đằng đẵng
Không gian mênh mông
Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ….”
(Đất Nước, trích Trường ca Mặt đường khát vọng,
SGK Ngữ văn 12, tập I, NXB Giáo dục, năm 2008, trang 118)
Hãy trình bày cảm nhận của anh (chị) về đoạn thơ trên. Qua đó, hãy lý giải vì sao

khi nhận xét về Nguyễn Khoa Điềm có ý kiến cho rằng: “Thơ ông hấp dẫn bởi sự
24


kết hợp giữa xúc cảm nồng nàn và suy tư sâu lắng…”. (Sách giáo khoa Ngữ văn
12, tập I, NXB Giáo dục, năm 2008, trang 118)
ĐÁP ÁN
Phần I: Đọc hiểu (3.0 điểm)
Câu 1:(0.5 điểm) Phương thức biểu đạt chính của văn bản: nghị luận.
Câu 2: (0.5 điểm) Theo tác giả văn bản, điều đã “gây sức ép ngày càng nặng nề
lên nhiều thế hệ học trò”:
– Nhiều thế hệ trước đã học hành xuất sắc, đỗ đạt cao, có nhiều cơ hội, thành đạt
trong cuộc
sống.
– Quan niệm đi học và đỗ đạt là cơ hội đổi đời, là phẩm giá, là mục tiêu của nhiều
thế hệ, của dòng họ, xóm, của làng, của huyện,…
Câu 3: (1.0 điểm) Học sinh cần giải thích ý nghĩa của câu nói: (1.0 điểm)
+ “trường thi chỉ là nơi ganh đua trong chốc lát”: các cuộc thi chỉ mang giá trị nhất
thời, gắn với một thời điểm, một nội dung học tập nào đó trong cả quãng đời rất
dài của con người.
+ “đam mê tận cùng”: niềm yêu thích thật sự sâu sắc, mãnh liệt đối với một lĩnh
vực nào đó.
+ Ý nghĩa chung: trường thi là nơi con người thể hiện khả năng của mình trong
một thời điểm nhất định. Nhưng một cuộc thi không phải là nơi con người có thể
sống với tận cùng đam mê của mình, bộc lộ hết niềm yêu thích và khả năng của
mình, không nên coi thi cử là mục đích cuối cùng.
Câu 4:(1.0 điểm)
Tâm lý coi “Đi học và đỗ đạt là cơ hội đổi đời, là phẩm giá, là mục tiêu của nhiều
thế hệ, của dòng họ, xóm, của làng, của huyện,…” có ảnh hưởng rất lớn đến mỗi cá
nhân

và toàn xã hội:
– Tích cực:
25


×