ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
ĐỖ THU HUYỀN
PHÁP LUẬT VỀ THU HỒI TÀI SẢN
THAM NHŨNG Ở VIỆT NAM
LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2018
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
ĐỖ THU HUYỀN
PHÁP LUẬT VỀ THU HỒI TÀI SẢN
THAM NHŨNG Ở VIỆT NAM
LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Lý luận và Lịch sử Nhà nƣớc và Pháp luật
Mã số: 9380101.01
Nghiên cứu sinh: Đỗ Thu Huyền
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS Vũ Công Giao
HÀ NỘI - 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan, luận án là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả nghiên cứu được nêu trong luận án là trung thực và đã được trích dẫn đầy đủ
theo quy định.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
Đỗ Thu Huyền
LỜI CẢM ƠN
Với lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc, tôi xin bày tỏ lời cảm ơn chân thành
nhất tới PGS.TS Vũ Công Giao, người Thầy tâm huyết đã tận tình chỉ bảo và
đồng hành với tôi trong suốt chặng đường nghiên cứu, đã dành thời gian quý báu
của mình để định hướng, giúp đỡ, động viên và luôn tạo tất cả những điều kiện
có thể để tôi hoàn thành luận án này.
Tôi cũng xin trân trọng cảm ơn các Thầy, Cô giáo khác của Khoa Luật, Đại
học Quốc gia Hà Nội đã luôn sẵn lòng cho tôi những lời khuyên quý báu trong
suốt quá trình nghiên cứu.
Tôi cũng xin trân trọng cảm ơn Ban Chủ nhiệm Khoa Luật, Phòng Đào tạo
và Công tác học sinh, sinh viên, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội đã luôn
chủ động giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt thời gian nghiên
cứu, học tập tại đây.
Cuối cùng, tôi trân trọng cảm ơn lãnh đạo nơi công tác, các đồng nghiệp và
đặc biệt là Gia đình đã luôn ở bên cạnh và là nguồn cổ vũ tinh thần quý giá để tôi
có thể duy trì quyết tâm, nghị lực trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thành
luận án này./.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
Đỗ Thu Huyền
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
5
CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ 12
SỞ LÝ THUYẾT CỦA LUẬN ÁN
1.1 Tổng quan tình hình nghiên cứu trong, ngoài nƣớc liên quan 12
đến đề tài luận án
1.2 Cơ sở lý thuyết của luận án
37
CHƢƠNG 2. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ 41
THU HỒI TÀI SẢN THAM NHŨNG
2.1 Khái niệm, triết lý và các hình thức thu hồi tài sản tham nhũng
41
2.2 Khái niệm, đặc điểm và vai trò của pháp luật về thu hồi tài sản 51
tham nhũng
2.3 Nội dung của pháp luật về thu hồi tài sản tham nhũng và các 56
tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện của pháp luật về thu hồi tài
sản tham nhũng
2.4 Những yếu tố tác động đến việc thực hiện và hoàn thiện pháp 65
luật về thu hồi tài sản tham nhũng
2.5 Pháp luật quốc tế và pháp luật của một số quốc gia về thu hồi 70
tài sản tham nhũng và những giá trị tham khảo cho Việt Nam
CHƢƠNG 3. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN VÀ THỰC 87
TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ THU HỒI TÀI SẢN THAM NHŨNG Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1 Lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật về thu hồi tài 87
sản tham nhũng ở Việt Nam
3.2 Thực trạng pháp luật và việc thực hiện pháp luật về thu hồi tài 91
sản tham nhũng ở Việt Nam hiện nay
3.3 Đánh giá chung về thực trạng pháp luật hiện hành về thu hồi 116
tài sản tham nhũng ở Việt Nam
1
CHƢƠNG 4. QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP 125
LUẬT VỀ THU HỒI TÀI SẢN THAM NHŨNG Ở VIỆT NAM
4.1 Quan điểm hoàn thiện pháp luật về thu hồi tài sản tham nhũng 125
ở Việt Nam
4.2 Giải pháp hoàn thiện pháp luật về thu hồi tài sản tham nhũng ở 129
Việt Nam
151
KẾT LUẬN
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ CÓ 155
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
156
2
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Bộ luật Dân sự
Bộ luật Hình sự
Bộ luật Tố tụng dân sự
Bộ luật Tố tụng Hình sự
Cán bộ, công chức
Lực lượng đặc nhiệm tài chính về chống rửa tiền
(Financial Action Task Force)
HĐND
Hội đồng nhân dân
ICAR
Trung tâm quốc tế về thu hồi tài sản
(International Centrel for Asset Recovery)
NCB
Thu hồi tài sản không dựa trên phán quyết của toà án
(Non-conviction based forfeiture)
OECD
Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế
(Organization for Economic Cooperation and Development)
PCTN
Phòng, chống tham nhũng
StAR
Sáng kiến thu hồi tài sản bị đánh cắp (Stolen Asset Recovery
Initiative)
TANDTC
Toà án Nhân dân Tối cao
TNCN
Thu nhập cá nhân
THTS
Thu hồi tài sản
THTSTN
Thu hồi tài sản tham nhũng
TSTN
Tài sản tham nhũng
UBND
Uỷ ban nhân dân
UNCAC
Công ước Liên hợp quốc về chống tham nhũng
(United Nations Convention Against Corruption)
UNODC
Cơ quan Liên hợp quốc về chống buôn bán ma tuý và tội
phạm
(United Nations Office Against Drugs and Crimes)
VKSNDTC Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao
WB
Ngân hàng Thế giới (World Bank)
XHCN
Xã hội chủ nghĩa
BLDS
BLHS
BLTTDS
BLTTHS
CBCC
FATF
3
DANH MỤC BẢNG, BIỂU ĐỒ
Biểu 1
Các đối tượng phải kê khai, công khai tài sản, thu nhập (phân theo
nhóm quốc gia có thu nhập khác nhau..............................................82
Biểu 2
Tần xuất kê khai, công khai tài sản, thu nhập...................................83
Biểu 3
Quy định về các chế tài áp dụng với hành vi không kê khai tài sản,
thu nhập (phân theo nhóm nước cùng mức thu nhập).......................84
Biểu 4
Tỷ lệ người có thu nhập ngoài lương và các khoản phụ cấp theo
lương................................................................................................122
4
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Kể từ đầu thế kỷ 20, xu hướng toàn cầu hoá mạnh mẽ cùng tiến trình xóa bỏ
các rào cản ngăn cách trong hoạt động kinh tế của các quốc gia, sự bùng nổ thương
mại quốc tế với các giao dịch xuyên quốc gia đã tạo ra sự tăng trưởng vượt bậc của
nhiều nền kinh tế trên thế giới. Tuy nhiên, mặt trái của một “thế giới phẳng” cũng
đem lại nhiều hệ lụy, trong đó phải kể đến hiện tượng tham nhũng xuyên biên giới.
Các rào cản thương mại được xóa bỏ vô hình trung đã tạo cơ hội cho các quan chức
tham nhũng nhanh chóng tẩu tán những tài sản bất hợp pháp ra nước ngoài để tẩy
rửa, khiến cho công tác phòng, chống tham nhũng (sau đây viết tắt là PCTN) nói
chung, việc thu hồi những tài sản do tham nhũng mà có (sau đây viết tắt là tài sản
tham nhũng - TSTN) nói riêng, trở thành những thách thức lớn đối với nhiều quốc
gia, đặc biệt là những nước đang phát triển.
Tham nhũng có thể diễn ra dưới nhiều hình thức, song về bản chất đều là việc
những người có quyền lực hoặc thẩm quyền đã lạm dụng quyền lực hoặc thẩm
quyền đó để thu vén lợi ích, vơ vét tài sản công hoặc của người khác cho bản thân,
gia đình hoặc một nhóm thiểu số nhất định mà không quan tâm đến lợi ích quốc gia,
dân tộc và sự phát triển của xã hội. Theo thống kê của Ngân hàng Thế giới và Liên
Hợp Quốc, hằng năm, nạn tham nhũng lấy đi của mỗi quốc gia đang phát triển từ
20-40 tỷ đô-la [136,18]; riêng các nước Châu Phi mất 150 tỷ đô-la/năm, tương
đương 25% GDP vì tham nhũng [134, 9]. Nghiên cứu của Tổ chức Minh bạch Quốc
tế năm 2005 cũng cho biết, chỉ riêng 10 quan chức cấp cao tham nhũng nhất thế
giới đã ăn cắp khoảng 25-60 tỷ đô-la của đất nước họ [117,14]. Tuy nhiên, cần thấy
rằng, thiệt hại của tham nhũng không chỉ nằm trong giá trị của khối tài sản bị thất
thoát mà còn thể hiện ở sự xuống cấp của các thể chế, sự suy giảm nghiêm trọng
tính minh bạch và trách nhiệm giải trình của nhà nước, sự sụt giảm niềm tin của các
nhà đầu tư và nguy hại hơn cả, tham nhũng còn tước đoạt những quyền con người
cơ bản nhất của những người dân nghèo, những đối tượng dễ bị tổn thương
trong xã hội.
5
Thu hồi tài sản tham nhũng (sau đây viết tắt là THTSTN) là cách khắc phục
thiết thực nhất những hậu quả của tham nhũng, đặc biệt là hậu quả về vật chất. Theo
thống kê của Ngân hàng Thế giới, chỉ cần thu hồi được 1% số tiền tham nhũng trên
thế giới cũng đủ để tiêm chủng cho 04 triệu trẻ em hay cung cấp nước sạch cho nửa
triệu người nghèo dùng trong một năm, hoặc chữa chạy cho 1,2 triệu người nhiễm
HIV [134,11]. Bên cạnh đó, THTSTN không chỉ giúp trả lại nguồn lực cho nhà
nước để phục vụ các dịch vụ công cơ bản mà còn là kết quả của những nỗ lực cải
cách thể chế, khuôn khổ pháp lý, năng lực thực thi pháp luật, đảm bảo công lý ở
mỗi quốc gia [134, 8].
Kinh nghiệm trên thế giới cho thấy, việc chú trọng THTSTN là cách tiếp cận
phù hợp và hiệu quả trong PCTN, vì nó giúp triệt tiêu động cơ và động lực tham
nhũng, đó là thu lợi bất chính. Chính vì vậy, ở cấp độ quốc tế, THTSTN đã được
quy định trong một chương riêng (Chương V) của Công ước Liên hợp quốc về
chống tham nhũng (tên viết tắt tiếng Anh là UNCAC), trong đó nêu rõ: “Việc thu
hồi tài sản [tham nhũng] là nguyên tắc căn bản của Công ước này, và các quốc gia
thành viên sẽ dành cho nhau sự hợp tác và trợ giúp tối đa trong vấn đề này”
(Điều 51).
Ở Việt Nam, vấn đề THTSTN là một trong những biện pháp chống tham
nhũng đã được Đảng và Nhà nước ta quan tâm từ cách đây hơn 20 năm, tại Quyết
định số 240/HĐBT ngày 26/6/1990 của Hội đồng Bộ trưởng về đấu tranh chống
tham nhũng và Chỉ thị số 416/CT ngày 3/12/1990 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng
về việc tăng cường công tác thanh tra, điều tra, xử lý các việc tham nhũng và buôn
lậu. Vấn đề này sau đó tiếp tục được tái quy định trong Pháp lệnh chống tham
nhũng 1998, Luật PCTN năm 2005 (và những lần sửa đổi, bổ sung sau đó vào năm
2010, 2012) và Chiến lược quốc gia PCTN đến năm 2020 của Chính phủ. Tuy
nhiên, các quy định về THTSTN ở nước ta hiện mới chỉ mang tính nguyên tắc và
chưa được chú trọng áp dụng trong thực tế. Ở khía cạnh pháp luật về nội dung,
ngoài một số ít quy phạm trực tiếp đề cập đến thu hồi TSTN trong Bộ luật Hình sự
và Luật Phòng, chống tham nhũng, các quy phạm pháp luật về THTSTN ở Việt
6
Nam hiện nằm tản mạn, rải rác và chủ yếu được quy định gián tiếp trong các văn
bản pháp luật khác nhau như Bộ luật Dân sự, Luật Thanh tra, Luật các tổ chức tín
dụng, Luật phòng, chống rửa tiền, Luật Kiểm toán Nhà nước. Ở khía cạnh pháp luật
về tố tụng, THTSTN được đề cập gián tiếp trong Bộ luật Tố tụng Hình sự, Luật Thi
hành án dân sự và Luật Tương trợ tư pháp. Theo Báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện
Luật Phòng, chống tham nhũng của Thanh tra Chính phủ, hiệu quả THTSTN từ
trước tới nay rất thấp. Cụ thể, trong giai đoạn 2005-2015, thiệt hại do các vụ án
tham nhũng gây ra được phát hiện là 59.759 tỷ đồng và trên 400 ha đất, trong khi
đó, số tiền đã thu hồi cho nhà nước là 4.676,6 tỷ đồng và trên 219 ha đất, tương
đương tỷ lệ THTSTN chưa đến 10% [47].
Tình trạng trên do nhiều nguyên nhân, trong đó trước tiên là nhận thức chưa
thực sự đầy đủ về tầm quan trọng của THTSTN, dẫn đến sự thiếu vắng một khuôn
khổ pháp lý toàn diện và hiệu quả cho vấn đề này. Điều đó đòi hỏi cần có những
nghiên cứu chuyên sâu để hoàn thiện pháp luật về THTSTN ở Việt Nam.
Nhận thức được thực trạng, tính chất cấp thiết của vấn đề trên, tác giả đã chọn
đề tài: “Pháp luật về thu hồi tài sản tham nhũng ở Việt Nam” để thực hiện luận án
tiến sĩ của mình.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận án là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực
tiễn, từ đó đề xuất các quan điểm, giải pháp hoàn thiện pháp luật về THTSTN ở
Việt Nam, đáp ứng yêu cầu của công cuộc PCTN hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu nêu trên, luận án cần giải quyết các nhiệm
vụ sau:
- Nghiên cứu và đánh giá các công trình khoa học có liên quan đến đề tài luận
án, xác định những vấn đề mà luận án có thể kế thừa và chỉ ra những vấn đề mà
luận án cần tiếp tục giải quyết.
7
- Xây dựng và phân tích những vấn đề lý luận nền tảng của đề tài, bao gồm
khái niệm, đặc điểm, nội dung, các tiêu chí đánh giá, các yếu tố tác động và kinh
nghiệm quốc tế mà Việt Nam có thể tham khảo để hoàn thiện pháp luật về
THTSTN.
- Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về THTSTN ở Việt Nam từ khi
giành độc lập (1945) đến nay, đặc biệt là khuôn khổ pháp luật hiện hành về vấn đề
này, chỉ ra những ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân.
- Dựa trên các vấn đề lý luận và thực tiễn đã được làm rõ để xác định các quan
điểm định hướng và đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật về THTSTN ở Việt
Nam trong thời gian tới.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là cơ sở lý luận, thực tiễn của pháp luật
về thu hồi tài sản tham nhũng ở Việt Nam.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian, luận án tập trung nghiên cứu khuôn khổ pháp luật của Việt
Nam về THTSTN; tuy nhiên, do đây là vấn đề mới nên luận án dành một chương
riêng để khảo sát những vấn đề lý luận, pháp luật và kinh nghiệm quốc tế để từ đó
phân tích, so sánh, tìm ra những giá trị hợp lý, các phương hướng, giải pháp hoàn
thiện khuôn khổ pháp luật hiện hành của Việt Nam về THTSTN.
- Về thời gian, luận án nghiên cứu khuôn khổ pháp luật về THTSTN kể từ khi
Việt Nam giành độc lập (năm 1945), nhưng để bảo đảm giá trị tham khảo thực tiễn,
luận án tập trung vào giai đoạn từ khi Việt Nam ban hành Luật PCTN (năm 2005)
cho đến nay. Đây cũng là giai đoạn mà vấn đề THTSTN bắt đầu được quy định đầy
đủ và cụ thể hơn trong pháp luật Việt Nam.
- Về nội dung, do thu hồi tài sản tham nhũng là một vấn đề có tính chất rộng
lớn và phức tạp, đặc biệt khi có liên quan đến yếu tố nước ngoài vì đòi hỏi quá trình
hợp tác quốc tế, tương trợ tư pháp giữa các quốc gia vốn là một thách thức ngay cả
đối với những nước đã phát triển có hệ thống pháp luật hoàn thiện; trong khi đó các
8
cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam chưa có các số liệu thống kê về các vụ án có
liên quan đến THTSTN có yếu tố nước ngoài để làm cơ sở nghiên cứu. Vì vậy, để
đảm bảo tính khả thi của kết quả nghiên cứu, luận án chỉ tập trung nghiên cứu sâu
khuôn khổ pháp luật về THTSTN không có yếu tố nước ngoài của Việt Nam - cụ
thể là việc thu hồi những tài sản do tham nhũng mà có nhưng chưa được tẩu tán ra
khỏi lãnh thổ Việt Nam. Mặc dù vậy, những vấn đề lý luận chung về THTSTN
được phân tích trong luận án này cũng có liên quan và sẽ là tài liệu tham khảo hữu
ích cho việc thực hiện các công trình nghiên cứu khác về THTSTN có yếu tố nước
ngoài (nghĩa là thu hồi những tài sản của Việt Nam đã bị tẩy rửa, tẩu tán ra khỏi
lãnh thổ và việc Việt Nam hỗ trợ các quốc gia khác thu hồi những tài sản của nước
ngoài do tham nhũng mà có đã được tẩy rửa và tẩu tán ở Việt Nam).
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1 Cơ sở lý luận
Luận án được thực hiện trên cơ sở phương pháp duy vật biện chứng của chủ
nghĩa Mác-Lênin. Bên cạnh đó, luận án dựa trên nền tảng của Lý thuyết về sự lựa
chọn duy lý, một trong ba nội dung chính của Thuyết Cơ hội phạm tội - một học
thuyết được giới học giả thế giới đánh giá là đã có ảnh hưởng sâu sắc làm thay đổi
tư duy pháp lý về phòng, chống tội phạm nói chung và tội phạm tham nhũng nói
riêng [78,14].
4.2. Phƣơng pháp nghiên cứu
Việc thực hiện luận án chủ yếu sử dụng các phương pháp nghiên cứu phổ biến
của khoa học xã hội như tổng hợp, thống kê, so sánh, phân tích những nguồn tài
liệu thứ cấp (desk study), bao gồm các văn bản pháp luật, báo cáo, công trình
nghiên cứu trong và ngoài nước đã được công bố có liên quan đến đề tài.
Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong luận án này như sau:
- Những phương pháp tổng hợp, thống kê, phân tích và so sánh được sử dụng
để đánh giá tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài và cơ sở lý thuyết
của luận án tại Chương 1 và và phân tích làm rõ những vấn đề lý luận về pháp luật
về THTSTN tại Chương 2, bao gồm khái niệm, triết lý và các hình thức thu hồi tài
9
sản tham nhũng; khái niệm, đặc điểm và vai trò của pháp luật về THTSTN; nội
dung của pháp luật về THTSTN và các tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện pháp
luật về THSTTN; những yếu tố tác động đến việc thực hiện pháp luật về THTSTN
và pháp luật quốc tế và pháp luật của một số quốc gia về THTSTN.
- Phương pháp tổng hợp, thống kê, phân tích và so sánh được sử dụng để làm
rõ quá trình hình thành, phát triển của pháp luật về THTSTN; đánh giá thực trạng
và đề xuất các quan điểm, giải pháp hoàn thiện pháp luật về THTSTN của Việt
Nam ở Chương 3 và 4.
5. Những điểm mới của Luận án
Đây là công trình đầu tiên ở cấp độ luận án tiến sĩ luật học nghiên cứu một cách
toàn diện, hệ thống và chuyên sâu về một vấn đề còn nhiều nội dung bất cập và chưa
hoàn thiện cả về lý luận và thực tiễn ở Việt Nam, đó là pháp luật về THTSTN. Vì
vậy, luận án có nhiều điểm mới, thể hiện cụ thể ở việc lần đầu tiên làm rõ các vấn
đề sau:
Một là, khái quát hóa các lý thuyết, khuôn khổ pháp luật quốc tế và kinh
nghiệm về THTSTN của một số quốc gia trên thế giới và chỉ ra những giá trị mà Việt
Nam có thể tham khảo, áp dụng trong vấn đề này.
Hai là, phân tích quá trình hình thành và phát triển của pháp luật về THTSTN ở
Việt Nam qua các giai đoạn; phân tích toàn diện khuôn khổ pháp luật hiện hành về
THTSTN của Việt Nam, chỉ ra những bất cập, hạn chế với thực tế trong nước, quốc
tế và nguyên nhân của những bất cập, hạn chế đó.
Ba là, trình bày các quan điểm và đề xuất những giải pháp hoàn thiện khuôn
khổ pháp luật hiện hành về THTSTN của Việt Nam gắn với việc thay đổi nhận thức
chiến lược trong PCTN, đó là xem THTSTN là biện pháp then chốt.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án
Ý nghĩa khoa học của luận án được thể hiện ở các khía cạnh sau:
- Phân tích và khái quát hoá cơ sở lý luận, đặc biệt là nền tảng triết lý của pháp
luật về THTSTN trên thế giới và ở Việt Nam.
10
- Hệ thống hoá khuôn khổ pháp luật quốc tế cùng những thực tiễn tốt về
THTSTN không chỉ ở những quốc gia có đặc thù kinh tế, chính trị và văn hoá có
nhiều nét tương đồng với Việt Nam mà còn ở những nước có hệ thống pháp luật khác
biệt nhưng có giá trị tham khảo cho Việt Nam; xác định các tiêu chí cần có của hệ
thống pháp luật về THTSTN.
- Kiến giải nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế trong pháp luật và thực hiện
pháp luật về THTSTN ở Việt Nam thông qua những phân tích, so sánh về nhận thức
lý luận và pháp luật thực định của Việt Nam với nhận thức và pháp luật quốc tế, pháp
luật của những quốc gia khác về THTSTN.
- Đề xuất một cách tiếp cận mới mang tính chiến lược cùng một hệ thống giải
pháp cụ thể để hoàn thiện khuôn khổ pháp luật, qua đó nâng cao hiệu quả THTSTN ở
Việt Nam.
Ý nghĩa thực tiễn của luận án là thông qua việc chỉ ra những bất cập, hạn chế
cả về nhận thức lý luận và pháp luật thực định của Việt Nam về THTSTN để cung
cấp cơ sở khoa học cho các cơ quan nhà nước trong việc hoàn thiện pháp luật về
THTSTN phù hợp với xu hướng phổ biến trên thế giới và điều kiện thực tiễn của
nước ta. Bên cạnh đó, luận án còn là nguồn tài liệu tham khảo hữu ích cho việc giảng
dạy, nghiên cứu về PCTN nói chung, THTSTN nói riêng ở Việt Nam.
7. Bố cục của luận án
Luận án bao gồm phần Mở đầu, Kết luận và 04 chương:
Chƣơng 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lý thuyết của luận án.
Chƣơng 2: Những vấn đề lý luận về pháp luật về thu hồi tài sản tham nhũng.
Chƣơng 3: Lịch sử hình thành, phát triển và thực trạng pháp luật về thu hồi tài
sản tham nhũng ở Việt Nam hiện nay.
Chƣơng 4: Quan điểm, giải pháp hoàn thiện pháp luật về thu hồi tài sản tham
nhũng ở Việt Nam.
11
CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
VÀ CƠ SỞ LÝ THUYẾT CỦA LUẬN ÁN
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu trong, ngoài nƣớc liên quan đến đề
tài luận án
1.1.1 Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam
Như đã đề cập, THTSTN ở Việt Nam hiện vẫn là một vấn đề mới, chưa thu
hút nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu trong nước. Điều đó thể hiện ở việc
cho đến nay vẫn chưa có một công trình nghiên cứu nào ở các cấp độ thạc sĩ và tiến
sĩ luật học đề cập một cách toàn diện và chuyên sâu đến pháp luật về THTSTN ở
Việt Nam. Mặc dù đã có một số đề tài và bài viết về vấn đề này song số lượng còn ít
và mức độ chuyên sâu còn hạn chế, có thể khái quát thành các nhóm như sau:
1.1.1.1. Nhóm những bài viết, công trình nghiên cứu đề cập trực diện đến
vấn đề thu hồi tài sản tham nhũng
Bài viết Chế định thu hồi tài sản tham nhũng trong Công ước Liên hợp quốc
về chống tham nhũng và khả năng đáp ứng của Việt Nam [73,42] của TS. Nguyễn
Quốc Văn (Thanh tra Chính phủ): Trong khuôn khổ một bài viết gồm 06 trang trên
tạp chí khoa học, tác giả đã khái quát nội dung cơ bản của chế định THTSTN trong
UNCAC (Chương V); đánh giá mức độ tương thích của pháp luật Việt Nam với chế
định này của Công ước; kiến nghị không nên đặt vấn đề bảo lưu chế định THTSTN
khi Việt Nam phê chuẩn Công ước và dự báo những khó khăn của Việt Nam trong
việc thực hiện chế định THTSTN sau khi phê chuẩn Công ước. Tuy nhiên, do bài
viết được thực hiện trước khi Việt Nam phê chuẩn UNCAC (30/6/2009), nên so với
thời điểm hiện tại, khuôn khổ pháp luật của Việt Nam về THTSTN đã có nhiều thay
đổi, ví dụ như việc ban hành Luật Phòng, chống rửa tiền năm 2012; Luật PCTN
2005 được sửa đổi, bổ sung năm 2012; Nghị định quy định trách nhiệm giải trình
của cơ quan nhà nước trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao của
Chính phủ năm 2013; Nghị định về minh bạch tài sản, thu nhập của Chính phủ năm
12
2013… Vì vậy, những thông tin về thực trạng THTSTN, những bất cập cùng một số
đề xuất được nêu trong bài viết không còn phù hợp với thực tiễn.
Bài viết về Thu hồi tài sản dân sự trong pháp luật các nước và yêu cầu của
thực tiễn nước ta [39,10] của tác giả Đinh Trương Anh Phương (Đại học Luật Tp.
Hồ Chí Minh): Bài viết gồm 4 trang, tập trung đề cập đến một trong những biện
pháp THTSTN được nhiều quốc gia phát triển áp dụng thành công, đó là THTSTN
không dựa trên phán quyết hình sự của toà án. Bài viết nêu ra khái niệm, phân tích
đặc điểm cơ bản của THTSTN không dựa trên kết án, nhấn mạnh những ưu điểm
nổi bật của biện pháp này so với biện pháp THTSTN bằng biện pháp hình sự. Tác
giả cũng đã viện dẫn một số vụ án THTSTN ở Mỹ để chứng minh cho những luận
điểm chính được nêu trong bài viết. Khẳng định việc ban hành các quy định về
THTSTN không dựa trên kết án là thực sự cần thiết, tác giả khuyến nghị cần áp
dụng biện pháp này trong THTSTN ở Việt Nam.
Giáo trình Lý luận và Pháp luật về phòng, chống tham nhũng [9] của Khoa
Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội được biên soạn bởi các giáo sư, giảng viên và cộng
tác viên Bộ môn Luật Hành chính - Luật Hiến pháp của Khoa Luật (GS. Nguyễn
Đăng Dung, GS. Phạm Hồng Thái, PGS.TS Chu Hồng Thanh, PGS. TS Vũ Công
Giao đồng chủ biên). Là giáo trình đầu tiên của Việt Nam về lý luận và pháp luật về
PCTN, với một chương riêng về THTSTN (Chương X), trên cơ sở bám sát các các
yêu cầu của UNCAC, giáo trình đã chỉ ra các nguyên tắc và yêu cầu chung đối với
công tác THTSTN; nêu khái quát các biện pháp THTSTN và các quy định của pháp
luật Việt Nam về vấn đề này, từ đó nêu ra những phương hướng hoàn thiện. Tuy
nhiên, vấn đề THTSTN trong giáo trình mới chỉ được các tác giả đề cập ở mức độ
khái quát, chưa phân tích sâu về từng biện pháp, chưa đề cập đến thực trạng, chưa
nêu ra những bất cập, hạn chế và nguyên nhân.
Kỷ yếu hội thảo khoa học về Thu hồi tài sản tham nhũng: Thực trạng và giải
pháp [3] là tài liệu bao gồm 07 tham luận của đại diện các cơ quan: Ban Nội chính
Trung ương (02 tham luận: Cơ sở chính trị, pháp lý trong hoạt động THTSTN ở Việt
Nam; Kinh nghiệm quốc tế về THTSTN có yếu tố nước ngoài); Thanh tra Chính phủ
13
(Tham luận về Thực trạng phát hiện, xác định và THTSTN qua công tác thanh tra
của ngành thanh tra), Bộ Công an (Tham luận về Thực trạng và giải pháp về phát
hiện, xác định và THTSTN qua công tác điều tra của lực lượng công an), Bộ Tư
pháp (Tham luận về Thực trạng và giải pháp về phát hiện, xác định và THTSTN
qua công tác thi hành án của ngành tư pháp), VKSNDTC (Tham luận về Thực
trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả việc phát hiện, xác định và THTSTN qua
công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra, xét xử án tham nhũng);
Nguyên Chánh toà Hình sự TANDTC TS. Đinh Văn Quế (Tham luận về THTSTN:
Thực trạng và giải pháp). Nhìn chung, các tham luận đã cung cấp nhiều thông tin,
số liệu chính thống được cập nhật cùng việc trình bày sơ bộ các quan điểm, nhận
định về thực trạng THTSTN dưới góc độ ngành (sectoral-based approach); bước
đầu chỉ ra nguyên nhân của những bất cập, hạn chế trong THTSTN và đề xuất một
số giải pháp khắc phục. Tuy nhiên, do các tham luận đều được xây dựng dựa trên
phương pháp tiếp cận dựa theo ngành nên kỷ yếu hội thảo chưa cung cấp được cái
nhìn tổng quan mang tính hệ thống về thực trạng THTSTN ở Việt Nam cũng như
đưa ra những giải pháp cụ thể, toàn diện để hoàn thiện pháp luật hiện hành về vấn
đề này.
Báo cáo nghiên cứu về Thu hồi tài sản tham nhũng: Thực tiễn Việt Nam và
kinh nghiệm quốc tế của Ban Nội chính Trung ương [4] với sự hỗ trợ của Chính phủ
Úc (năm 2016) nêu những khái niệm và cung cấp nhiều thông tin, dữ liệu pháp luật
và thực thi pháp luật của các cơ quan có thẩm quyền trong THTSTN như cơ quan
thanh tra, điều tra, kiểm sát, tòa án và thi hành án ở Việt Nam trong những năm gần
đây. Nhìn chung, nghiên cứu này đã bước đầu phản ánh được nhận thức của các
CBCC làm việc trong các cơ quan có liên quan đến THTSTN; và trong một chừng
mực nhất định đã phác hoạ những khó khăn, thách thức của công tác này hiện nay;
từ đó đề xuất được một số giải pháp để nâng cao năng lực, nhận thức, hoàn thiện thể
chế, xây dựng bộ máy để nâng cao hiệu quả THTSTN. Tuy nhiên, báo cáo này mới
chỉ dừng lại ở mức tạo cơ hội thảo luận cho chuyên gia các bộ, ngành và chuyên gia
tư vấn độc lập về một vấn đề còn rất mới nên chưa đưa ra những thông điệp lập
14
pháp rõ ràng, cụ thể phù hợp với bối cảnh Việt Nam. Quá trình xây dựng và hoàn
thiện báo cáo này cũng gặp phải nhiều quan điểm trái chiều và chưa thống nhất
ngay trong đội ngũ chuyên gia trực tiếp thực hiện nghiên cứu và các chuyên gia
phản biện về những khái niệm rất cơ bản về THTSTN.
Báo cáo tổng hợp kết quả nghiên cứu đề tài về Phát hiện và thu hồi tiền và tài
sản do tham nhũng mà có - Thực trạng và Giải pháp của Uỷ ban Kiểm tra Trung
ương (2017) [71]. Báo cáo khẳng định tầm quan trọng và xác định THTSTN hiện
là khâu yếu nhất và khó nhất trong công tác PCTN ở Việt Nam. So với báo cáo năm
2016 về THTSTN của Ban Nội chính, báo cáo này tập trung nhấn mạnh hơn vai trò
của Đảng trong công tác THTSTN nói riêng và PCTN nói chung. Báo cáo cho rằng,
việc coi nhẹ sự lãnh đạo của Đảng, coi THTSTN là trách nhiệm của riêng cơ quan
thi hành án hoặc của các cơ quan thực thi pháp luật… là một trong những nguyên
nhân quan trọng khiến công tác này chưa đạt yêu cầu. Báo cáo quy nạp những giải
pháp để cải thiện thực trạng THTSTN thành 02 nhóm, bao gồm: (i) Giải pháp về
phát hiện tiền và tài sản do tham nhũng mà có; (ii) Giải pháp về thu hồi tiền và tài
sản do tham nhũng mà có. Tuy nhiên, ngoài giải pháp nhằm tăng cường sự lãnh
đạo, chỉ đạo của cấp uỷ Đảng đối với vấn đề THTSTN, báo cáo vẫn chưa đưa ra
những giải pháp lập pháp rõ ràng, thấu đáo để trực tiếp khắc phục những hạn chế
trong công tác THTSTN hiện nay.
1.1.1.2. Nhóm những bài viết gián tiếp đề cập đến vấn đề thu hồi tài sản
tham nhũng thông qua việc phân tích một khía cạnh, nội dung quan trọng của
thu hồi tài sản tham nhũng
a. Những bài viết đề cập đến quá trình hình thành, phát triển của chế định
thu hồi tài sản tham nhũng và cơ sở lý luận về vấn đề này ở Việt Nam
Bài viết Hình phạt tịch thu tài sản trong pháp luật hình sự Việt Nam của ThS.
Trịnh Quốc Toản [56,20] trình bày cô đọng sự hình thành và phát triển của hình
phạt tịch thu tài sản do phạm tội mà có trong pháp luật hình sự Việt Nam trong giai
đoạn từ 1945 đến 2006; vai trò, nội dung, phạm vi áp dụng của hình phạt này theo
Bộ luật Hình sự (BLHS) 1999 và tình hình áp dụng hình phạt này của Tòa án Nhân
15
dân (TAND) ở một số địa phương. Tác giả nhận định, thực tiễn áp dụng hình phạt
tịch thu tài sản còn rất hạn chế và đề xuất biện pháp tăng cường hiệu quả của hình
phạt này. Mặc dù bài viết không đề cập đến việc tịch thu tài sản do tham nhũng mà
có nhưng đã cung cấp những thông tin giá trị về quá trình hình thành và phát triển
của chế định THTSTN nói chung và thực tiễn áp dụng chế định này từ khi Việt
Nam giành độc lập đến năm 2006.
Đề tài khoa học cấp bộ về Tham nhũng và phòng, chống tham nhũng trong
khu vực tư của Việt Nam của Viện Khoa học Thanh tra (Thanh tra Chính phủ) năm
2015 [30] do TS. Đinh Văn Minh chủ trì. Đề tài đã xác định các biểu hiện của hành
vi tham nhũng trong khu vực tư trên thực tế bao gồm: (i) nhóm hành vi tham nhũng
nảy sinh trong mối quan hệ giữa khu vực tư và với khu vực công; (ii) nhóm hành vi
tham nhũng nảy sinh trong mối quan hệ giữa các doanh nghiệp, tổ chức thuộc khu
vực tư và (iii) nhóm hành vi tham nhũng nảy sinh trong mối quan hệ giữa nội bộ
doanh nghiệp, tổ chức thuộc khu vực tư. Như vậy, mặc dù không đề cập trực tiếp
đến việc THTSTN nhưng đề tài đã gợi mở phạm vi các TSTN cần phải được xác
định và tịch thu trong khu vực tư - là vấn đề mà hiện còn nhiều tranh luận ở
Việt Nam.
Các bài viết: Chế độ sở hữu ở Việt Nam (PGS.TS Nguyễn Minh Đoan, Đại
học Luật Hà Nội) [16]; Bảo vệ quyền sở hữu bằng phương thức kiện đòi tài sản
trong pháp luật dân sự Việt Nam và pháp luật dân sự của một số nước của tác giả
Nguyễn Minh Tuấn [59]; Luận văn thạc sĩ luật học với đề tài Bảo vệ quyền sở hữu
theo pháp luật dân sự Việt Nam của tác giả Tống Thị Hương [25]; và bài viết Bàn
về nguyên tắc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự của tác giả Nguyễn Ngọc
Chí [6] đã cung cấp những kiến thức, thông tin hữu ích về cơ chế bảo vệ quyền sở hữu
ở Việt Nam, qua đó là cơ sở để tìm hiểu và phân tích các quy định pháp luật cho
phép THTSTN bằng các biện pháp dân sự và nguyên nhân dẫn đến những vướng
mắc trong việc THTSTN theo thủ tục dân sự ở Việt Nam hiện nay.
16
b. Những bài viết về thực trạng thực thi các quy định về thu hồi tài sản
tham nhũng thông qua việc phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án
tham nhũng
Nhóm này bao gồm các bài viết về Hoạt động phát hiện tham nhũng của cơ
quan thanh tra và những vấn đề đặt ra của TS. Đinh Văn Minh (Thanh tra Chính
phủ) [31]; Cơ chế phát hiện tham nhũng ở Việt Nam hiện nay của TS. Nguyễn Quốc
Hiệp (Uỷ ban Kiểm tra trung ương) [22]; Công tác thực hành quyền công tố và
kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKSND trong tình hình mới và một số vấn đề
về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác đấu tranh phòng, chống tội
phạm của TS. Trần Công Phàn (Viện kiểm sát nhân dân tối cao) [36]; Thực trạng
khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với tội phạm tham nhũng của tác giả Lưu Thanh
Hùng (Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, 2017) [23]; Giám định tư pháp trong lĩnh vực
tiền tệ, ngân hàng: Một số kiến nghị, đề xuất của tác giả Nguyễn Văn Lợi, (Tạp chí
Dân chủ và Pháp luật, 2017) [29]; Một số vướng mắc khi áp dụng các biện pháp
cưỡng chế thi hành án dân sự của tác giả Nguyễn Doãn Phương (Tạp chí Nghiên
cứu lập pháp, 2017) [40], Hoàn thiện quy định pháp luật về xác minh điều kiện thi
hành án dân sự của tác giả Hoàng Thu Trang (Cục Thi hành án dân sự Nghệ An)
[58]; Trách nhiệm, quyền hạn của toà án trong thi hành án dân sự của tác giả
Nguyễn Thị Phíp, Cao Thị Kim Trinh (Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, 2015)
[37,15]; Thực trạng công tác giám định tư pháp và giải pháp bảo đảm yêu cầu của
hoạt động tố tụng và hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước của tác giả Nguyễn Thị
Thuỵ [54]. Những bài viết này đã phân tích, làm rõ ở mức độ nhất định kết quả
cùng những thuận lợi, khó khăn trong việc phát hiện, điều tra, truy tố, xét xử và thi
hành án tham nhũng. Mặc dù không đề cập trực tiếp song những kiến thức, thông
tin trong các bài viết kể trên rất hữu ích cho việc làm rõ những vấn đề có liên quan và
là bối cảnh của việc THTSTN ở Việt Nam.
c. Những bài viết có giá trị tham khảo trong việc đề xuất các giải pháp
nhằm hoàn thiện pháp luật về thu hồi tài sản tham nhũng ở Việt Nam
17
Chuyên đề trình bày tại Hội thảo của Văn phòng Quốc hội (2015) về Kiểm
soát các giao dịch có giá trị lớn, hạn chế việc giao dịch bằng tiền mặt nhằm kiểm
soát tài sản, thu nhập của cán bộ, công chức, người có chức vụ, quyền hạn của tác
giả Đoàn Thái Sơn [43] đề cập đến về vai trò của việc kiểm soát giao dịch có giá trị
lớn, giao địch đáng ngờ và hạn chế các giao dịch bằng tiền mặt trong kiểm soát tài
sản, thu nhập của CBCC. Tác giả mô tả tổng quan khuôn khổ pháp luật hiện hành
về những vấn đề này, đề xuất cần hạn chế giao dịch bằng tiền mặt trong nền kinh tế,
góp phần minh bạch hoá tài sản, thu nhập của CBCC nói riêng và của xã hội
nói chung.
Báo cáo nghiên cứu về Kinh nghiệm quốc tế về kiểm soát tài sản, thu nhập của
người có chức vụ, quyền hạn và khả năng áp dụng cho Việt Nam của PGS.TS Vũ
Công Giao (2016) [18] trong khuôn khổ Dự án Quản trị Nhà nước nhằm Tăng
trưởng Toàn diện (USAID GIG). Đây là một công trình nghiên cứu công phu ở cả
khía cạnh lý luận và thực tiễn về vấn đề kê khai, công khai tài sản, thu nhập. Trên
cơ sở khái quát khuôn khổ pháp lý quốc tế về kiểm soát tài sản, thu nhập cũng như
sự hình thành và phát triển của chế định này trên thế giới; phân tích các mô hình
chính về kê khai, công khai tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn, chắt
lọc những kinh nghiệm quốc tế tốt nhất về những vấn đề cụ thể trong cơ chế kê
khai, công khai tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn; khái quát khuôn
khổ pháp luật hiện hành về kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền
hạn ở Việt Nam, tác giả đưa ra các khuyến nghị nhằm hoàn thiện cơ chế này.
Bài viết về Xử lý hành vi làm giàu bất chính theo quy định của Công ước Liên
hợp quốc về chống tham nhũng và phương án nào cho Việt Nam? của ThS. Nguyễn
Tuấn Anh (Thanh tra Chính phủ) [2] đi sâu phân tích những yếu tố cấu thành tội
làm giàu bất chính theo quy định của UNCAC; chia sẻ kinh nghiệm lập pháp của
một số quốc gia về việc xử lý hành vi làm giàu bất chính và tài sản bất minh. Từ đó,
tác giả đề xuất định hướng chung cũng như một số giải pháp cụ thể nhằm hoàn
thiện pháp luật Việt Nam nhằm xử lý hành vi làm giàu bất chính và tài sản bất minh
theo tinh thần của Công ước. Tác giả cũng có bài viết về Kinh nghiệm quốc tế về tố
18
tụng hình sự trong giải quyết các vụ án tham nhũng và một số kiến nghị cho Việt
Nam [1,8] với nhiều thông tin có giá trị về mặt lý luận và thực tiễn, đặc biệt là
những kinh nghiệm quốc tế rất đáng tham khảo, giúp Việt Nam khắc phục những
bất cập trong xét xử án tham nhũng để THTSTN.
Liên quan đến mối quan hệ giữa THTSTN và bảo đảm quyền con người, có
các bài viết về Hiến pháp hoá nguyên tắc giới hạn quyền con người [13,3] của tác
giả Bùi Tiến Đạt; Thương lượng nhận tội trong tố tụng hình sự: Kinh nghiệm quốc
tế và gợi mở cho pháp luật Việt Nam của tác giả Nguyễn Tiến Đạt [15,43]. Những
bài viết này đã gởi mở một số giải pháp cho công tác THTSTN ở Việt Nam trong
khi vẫn bảo đảm tôn trọng các quyền con người cơ bản.
Những quốc gia có nền quản trị tốt thường cũng là những quốc gia có thành
tích cao trong công tác PCTN nói chung và THTSTN nói riêng. Và về cơ bản,
những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về THTSTN không thể tách rời các giải
pháp chung để PCTN, trong đó có nội dung quản trị nhà nước. Vì vậy, các bài viết
về quản trị công trong cuốn sách chuyên khảo Quản trị tốt: Lý luận và Thực tiễn
(PGS.TS Vũ Công Giao, PGS.TS Nguyễn Hoàng Anh, PGS.TS Đặng Minh Tuấn,
TS. Nguyễn Minh Tuấn đồng chủ biên) [19] có nhiều giá trị tham khảo cho luận án.
Cuối cùng, luận án có tham khảo một số báo cáo, số liệu thống kê chính thức
của các cơ quan có liên quan, bao gồm: (i) Một số báo cáo sơ kết, tổng kết công tác
thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và PCTN; nghiên cứu, khảo sát của Thanh tra
Chính phủ; (ii) Chiến lược quốc gia PCTN đến năm 2020; (iii) Báo cáo kết quả
kiểm tra, giám sát việc thanh tra vụ việc, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử các vụ án
tham nhũng nghiêm trọng, phức tạp của Ban Chỉ đạo Trung ương về PCTN; (iv)
Một số báo cáo về công tác thi hành án dân sự của Bộ Tư pháp; (v) Một số báo cáo
thẩm tra của Uỷ ban Tư pháp Quốc hội, Bộ Công an, Viện KSNDTC; (vi) Một số
báo cáo của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, trong đó có báo cáo về kết quả thực
hiện Đề án đẩy mạnh thanh toán không dùng tiền mặt tại Việt Nam giai đoạn 20112015; (vii) Chiến lược cải cách hệ thống thuế giai đoạn 2011- 2020 của Thủ tướng
Chính phủ.
19
1.1.2 Tình hình nghiên cứu ở nƣớc ngoài
“Sẽ không bao giờ có nơi nương náu cho những kẻ ăn cắp của người nghèo”
(There should be no safe haven for those who steal from the poor - Robert
B.Zoellick, Nguyên Chủ tịch Ngân hàng Thế giới) [148,11] là tuyên bố mạnh mẽ
trong cuộc chiến chống tham nhũng của Ngân hàng Thế giới, một trong những tổ
chức quốc tế đi tiên phong trong nghiên cứu và cung cấp các hỗ trợ kỹ thuật về
THTSTN cho cộng đồng quốc tế. Sáng kiến Thu hồi tài sản bị đánh cắp (StAR) là
kết quả của quá trình hợp tác giữa Ngân hàng Thế giới (WB) và Cơ quan Liên hợp
quốc về chống buôn bán ma túy và tội phạm (UNODC) nhằm khuyến khích và thúc
đẩy việc THTSTN một cách nhanh chóng, có hệ thống và hiệu quả. Trong khuôn
khổ hợp tác này, StAR đã xuất bản 15 ấn phẩm được biên soạn công phu về
THTSTN, trong đó bao gồm nhiều công trình, báo cáo, nghiên cứu chính sách và
hướng dẫn thực thi cho những nhà hoạt động thực tiễn ở các quốc gia [115].
Bên cạnh Ngân hàng Thế giới, vấn đề PCTN còn có sự đóng góp của một số
tổ chức quốc tế và viện nghiên cứu với những thế mạnh riêng, điển hình như Trung
tâm quốc tế về Thu hồi tài sản (ICAR) thuộc Học viện Quản trị công Basel đã có
một số nghiên cứu chuyên sâu về các biện pháp tăng cường năng lực điều tra tài
chính và kỹ thuật truy tìm TSTN. Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) có
các nghiên cứu chuyên sâu về các chuẩn mực quốc tế về chống rửa tiền và các
nguyên tắc quản trị tốt, qua đó gián tiếp cung cấp những khuyến nghị chính sách và
thực thi pháp luật về THTSTN.
Do tính chất rộng lớn của vấn đề, có thể chia các ấn phẩm, công trình nghiên
cứu trực tiếp liên quan đến đề tài của các tổ chức quốc tế nêu trên thành 03 nhóm
như sau:
Nhóm 1: Các nghiên cứu đề cập đến vấn đề THTSTN một cách tổng quan
(guide/manual), bao gồm các cẩm nang hướng dẫn về THTSTN hoặc đề cập sâu
đến một biện pháp THTSTN cụ thể (ví dụ, thu hồi theo thủ tục dân sự hoặc thu hồi
không dựa trên kết án…), hay phân tích một số bước quan trọng trong quá trình
THTSTN (ví dụ như truy nguyên, phong tỏa, trả lại tài sản…).
20
Nhóm 2: Các nghiên cứu về một biện pháp, công cụ cụ thể (tools) góp phần
tăng cường hiệu quả công tác THTSTN, ví dụ như biện pháp phòng, chống rửa tiền;
kê khai, công khai tài sản, thu nhập; hình sự hoá hành vi làm giàu bất chính…
Nhóm 3: Các báo cáo chung về kết quả THTSTN của một nhóm các quốc gia
hoặc các nghiên cứu về hệ thống pháp luật THTSTN của một quốc gia cụ thể
(case study).
1.1.2.1. Các công trình nghiên cứu thuộc Nhóm 1 bao gồm:
Asset Recovery Handbook: A Guide for Practioners (2011) (Cẩm nang thu hồi
tài sản thất thoát: Hướng dẫn thực hành) [136] là cuốn tài liệu được biên soạn công
phu bởi các chuyên gia đến từ cả khu vực công và khu vực tư ở nhiều quốc gia trên
thế giới, trong đó bao gồm cả những nhà nghiên cứu và hoạt động thực tiễn về
THTSTN. Được xây dựng theo hình thức cẩm nang hướng dẫn nhưng với cách tiếp
cận chung mang tính lý thuyết, đây nên là tài liệu đầu tiên cần được tiếp cận khi
nghiên cứu về THTSTN. Chương 1 của tài liệu cung cấp một bức tranh toàn cảnh
về lộ trình pháp lý để THTSTN cùng một số ví dụ thực tiễn. Chương 2 đưa ra
những khuyến nghị chính sách để THTSTN và hướng dẫn phương thức quản lý một
vụ việc THTSTN từ giai đoạn thu thập thông tin, dữ liệu ban đầu về vụ việc, thành
lập nhóm công tác và thiết lập mối quan hệ với các cơ quan đối tác ở nước ngoài
trong khuôn khổ hợp tác quốc tế. Những kỹ thuật mà các nhà hoạt động thực tiễn
cần có để truy tìm dấu vết tài sản, kỹ năng phân tích dữ liệu tài chính được trình bày
chi tiết tại Chương 3 nhằm đảm bảo tính chính xác và giá trị pháp lý của chứng cứ
trong quá trình THTSTN. Chương 4 thảo luận về các biện pháp tạm thời đảm bảo
an toàn cho tài sản trước khi bị thu hồi. Chương 5 phân tích một số vấn đề cần cân
nhắc trong quá trình quản lý TSTN trước thu hồi. Trên cơ sở giới thiệu, đánh giá
tổng quan về các hệ thống pháp luật và phương pháp tiến hành cũng như cải tiến
quy trình tại một số nền tư pháp trong công tác THTSTN tại Chương 6, Chương 7
đề cập đến việc áp dụng hình thức yêu cầu hỗ trợ không chính thức và yêu cầu
tương trợ tư pháp trong khuôn khổ hợp tác quốc tế nhằm THTSTN. Cuối cùng,
Chương 8 và Chương 9 thảo luận về hai biện pháp THTSTN bổ sung, đó là
21