MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..............................................................................................................2
NỘI DUNG...........................................................................................................3
I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA
QUỐC TẾ.........................................................................................................3
II. TÌNH HUỐNG............................................................................................5
III. GIẢI QUYẾT TÌNH HUỐNG.................................................................6
1. Yêu cầu 1..................................................................................................6
2. Yêu cầu 2..................................................................................................7
3. Yêu cầu 3..................................................................................................8
4. Yêu cầu 4................................................................................................10
KẾT LUẬN........................................................................................................13
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................14
MỞ ĐẦU
Với sự phát triển không ngừng của đời sống kinh tế, các hoạt động thương
mại quốc tế đang ngày càng diễn ra một cách sôi động, đặc biệt là các giao dịch
trong lĩnh vực thương mại hàng hóa mà chủ yếu là thông qua các hợp đồng. Sự
giao lưu thương mại đã đem đến rất nhiều lợi ích cho các quốc gia. Tuy nhiên,
khi tham gia vào quá trình đó, các bên luôn mong muốn có được nhiều lợi ích
nhất cho mình. Trong nhiều trường hợp, khi lợi ích của các bên có sự xung đột
tất yếu nảy sinh ra sự mâu thuẫn và dẫn đến tranh chấp. Hơn nữa, mỗi quốc gia
đều có hệ thống pháp luật riêng. Điều này càng làm cho quá trình giải quyết các
mâu thuẫn khó khăn hơn khi mà nhiều hệ thống pháp luật có thể cùng được áp
dụng và các bên luôn mong muốn áp dụng hệ thống pháp luật có lợi cho mình.
Để có cơ chế giải quyết chung, các quốc gia thường tham gia vào các tổ chức
kinh tế, ký kết các điều ước quốc tế. Tuy nhiên, khi các bên không có cơ chế
giải quyết chung thì hệ thống pháp luật nào được áp dụng, quyền và nghĩa vụ
của các bên như thế nào và ai là người có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp
đó thì là một vấn đề hết sức khó khăn. Để tìm hiểu sâu hơn về vấn đề này, nhóm
1 lớp K3i xin chọn đề tài số 8 cho bài tập của nhóm, qua đó đưa ra cách giải
quyết cho tình huống minh họa trong trường hợp trên. Trong quá trình thực hiện,
do còn nhiều hạn chế về kiến thức cũng như tài liệu, bài thảo luận không tránh
khỏi những thiếu sót, chúng em rất mong nhận được sự góp ý của thầy cô để bài
tập được hoàn thiện hơn.
Chúng em xin chân thành cảm ơn!
NỘI DUNG
I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA
QUỐC TẾ
1. Khái niệm hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
Hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế (còn được gọi là hợp đồng mua bán
ngoại thương hoặc hợp đồng xuất nhập khẩu) là hợp đồng mua bán hàng hoá có
tính chất quốc tế (có yếu tố nước ngoài, có nhân tố nước ngoài). Tính chất quốc
tế của hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế được hiểu không giống nhau tuỳ theo
quan điểm của luật pháp từng nước.
Theo Công ước Lahaye năm 1964 về mua bán quốc tế các động sản hữu
hình: tính chất quốc tế thể hiện ở các tiêu chí như: các bên giao kết có trụ sở
thương mại ở các nước khác nhau và hàng hoá, đối tượng của hợp đồng, được
chuyển qua biên giới một nước, hoặc là việc trao đổi ý chí giao kết hợp đồng
giữa các bên được lập ở những nước khác nhau (Điều 1 của Công ước).
Nếu các bên giao kết không có trụ sở thương mại thì sẽ dựa vào nơi cư trú
thường xuyên của họ. Yếu tố quốc tịch của các bên không có ý nghĩa trong việc
xác định yếu tố nước ngoài của hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế.
Theo Công ước Viên năm 1980 của Liên Hiệp Quốc về Hợp đồng Mua
bán Quốc tế Hàng hoá (United Nations Convention on Contracts for
International Sales of Goods, Vienna 1980 - CISG, gọi tắt là Công ước Viên năm
1980): tính chất quốc tế được xác định chỉ bởi một tiêu chuẩn duy nhất, đó là
các bên giao kết hợp đồng có trụ sở thương mại đặt ở các nước khác nhau (điều
1 Công ước Viên năm 1980). Và, giống như Công ước Lahaye năm 1964, Công
ước này cũng không quan tâm đến vấn đề quốc tịch của các bên khi xác định
tính chất quốc tế của hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế1.
Theo quan điểm của Việt Nam: Luật Thương mại Việt Nam năm 2005
không đưa ra tiêu chí để xác định tính chất quốc tế của hợp đồng mua bán hàng
1 Tham khảo bài viết Nguyễn Xuân Công tại trang web: />ItemID=1299
hóa quốc tế mà liệt kê những hoạt động được coi là mua bán hàng hóa quốc tế.
Điều 27 nêu rõ mua bán quốc tế được thực hiện dưới các hình thức xuất khẩu,
nhập khẩu, tạm nhập tái xuất, tạm xuất tái nhập và chuyển khẩu. Theo đó, dựa
trên năm khái niệm về xuất khẩu, nhập khẩu, tạm nhập tái xuất, tạm xuất tái
nhập và chuyển khẩu Luật Thương mại Việt Nam năm 2005 đã sử dụng tiêu chí
hàng hóa phải là động sản; hàng có thể được di chuyển qua biên giới của Việt
Nam hoặc qua biên giới của một nước (vùng lãnh thổ); hoặc di chuyển qua khu
chế xuất, khu vực hải quan riêng... để xem xét tính quốc tế của hợp đồng mua
bán hàng hóa quốc tế.
Như vậy, nếu đối tượng của hợp đồng mua bán là bất bộng sản thì hợp
đồng đó không phải là hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế cho dù bất động sản
được bán cho người nước ngoài. Mua bán bất động sản với người nước ngoài
phải theo một cơ chế pháp lý riêng.
2. Đặc điểm của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
So với hợp đồng mua bán trong nước, hợp đồng mua bán hàng hóa quốc
tế có những đặc điểm sau đây:
Về chủ thể: chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế là các bên,
người bán và người mua, có trụ sở thương mại đặt ở các nước khác nhau.
Về đối tượng của hợp đồng: hàng hoá là đối tượng của hợp đồng mua
bán hàng hoá quốc tế là động sản, tức là hàng có thể chuyển qua biên giới của
một nước.
Về đồng tiền thanh toán: Tiền tệ dùng để thanh toán thường là nội tệ
hoặc có thể là ngoại tệ đối với các bên. Ví dụ: hợp đồng được giao kết giữa
người bán Việt Nam và người mua Hà Lan, hai bên thoả thuận sử dụng đồng
euro làm đồng tiền thanh toán. Lúc này, đồng euro là ngoại tệ đối với phía người
bán Việt Nam nhưng lại là nội tệ đối với người mua Hà Lan. Tuy nhiên, cũng có
trường hợp đồng tiền thanh toán đều là nội tệ của cả hai bên, như trường hợp các
doanh nghiệp thuộc các nước trong cộng đồng châu Âu sử dụng đồng euro làm
đồng tiền chung.
Về ngôn ngữ của hợp đồng: Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế thường
được ký kết bằng tiếng nước ngoài, trong đó phần lớn là được ký bằng tiếng
Anh. Điều này đòi hỏi các bên phải giỏi ngoại ngữ.
Về cơ quan giải quyết tranh chấp: tranh chấp phát sinh từ việc giao kết
và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế có thể là toà án hoặc trọng tài
nước ngoài. Và một lần nữa, vấn đề ngoại ngữ lại được đặt ra nếu muốn chủ
động tranh tụng tại tòa án hoặc trọng tài nước ngoài.
Về luật điều chỉnh hợp đồng (luật áp dụng cho hợp đồng): luật áp dụng
cho hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế mang tính chất đa dạng và phức tạp.
Điều này có nghĩa là hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế có thể phải chịu sự
điều chỉnh không phải chỉ của luật pháp nước đó mà cả của luật nước ngoài (luật
nước người bán, luật nước người mua hoặc luật của bất kỳ một nước thứ ba
nào), thậm chí phải chịu sự điều chỉnh của điều ước quốc tế, tập quán thương
mại quốc tế hoặc cả án lệ (tiền lệ pháp) để điều chỉnh hợp đồng mua bán hàng
hoá quốc tế.
Theo nguyên tắc chung của tư pháp quốc tế, trong mua bán hàng hóa quốc
tế, các bên có quyền tự do thoả thuận chọn nguồn luật áp dụng cho quan hệ hợp
đồng của mình. Nguồn luật đó có thể là luật quốc gia, điều ước quốc tế về
thương mại hoặc tập quán thương mại quốc tế và thậm chí cả các án lệ (tiền lệ
xét xử).
II. TÌNH HUỐNG
Ngày 11/09/2014 BINBOP (Việt Nam) và NANA (Anh) ký kết hợp đồng
mua bán mặt hàng bình gốm sứ Bát Tràng theo điều kiện CIF, thanh toán bằng
TT (phương thức thanh toán sau) trong vòng tám ngày sau khi người mua nhận
được chứng từ vận tải gốc, người hưởng lợi là người bán (BINBOP).
BINBOP đã giao hàng cho NANA ngày 22/09/2014. Sau khi giao hàng,
BINBOP đã chuyển cho NANA vận đơn gốc và hóa đơn thương mại đề ngày
22/09/2014 đòi tiền hàng, nhưng cuối cùng BINBOP vẫn không nhận được tiền
hàng. Ngày 14/12/2014 BINBOP gửi cho NANA thư yêu cầu thanh toán, trong
đó, yêu cầu NANA phải thanh toán tiền hàng cho BINBOP trong vòng 15 ngày
kể từ ngày gửi thư yêu cầu, thời hạn trả chậm nhất là ngày 28/12/2014.
BINBOP, sau nhiều lần đòi tiền mà không được trả, đã khởi kiện NANA, đòi
NANA phải trả các khoản tiền sau:
- Tiền hàng;
- Tiền lãi của tiền hàng;
- Phí tư vấn pháp lý, phí dịch thuật, phí liên lạc điện thoại và fax.
NANA đã phản bác rằng mình đã ký hợp đồng với BINBOP (hợp đồng ký
ngày 11/09/2014) để nhập khẩu ủy thác cho TEPTIU. Một biên bản thỏa thuận
khác ký ngày 11/09/2014 giữa ba bên (BINBOP, NANA, và TEPTIU) thì trách
nhiệm thanh toán tiền hàng cho BINBOP là TEPTIU, cho nên BINBOP không
có quyền kiện NANA trả tiền hàng. Ba bên không có điều khoản quy định Biên
bản thỏa thuận là một bộ phận của Hợp đồng mua bán hàng hóa.
(i) Xác định bên có nghĩa vụ trả tiền hàng cho BINBOP.
(ii) Bên có nghĩa vụ trả tiền hàng có nghĩa vụ trả tiền lãi của tiền hàng
không? Nếu có, xác định mốc thời gian tính lãi suất. Các phí do BINBOP liệt kê
trong đơn khởi kiện liệu có được trọng tài chấp nhận?
(iii) Cơ quan nào có thẩm quyền giải quyết vụ việc trên?
(iv) Xác định luật áp dụng.
III. GIẢI QUYẾT TÌNH HUỐNG
1. Yêu cầu 1
Xác định bên có nghĩa vụ trả tiền hàng cho BINBOP
Dựa theo tình huống trên theo quan điểm của nhóm Nana là bên có nghĩa
vụ trả tiền hàng cho Binbop, vì:
Thứ nhất, NANA là công ty nhập khẩu ủy thác cho công ty TEPTIU nói
một cách rõ hơn thì NANA là công ty nhận ủy thác nhập khẩu hàng hóa là gốm
bát tràng của BINBOP (Việt Nam) cho TEPTIU. TEPTIU muốn nhập hàng của
BINBOP nên đã ủy thác nhập khẩu cho NANA. Giữa NANA và TEPTIU ký kết
với nhau một hợp đồng ủy thác nhập khẩu. Thông thường bên nhận ủy thác
nhập khẩu sẽ có các trách nhiệm như: đàm phán, ký kết hợp đồng ngoại thương
với người bán hàng nước ngoài; làm các thủ tục cần thiết để nhập khẩu hàng
hóa; Thanh toán tiền cho người bán hàng nước ngoài; khai và nộp các loại thuế
như thuế nhập khẩu, thuế VAT… cho hàng nhập khẩu; lưu giữ bộ chứng từ xuất
nhập khẩu: hợp đồng, hóa đơn thương mại, phiếu đóng gói; xuất trả hàng đã
nhập khẩu cho người ủy thác, cùng hóa đơn VAT cho hàng nhập khẩu (bên cạnh
hóa đơn VAT cho phí dịch vụ ủy thác nhập khẩu. Trên thực tế, NANA nhận hàng
từ BINBOP và giao cho TEPTIU, vì thế NANA phải có nghĩa vụ thanh toán tiền
cho người bán hàng là BINBOP.
Thứ hai, việc kí kết hợp đồng mua bán hàng hóa là do hai thuơng nhân là
BINBOP và NANA đứng ra kí kết mua bán hàng hóa với nhau. Trong đó,
BINBOP đã giao hàng và các giấy tờ chứng từ vận đơn qua hết cho NANA. Còn
việc ba bên ngồi kí kết một biên bản thỏa thuận giữa NANA, BINBOP và
TEPTIU cùng ngày với ngày công ty BINBOP kí kết hợp đồng với NANA là
ngày 11/09/2014. Nhưng biên bản thảo thuận đó lại không phải là một điều
khoản của hợp đồng mua bán trên nên không làm thay đổi quyền và nghĩa vụ cơ
bản của các bên trong hợp đồng. Do vậy, theo hợp đồng thì BINBOP và NANA
vẫn phải thực hiện nghĩa vụ với nhau. BINBOP đã thực hiện xong nghĩa vụ giao
hàng nên có quyền đòi NANA theo hợp đồng mua bán hàng hóa.
Như vậy, có thể xác định nghĩa vụ thanh toán tiền hàng thuộc về NANA.
2. Yêu cầu 2
a) Về nghĩa vụ trả lãi
Xét trong tình huống, mặc dù, NANA là người có nghĩa vụ thanh toán tiền
hàng cho BINBOP, tuy nhiên, giữa ba bên đã có biên bản thỏa thuận TEPIU là
người có trách nhiệm thanh toán tiền hàng cho BINBOP, TEPTIU phải thanh
toán tiền hàng cho NANA để NANA thanh toán tiền hàng cho BINBOP. Do đó,
cần xác định lỗi để đưa ra trách nhiệm trả lãi của các bên. Ta xét hai trường hợp:
Thứ nhất, nếu TEPTIU đã chuyển tiền thanh toán tiền hàng cho NANA để
NANA trả tiền hàng cho BINBOP thì trách nhiệm trả lãi thuộc về NANA.
Thứ hai, nếu TEPTIU chưa chuyển tiền thanh toán tiền hàng cho NANA
để NANA trả tiền hàng cho BINBOP thì trách nhiệm trả lãi thuộc về TEPTIU.
Như vậy, bên có nghĩa vụ trả tiền hàng có nghĩa vụ trả tiền lãi của tiền
hàng hay không còn tùy thuộc vào việc thanh toán giữa TEPTIU và NANA.
b) Về mốc thời gian tính lãi suất
Trong tình huống, ngày 22/09/2014, BINBOP đã giao hàng cho NANA và
sau khi giao hàng xong, BINBOP đã chuyển cho NANA vận đơn gốc và hóa đơn
thương mại. Theo thỏa thuận, bên mua sẽ thanh toán cho bên bán trong vòng
tám ngày sau khi người mua nhận được chứng từ vận tải gốc. Do đó, thời điểm
để tính lãi suất là sau tám ngày kể từ ngày bên mua nhận được vận đơn gốc và
hóa đơn thương mại. Nếu NANA nhận được hóa đơn cùng với hàng hóa ngay
trong ngày 22/9/2014 thì ngày bắt đầu tính lãi suất là ngày 1/10/2014.
c) Về các khoản phí trong đơn khởi kiện
Các khoản phí được nêu trong đơn khởi kiện bao gồm:
+ Phí tư vấn pháp lý
+ Phí dịch thuật
+ Phí liên lạc điện thoại và fax.
Đây là các khoản thiệt hại phát sinh do việc không thực hiện nghĩa vụ của
bên mua, bên mua phải có trách nhiệm bồi thường những khoản phí này cho bên
bán. Vì vậy, theo quan điểm của nhóm thì các khoản phí mà BINBOP đã liệt kê
trong đơn khởi kiện để đòi bồi thường là hợp lý.
3. Yêu cầu 3
Hiện nay, giữa Việt Nam và vương quốc Anh chưa có hiệp định tương trợ
tư pháp về Thương mại quốc tế. Chính vì thế việc giải quyết tranh chấp về
thương mại nói chung cũng như hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế nói riêng
giữa các thương nhân của hai bên phải dựa vào tập quán quốc tế về giải quyết
tranh chấp thương mại.
Căn cứ vào hợp đồng thương mại của hai bên BINBOP và NANA thì hai
bên không có thỏa thuận gì về việc giải quyết tranh chấp trong hợp đồng.
Căn cứ vào lý luận về việc giải quyết các tranh chấp thương mại giữa các
thương nhân trong thương mại quốc tế khi xảy ra tranh chấp có thể sử dụng
những biện pháp sau: khiếu nại, trung gian hòa giải, trọng tài thương mại, tòa
án. Trong trường hợp trên việc tranh chấp tương hợp đồng mua bán hàng hóa là
do hai thuơng nhân là BINBOP và NANA trong đó đã sử dụng phương pháp giải
quyết tranh chấp là khiếu nại nhưng không đạt kết quả.
Căn cứ vào yêu cầu là xác định cơ quan nào có thẩm quyền giải quyết
tranh chấp thương mại trong trường hợp này bao gồm:
Thứ nhất, giải quyết tranh chấp bằng cơ quan trung gian hòa giải bằng
Tòa án trọng tài khi hai bên có thỏa thuận đồng ý tham gia hòa giải. Cơ quan
Toà án trọng tài sẽ tiến hành hòa giải cho hai khi có đơn đề nghị đến cơ quan
này. Tiến hành hòa giải thông qua các hòa giải viên tại hội nghị hòa giải.
Thứ hai, giải quyết thông qua cơ qua trọng tài thương mại. Là việc giao
vụ việc tranh chấp cho người thứ ba là các trọng tài viên để họ xét xử và ra các
phán quyết cuối cùng trong trường hợp các bên không tự dàn xếp, thỏa thuận với
nhau bàng còn đường hòa giải hay Tòa án. Được tiến hành theo một thủ tục nhất
định và kết thúc bằng một phán quyết trọng tài. Việc giải quyết tranh chấp bằng
trọng tài có thể thông qua trong tài phi chính phủ, trọng tài theo vụ việc hoặc
trọng tài theo quy chế. Tuy nhiên việc tiến hành giải quyết theo tranh chấp trọng
tài phải được các bên thỏa thuận quy định trong hợp đồng thương mại, hoặc có
văn bản thỏa thuận riêng về trọng tài hay một thỏa thuận trọng tài mặc nhiên, thể
hiện qua hành vi cụ thể như một bên giao tranh chấp cho trọng tài viên mà bên
kia vẫn theo kiện.
Thứ ba, cơ quan tòa án có thẩm quyền giải quyết tranh chấp thương mại,
hiện tại chưa có tòa án nào trên thế giới thành lập để chuyên giải quyết tranh
chấp phát sinh thương mại quốc tế. Chính vì thế trong trường hợp cụ thể nguyên
đơn phải gửi đơn khởi kiện tới tòa án cơ thẩm quyền tại nguời bị đơn, nước
nguyên đơn hoặc có thể là nước thứ ba để giải quyết tranh chấp. Thẩm quyền toà
án thương mại của một quốc gia không có thẩm quyền đương nhiên trong việc
xét xử tranh chấp thương mại quốc tế ngay cả khi tranh chấp đó phát sinh trên
lãnh thổ của nước có toà án. Tòa án thương mại chỉ có thẩm quyền xét xử các
tranh chấp thương mại khi nào các bên thỏa thuận trong hợp đồng khi có tranh
chấp phát sinh. Trong trường hợp các bên trong hợp đồng không quy định cụ thể
tòa án nào có thẩm quyền giải quyết khi có tranh chấp phát sinh thì theo tập
quán quốc tế tranh chấp sẽ được giải quyết theo tòa án nước bị đơn. Bên cạnh đó
thẩm quyền còn được quy định trong các hiệp định tương trợ tư pháp giữa các
quốc gia về giải quyết tranh chấp trong thương mại. Trong tình huống của nhóm
có thể thấy Tòa án nước bị đơn là nơi có thẩm quyền giải quyết tranh chấp nếu
hai bên không có thỏa thuận khác về việc xác định tòa án giải quyết tranh chấp.
4. Yêu cầu 4
Các quan hệ hợp đồng có tính chất quốc tế (còn gọi là hợp đồng có yếu tố
nước ngoài) là loại quan hệ khá phức tạp do liên quan đến nhiều bên ở các nước
khác nhau. Khác với các hợp đồng nội địa (chỉ chịu sự điều chỉnh của một hệ
thống pháp luật trong nước), các hợp đồng có tính chất quốc tế có thể được điều
chỉnh bởi hai hoặc nhiều hệ thống pháp luật khác nhau, không chỉ bao gồm hệ
thống pháp luật quốc gia mà cả hệ thống pháp luật quốc tế). Do vậy, trong thực
tiễn giải quyết tranh chấp đối với trường hợp các bên không thỏa thuận áp dụng,
Tòa án và trọng tài có thể áp dụng nhiều phương pháp khác nhau để xác định
pháp luật áp dụng cho vụ tranh chấp như: dựa trên nguyên tắc chung của Tư
pháp quốc tế, áp dụng luật nơi có mối quan hệ pháp lý gắn bó nhất đối với vụ
tranh chấp, áp dụng tập quán thương mại…
Đối với tình huống trên, do giữa Việt Nam và Anh không là thành viên
của điều ước quốc tế nào về thương mại quốc tế đồng thời giữa hai bên cũng
không ký kết các hiệp định về giải quyết các tranh chấp thương mại quốc tế,
không có tập quán thương mại quốc tế chung để áp dụng... Nên việc xác định
pháp luật áp dụng trong tình huống này có thể được xác định dựa trên các
nguyên tắc chung của Tư pháp quốc tế. Cụ thể, có thể xác định pháp luật áp
dụng dựa trên hệ thuộc luật nơi thực hiện hành vi (Lex loci actus) nghĩa là hệ
thống pháp luật của nước nơi hành vi được thực hiện. Vì hành vi có nhiều loại
nên hệ thuộc luật này cũng có nhiều dạng khác nhau đó là:
-
Hệ thuộc luật nơi thực hiện hợp đồng (Lex regit actum) là hệ thống
pháp luật của nước nơi hợp đồng được thực hiện;
-
Hệ thuộc luật nơi thực hiện nghĩa vụ (Lex loci solutionis) là hệ
thống pháp luật của nước nơi nghĩa vụ được thực hiện2;
….
Do hai bên BINBOP (Việt Nam) và NANA (Anh) ký kết hợp đồng mua
bán mặt hàng bình gốm sứ Bát Tràng theo điều kiện CIF và thanh toán bằng TT
(phương thức thanh toán sau). Với điều kiện CIF (cảng đến quy định), người bán
phải ký hợp đồng vận chuyển hàng hóa từ địa điểm giao hàng đã thỏa thuận (nếu
có), tại nơi giao hàng đến cảng đến chỉ định hoặc tới bất kỳ địa điểm nào tại
cảng đến và người mua phải nhận hàng từ người chuyên chở tại nơi đó, như vậy
nơi thực hiện hợp đồng trong tình huống trên là nơi người mua nhận được hàngcảng đến mà hai bên đã chỉ định. Trong tình huống trên do không ghi rõ nơi
nhận hàng của hai bên là nơi nào nên theo điều kiện CIF coi nơi nhận hàng của
bên mua (Nana) là cảng đến do hai bên đã chỉ định tại nước Anh. Mặt khác,
2 Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Tư pháp quốc tế, Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội, 2017, Tr.74
phương thức thanh toán của hai bên là theo phương thức thanh toán TT
(Telegraphic Transfer -–chuyển tiền bằng điện) có hình thức: Ngân hàng của
người mua sẽ điện ra lệnh cho ngân hàng đại lý của mình ở nước ngoài thanh
toán tiền cho người bán. Trong tình huống này bên NANA (Anh) sẽ thực hiện
việc thanh toán cho bên bán là BINBOP (Việt Nam) tại ngân hàng ở Anh, sau
đó ngân hàng này mới điện ra lệnh cho chi nhánh của họ ở Việt Nam thanh toán
tiền hàng cho BINBOP. Vì vậy, có thể xác định rằng nơi thực hiện nghĩa vụ
thanh toán trong trường hợp này là tại nước Anh.
Như vậy, dựa trên hệ thuộc luật nơi thực hiện hợp đồng và hệ thuộc luật
nơi thực hiện nghĩa vụ có thể xác định pháp luật áp dụng trong trường hợp này
là pháp luật của nước Anh.
KẾT LUẬN
Qua việc tìm hiểu và giải quyết tình huống trên, có thể thấy quá trình giao
lưu kinh tế quốc tế là rất phức tạp. Để giải quyết vấn đề này, các bên nên đưa ra
cơ chế cụ thể khi tham gia vào các quan hệ. để tạo thuận lợi cho việc giải quyết
các vấn đề khi có tranh chấp. Đặc biệt là đối với các hợp đồng mua bán hàng
hóa quốc tế, ngoài nội dung chính quy định quyền và nghĩa vụ của các bên, cần
có điều khoản quy định cụ thể về pháp luật áp dụng khi có tranh chấp xảy ra.
Điều này không chỉ tạo thuận lợi cho việc giải quyết tranh chấp giữa các thương
nhân mà còn tránh những bất đồng giữa các quốc gia, góp phần giữ gìn tình
đoàn kết hữu nghị trong tinh thần hợp tác quốc tế.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật thương mại quốc tế, Nhà
xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội, 2013;
2. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Tư pháp quốc tế, Nhà xuất
bản Tư pháp, Hà Nội, 2017;
3. Các nguyên tắc của ICC về sử dụng các điều kiện thương mại quốc tế
và nội địa - Incoterm 2010;
4. />