I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT
BI NGC TUN
các biện pháp c-ỡng chế về tài sản
theo luật tố tụng hình sự việt nam
(Trên cơ sở số liệu thực tiễn tại địa bàn thành phố Hải Phòng)
LUN VN THC S LUT HC
H NI - 2019
I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT
BI NGC TUN
các biện pháp c-ỡng chế về tài sản
theo luật tố tụng hình sự việt nam
(Trên cơ sở số liệu thực tiễn tại địa bàn thành phố Hải Phòng)
Chuyờn ngnh: Lut hỡnh s v t tng hỡnh s
Mó s: 8380101.03
LUN VN THC S LUT HC
Cỏn b hng dn khoa hc: TS. Lấ LAN CHI
H NI - 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công
trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo
tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn
học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của
Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có
thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Bùi Ngọc Tuấn
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÁC BIỆN PHÁP
CƯỠNG CHẾ VỀ TÀI SẢN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ.............. 6
1.1.
Khái niệm, đặc điểm các biện pháp cưỡng chế về tài sản
trong tố tụng hình sự .......................................................................... 6
1.1.1. Khái niệm các biện pháp cưỡng chế về tài sản trong tố tụng
hình sự .................................................................................................. 6
1.1.2. Đặc điểm của các biện pháp cưỡng chế về tài sản trong luật tố
tụng hình sự ........................................................................................ 10
1.2.
Cơ sở quy định các biện pháp cưỡng chế về tài sản trong tố
tụng hình sự ....................................................................................... 17
1.3.
Các biện pháp cưỡng chế về tài sản trong tố tụng hình sự tại
một số quốc gia trên thế giới ............................................................ 22
1.3.1. Quy định về cưỡng chế tài sản trong Luật Tố tụng hình sự của
Cộng hòa nhân dân Trung Hoa........................................................... 22
1.3.2. Quy định về cưỡng chế tài sản trong Luật tố tụng hình sự Liên
bang Nga ............................................................................................. 24
1.3.3. Quy định về cưỡng chế tài sản trong Luật tố tụng hình sự của
Nhật Bản ............................................................................................. 27
1.3.4. Quy định về cưỡng chế tài sản trong Luật tố tụng hình sự của Pháp .... 28
Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ CÁC
BIỆN PHÁP CƯỠNG CHẾ VỀ TÀI SẢN TRONG TỐ TỤNG
HÌNH SỰ VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TRONG GIAI ĐOẠN
ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN KINH TẾ TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH
PHỐ HẢI PHÒNG.................................................................................. 30
2.1.
Các quy định của luật tố tụng hình sự Việt Nam về các biện
pháp cưỡng chế tài sản trong tố tụng hình sự ............................... 30
2.1.1. Quy định về biện pháp cưỡng chế tài sản trong pháp luật tố tụng
hình sự từ năm 1988 đến trước năm 2003 .......................................... 30
2.1.2. Quy định về biện pháp cưỡng chế tài sản trong Bộ luật tố tụng
hình sự năm 2003 ............................................................................... 34
2.1.3. Quy định về biện pháp cưỡng chế tài sản trong Bộ luật tố tụng
hình sự năm 2015 ............................................................................... 36
2.1.4. Quy đinh
̣ về cưỡng chế tài sản đố i với pháp nhân pha ̣m tô ̣i trong
BLTTHS năm 2015 ............................................................................ 47
2.2.
Thực tiễn áp dụng các quy định về các biện pháp cưỡng chế
trong tố tụng hình sự trong điều tra các vụ án kinh tế trên địa
bàn TP Hải Phòng (giai đoạn 2013 - 2017)..................................... 50
2.3.
Các hạn chế, thiếu sót và nguyên nhân .......................................... 54
Chương 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP
KHÁC BẢO ĐẢM ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH VỀ CÁC
BIỆN PHÁP CƯỠNG CHẾ VỀ TÀI SẢN TRONG TỐ TỤNG
HÌNH SỰ ...............................................................................................58
3.1.
Bối cảnh và định hướng tiếp tục hoàn thiện các quy định của
pháp luật về biện pháp cưỡng chế tài sản trong tố tụng hình sự .... 58
3.2.
Giải pháp tiếp tục hoàn thiện pháp luật ......................................... 61
3.2.1. Tiếp tục hoàn thiện các quy định về biện pháp kê biên tài sản,
phong toả tài khoản trong tố tụng hình sự .......................................... 61
3.2.2. Nghiên cứu quy định các biện pháp cưỡng chế tài sản khác ............. 63
3.3.
Các giải pháp khác ........................................................................... 64
3.3.1. Giải pháp về áp dụng pháp luật .......................................................... 64
3.3.2. Giải pháp về nâng cao trình độ chuyên môn, ý thức trách nhiệm,
đạo đức nghề nghiệp của người tiến hành tố tụng.............................. 65
3.3.3. Giải pháp về nâng cao hiệu quả phối hợp, kiểm tra, kiểm soát
giữa các cơ quan tiến hành tố tụng ..................................................... 67
KẾT LUẬN .................................................................................................... 68
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 71
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLHS:
Bộ luật hình sự
BLTTHS:
Bộ luật tố tụng hình sự
CHXHCN: Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
TNHS:
Trách nhiệm hình sự
VKS:
Viện kiểm sát
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Các biện pháp cưỡng chế nói chung, các biện pháp cưỡng chế về tài
sản nói riêng được quy định trong pháp luật tố tụng hình sự là cách thức
thực hiện quyền lực Nhà nước do các cơ quan, người có thẩm quyền áp dụng
theo những trình tự, thủ tục luật định, tác động lên ý chí, hành vi người tham
gia tố tụng, buộc họ phải tuân thủ trong quá trình giải quyết vụ án hình sự.
Các biện pháp cưỡng chế trong tố tụng hình sự nói chung, các biện pháp
cưỡng chế về tài sản nói riêng đóng vai trò hết sức quan trọng để ngăn chặn
tội phạm, ngăn chặn bị can, bị cáo gây cản trở, khó khăn cho các hoạt động
điều tra, truy tố, xét xử hoặc để bảo đảm thi hành án, góp phần tích cực vào
việc hạn chế những thiệt hại về kinh tế, cơ sở vật chất mà tội phạm gây ra
cho người bị hại và xã hội.
Trong thời gian vừa qua, bên cạnh những kết quả đạt được, thực tiễn
áp dụng các biện pháp cưỡng chế về tài sản nhiều lúc, nhiều nơi còn chưa
được coi trọng đúng mức, chưa thực hiện đúng quy định dẫn đến việc giải
quyết các vụ án hình sự chưa triệt để, không đảm bảo hiệu quả (ví dụ: như
việc xác định, kê biên tài sản đối với các đối tượng phạm tội trong các vụ án
về kinh tế, tham nhũng trong thời gian vừa qua gây khó khăn cho việc giải
quyết vụ án, thu hồi tài sản cho Nhà nước, gây thất thoát, lãng phí do tài sản
bị tẩu tán, bị đưa vào các cơ chế rửa tiền, hợp pháp hoá tài sản do phạm tội
mà có…). Việc lạm dụng, áp dụng sai các biện pháp cưỡng chế về tài sản
trong tố tụng hình sự dẫn đến việc vi phạm pháp luật nghiêm trọng, xâm
phạm các quyền tự do cá nhân của con người, xâm phạm hoạt động đúng
đắn của các cơ quan bảo vệ pháp luật, làm giảm sút lòng tin của Nhân dân
đối với Đảng và Nhà nước.
1
Bên cạnh đó, trên thực tế trong quá trình áp dụng các biện pháp cưỡng
chế về tài sản, đối chiếu, so sánh với các quy định của pháp luật hiện hành
vẫn còn tồn tại những vấn đề cần được nghiên cứu chuyên sâu, làm sáng tỏ về
mặt lý luận và nhận thức để sớm xây dựng và hoàn thiện các quy định về
cưỡng chế tài sản trong tố tụng hình sự, đáp ứng tốt hơn yêu cầu của thực tiễn
công tác điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự.
Trong thời gian tới đây, dự báo tình hình tội phạm nói chung và các tội
xâm phạm trật tự quản lý kinh tế tiếp tục phức tạp, phương thức hoạt động
phạm tội ngày càng tinh vi do thể chế kinh tế vẫn chưa thật sự hoàn thiện, do
sự gia tăng của các yếu tố nước ngoài trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế
sâu rộng, do sự lan toả của công nghệ thời đại 4.0... Từ phương diện pháp luật
tố tụng hình sự, sự thay đổi, bổ sung các quy định của pháp luật tố tụng hình
sự với BLTTHS năm 2015 vừa mới có hiệu lực pháp luật, đặc biệt là các quy
định liên quan đến thủ tục truy cứu trách nhiệm hình sự của pháp nhân phạm
tội nên việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế về tài sản sẽ được áp dụng ngày
một nhiều hơn và phổ biến hơn nhưng cũng nhiều thách thức hơn để theo kịp
các đòi hỏi của thực tế.
Từ các căn cứ nêu trên, nhận thấy tầm quan trọng, tính thời sự và cấp
thiết của vấn đề các biện pháp cưỡng chế về tài sản trong tố tụng hình sự, học
viên đã lựa chọn đề tài: “Các biện pháp cưỡng chế về tài sản theo Luật tố
tụng hình sự Việt Nam (Trên cơ sở số liệu thực tiễn tại địa bàn thành phố Hải
Phòng)” để thực hiện luận văn thạc sĩ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Có thể nói, ở Việt Nam hiện nay, những nghiên cứu liên quan đến đề
tài nêu trên chưa nhiều, chủ yếu dưới dạng là các phân tích luật thực định
trong các giáo trình như giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam của Khoa
Luật Đại học quốc gia Hà Nội, giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam của
2
Trường Đại học Luật Hà Nội, các cuốn Bình luận khoa học Bộ luật hình sự
Việt Nam năm 1999, Bình luận khoa học Bộ luật hình sự Việt Nam năm
2015, Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam năm 2003, cuốn
Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam năm 2015 của các tác
giả hoặc tập thể tác giả khác nhau.
Trong tư pháp hình sự, các biện pháp cưỡng chế về tài sản đã từng
được nghiên cứu ít nhiều ở giác độ một loại biện pháp tư pháp (một hình thức
của TNHS) được quy định trong Bộ luật hình sự hoặc biện pháp xử lý vật
chứng trong tố tụng hình sự… Tuy nhiên, nghiên cứu khá nghiêm túc biện
pháp cưỡng chế về tài sản trong tố tụng hình sự phải kể đến sách chuyên
khảo: “Về tự do cá nhân và biện pháp cưỡng chế tố tụng hình sự” của Tiến sĩ
Trần Quang Tiệp lần đầu tiên được xuất bản năm 2005 trên cơ sở phân tích
các biện pháp cưỡng chế tố tụng hình sự của pháp luật tố tụng hình sự Việt
Nam, đặc biệt là theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003. Trong
cuốn sách này, tác giả đề cập đến các biện pháp cưỡng chế tài sản tại Chương
3: Các biện pháp cưỡng chế nhằm thu thập chứng cứ và Chương 4: Các biện
pháp cưỡng chế nhằm bảo đảm cho việc tiến hành hoạt động điều tra, truy tố,
xét xử và thi hành án. Sách chuyên khảo của PGS.TS Trịnh Quốc Toản, Nhà
xuất bản Đại học Quốc gia năm 2015 về “Hình phạt và các biện pháp miễn
giảm hình phạt trong luật hình sự Việt Nam” cũng có những nghiên cứu sâu
sắc về các biện pháp tư pháp, trong đó phân tích, so sánh các vấn đề lý luận
về một số biện pháp tư pháp liên quan đến tài sản trong pháp luật Việt Nam
và pháp luật nước ngoài.
Tuy nhiên, có thể nhận thấy đến nay vẫn chưa có một công trình nghiên
cứu độc lập ở cấp độ một luận văn thạc sĩ luật học về đề tài các biện pháp
cưỡng chế về tài sản trong tố tụng hình sự Việt Nam. Do vậy, đây có thể coi
3
là công trình nghiên cứu đầu tiên với nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn cần
được xem xét, phân tích, lý giải.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu: qua việc làm rõ các vấn đề về mặt lý luận và
thực tiễn đối với các biện pháp cưỡng chế tài sản trong tố tụng hình sự, luận
văn đề xuất các giải pháp để hoàn thiện quy định liên quan đến biện pháp
cưỡng chế về tài sản trong tố tụng hình sự.
Nhiệm vụ nghiên cứu
- Xây dựng khái niệm, xác định các đặc điểm các biện pháp cưỡng chế
về tài sản trong tố tụng hình sự và làm rõ những vấn đề lý luận có liên quan
đến các biện pháp cưỡng chế về tài sản trong tố tụng hình sự.
- Phân tích, đánh giá thực tiễn áp dụng các biện pháp cưỡng chế về tài
sản (gắn với thực tiễn áp dụng trong điều tra các vụ án về trật tự quản lý kinh
tế trên địa bàn thành phố Hải Phòng, giai đoạn 2013 - 2017).
- Đưa ra các đề xuất hoàn thiện pháp luật và các giải pháp nâng cao
hiệu quả áp dụng các biện pháp cưỡng chế về tài sản trong tố tụng hình sự.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu các vấn đề lý luận và các quy
định của pháp luật Việt Nam và thực tiễn áp dụng liên quan đến các biện pháp
cưỡng chế về tài sản trong tố tụng hình sự.
Phạm vi nghiên cứu thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật Việt
Nam liên quan đến các biện pháp cưỡng chế về tài sản: chủ yếu tại địa bàn
Hải Phòng mà cụ thể là trong giai đoạn điều tra các tội xâm phạm trật tự quản
lý kinh tế, giai đoạn 5 năm (từ năm 2013-2017).
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của phép duy vật biện chứng, duy vật lịch
sử lựa chọn các phương pháp nghiên cứu cụ thể là: phương pháp phân tích,
4
tổng hợp, lịch sử, so sánh, phương pháp chuyên gia: trao đổi với các cán bộ
thực tiễn, thu thập tài liệu, số liệu, thông tin trong thực tiễn.
6. Các đóng góp của đề tài
Đề tài góp phần hoàn thiện các vấn đề lý luận đối với những biện pháp
cưỡng chế về tài sản trong tố tụng hình sự, đồng thời cung cấp những khảo
sát, đánh giá thực tiễn pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về biện pháp
cưỡng chế về tài sản trong tố tụng hình sự. Đề tài cũng có ý nghĩa thực tiễn
cao qua việc đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật và thực hiện pháp luật
trong áp dụng, thi hành những biện pháp cưỡng chế về tài sản trong tố tụng
hình sự ở nước ta trong thời gian tới.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, nội dung luận văn gồm 3 chương, 8 mục.
5
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÁC BIỆN PHÁP CƯỠNG CHẾ
VỀ TÀI SẢN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm, đặc điểm các biện pháp cưỡng chế về tài sản trong
tố tụng hình sự
1.1.1. Khái niệm các biện pháp cưỡng chế về tài sản trong tố tụng
hình sự
Biện pháp cưỡng chế là thuật ngữ được sử dụng khá phổ biến trong các
quy định của pháp luật ở nhiều lĩnh vực khác nhau, như: cưỡng chế thực hiện
quyết định thu hồi đất (trong Luật đất đai), cưỡng chế thi hành án dân sự
(trong Luật thi hành án dân sự), cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi
phạm hành chính (trong Luật xử lý vi phạm hành chính)… Trong mỗi lĩnh
vực khác nhau, biện pháp cưỡng chế lại có những tính chất và đặc điểm riêng.
Biện pháp cưỡng chế gắn với chủ thể có thẩm quyền quy định và áp dụng là
Nhà nước, biện pháp cưỡng chế xuất phát từ sức mạnh cưỡng chế của Nhà
nước hay quyền lực của Nhà nước. Với quyền lực đặc biệt của mình, Nhà
nước có thể áp dụng các biện pháp cưỡng chế trong quản lý các lĩnh vực của
đời sống xã hội, áp đặt ý chí của mình lên các quan hệ xã hội, bảo đảm cho
các quan hệ xã hội vận hành theo đúng quỹ đạo, theo đúng ý chí của Nhà
nước. Theo Từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học: Cưỡng chế là dùng
quyền lực nhà nước bắt phải tuân theo [36, tr. 380]. Khái niệm này đã nêu
được hai yếu tố quan trọng trong nội hàm của cưỡng chế: đó là yếu tố chủ thể
(Nhà nước, xuất phát từ sức mạnh của nhà nước, bảo đảm bằng quyền lực nhà
nước) và yếu tố mang tính bản chất của cưỡng chế, đó là buộc một chủ thể
khác phải tuân theo.
6
Các biện pháp cưỡng chế vừa là phương tiện thể hiện ý chí của Nhà
nước, bảo đảm cho ý chí của Nhà nước được thực hiện, vừa là phương tiện để
bảo vệ các chủ thể khác trong xã hội. Các biện pháp cưỡng chế được quy định
ở các đạo luật, các lĩnh vực pháp luật bảo đảm cho quyền lợi của các chủ thể
trong các quan hệ pháp luật thuộc các lĩnh vực pháp luật khác nhau, bao gồm
cả luật tư như các biện pháp khẩn cấp tạm thời trong lĩnh vực tố tụng dân sự
(theo nghĩa rộng). Trong lĩnh vực luật công, đặc biệt là pháp luật hình sự, tố
tụng hình sự, nhà nước phải sử dụng rất nhiều các biện pháp cưỡng chế. Đây
là lĩnh vực mà Nhà nước đặt các cơ quan có thẩm quyền của mình lên tuyến
đầu của cuộc chiến phòng chống tội phạm để bảo vệ an ninh quốc gia, bảo
đảm trật tự, an toàn xã hội. Trong luật hình sự, hình phạt là hình thức TNHS
tiêu biểu và là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất. Trong luật tố tụng hình
sự, để giải quyết vấn đề TNHS đối với người phạm tội, khi tiến hành truy cứu
TNHS, cần có các biện pháp cưỡng chế tố tụng với tư cách là các công cụ
pháp lý - các vũ khí để trang bị cho các cơ quan tiến hành tố tụng và để bảo
vệ lợi ích của các chủ thể khác trong xã hội.
Trong khoa học luật tố tụng hình sự, đã có một số công trình nghiên
cứu về biện pháp cưỡng chế trong tố tụng hình sự. TS. Trần Quang Tiệp
cho rằng:
Biện pháp cưỡng chế tố tụng hình sự là cách thức mang tính
quyền lực nhà nước do cơ quan, người có thẩm quyền áp dụng theo
trình tự, thủ tục được pháp luật tố tụng hình sự quy định, tác động
lên tư tưởng, hành vi người tham gia tố tụng, buộc họ phải thực
hiện những nghĩa vụ của mình nhằm bảo đảm cho việc tiến hành
hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án [30, tr. 13].
Từ cách đặt vấn đề nêu trên, tác giả cho rằng trong tố tụng hình sự: thứ
nhất, chỉ áp dụng các biện pháp cưỡng chế do pháp luật tố tụng hình sự quy
7
định; thứ hai, chỉ cơ quan, người có thẩm quyền mới được áp dụng biện pháp
cưỡng chế trên cơ sở những căn cứ nhất định do pháp luật tố tụng hình sự quy
định; thứ ba, biện pháp này chỉ được áp dụng đối với những người tham gia
tố tụng; thứ tư, việc áp dụng biện pháp cưỡng chế phải theo đúng trình tự, thủ
tục do pháp luật tố tụng hình sự quy định. Quan điểm này cơ bản rất khoa
học, khái quát được các đặc điểm cơ bản của biện pháp cưỡng chế tố tụng, tuy
nhiên, chưa bao quát hết các yếu tố thuộc ngoại diên của khái niệm biện pháp
cưỡng chế, biện pháp cưỡng chế tố tụng, trong đó có biện pháp cưỡng chế về
tài sản, đối tượng áp dụng không chỉ có người tham gia tố tụng mà còn có thể
là những người khác liên quan đến vụ án hình sự.
Theo luật thực định, BLTTHS năm 2015 với cách đặt vấn đề tên chương
7 là “Biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế”, kết cấu chương này thành 2
mục: mục 1: biện pháp ngăn chặn, mục 2: biện pháp cưỡng chế. Như vậy, có
thể hiểu nhà làm luật cho rằng đây là hai nhóm biện pháp dù có quan hệ gần
gũi với nhau nhưng bản chất khác nhau, độc lập với nhau. Đây là quan điểm có
phần siêu hình khi như đã đề cập, biện pháp ngăn chặn thực chất là một bộ
phận của biện pháp cưỡng chế.
Chúng tôi cho rằng, “biện pháp cưỡng chế là phương thức thể hiện
quyền lực nhà nước do cơ quan, người có thẩm quyền áp dụng theo trình tự,
thủ tục được pháp luật tố tụng hình sự quy định, tác động chủ yếu lên người
tham gia tố tụng, buộc họ phải thực hiện những nghĩa vụ nhất định nhằm bảo
đảm cho quá trình tiến hành hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án
được thuận lợi, toàn diện và hiệu quả”.
Nghiên cứu ở góc độ so sánh, phân loại các biện pháp cưỡng chế trong
tố tụng hình sự, có thể thấy các biện pháp cưỡng chế đa dạng về tính chất, nội
dụng, vai trò khác nhau. Theo khảo sát của tác giả Trần Quang Tiệp, Giáo
trình luật tố tụng hình sự Việt Nam của Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội
8
xuất bản năm 2001 chia các biện pháp cưỡng chế tố tụng hình sự làm ba loại:
"Các biện pháp ngăn chặn; các biện pháp thu thập chứng cứ như: khám xét
nhà, đồ vật, thư tín; xét hỏi bị can; lấy lời khai người làm chứng; nhận dạng,
đối chất... Những biện pháp đảm bảo cho các hoạt động điều tra, truy tố, xét
xử và thi hành án như: kê biên tài sản, áp giải bị can" [9, tr. 191]; Giáo trình
luật tố tụng hình sự Việt Nam của Trường Đại học Luật Hà Nội cũng chia các
biện pháp cưỡng chế tố tụng hình sự làm ba loại: "những biện pháp cưỡng chế
tố tụng hình sự có nội dung rộng bao gồm ba nhóm hành vi tố tụng: nhóm 1
gồm những biện pháp ngăn chặn như bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi
cư trú, bảo lĩnh và đặt tiền hoặc tài sản để bảo đảm; nhóm 2 gồm những biện
pháp bảo đảm cho việc thu thập chứng cứ như khám xét, xem xét dấu vết trên
thân thể; nhóm 3 gồm những biện pháp bảo đảm cho điều tra, truy tố, xét xử
và thi hành án như kê biên tài sản, áp giải bị can, những biện pháp đối với
người vi phạm trật tự phiên tòa" [35, tr. 165]. Tuy nhiên, các tác giả của hai
Giáo trình này đều không đưa ra căn cứ phân loại.
Căn cứ vào mục đích áp dụng biện pháp cưỡng chế tố tụng hình sự,
Giáo trình Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam xuất bản năm 2002 do
Võ Khánh Vinh (chủ biên) chia các biện pháp cưỡng chế thành bốn nhóm:
"Nhóm 1: Các biện pháp ngăn chặn.
Nhóm 2: Các biện pháp cưỡng chế áp dụng với mục đích thu thập
chứng cứ của vụ án, bao gồm các biện pháp: khám người, chỗ ở, địa điểm, đồ
vật, thư tín, bưu điện, bưu phẩm; thu giữ thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm
tại bưu điện, tạm giữ đồ vật là vật chứng và tài liệu có liên quan trực tiếp đến
vụ án; xem xét dấu vết trên thân thể.
Nhóm 3: Biện pháp cưỡng chế áp dụng với mục đích bảo đảm thi
hành án về tài sản (tịch thu, phạt tiền hoặc bồi thường). Đó là biện pháp kê
biên tài sản...
9
Nhóm 4: Các biện pháp cưỡng chế với mục đích bảo đảm sự có mặt
theo giấy triệu tập, bao gồm các biện pháp áp giải bị can, bị cáo, dẫn giải
người làm chứng" [39, tr. 165].
Chúng tôi cơ bản đồng ý với cách phân loại này vì theo cách phân loại
ở hai cơ sở đào tạo nêu trên, nhóm thứ ba có tên gọi và có nội dung rộng:
“những biện pháp bảo đảm cho điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án”, suy
cho cùng cũng bao gồm cả các biện pháp ngăn chặn và các biện pháp thu thập
chứng cứ, nếu diễn đạt lại thành “những biện pháp khác bảo đảm cho điều tra,
truy tố, xét xử và thi hành án”, hoặc “những biện pháp còn lại bảo đảm cho
điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án” có lẽ sẽ hợp lý hơn.
Đối với biện pháp cưỡng chế về tài sản trong tố tụng hình sự, đây là
một nhóm biện pháp cưỡng chế của tố tụng hình sự, trong mối quan hệ với
biện pháp cưỡng chế của tố tụng hình sự, biện pháp cưỡng chế về tài sản là
cái riêng với cái chung. Do đó, biện pháp cưỡng chế về tài sản trong tố tụng
hình sự là một bộ phận của các biện pháp cưỡng chế tố tụng, là phương
thức mà các cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng áp dụng, mang
tính chất bắt buộc đối với người bị buộc tội và những người liên quan khác
để quản lý, giám sát tài sản theo trình tự, thủ tục nhất định đảm bảo cho
hoạt động thi hành án về tài sẩn cũng như một số hoạt động khác trong quá
trình giải quyết vụ án được tiến hành thuận lợi và hiệu quả, đúng quy định
của pháp luật.
1.1.2. Đặc điểm của các biện pháp cưỡng chế về tài sản trong luật tố
tụng hình sự
1.1.2.1. Đặc điểm chung
- Là biện pháp cưỡng chế tố tụng nên biện pháp cưỡng chế về tài sản
mang bản chất của biện pháp cưỡng chế tố tụng, đó là tính bắt buộc, được
bảo đảm thực hiện bằng sức mạnh của Nhà nước. Nếu như biện pháp thuyết
10
phục được Nhà nước sử dụng trong các lĩnh vực của đời sống xã hội nhằm
làm cho các đối tượng bị tác động hiểu và tự giác thực hiện hoặc không thực
hiện những hành vi nhất định theo yêu cầu của chủ thể quản lý, thông qua
các hình thức như: giải thích, động viên, hướng dẫn… thì biện pháp cưỡng
chế trong tố tụng hình sự được các chủ thể tiến hành tố tụng áp dụng một
cách bắt buộc, tác động trực tiếp lên ý chí và hành vi, yêu cầu những người
bị buộc tội hoặc những người liên quan đến hành vi phạm tội phải tuân theo
và thực hiện các nghĩa vụ của mình. Biện pháp cưỡng chế trong tố tụng hình
sự thường áp dụng với những người bị buộc tội hoặc những người có liên
quan đến hành vi phạm tội khi họ không tự nguyện thực hiện, chống lại các
yêu cầu của các chủ thể tiến hành tố tụng, gây cản trở, khó khăn cho quá
trình giải quyết vụ án hình sự. Khi các biện pháp cưỡng chế tố tụng được áp
dụng, thi hành, những người bị buộc tội hoặc những người có liên quan đến
hành vi phạm tội buộc phải tuân theo và thực hiện. Nhà nước đảm bảo việc
thực hiện các biện pháp cưỡng chế tố tụng hình sự trong thực tiễn bằng sức
mạnh của mình thông qua các quy định của pháp luật.
- Đặc điểm về mục đích áp dụng: Biện pháp cưỡng chế về tài sản cũng
như các biện pháp cưỡng chế tố tụng hình sự đều hướng tới mục đích chung
đó là phục vụ quá trình điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án được hiệu quả
nhất. Nếu trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự, các biện pháp cưỡng
chế nói chung và biện pháp cưỡng chế về tài sản nói riêng không được quy
định và áp dụng sẽ khiến quá trình điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự
gặp rất nhiều khó khăn, trong nhiều trường hợp sẽ không thể thực hiện được.
Biện pháp cưỡng chế về tài sản trong tố tụng hình sự có chức năng đặc biệt so
với các biện pháp cưỡng chế khác đó là để bảo toàn tài sản khi thi hành án
phạt tiền hoặc thi hành phần dân sự về bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu
quả trong vụ án hình sự.
11
- Đặc điểm về đối tượng áp dụng: Biện pháp cưỡng chế về tài sản trong
tố tụng hình sự chủ yếu áp dụng đối với người bị buộc tội, ngoài ra còn có thể
áp dụng đối với các chủ thể khác có liên quan đến hành vi phạm tội. Xét đến
cùng, mục đích của biện pháp cưỡng chế tài sản là để bảo toàn tài sản khi thi
hành án phạt tiền hoặc thi hành phần dân sự về bồi thường thiệt hại, khắc
phục hậu quả trong vụ án hình sự. Do đó, chỉ những người nào có trách nhiệm
liên quan, những tài sản nào có thể sẽ được sử dụng để thực hiện thi hành
hình phạt tiền, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả của vụ án hình sự mới
là đối tượng phải chịu áp dụng của biện pháp cưỡng chế về tài sản. Những đối
tượng như: người làm chứng, người bị hại… không thể bị áp dụng các biện
pháp cưỡng chế về tài sản.
- Đặc điểm về chủ thể áp dụng: Quyền sở hữu tài sản là quyền, lợi ích
chính đáng, hợp pháp của mọi công dân được Hiến pháp quy định và bảo hộ.
Do đó, mọi quy định liên quan đến việc hạn chế quyền sở hữu tài sản của
công dân đều được Nhà nước quy định hết sức chặt chẽ để tránh việc lạm
quyền của các chủ thể tiến hành cũng như ảnh hưởng đến quyền và lợi ích
hợp pháp của công dân. Là một biện pháp cưỡng chế, khi áp dụng có thể ảnh
hưởng trực tiếp đến các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, nên các biện
pháp cưỡng chế về tài sản trong tố tụng hình chỉ được thực hiện bởi những
chủ thể nhất định... Thông qua các cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố
tụng, Nhà nước tác động trực tiếp đến tài sản của những người bị buộc tội để
những tài sản này phải “tham gia” vào quá trình điều tra, truy tố, xét xử và thi
hành án đảm bảo hiệu quả, giải quyết triệt để các vụ án hình sự. Việc quy
định biện pháp cưỡng chế trong tố tụng hình sự đồng nghĩa với việc hạn chế
quyền sở hữu đối với tài sản của các đối tượng có liên quan. Việc quy định cụ
thể các chủ thể được quyền áp dụng biện pháp cưỡng chế về tài sản bên cạnh
sự thể hiện rõ nét tính quyền lực của Nhà nước nó còn hạn chế được sự tùy
12
tiện, lạm quyền trong việc áp dụng biện pháp này, xâm hại đến quyền và lợi
ích hợp pháp của công dân được Hiến pháp bảo hộ.
- Đặc điểm về tài sản bị cưỡng chế và giới hạn cưỡng chế. Theo nghĩa
phổ thông, tài sản được hiểu là “của cải vật chất dùng vào mục đích sản
xuất hoặc tiêu dùng. Bảo vệ tài sản công cộng. Kiểm kê tài sản. Tịch thu tài
sản” [14, tr. 1132]. Tiếp cận từ quy định của pháp luật, tài sản phải được hiểu
theo nghĩa là “của cải”, nói cách khác, theo quy định của BLDS, tài sản là
“vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản. Tài sản bao gồm bất động sản và
động sản. Bất động sản và động sản có thể là tài sản hiện có và tài sản hình
thành trong tương lai.” [26, Điều 105]. Tài sản bị cưỡng chế trong tố tụng
hình sự là bất cứ tài sản gì có giá trị có thể được dùng để thi hành án phạt tiền
hoặc thi hành phần dân sự về bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả trong vụ
án hình sự. Nhưng không phải mọi tài sản của người bị buộc tội và người liên
quan đến hành vi phạm tội đều bị cưỡng chế. Tài sản bị cưỡng chế trong tố
tụng hình sự bên cạnh việc thỏa mãn yêu cầu phải thuộc sở hữu của những
người bị buộc tội hoặc những người liên quan đến hành vi phạm tội thì phải
thỏa mãn được yêu cầu thứ hai đó là có giá trị tương ứng với mức có thể bị
phạt tiền, bị tịch thu tài sản hoặc bồi thường thiệt hại. Hay có thể hiểu, mức
tương ứng có thể bị phạt tiền, bị tịch thu hoặc bồi thường thiệt hại là giới hạn
đối với tài sản bị cưỡng chế của các đối tượng có liên quan.
- Đặc điểm về thủ tục áp dụng: Thủ tục áp dụng biện pháp cưỡng chế
về tài sản được hiểu là cách thức mà các chủ thể tiến hành tố tụng tiến hành
thực hiện việc cưỡng chế về tài sản đối với những người bị buộc tội hoặc
những người có liên quan đến hành vi phạm tội. Cũng giống như các biện
pháp cưỡng chế khác, biện pháp cưỡng chế về tài sản được áp dụng bởi các
thủ tục rất chặt chẽ, thể hiện sự khách quan, tôn trọng quyền và lợi ích hợp
pháp của công dân. Chỉ khi nào các biện pháp cưỡng chế về tài sản được thực
13
hiện theo một trình tự, thủ tục chặt chẽ, đảm bảo sự khách quan thì khi đó
biện pháp cưỡng chế về tài sản mới đảm bảo được hiệu quả. Thủ tục áp dụng
các biện pháp cưỡng chế về tài sản được quy định chặt chẽ, một mặt tạo điều
kiện cho các chủ thể tiến hành tố tụng tiến hành thuận lợi, tránh sự tùy tiện,
gây thiệt hại đến lợi ích của người bị cưỡng chế, gây ảnh hưởng đến uy tín
Nhà nước, mặt khác nó còn tạo điều kiện cho chính những người bị cưỡng
chế có thể giám sát hoạt động của các chủ thể tiến hành tố tụng, chủ động bảo
vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
1.1.2.2. Sự giống nhau và khác nhau giữa biện pháp cưỡng chế về tài
sản với các biện pháp cưỡng chế khác của tố tụng hình sự và các biện pháp
khẩn cấp tạm thời của tố tụng dân sự
(i) Sự giống nhau và khác nhau giữa biện pháp cưỡng chế về tài sản
với các biện pháp cưỡng chế khác của tố tụng hình sự
- Về mục đích áp dụng
Các biện pháp cưỡng chế về tài sản và các biện pháp cưỡng chế khác
trong tố tụng hình sự đều hướng đến một mục đích chung đó là đảm bảo quá
trình điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hình sự đạt được hiệu quả cao nhất,
đảm bảo sự nghiêm minh, tính công bằng của pháp luật. Tuy nhiên, tùy theo
từng giai đoạn giải quyết vụ án hình sự, mỗi một biện pháp cưỡng chế lại có
một vai trò và mục đích khác nhau. Nếu như biện pháp áp giải, dẫn giải được
sử dụng chủ yếu trong giai đoạn điều tra, xét xử nhằm đảm bảo cho việc
chứng minh tội phạm thì biện pháp cưỡng chế về tài sản lại phục vụ mục đích
xử lý vấn đề tài sản, mục đích đảm bảo bản án, quyết định có hiệu lực của
Tòa án được thực thi trọn vẹn.
- Về đối tượng tác động
Đối tượng tác động của biện pháp cưỡng chế về tài sản cũng như các
biện pháp cưỡng chế khác của tố tụng hình sự đều là những đối tượng liên
14
quan đến hành vi phạm tội, tham gia vào quá trình tố tụng. Các biện pháp
cưỡng chế khác trong tố tụng hình sự được áp dụng đối với những con người
cụ thể như bị can, bị cáo, người làm chứng… Trong khi đó, đối tượng chính
tác động của biện pháp cưỡng chế về tài sản lại chính là tài sản của những
người bị buộc tội hoặc người liên quan đến hành vi phạm tội.
- Về thẩm quyền áp dụng
Biện pháp cưỡng chế về tài sản được áp dụng bởi những cơ quan,
người có thẩm quyền tiến hành tố tụng như: Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ
quan điều tra các cấp; Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân
và Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự các cấp; Chánh án,
Phó Chánh án Tòa án nhân dân và Chánh án, Phó Chánh án Tòa án quân sự
các cấp; Hội đồng xét xử; thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa. Biện
pháp cưỡng chế về tài sản khi được áp dụng bởi Thủ trưởng, Phó thủ trưởng
Cơ quan điều ta các cấp phải được thông báo cho Viện kiểm sát nhân dân
cùng cấp trước khi thi hành.
Các biện pháp cưỡng chế tố tụng hình sự khác, như biện pháp áp giải,
dẫn giải được thực hiện bởi điều tra viên, cấp trưởng của cơ quan được giao
nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, Kiểm sát viên, Thẩm phán chủ
tọa phiên tòa, Hội đồng xét xử. Luật không quy định việc áp dụng các biện
pháp cưỡng chế này phải thông báo cho Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp biết
trước khi thi hành.
(ii) Sự giống nhau và khác nhau giữa biện pháp cưỡng chế về tài sản
với biện pháp khẩn cấp tạm thời của tố tụng dân sự
Biện pháp khẩn cấp tạm thời là biện pháp tòa án quyết định áp dụng
trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự nhằm giải quyết nhu cầu cấp bách
của đương sự, bảo toàn tình trạng tài sản, bảo vệ bằng chứng hoặc bảo đảm
thi hành án. Các biện pháp khẩn cấp tạm thời vừa mang tính khẩn cấp, vừa
15
mang tính tạm thời. Tính khẩn cấp được thể hiện ở chỗ tòa án phải ra quyết
định áp dụng ngay và quyết định này được thực hiện ngay sau khi được tòa án
quyết định áp dụng. Tính tạm thời của biện pháp này được thể hiện ở chỗ,
quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời chưa phải là quyết định cuối
cùng về giải quyết vụ việc dân sự. Sau khi quyết định áp dụng biện pháp khẩn
cấp tạm thời, nếu lý do của việc áp dụng không còn nữa thì tòa án có thể hủy
bỏ quyết định này. Việc áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời có thể gây
thiệt hại đến quyền, lợi ích của người bị áp dụng. Do đó để đảm bảo việc áp
dụng đúng đắn, tòa án phải xem xét thận trọng trước khi quyết định áp dụng
và phải thực hiện đúng các quy định của pháp luật.
- Về mục đích áp dụng
Biện pháp khẩn cấp tạm thời và biện pháp cưỡng chế về tài sản trong
tố tụng hình sự đều mang tính chất bắt buộc, yêu cầu các đối tượng có liên
quan nhất định phải thực hiện và được đảm bảo bằng sức mạnh của Nhà
nước. Tuy nhiên, hai biện pháp này lại có bản chất và mục đích hoàn toàn
khác nhau. Biện pháp khẩn cấp tạm thời có mục đích chính là phục vụ quá
trình giải quyết các vụ việc dân sự, còn biện pháp cưỡng chế về tài sản
trong tố tụng hình sự lại được sử dụng để phục vụ cho quá trình giải quyết
các vụ án hình sự.
- Về đối tượng tác động
Đối tượng tác động của biện pháp khẩn cấp tạm thời rất đa dạng, đó
có thể là tài sản, giấy tờ, tài liệu, bằng chứng liên quan của đương sự trong
quá trình giải quyết các vụ việc dân sự. Đối tượng tác động của biện pháp
cưỡng chế về tài sản chỉ là những tài sản của những người bị buộc tội,
những người có liên quan đến hành vi phạm tội trong quá trình giải quyết
các vụ án hình sự.
16
- Về thẩm quyền áp dụng
Biện pháp khẩn cấp tạm thời do Tòa án thụ lý các vụ việc dân sự áp
dụng theo quy định của bộ luật tố tụng dân sự. Biện pháp cưỡng chế về tài
sản trong tố tụng hình sự có thể do cá nhân, cơ quan tiến hành tố tụng áp
dụng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự theo quy định của Bộ luật tố
tụng hình sự.
- Tính ổn định của việc áp dụng
Biện pháp pháp khẩn cấp tạm thời như chính tên gọi của nó thể hiện sự
không ổn định, tính tạm thời khi áp dụng. Tính tạm thời của biện pháp này
được thể hiện ở chỗ, quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời chưa
phải là quyết định cuối cùng về giải quyết vụ việc dân sự. Sau khi quyết định
áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, nếu lý do của việc áp dụng không còn
nữa thì tòa án có thể hủy bỏ quyết định này.
Trong khi đó các biện pháp cưỡng chế về tài sản lại thể hiện sự ổn định
cao hơn, nó có thể được áp dụng và đảm bảo từ giai đoạn điều tra cho đến giai
đoạn thi hành án hình sự. Biện pháp cưỡng chế về tài sản chỉ được hủy bỏ
trong những trường hợp nhất định theo quy định của pháp luật.
1.2. Cơ sở quy định các biện pháp cưỡng chế về tài sản trong tố
tụng hình sự
Thứ nhất, các biện pháp cưỡng chế về tài sản xuất phát từ yêu cầu
giải quyết hiệu quả một số vấn đề quan trọng liên quan đến tài sản trong vụ
án hình sự.
Thực tiễn công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm cho thấy, sau khi
thực hiện các hành vi phạm tội, các đối tượng đều có tâm lý che giấu hành
vi, phương thức, thủ đoạn phạm tội và các chứng cứ có liên quan. Ở giai
đoạn điều tra, truy tố, xét xử, các bị can, bị cáo thường tìm mọi cách che
17
giấu, tẩu tán các tài sản liên quan đến hành vi phạm tội, một mặt nhằm gây
khó khăn cho các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc thu thập chứng cứ,
chứng minh hành vi phạm tội, mặt khác nhằm “bảo vệ” tài sản của mình
tránh bị tịch thu hay phải khắc phục hậu quả về mặt kinh tế do hành vi phạm
tội của mình gây ra. Trong giai đoạn thi hành án, khi bản án đã có hiệu lực
pháp luật của tòa án được thi hành, việc từ chối thực hiện các nghĩa vụ về tài
sản của những đối tượng bị kết án càng được thể hiện rõ nét hơn. Đặc biệt
đối với các trường hợp hình phạt tiền được quyết định là hình phạt bổ sung
thì đa phần việc thi hành sẽ gặp rất nhiều khó khăn do các đối tượng bị kết
án có tâm lý buông xuôi, phó mặc vì đã chịu một hình phạt chính nghiêm
khắc và nặng hơn. Điều này chúng ta thường hay gặp trong việc thi hành án
các vụ án kinh tế, tham nhũng lớn.
Do đó nếu không có sự chủ động trong việc xác định, cưỡng chế về tài
sản của người thực hiện hành vi phạm tội ngay từ giai đoạn điều tra thì sẽ gây
rất nhiều khó khăn cho các cơ quan tiến hành tố tụng có thể đảm bảo hiệu quả
cao nhất của hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự, không
thể giải quyết được triệt để các nội dung của vụ án hình sự. Trong những năm
gần đây, cùng với sự phát triển của kinh tế - xã hội là sự bùng nổ về khoa học,
kỹ thuật, công nghệ thông tin. Việc mở và sử dụng tài khoản tại các tổ chức
tín dụng để giao dịch, thanh toán của mỗi cá nhân ngày càng trở nên phổ biến,
hình thức thanh toán điện tử đang dần thay thế cho hình thức thanh toán
truyền thống. Thực tiễn công tác đấu tranh, phòng chống tội phạm cho thấy
loại tội phạm hoạt động trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng ngày càng gia
tăng, diễn biến phức tạp, với những phương thức thủ đoạn hoạt động rất tinh
vi. Quá trình thực hiện tội phạm, các đối tượng thường có xu hướng cất giấu
tiền liên quan đến hành vi phạm tội của mình vào tài khoản mở tại các tổ chức
tín dụng vì khi cất giấu tiền vào tài khoản tại các tổ chức tín dụng sẽ rất khó
18