Tải bản đầy đủ (.pdf) (101 trang)

Ảnh hưởng của hệ thống pháp luật Civil Law đến pháp luật Việt Nam thời Pháp thuộc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (985.38 KB, 101 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

TRẦN QUỐC BẢO

ẢNH HƢỞNG CỦA HỆ THỐNG PHÁP LUẬT
CIVIL LAW ĐẾN PHÁP LUẬT VIỆT NAM
THỜI PHÁP THUỘC

Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử nhà nƣớc và pháp luật
Mã số:8380101.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Mai Văn Thắng

HÀ NỘI – 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả nêu trong Luận văn chƣa đƣợc công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các
số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung
thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài
chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo
vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN

Trần Quốc Bảo



1


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU ........................................................................................................................ 4
Chƣơng 1: LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ VỀ ẢNH HƢỞNG CỦAHỆTHỐNG
PHÁP LUẬT CIVIL LAW ĐẾN PHÁP LUẬTVIỆT NAM THỜI PHÁP
THUỘC ........................................................................................................................ 10
1.1. Khái luận về hệ thống pháp luật Civil Law ................................................... 10
1.2. Ảnh hƣởng và các con đƣờng ảnh hƣởng của hệ thống pháp luật
Civil Law .............................................................................................................. 20
1.3. Bối cảnh pháp luật Việt Nam trƣớc thời Pháp thuộc .................................... 25
1.4. Khái luận về ảnh hƣởng của hệ thống pháp luật Civil Law đến
pháp luật Việt Nam thời Pháp thuộc .................................................................... 31
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 ..................................................................................... 36
CHƢƠNG 2: ẢNH HƢỞNG CỦA HỆ THỐNG PHÁP LUẬTCIVIL LAW
ĐẾN CÁC THÀNH TỐCƠ BẢN VÀ MỘT SỐLĨNH VỰC CỦA PHÁPLUẬT
VIỆT NAM THỜI PHÁP THUỘC ........................................................................... 37
2.1. Khái quát về pháp luật Việt Nam thời Pháp thuộc ........................................ 37
2.2. Ảnh hƣởng trên phƣơng diện tƣ tƣởng pháp luật .......................................... 39
2.3. Ảnh hƣởng trên phƣơng diện pháp điển hóa ................................................. 45
2.4. Ảnh hƣởng trên phƣơng diện hệ thống cấu trúc pháp luật ............................ 47
2.5. Ảnh hƣởng trên phƣơng diện nguồn pháp luật.............................................. 53
2.6. Ảnh hƣởng trên phƣơng diện tổ chức tƣ pháp .............................................. 57
2.7. Ảnh hƣởng trên phƣơng diện đào tạo luật, nghề luật và
tƣ duy pháp lý ....................................................................................................... 62
2.8. Ảnh hƣởng trên một số lĩnh vực pháp luật cụ thể ......................................... 67
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 ..................................................................................... 75

CHƢƠNG 3: GIÁ TRỊ ĐƢƠNG ĐẠI CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU
ẢNHHƢỞNG CỦAHỆ THỐNG PHÁP LUẬT CIVIL LAW ĐẾN PHÁP
LUẬTVIỆT NAM THỜI PHÁPTHUỘC ................................................................. 76

2


3.1. Giá trị lịch sử đúc rút từ những ảnh hƣởng của hệ thống pháp luật
Civil Law đếnpháp luậtViệt Namthời Pháp thuộc ............................................... 76
3.2. Bài học kinh nghiệm về tiếp nhận pháp luật nƣớc ngoài từ việc
nghiên cứuảnh hƣởng của hệ thống pháp luật Civil Law đến pháp luật
Việt Nam thời Pháp thuộc .................................................................................... 84
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3 ..................................................................................... 91
KẾT LUẬN .................................................................................................................. 94
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................... 96

3


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thời kỳ Pháp thuộc (1884-1945) là giai đoạn đánh dấu một bƣớc chuyển mình
lớn của lịch sửpháp luật Việt Nam. Truyền thống pháp luật phong kiến phƣơng
Đông lấy Nho giáo là nền tảng tƣ tƣởng đƣợc thay thế bởi một hệ thống pháp luật
văn minh, tiến bộ của phƣơng Tây chứa đựng nhiều giá trị về bảo đảm tự do cá
nhân và quyền con ngƣời. Đặc biệt, pháp luật của Bắc Kỳ và Trung Kỳ là sự kết
hợp độc đáo giữa các yếu tố du nhập từ châu Âu và các giá trị văn hóa pháp lý
truyền thống của dân tộc. Nhiều quy định, chế định pháp luật của thời Pháp thuộc
vẫn còn sức sống đến tận ngày nay và trở thành nguồn tài liệu tham khảo quý báu
cho các luật gia trong hoạt động nghiên cứu và xây dựng pháp luật.

Cuối thế kỷ XIX, thực dân Pháp áp đặt chính sách cai trị lên toàn lãnh thổ Việt
Nam. Chính quyền thực dân cho ban hành pháp luật và thiết lập các thiết chế pháp
luật trên cả ba xứ Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ nhằm phục vụ việc bành trƣớng
lãnh thổ và khai thác thuộc địa của chúng trên lãnh thổ nƣớc ta. Nhƣng mặt khác,
các bộ luật và thiết chế pháp luật của ngƣời Pháp mang vào Việt Nam cũng khiến
cho hệ thống pháp luật nƣớc ta thoát khỏi những khuôn khổ chật hẹp của kiểu pháp
luật phong kiến Á Đông và tiếp cận với những giá trị văn minh, tiến bộ của hệ
thống pháp luật Civil Law.
Hiện nay, nhu cầu tƣơng tác, học hỏi, tiếp nhận pháp luật nƣớc ngoài đang trở
thành một xu thế tất yếu của các hệ thống pháp luật trên thế giới. Trong tiến trình
toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế mọi mặt của đời sống xã hội, pháp luật Việt Nam
cũng cần đổi mới, chọn lọc và tiếp thu những giá trị văn hóa pháp lý tiến bộ từ các
hệ thống pháp luật, đặc biệt là hệ thống pháp luật Civil Law vốn có nhiều đặc điểm
gần gũi với pháp luật truyền thống của Việt Nam.
Việc nghiên cứu ảnh hƣởng của hệ thống pháp luật Civil Law đến pháp luật
Việt Nam thời kỳ Pháp thuộc chính là dịp để “ôn cố tri tân”, xác định những giá trị
tiến bộ mà hệ thống pháp luật này mang lại cho đời sống pháp luật Việt Nam trong
quá khứ để từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm cho công cuộc cải cách pháp

4


luật Việt Nam hiện hành cho phù hợp với yêu cầu của thời đại mới. Theo tác giả,
việc nghiên cứu một cách bao quát và có hệ thống về pháp luật Việt Nam thời Pháp
thuộc cũng nhƣảnh hƣởng của hệ thống pháp luật Civil Law đến pháp luật thời kỳ
này là hết sức cần thiết.
Vì lý do đó, tác giả lựa chọn đề tài “Ảnh hƣởng của hệ thống pháp luật Civil
Law đến pháp luật Việt Nam thời Pháp thuộc” làm đề tài Luận văn Thạc sĩ Luật học
của mình.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu

Đến nay, đã có nhiều công trình khoa học, sách báo pháp lý chuyên ngành
trong nƣớc nghiên cứu đến các khía cạnh khác nhau của lịch sử pháp luật thời kỳ
Pháp thuộc.
Một số công trình nghiên cứu pháp luật thời Pháp thuộc một cách tổng quát
nhƣ: “Pháp chế sử” (xuất bản năm 1972) của Vũ Quốc Thông, “Sơ thảo lịch sử nhà
nƣớc và pháp quyền Việt Nam” (xuất bản năm 1968) của Đinh Gia Trinh; “Giáo
trình Lịch sử nhà nƣớc và pháp luật Việt Nam” (xuất bản năm 2007) của Vũ Thị
Phụng, “Giáo trình Lịch sử nhà nƣớc và pháp luật Việt Nam” (xuất bản năm 2007)
của Trƣờng Đại học Luật Hà Nội; “Giáo trình Lịch sử nhà nƣớc và pháp luật Việt
Nam” (xuất bản năm 2015) của Trƣờng Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh;
“Giáo trình Lịch sử nhà nƣớc và pháp luật Việt Nam” (xuất bản năm 2017) của
Khoa luật Đại học Quốc gia Hà Nội…
Một số công trình nghiên cứu những thành tố cụ thể của hệ thống pháp luật
thời Pháp thuộc nhƣ: “Tƣ tƣởng lập hiến Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX” (xuất bản
năm 2006) của Phan Đăng Thanh; “Tƣ tƣởng Việt Nam về quyền con ngƣời” (xuất
bản năm 2016) của GS. Phạm Hồng Thái (Chủ biên); “Lịch sử nghề luật sƣ ở Việt
Nam” (xuất bản năm 2015) của Phan Đăng Thanh và Trƣơng Thị Hòa; “Thể chế tƣ
pháp trong nhà nƣớc pháp quyền” (xuất bản năm 2004) của Nguyễn Đăng Dung
(chủ biên)…
Một số công trình nghiên cứu các lĩnh vực cụ thể của pháp luật thời Pháp
thuộc nhƣ: “Dân luật khái luận” (xuất bản năm 1960) của GS.Vũ Văn Mẫu, “Luật

5


Dân sự tố tụng Việt Nam” (xuất bản năm 1962) của Nguyễn Huy Đẩu, “Hình –
Luật” (xuất bản năm 1973) của Nguyễn Huy Chiểu, “Lịch sử Luật Hình sự Việt
Nam” (xuất bản năm 2002) của TS.Trần Quang Tiệp, “Lịch sử Luật Tố tụng hình sự
Việt Nam” (xuất bản năm 2003) của TS.Trần Quang Tiệp...
Ngoài ra còn có nhiều bài viết trong các tạp chí ngành luật học, các luận văn

thạc sĩ luật học đề cập những vấn đề chuyên sâu của đời sống pháp luật Việt Nam
thời kỳ Pháp thuộc.
Tuy nhiên, các công trình trên vẫn chƣa nghiên cứu một cách trực tiếp và có
hệ thống về những ảnh hƣởng của truyền thống pháp luật Civil Law đến pháp luật
Việt Nam ở thời kỳ này.
Một trong những công trình có nội dung gần gũi với đối tƣợng nghiên cứu của
luận văn nhất là cuốn sách “Ảnh hƣởng của truyền thống pháp luật Pháp tới pháp
luật Việt Nam” của Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội xuất bản năm 2016, là
tập hợp các bài viết của nhiều nhà nghiên cứu luật học của Việt Nam và Pháp. Cuốn
sách chứa đựng những bài viết nghiên cứu về ảnh hƣởng của hệ thống pháp luật
Civil Law, thông qua pháp luật nƣớc Pháp đến pháp luật Việt Nam thời thuộc Pháp.
Bài viết “Mối quan hệ của pháp luật Việt Nam và pháp luật Pháp xét từ lôgic của sự
tiếp nhận và chuyển hóa pháp luật” của GS.TSKH. Đào Trí Úc đã phân tích các
kênh ảnh hƣởng của pháp luật Pháp đối với pháp luật Việt Nam, trong đó có ảnh
hƣởng qua sự áp đặt của thực dân Pháp đối với pháp luật Việt Nam. Bài viết “Sự
ảnh hƣởng của pháp luật Pháp tới luật tƣ ở Việt Nam” của PGS.TS. Ngô Huy
Cƣơng phân tích quá trình ảnh hƣởng của luật tƣ của Pháp đến Việt Nam và việc
định hình pháp luật dân sự và thƣơng mại ở Việt Nam thời Pháp xâm lƣợc. Tác giả
cũng khẳng định mô hình pháp điển hóa luật tƣ kiểu Pháp phù hợp với tƣ duy pháp
lý của ngƣời Việt Nam. Bài viết “Những ảnh hƣởng của Pháp đối với tƣ tƣởng về
quyền con ngƣời ở Việt Nam” của TS. Nguyễn Linh Giang và bài viết “Ảnh hƣởng
của văn hóa pháp luật Pháp đối với quá trình hình thành và phát triển của tƣ tƣởng
lập hiến Việt Nam trƣớc Cách mạng tháng tám 1945” của GS.TS. Thái Vĩnh Thắng
phân tích quá trình truyền bá các tƣ tƣởng pháp luật tiến bộ của Pháp đến Việt Nam

6


vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Ngoài ra, cũng có một số bài viết nghiên cứu
ảnh hƣởng của pháp luật Pháp đến những lĩnh vực pháp luật cụ thể của thời Pháp

thuộc.
Nhƣ vậy, đã có một số công trình nghiên cứu về pháp luật Việt Nam thời kỳ
Pháp thuộc và ít nhiều có đề cập đến những ảnh hƣởng của hệ thống pháp luật Civil
Law đến pháp luật thời kỳ này. Tuy nhiên, hiện nay vẫn chƣa có một công trình
nghiên cứu một cách toàn diện và có hệ thống về ảnh hƣởng của hệ thống pháp luật
Civil Law đến pháp luật Việt Nam thời Pháp thuộc.
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích đƣợc đặt ra cho đề tài là nghiên cứu pháp luật Việt Nam thời kỳ
Pháp thuộc trên góc độ chỉ ra và phân tích các đặc trƣng của truyền thống pháp luật
Civil Law trên các thành tố của pháp luật: hệ thống cấu trúc, nguồn luật, tƣ tƣởng
pháp luật, hệ thống tƣ pháp, đào tạo luật, nghề luật và tƣ duy pháp lý. Từ đó, rút ra
những bài học kinh nghiệm để Việt Nam có thể kế thừa trong công tác hoàn thiện
hệ thống pháp luật của thời đại mới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Với mục đích trên, Luận văn cần phải thực hiện các nhiệm vụ sau:
- Tìm hiểu khái quát về hệ thống pháp luật Civil Law và tình hình pháp luật
Việt Nam trƣớc và trong thời Pháp thuộc, chỉ ra những vấn đề lý luận về ảnh hƣởng
của hệ thống pháp luật Civil Law đến pháp luật Việt Nam thời kỳ Pháp thuộc.
- Tìm hiểu và phân tích ảnh hƣởng của hệ thống pháp luật Civil Law đến pháp
luật Việt Nam thời kỳ Pháp thuộc trên các thành tố của hệ thống pháp luật và một
số lĩnh vực pháp luật cơ bản.
- Nêu lên những giá trị lịch sử từ các yếu tố pháp luật Civil Law trong pháp
luật Việt Nam thời kỳ Pháp thuộc và qua đó rút ra một số bài học kinh nghiệm từ
pháp luật thời kỳ Pháp thuộc trong hoạt động tiếp nhận pháp luật nƣớc ngoài ở Việt
Nam hiện nay.
4. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu

7



4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn là những yếu tố thuộc hệ thống pháp luật
Việt Nam thời Pháp thuộc: hệ thống cấu trúc pháp luật, hệ thống nguồn luật, tƣ
tƣởng pháp luật, hệ thống tƣ pháp, thủ tục tố tụng, đào tạo luật, nghề luật, tƣ duy
pháp luật…và những đặc điểm của truyền thống pháp luật Civil Law đƣợc thể hiện
trong các thành tố pháp luật trên.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về thời gian: Luận văn nghiên cứu ảnh hƣởng của hệ thống pháp luật Civil
Law đến pháp luật Việt Nam trong thời kỳ Pháp thuộc, bắt đầu từ năm 1884 khi
chính quyền thực dân Pháp ép triều đình nhà Nguyễn chấp nhận sự bảo hộ của
Pháp, cho đến năm 1945 khi Pháp mất quyền cai trị ở Đông Dƣơng.
- Về không gian: Luận văn nghiên cứu ảnh hƣởng của hệ thống pháp luật Civil
Law đến hệ thống pháp luật đƣợc áp dụng trên ba xứ Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ
theo cách phân chia đơn vị hành chính của thực dân Pháp đối với phần lãnh thổ Việt
Nam trong Liên bang Đông Dƣơng.
- Về nội dung: Luận văn nghiên cứu pháp luật thời Pháp thuộc trên khía cạnh
những đặc trƣng của truyền thống pháp luật Civil Law đƣợc du nhập vào pháp luật
Việt Nam thời kỳ này.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Cơ sở phƣơng pháp luận của Luận văn là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử. Các vấn đề thuộc nội dung của của Luận văn đƣợc nghiên
cứu trong một tổng thể với những mối liên hệ qua lại lẫn nhau, đặt trong bối cảnh
chính trị - kinh tế - xã hội của từng thời kỳ lịch sử.
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả sử dụng các phƣơng pháp nhƣ phƣơng
pháp trừu tƣợng khoa học, phƣơng pháp phân tích - tổng hợp, phƣơng pháp hệ
thống và phƣơng pháp so sánh. Các phƣơng pháp trên đƣợc sử dụng kết hợp với
nhau bảo đảm cho nội dung nghiên cứu của Luận văn vừa có tính khái quát, vừa có
tính cụ thể để làm sáng tỏ, đánh giá một cách toàn diện về các đối tƣợng cần nghiên
cứu của Luận văn.


8


6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần tiếp tục kế thừa, phát triển, hoàn
thiện những tri thức về pháp luật Việt Nam thời kỳ Pháp thuộc, cũng nhƣ ảnh
hƣởng của hệ thống pháp luật Civil Law đến pháp luật thời kỳ này.
Luận văn là một tài liệu hữu ích để các nhà nghiên cứu, học viên, sinh viên
chuyên ngành luật tham khảo trong việc thực hiện công trình nghiên cứu, học tập
các vấn đề có liên quan.
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể đƣợc các cơ quan xây dựng pháp luật
sử dụng làm luận cứ khoa học phục vụ cho việc tham khảo kinh nghiệm pháp luật
thời Pháp thuộc hoặc pháp luật nƣớc ngoài.
7. Bố cục của Luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn gồm
3 chƣơng:
Chƣơng 1: Những vấn đề lý luận và lịch sử về ảnh hƣởng của hệ thống pháp
luật Civil Law đến pháp luật Việt Nam thời Pháp thuộc
Chƣơng 2: Ảnh hƣởng của hệ thống pháp luật Civil Law đến các thành tố cơ
bản và một số lĩnh vực của pháp luật Việt Nam thời Pháp thuộc
Chƣơng 3: Giá trị lịch sử từ những ảnh hƣởng của hệ thống pháp luật Civil
Law trong pháp luật Việt Nam thời Pháp thuộc và bài học kinh nghiệm trong hoạt
động tiếp nhận pháp luật nƣớc ngoài hiện nay

9


CHƢƠNG 1:
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ VỀẢNH HƢỞNG CỦA HỆ

THỐNG PHÁP LUẬT CIVIL LAW ĐẾNPHÁP LUẬT VIỆT NAM
THỜI PHÁP THUỘC
1.1. KHÁI LUẬN VỀ HỆ THỐNG PHÁP LUẬT CIVIL LAW
1.1.1. Khái niệm và đặc trƣng cơ bản của hệ thống pháp luật Civil Law
Hệ thống pháp luật Civil Law là hệ thống pháp luật lớn nhất trên thế giới, hình
thành và phát triển trên nền tảng Luật La Mã cổ đại. Hệ thống pháp luật này hình
thành và phát triển mạnh mẽ ở các nƣớc châu Âu lục địa. Ngày nay, phạm vi ảnh
hƣởng của hệ thống pháp luật Civil Lawrất rộng, bao gồm: các quốc gia lục địa
châu Âu (Pháp, Đức, Italia, Hà Lan, Tây Ban Nha, các nƣớc Scandinavia…), phần
lớn các nƣớc châu Phi, hầu hết các nƣớc Mỹ Latinh (Braxin), nhiều nƣớc châu Á
(Nhật Bản, Trung Quốc…). Trong đó, pháp luật của Pháp và Đức là điển hình và có
ảnh hƣởng lớn đến pháp luật của các nƣớc khác trong hệ thống.
Hệ thống pháp luật Civil Law còn đƣợc gọi với nhiều cái tên khác nhau nhƣ:
hệ thống pháp luật Roman – Giecmanh, hệ thống pháp luật thành văn, hệ thống
pháp luật bắt nguồn từ Luật La Mã.
Việc nghiên cứu hệ thống pháp luật Civil Law và phân nhóm pháp luật của
các nƣớc vào hệ thống này nhằm mục đích chỉ ra những điểm tƣơng đồng và khác
biệt giữa pháp luật của các nƣớc cùng hệ thống, các nƣớc thuộc các hệ thống khác
nhau. Điều đó có ý nghĩa lớn trong việc nâng cao hiểu biết pháp luật của những nhà
nghiên cứu, hỗ trợ hoạt động cải cách pháp luật quốc gia thông qua việc tiếp thu
những giá trị pháp lý tiến bộ của nƣớc khác.
Hệ thống pháp luật Civil Law có những đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, đây là hệ thống pháp luật bắt nguồn từ Luật La Mã và chịu sự ảnh
hƣởng sâu sắc của Luật La Mã[37; tr.73].Hệ thống thuật ngữ, cách thức phân loại
và tƣ duy pháp luật của hệ thống pháp luật Civil Law đƣợc kế thừa từ di sản Luật
La Mã. Luật La Mã xác định phạm vi điều chỉnh của luật tƣ, trên cơ sở đó các nƣớc

10



Civil Law xây dựng đƣợc hệ thống các quy phạm pháp luật thành văn. Sự ảnh
hƣởng này trải qua một thời gian rất dài, gắn liền với từng giai đoạn phát triển của
hệ thống Civil Law. Các bộ luật dân sự lớn của châu Âu lục địa nhƣ Bộ luật dân sự
Pháp và Bộ luật Dân sự Đức đều là sự kết hợp giữa pháp luật tập quán và Luật La
Mã. Bộ luật Dân sự Pháp chứa đựng nhiều chế định đƣợc kế thừa từ Luật La Mã
nhƣ chế định vật quyền, trái vụ, hợp đồng… Bộ luật Dân sự Đức có sự bám sát
Corpus juris civilis về tinh thần cũng nhƣ cách sắp xếp. Việc nghiên cứu và giảng
dạy Luật La Mã ở các trƣờng luật chính là cơ sở cho việc các luật gia châu Âu lục
địa xây dựng các bộ luật dân sự của nƣớc họ với nền tảng là Luật La Mã.
Thứ hai, về mặt hệ thống cấu trúc, hệ thống pháp luật Civil Law có sự phân
chia luật công và luật tƣ. Phân chia luật công và luật tƣ là một nét đặc trƣng của
truyền thống pháp luật châu Âu lục địa. Sự phân chia pháp luật thành luật công và
luật tƣ dựa trên tƣ tƣởng đã trở thành hiển nhiên đối với các luật gia lục địa châu Âu
là những mối quan hệ giữa ngƣời cai trị và ngƣời bị cai trị đòi hỏi những chế định
khác với những mối quan hệ giữa các cá nhân với nhau[36; tr.68]. Luật tƣ gồm:
Luật dân sự, Luật hôn nhân và gia đình, Luật thƣơng mại, Luật lao động. Luật công
gồm: Luật hiến pháp, Luật hành chính, Luật hình sự, Luật thuế. Ở châu Âu, luật tƣ
đã rất phát triển từ thời La Mã cổ đại với những quy định rất tiến bộ về dân sự, hôn
nhân và gia đình. La Mã cũng có luật điều chỉnh tổ chức và hoạt động của bộ máy
nhà nƣớc nhƣng không hoàn thiện và cũng không có ảnh hƣởng đáng kể đối với luật
công của các nƣớc sau này[22; tr.9]. Đến thế kỷ XVII, XVIII khi trƣờng phái luật tự
nhiên phát triển thì dần xuất hiện tƣ tƣởng tôn trọng các quyền cơ bản, đề cao tự do
cá nhân, phân chia quyền lực nhằm hạn chế, kiểm soát quyền lực nhà nƣớc. Những
luồng tƣ tƣởng này đã củng cố thêm tƣ duy cho sự phát triển các ngành luật công
nhƣ luật hiến pháp, luật hành chính. Sự phân chia luật công và luật tƣ có ảnh hƣởng
lớn đến hoạt động xây dựng và thực hiện pháp luật ở các quốc gia thuộc hệ thống
Civil Law. Hệ thống tòa án ở các nƣớc này cũng có sự phân định rõ ràng giữa các
tòa xét xử các vụ việc theo luật công và các tòa xét xử các vụ việc theo luật tƣ.

11



Thứ ba, đây là hệ thống coi trọng vai trò của luật thành văn trong hệ thống
nguồn luật. Luật thành văn đƣợc xem là nguồn luật quan trọng nhất và đƣợc áp
dụng đầu tiên. Các nguồn luật khác chỉ đƣợc áp dụng khi luật thành văn còn thiếu
và chỉ mang tính hỗ trợ cho những khiếm khuyết của luật thành văn. Đây là đặc
trƣng chủ yếu để phân biệt hai hệ thống pháp luật Civil Law và Common Law.Xu
hƣớng ƣa chuộng luật thành văn đã trở thành nét văn hóa pháp lý ở hệ thống pháp
luật Civil Law từ lâu đời. Từ thời La Mã cổ đại, pháp luật thành văn đã rất phổ biến
và tƣơng đối đầy đủ nên việc sử dụng tiền lệ pháp là không cần thiết. Sau Cách
mạng tƣ sản Pháp (1789), Napoleon đã tiến hành cải cách pháp luật và xây dựng
hàng loạt các bộ luật lớn trên nhiều lĩnh vực với kỹ thuật pháp lý hiện đại và nội
dung chi tiết, rõ ràng. Theo tƣ tƣởng chung của các luật gia Civil Law,pháp luật là ý
chí chung của nhân dân vì thế pháp luật phải do cơ quan lập pháp (cơ quan đại diện
cho ý chí của nhân dân) xây dựng. Các nƣớc này không thừa nhận chức năng lập
pháp của cơ quan tƣ pháp hoặc của nhà vua. Các giải pháp pháp lý trong tập quán
hay án lệ nếu phù hợp với thực tiễn xét xử và đƣợc áp dụng một cách thƣờng xuyên
thì dần dần sẽ đƣợc pháp điển hóa thành luật thành văn và đƣợc áp dụng chính thức.
Thứ tƣ, thủ tục tố tụng hình sự đƣợc áp dụng phổ biến tại các nƣớc thuộc hệ
thống Civil Law là tố tụng thẩm vấn. Mô hình tố tụng thẩm vấn là sự kết hợp giữa
các yếu tố của Luật La Mã với những nguyên tắc pháp lý của Giáo hội Thiên chúa
giáo [23; tr.50]. Đây là loại thủ tục đề cao vai trò chủ động của thẩm phán. Thẩm
phán là ngƣời có trách nhiệm tìm ra sự thật khách quan của vụ án trên cơ sở các
chứng cứ thu thập đƣợc. Thẩm phán cũng là ngƣời có vai trò quan trọng trong việc
xét hỏi ngƣời bị buộc tội tại phiên toà.Xét hỏi là phƣơng thức chủ yếu đƣợc áp dụng
ở tất cả các giai đoạn của quá trình tố tụng, đặc biệt là tại phiên tòa. Tại phiên tòa,
thẩm phán xét xử dựa trên hồ sơ, chứng cứ đã đƣợc thu thập ở các giai đoạn trƣớc
đó và chủ động hỏi những ngƣời tham gia để xác minh, kiểm tra lại chứ không chỉ
dựa trên các chứng cứ trực tiếp đƣợc trình bày tại phiên tòa. Mô hình này đƣợc xây
dựng với quan điểm cho rằng tội phạm là hành vi xâm hại đến lợi ích của cả xã hội,

Nhà nƣớc phải có trách nhiệm đứng ra giải quyết. Nghĩa vụ buộc tội hoàn toàn

12


thuộc về Nhà nƣớc và các công chức nhà nƣớc. Ngƣời bị hại bị loại khỏi vai trò của
bên buộc tội, chỉ tham gia tố tụng nhƣ một ngƣời làm chứng. Thậm chí, sự tham gia
của luật sƣ bào chữa cũng không mang tính bắt buộc và luật sƣ chỉ có quyền chứ
không có nghĩa vụ trình bày chứng cứ.
Thứ năm, pháp luật của các nƣớc thuộc hệ thống pháp luật Civil Law có trình
độ pháp điển hóa cao[37; tr.74]. Truyền thống pháp điển hóa pháp luật thành các bộ
luật thành văn đã có từ thời La Mã cổ đại với sự xuất hiện của Bản tập hợp Corpus
Juris Civillis. Hoạt động pháp điển hóa ở các nƣớc này đƣợc chú trọng và phát triển
hơn so với các nƣớc thuộc các hệ thống pháp luật khác. Các nƣớc này đã sớm xây
dựng đƣợc nhiều bộ luật thành văn thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau. Vào đầu thế kỷ
XIX, Pháp xây dựng đƣợc nhiều bộ luật quan trọng nhƣ Bộ luật Dân sự (1804), Bộ
luật tố tụng dân sự (1806), Bộ luật thƣơng mại (1807), Bộ luật tố tụng hình sự
(1808), Bộ luật hình sự (1810)… Nửa cuối thế kỷ XIX, Đức cũng xây dựng nhiều
bộ luật nhƣ Bộ luật thƣơng mại (1866), Bộ luật hình sự (1871), Bộ luật tố tụng hình
sự (1877), Bộ luật dân sự (1896)…Nhờ việc xây dựng nhiều luật thành văn, việc
nghiên cứu và thực hiện pháp luật trở nên dễ dàng bởi hầu hết mọi trƣờng hợp của
đời sống đều đƣợc điều chỉnh.
Thứ sáu, pháp luật của các nƣớc thuộc hệ thống Civil Law đã thoát khỏi sự
ảnh hƣởng của tôn giáo, luân lý, đề cao công lý và tự do cá nhân[42; tr.100].Pháp
luật các nƣớc châu Âu lục địa đề cao tự do cá nhân, bảo vệ các quyền cơ bản của
công dân trong nhiều lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội. Bản Tuyên ngôn Nhân
quyền và Dân quyền của Pháp khẳng định: “Ngƣời ta sinh ra tự do và bình đẳng về
quyền lợi và phải luôn luôn đƣợc tự do và bình đẳng về quyền lợi” (Điều 1). Hƣớng
tới công lý, pháp luật của các nƣớc Civil Law chú trọng việc bảo vệ các quyền tự
nhiên của con ngƣời, đa dạng hóa các nguồn luật, đa dạng hóa phƣơng thức giải

quyết tranh chấp và duy trì nguyên tắc bất khẳng thụ lý trong hoạt động tƣ pháp
nhằm bảo đảm quyền tiếp cận công lý của ngƣời dân. Các bộ luật của hệ thống Civil
Law đƣợc xây dựng trên nguyên tắc phi tôn giáo, các tôn giáo bình đẳng với nhau

13


về quyền và nghĩa vụ. Các thủ tục, tục lệ gắn liền với tôn giáo đƣợc thay thế bằng
các thủ tục phi tôn giáo nhƣ thủ tục về kết hôn.
Thứ bảy, tƣ duy pháp lý của các luật gia thuộc hệ thống Civil Law là tƣ duy
diễn dịch. Ở hệ thống Civil Law, các phán đoán và lập luận chủ yếu dựa trên các
quan điểm cơ bản đƣợc quy định trong quy phạm pháp luật đối với các sự kiện đa
dạng của thực tế xảy ra[20; tr.39]. Lối tƣ duy này của các luật gia Civil Law bắt
nguồn từ thói quen pháp điển hóa, khái quát hóa các vấn đề của đời sống xã hội
thành các quy định cụ thể để đƣa vào luật thành văn. Các luật gia Civil Law khi cần
giải quyết một vấn đề pháp lý nào đó thì trƣớc tiên sẽ tìm kiếm giải pháp trong các
văn bản pháp luật sau đó mới đến thực tiễn pháp luật. Đây là lối tƣ duy đi từ cái
chung đến cái riêng, đi từ trừu tƣợng đến cụ thể, đi từ lý luận đến thực tiễn. Tƣ duy
này có ảnh hƣởng rất lớn đến cách thức xây dựng pháp luật, áp dụng pháp luật và
giải thích pháp luật của các nƣớc thuộc hệ thống Civil Law. Kiểu tƣ duy này cũng
ảnh hƣởng đến các quy phạm pháp luật của hệ thống pháp luật này. Quy phạm pháp
luật trong hệ thống Civil Law có tính khái quát cao, có thể đƣợc áp dụng trong
nhiều trƣờng hợp khác nhau, tạo khoảng trống cho thẩm phán thể hiện sự sáng tạo
trong áp dụng pháp luật.
1.1.2. Lƣợc sử hình thành và phát triển của hệ thống pháp luật Civil Law
Từ Civil Law trong hệ thống pháp luật Civil Law bắt nguồn từ chữ “jus civile”
(Luật tƣ La Mã)[50].Đây là hệ thống pháp luật tồn tại ở nhà nƣớc La Mã cổ đạitừ
năm 449 TCN với sự ra đời của Luật 12 bảng cho đến khi chấm dứt đế quốc vào
thời hoàng đế Justinian. Luật La Mã là hệ thống pháp luật hoàn chỉnh nhất của nhà
nƣớc thời kỳ cổ đại trên thế giới.

Nhà nƣớc La Mã đƣợc hình thành từ thế kỷ VIII trƣớc Công nguyên. Với
những điều kiện về vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên thuận lợi, nhà nƣớc La Mã đã
duy trì trong suốt nhiều thế kỷ và phát triển rực rỡ cả về kinh tế, xã hội, tƣ tƣởng.
Cùng với sự ra đời và phát triển của nhà nƣớc La Mã là sự xuất hiện của Luật La
Mã. Luật La Mã thời kỳ đầu bao gồm jus civile (luật dân sự áp dụng cho công dân
La Mã), jus gentium (luật áp dụng cho ngƣời không có tƣ cách công dân La Mã) và

14


jus praetorium (luật do các thẩm phánrút ra từ hoạt động xét xử)[22; tr.8]. Về sau
các bộ phận này đƣợc hệ thống hóa bởi Hoàng đế Justinian (483-565) trong một bộ
tổng luật mang tên Corpus Juris Civilis.
Sự kiện hoàng đế Justinian cho ban hành bản tập hợp Corpus Juris Civilis vào
thế kỷ VI đƣợc xem là dấu mốc quan trọng cho việc phát triển pháp luật ở các nƣớc
châu Âu lục địa. Corpus Juris Civilis gồm 4 phần: Institues là tập hợp các luận
thuyết về pháp luật dựa trên nền các luận thuyết của luật gia Gaius; Digest là tập
hợp những ghi chép, bình luận của các luật gia uyên bác; Code là các bộ luật, sắc
lệnh của các hoàng đế La Mã; Novels là các luật thành văn của hoàng đế
Justinian[24; tr.69]. Corpus Juris Civilis cung cấp các ý tƣởng pháp lý cho các sinh
viên và học giả pháp luật thời bấy giờ và cả sau này. Nó kết hợp các quy phạm pháp
luật và các nguyên tắc pháp luật cùng với những quan điểm và lập luận khác nhau
của các học giả nổi tiếng của La Mã thời bấy giờ.
Đến thế kỷ XI, công nghiệp và thƣơng mại ở Tây Âu bắt đầu phát triển, các đô
thị và tầng lớp thị dân cũng xuất hiện. Các quan hệ xã hội mới hình thành đòi hỏi
phải có một hệ thống pháp luật mới thống nhất điều chỉnh.
Trong bối cảnh xã hội mới, nhu cầu về tri thức của xã hội tăng lên, các trƣờng
học của giáo hội không đáp ứng đƣợc nhu cầu tăng cao ấy, vì thế các trƣờng học
của thị dân bắt đầu đƣợc hình thành. Việc nghiên cứu, giảng dạy pháp luật ở các
trƣờng đại học có vai trò to lớn trong việc phát triển pháp luật ở châu Âu lục địa.

Đến khoảng thế kỷ XII – XIII, Corpus Juris Civilis đƣợc nghiên cứu và đƣa vào
giảng dạy ở các trƣờng đại học. Trƣờng đại học Bologna (Italia) là một trong những
nơi đầu tiên giảng dạy Luật La Mã ở châu Âu từ cuối thế kỷ XI.
Từ thế kỷ XIII đến thế kỷ XVIII, các trƣờng đại học ở châu Âu không ngừng
giảng dạy, nghiên cứu Luật La Mã để đào tạo ra các thẩm phán, luật sƣ, chuyên gia
pháp lý. Các chuyên gia pháp lý này đi khắp các vùng của châu Âu làm thẩm phán,
làm luật sƣ cho giáo hội, cho nhà vua. Do đƣợc đào tạo chung theo một nội dung
nên dần dần các luật gia này đã xây dựng đƣợc một hệ thống pháp luật chung thống
nhất là Jus commune. Jus commune đƣợc hình thành từ các trƣờng đại học; trên cơ

15


sở kết hợp giữa Luật La Mã, Luật Giáo hội, tập quán của ngƣời Giecmanh và pháp
luật thời trung cổ. Sự ra đời của Jus commune đã giải quyết đƣợc tình trạng trƣớc
đó có quá nhiều luật địa phƣơng manh mún, phân tán trên khắp lãnh thổ lục địa
châu Âu. Jus commune đƣợc tiếp nhận và giảng dạy rộng rãi ở khắp lục địa châu
Âu, song sự tiếp nhận Jus commune ở các nƣớc cũng có sự khác nhau. Jus
commune có ý nghĩa lớn trong việccung cấp cho các luật gia châu Âu các nguyên
tắc và phƣơng pháp để tìm kiếm công lý.
Có 5 trƣờng phái pháp luật lớn có đóng góp vào sự phát triển của hệ thống
pháp luật Civil Law. Các trƣờng phái này đều hồi sinh lại Luật La Mã tuy nhiên
giữa chúng lại có sự bình luận và giải thích Luật La Mã theo các phƣơng pháp khác
nhau:
- Trƣờng phái luật học sƣ (glossators) ra đời vào thế kỷ XIII ở Italia. Các học
giả của trƣờng phái luật học sƣ nghiên cứu Luật La Mã dựa trên tinh thần của
Corpus Juris Civilis. Một vài chế định bị hủy bỏ và một số lĩnh vực đã đƣợc điều
chỉnh bởi Luật Giáo hội nhƣ kết hôn và thừa kế[13; tr.233].
- Trƣờng phái hậu luật học sƣ (post-glossators) ra đời vào thế kỷ XIV ở Italia.
Các học giả theo trƣờng phái này có chủ trƣơng không chỉ giải thích mà còn bình

luận Luật La Mã, cắt xén Luật La Mã sao cho phù hợp với xã hội lúc bấy giờ. Họ
tìm kiếm các giải pháp của Luật La Mã và kế thừa, hoàn thiện nó[13; tr.233].
- Trƣờng phái nhân văn (humanistes) xuất hiện vào thế kỷ XV ở Pháp. Các
học giả của trƣờng phái này cố gắng phục hồi lại nguyên bản của Luật La Mã[13;
tr.233]. Họ tìm kiếm và nghiên cứu những khái niệm nguyên thủy của Luật La Mã
cổ đại.
- Trƣờng phái pháp điển hiện đại (pandectists) xuất hiện ở Đức vào khoảng thế
kỷ XVI, trƣờng phái này kế thừa sự tiến bộ của trƣờng phái hậu luật học sƣ và đƣa
thêm vào các công trình Luật La Mã tính cách của dân tộc Đức[20; tr.227]. Sự phát
triển trƣờng phái này là động lực thúc đẩy việc pháp điển hóa Bộ luật Dân sự Đức
năm 1896.

16


- Trƣờng phái luật tự nhiên (natural law) có nguồn gốc từ thời kỳ cổ đại thông
qua tƣ tƣởng của các triết gia Hy Lạp, La Mã và thực sự đƣợc phát triển vào thế kỷ
XVII, XVIII ở châu Âu với các nhà tƣ tƣởng lỗi lạc thời kỳ cách mạng tƣ sản.
Trƣờng phái này có sự phân biệt pháp luật thực định và pháp luật tự nhiên. Theo đó,
bên cạnh pháp luật thực định do nhà nƣớc ban hành còn tồn tại một loại pháp luật là
luật tự nhiên cao hơn luật thực định. Luật tự nhiên do tạo hóa sáng tạo ra, nằm
ngoài ý chí của con ngƣời. Luật tự nhiên là tổng hợp các quyền mà tất cả mọi ngƣời
có đƣợc từ tạo hóa tự nhiên, từ lúc sinh ra và bất khả xâm phạm, là lý trí và công
bằng không bị giới hạn bởi lãnh thổ các quốc gia, dân tộc [9; tr.261]. Pháp luật thực
định của nhà nƣớc phải tuân thủ luật tự nhiên, không đƣợc trái luật tự nhiên, phải
lấy luật tự nhiên làm nền tảng. Đây là trƣờng phái đặt nền móng cho việc giới hạn
quyền lực nhà nƣớc, sự phân chia luật công và luật tƣ, góp phần nhận thức lại vai
trò của pháp luật trong mối quan hệ với nhà nƣớc[20; tr. 228].
Cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX, các nƣớc thuộc hệ thống Civil Law tiến
hành các cuộc pháp điển hóa pháp luật mạnh mẽ. Pháp và Đức là hai quốc gia tiên

phong và đã xây dựng đƣợc nhiều bộ luật thành văn đồ sộ với những quy định pháp
lý tiến bộ, kế thừa đƣợc giá trị của Luật La Mã cổ đại đồng thời khẳng định và bảo
vệ các quyền cơ bản của con ngƣời, hạn chế sự lạm quyền từ phía Nhà nƣớc.
1.1.3. Phân nhóm hệ thống pháp luật Civil Law
Hệ thống pháp luật Civil Law thƣờng đƣợc phân chia thành3 nhóm khác nhau
dựa trên kỹ thuật pháp điển hóa: Civil Law kiểu Pháp, Civil Law kiểu Đức và Civil
Law kiểu Bắc Âu[49].
- Nhóm Civil Law kiểu Pháp (Napoleonic Law)
Nhóm này bao gồm: Pháp, Italia, Tây Ban Nha, Bỉ, Bồ Đào Nha, Quebec
(Canada), Louisiana (Hoa Kỳ), những nƣớc là thuộc địa cũ của Pháp. Trong đó
Pháp là nƣớc có hệ thống pháp luật điển hình, có ảnh hƣởng tới pháp luật của các
nƣớc khác trong nhóm. Đây là nhóm các nƣớc có pháp luật chịu ảnh hƣởng từ Bộ
luật Dân sự Pháp.

17


Bộ luật Dân sự Pháp đƣợc xem là xây dựng dựa trên cuốn Instituestrong
Corpus Juris Civillis. Cuốn này phân chia các quy phạm pháp luật thành ba nhóm
chính: Chủ thể, Vật và quyền tài sản, Đơn kiện[11; tr.69]. Bộ luật Dân sự Pháp bao
gồm 2283 Điều, chia thành Thiên mở đầu và 3 Quyển: Quyển 1 – Về ngƣời, Quyển
2 – Về tài sản và những thay đổi về sở hữu, Quyển 3 – Các phƣơng thức xác lập
quyền sở hữu. Theo đúng tinh thần của Institues, Bộ luật Dân sự Pháp là tập hợp
hóa đơn giản các chế định của luật dân sự, nên không có một quyển riêng về phần
chung của luật dân sự. Kiểu pháp điển hóa này khác hẳn Bộ luật Dân sự Đức với
tính trừu tƣợng hóa cao.
Bộ luật Dân sự Pháp là công trình do các luật gia đầy kinh nghiệm thực tiễn
xây dựng nên. Bộ luật Dân sự Pháp có ngôn ngữ giản dị, tinh tế, dễ tiếp cận cho tất
cả mọi ngƣời. Về nội dung, Bộ luật Dân sự Pháp những tƣ tƣởng của cách mạng
dân chủ tƣ sản Pháp trong việc bảo vệ các quyền và tự do cá. Nguyên tắc bình đẳng

trƣớc pháp luật, nguyên tắc tự do hợp đồng, các quy định chặt chẽ về bảo hộ quyền
sở hữu tài sản tƣ, là những giá trị tạo nên sức sống lâu bền của bộ luật này.
Bộ luật Dân sự Pháp là bộ luật mẫu mực trong số các bộ luật của xã hội tƣ sản,
nó khẳng định và bảo vệ các quyền cơ bản của con ngƣời, thứ có đƣợc từ các cuộc
cách mạng đấu tranh vì chế độ dân chủ của ngƣời dân nhiều quốc gia trên thế giới.
Chính vì thế, Bộ luật Dân sự Pháp đã ảnh hƣởng lớn đến sự hình thành pháp luật
dân sự của nhiều quốc gia khác.
- Nhóm Civil Law kiểu Đức (Germanistic Law)
Nhóm này bao gồm Đức và các quốc gia có pháp luật dân sự chịu ảnh hƣởng
sâu sắc từ Bộ luật Dân sự Đức nhƣ: Hy Lạp, Áo, Thụy Sĩ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài
Loan (Trung Quốc).
Bộ luật Dân sự Đức ra đời năm 1896, sau Bộ luật Dân sự Pháp gần 100 năm,
vì thếnhững ngƣời soạn thảo đã tiếp thu những ý kiến của các nhà pháp điển hiện
đại Đức – những ngƣời đã có công rất lớn trong việc hệ thống lại, sàng lọc và hiện
đại hóa pháp luật trong suốt thế kỷ XIX. Kết quả là Bộ luật Dân sự Đức có đặc
điểm rất khác so với Bộ luật Dân sự Pháp: cấu trúc hiện đại hơn, ngôn ngữ khúc

18


chiết hơn và có tính khái quát cao hơn. Bộ luật Dân sự Đức đƣợc xem là “thiên
đƣờng của các khái niệm và thuật ngữ” hay “Bộ luật của các giáo sƣ”
(Professorenrecht)[42; tr.177]. So với Bộ luật dân sự Pháp với ngôn từ giản dị, dễ
hiểu thì Bộ luật dân sự Đức trừu tƣợng, khoa học hơn và khó hiểu đối với ngƣời
không phải luật gia chuyên nghiệp. Kết cấu của bộ luật rất hợp lý, bao gồm phần
chung và các phần riêng, để tránh đƣợc sự trùng lặp về nội dung cũng nhƣ tạo cơ sở
cho cơ quan lập pháp soạn thảo các đạo luật chuyên ngành. Bộ luật Dân sự Đức
đƣợc xem là dựa trên Digesta trong Bộ tập hợp Corpus Juris Civillis với cách phân
chia rõ ràng giữa quy phạm luật nội dung và quy phạm luật tố tụng[11; tr.69].
Bộ luật Dân sự Đức chính là thành tựu của các luật gia Đức thế kỷ XIX và là

hình mẫu để các nƣớc khác trong nhóm Civil Law kiểu Đức xây dựng Bộ luật Dân
sự của nƣớc mình. Nhóm Civil Law kiểu Đức còn đƣợc xem là tiến bộ hơn nhóm
Civil Law kiểu Pháp về mặt kỹ thuật pháp lý với cách phân chia Phần chung và
Phần riêng trong Bộ luật Dân sự[11; tr.70].
Ngày nay, hai nhóm Civil Law kiểu Pháp và Civil Law kiểu Đức đã phát triển
và xích lại gần nhau và khó có thể phân biệt rõ ràng đây là hai nhóm riêng biệt,đặc
biệt trong điều kiện châu Âu hợp nhất[11; tr.70].
- Civil Law kiểu Bắc Âu (Scandinavian Law):
Nhóm này bao gồm Na Uy, Thụy Điển, Phần Lan, Đan Mạch và Iceland. Pháp
luật của các nƣớc này không đƣợc pháp điển hóa nhƣ Bộ luật Dân sự Pháp hay Bộ
luật Dân sự Đức.
Pháp luật của các nƣớc Bắc Âu đƣợc phát triển trên cơ sở của luật cổ Đức chứ
không phải là Luật La Mã. Nguyên nhân chính khiến cho Luật La Mã thời Trung cổ
không tác động đến pháp luật các nƣớc Bắc Âu vì những nƣớc này phát triển công
tác pháp điển hóa rất sớm dựa trên truyền thống luật của nƣớc mình[42; tr.93]. Bên
cạnh đó, pháp luật Bắc Âu cũng thiếu những cuộc pháp điển hóa luật tƣ lớn và có
hệ thống. Vì thế pháp luật dân sự ở các nƣớc Bắc Âu không đƣợc pháp điển hóa
nhƣ ở Pháp hay Đức. Vai trò của các nguyên tắc pháp lý trong nhóm pháp luật Bắc
Âu cũng hạn chế hơn so với các nhóm Civil Law kiểu Đức hay Pháp. Bên cạnh đó,

19


các quy phạm pháp luật ở các nƣớc Bắc Âu có xu hƣớng cụ thể hóa chứ không có
tính khái quát, trừu tƣợng cao nhƣ Đức hay Pháp[54].
Pháp luật các nƣớc Bồ Đào Nha, Braxin và Italia ban đầu ảnh hƣởng từ pháp
luật Pháp, về sau chịu ảnh hƣởng từ Đức. Các Bộ luật Dân sự của họ ở thế kỷ XIX
của các nƣớc này gần gũi với Bộ luật Dân sự Pháp, tuy nhiên các Bộ luật Dân sự
đƣợc ban hành vào thế kỷ XXI lại gần gũi với Bộ luật Dân sự Đức hơn. Pháp luật
của các quốc gia này đƣợc xem là có tính chất pha trộn.

Pháp luật của Hà Lan, hay ít nhất là Bộ luật Dân sự Hà Lan, không thể dễ
dàng đƣợc xếp vào một trong 3 nhóm trên và bộ luật này cũng ảnh hƣởng lớn đến
luật tƣ hiện đại của một số quốc gia khác. Bộ luật Dân sự Nga có một phần đƣợc
dịch từ Bộ luật Dân sự Hà Lan [20; tr.228].
Pháp luật Trung Quốc đôi khi đƣợc xếp vào một nhóm riêng biệt do đặc thù
pháp luật của quốc gia này chịu ảnh hƣởng sâu sắc từ tƣ tƣởng Nho giáo. Tuy
nhiên, sau Cách mạng Tân Hợi năm 1911 thì Trung Quốc đã ban hành hàng loạt các
đạo luật đƣợc mô phỏng theo hình mẫu của các bộ luật của các nƣớc châu Âu lục
địa. Về sau, pháp luật Trung Quốc chuyển sang theo mô hình Liên Xô, trở thành
một thành viên của hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa. Tuy vậy, trong bối cảnh
hiện nay pháp luật nƣớc này đang trong quá trình chuyển đối, nếu căn cứ vào các
tiêu chí nguồn luật, tƣ duy pháp lý, quy tắc pháp lý, và tính pháp điển của hệ thống
thì pháp luật Trung Quốc cũng đƣợc xếp vào hệ thống Civil Law.
1.2. ẢNH HƢỞNG VÀ CÁC CON ĐƢỜNG ẢNH HƢỞNG CỦA HỆ
THỐNG PHÁP LUẬT CIVIL LAW
1.2.1. Định nghĩavề ảnh hƣởng của hệ thống pháp luật Civil Law đến
pháp luật của một quốc gia
Theo Từ điển Tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học, khái niệm “ảnh hƣởng”đƣợc
hiểu là “tác động có thể để lại kết quả ở sự vật hoặc ngƣời nào đó”[44; tr.7]. Theo
cách định nghĩa này khi nói đến “ảnh hƣởng” tức là tồn tại hai hoặc nhiều hiện
tƣợng khác nhau. Trong đó, hiện tƣợng này sẽ tác động đến các hiện tƣợng khác

20


dẫn đến việc bản chất của các hiện tƣợng bị tác động thay đổi theo chiều hƣớng
giống với hiện tƣợng tác động.
Theo chủ nghĩa duy vật biện chứng của Mác-Lênin, các sự vật, hiện tƣợng
trong thế giới vật chất đều có mối liên hệ phổ biến. Không có bất cứ sự vật, hiện
tƣợng hay quá trình nào tồn tại tuyệt đối biệt lập với các sự vật, hiện tƣợng hay quá

trình khác. Các sự vật, hiện tƣợng luôn có sự quy định lẫn nhau, tác động lẫn nhau
và làm chuyển hóa lẫn nhau[4; tr.70]. Không chỉ trong thế giới tự nhiên mà trong cả
trong đời sống xã hội, các sự vật, hiện tƣợng cũng không tồn tại biệt lập, tách rời
nhau mà luôn luôn tác động qua lại, ảnh hƣởng lẫn nhau một cách trực tiếp hay gián
tiếp.
Pháp luật là một hiện tƣợng xã hội, là sản phẩm của xã hội có giai cấp. Theo
nghĩa rộng, pháp luật đƣợc hiểu là bao gồm tất cả các hiện tƣợng pháp luật, trong đó
có hệ thống các quy phạm pháp luật, tƣ tƣởng pháp luật, ý thức pháp luật, văn hóa
pháp luật, thực tiễn pháp luật[9; tr.292].Pháp luật của của quốc gia khác nhau sẽ có
những đặc trƣng khác nhau do sự khác biệt về lịch sử, văn hóa, chính trị, xã hội, tƣ
tƣởng và bản chất nhà nƣớc.
Các hệ thống pháp luật trên thế giới luôn có sự ảnh hƣởng, tƣơng tác lẫn nhau
và có xu hƣớng tiếp nhận, xích lại gần nhau thông qua nhiều con đƣờng, cách thức
và hoàn cảnh lịch sử khác nhau. Sự ảnh hƣởng, tác động lẫn nhau giữa các hệ thống
pháp luật sẽ làm giảm đi sự khác biệt và tăng tính tƣơng đồng giữa các hệ thống
pháp luật đó. Thông qua quá trình đó, pháp luật của một quốc gia có thể tiếp nhận
những yếu tố văn minh, tích cực, hạn chế đƣợc những khiếm khuyết còn tồn tại
trong hệ thống pháp luật của mình.
Có thể đƣa ra một định nghĩa chung nhất về sự ảnh hƣởng của hệ thống pháp
luật Civil Law nhƣ sau:
Ảnh hưởng của hệ thống pháp luật Civil Law đến pháp luật của một quốc gia
là sựchuyển hóacác yếu tố pháp luật củahệ thống pháp luật Civil Law vào trong
cấu trúc pháp luật của một quốc gia nằm ngoài hệ thống đó, làm thay đổi những
đặc trưng truyền thống của pháp luật quốc gia đó.

21


1.2.2. Các con đƣờng ảnh hƣởng của hệ thống pháp luật Civil Law
Về các kênh ảnh hƣởng của pháp luật nƣớc này với pháp luật nƣớc khác, GS.

TSKH Đào Trí Úc cho rằng:
Khi nói về ảnh hƣởng của pháp luật nƣớc này đối với pháp luật của
nƣớc khác, ít nhất cần làm rõ ba yếu tố của cơ chế ảnh hƣởng: sự áp đặt
của bên gây ảnh hƣởng đối với bên chịu ảnh hƣởng; sự tiếp nhận chủ
động của bên tiếp nhận; và cuối cùng là ảnh hƣởng bởi hấp lực tự nhiên
nhƣ con ngƣời ta vẫn thƣờng hấp dẫn nhau bởi những giá trị của chính
mình [1; tr.16].
Nhận định trên cho thấy có các con đƣờng ảnh hƣởng chính: sự cƣỡng bức và
sự tiếp nhận chủ động. Một là sự cƣỡng bức pháp luật đƣợc thực hiện khi một quốc
gia chịu sự tác động của các cuộc chiến tranh và mở rộng thuộc địa khiến cho pháp
luật của quốc gia đó bị áp đặt bởi một quốc gia khác. Hai là sự tiếp nhận chủ động
xuất phát từ nhu cầu cải cách pháp luật của một quốc gia với mong muốn học hỏi
các giá trị văn hóa pháp lý tiến bộ từ các quốc gia khác. Ba là sự gần gũi của các
yếu tố lịch sử, ngôn ngữ, văn hóa pháp lý, ý thức pháp luật giữa các quốc gia.
Hệ thống pháp luật Civil Law đã phát triển ra ngoài lãnh thổ châu Âu, du nhập
vào các nƣớc có truyền thống pháp luật khác hẳn với châu Âu thông qua những con
đƣờng khác nhau. Trong cuốn “Những hệ thống pháp luật chính trong thế giới
đƣơng đại”, René David viết:
Do quá trình thuộc địa hóa, hệ thống pháp luật Roman – Giecmanh
đƣợc phổ biến trên một lãnh thổ rộng lớn hơn, nơi mà ngày nay những hệ
thống pháp luật thuộc hệ này hoặc gần với nó đang tồn tại. Cùng với đó
diễn ra sự tiếp nhận tự nguyện hệ pháp luật này tại những nơi khác, và
kết quả là chúng ta gặp hệ Roman – Giecmanh ở một loạt nƣớc không
chịu sự thống trị của ngƣời châu Âu, nhƣng tƣ tƣởng châu Âu và xu
hƣớng thân Âu khá mạnh ở đó[36; tr.24].

22


Để trở thành hệ thống pháp luật lớn nhất thế giới nhƣ hiện nay, hệ thống pháp

luật Civil Law đã có một quá trình phát triển vƣợt qua khỏi lãnh thổ châu Âu và ảnh
hƣởng sang các nƣớc châu Phi, châu Mỹ Latinh và châu Á.
Bên cạnh đó, Réne David cũng khẳng định rằng: “Ở những nƣớc này trƣớc lúc
tiếp nhận pháp luật châu Âu đã tồn tại một nền văn minh riêng có những quy tắc
ứng xử và những chế định của mình. Bởi vậy sự tiếp nhận đó ở nhiều nƣớc chỉ là
từng phần, một phần nhất định (đặc biệt là quy chế cá nhân) của những quan hệ
pháp lý do các quy phạm truyền thống điều chỉnh” [36; tr.24-25].
- Ảnh hƣởng qua sự áp đặt từ các nƣớc châu Âu lục địa đối với các thuộc địa
của mình
Vào thế kỷ XIX, chủ nghĩa tƣ bản phƣơng Tây chuyển từ giai đoạn tự do cạnh
tranh sang chủ nghĩa đế quốc, các nƣớc châu Âu ráo riết tìm kiếm những vùng đất ở
châu Phi, châu Mỹ, châu Á và biến những vùng đất ấy thành thuộc địa của mình.
Các chính sách thuộc địa của các đế quốc có tác động rất lớn đến tình hình chính trị,
kinh tế, xã hội của các nƣớc thuộc địa. Hệ thống pháp luật của các nƣớc thuộc địa
cũng bị ảnh hƣởng lớn từpháp luật các nƣớc đế quốc thực dân. Các nƣớc thực dân
cho ban hành luật hoặc phê chuẩn việc ban hành luật của chính quyền nƣớc sở tại,
cho xây dựng bộ máy lập pháp, hành pháp, tƣ pháp tại thuộc địa nhằm phục vụ quá
trình cai trị của mình.
Các nƣớc châu Âu lục địa nhƣ Pháp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Hà Lan, Bỉ
bành trƣớng hệ thống thuộc địa của mình sang châu Phi, Madagascar, Mỹ Latinh,
Đông Nam Á và một số quốc đảo ở châu Đại Dƣơng. Cùng với các chính sách khai
thác thuộc địa tàn bạo, các đế quốc thực dân cũng mang truyền thống pháp luật
Roman – Giecmanh đến các quốc gia này và thay đổi hệ thống pháp luật truyền
thống của các nƣớc thuộc địa.
Ở châu Mỹ, các thuộc địa của Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Pháp, Hà Lan là
những vùng đất hoặc là gần nhƣ không có ngƣời ở hoặc nền văn minh bản địa có
nguy cơ bị diệt vong, do vậy đã tiếp nhận những khái niệm đặc thù của hệ thống
Roman – Giecmanh một cách tự nhiên[36; tr.64]. Tuy nhiên, các thuộc địa của Tây

23



Ban Nha và Pháp ở Bắc Mỹ đến nay về cơ bản đã theo truyền thống pháp luật
Common Law. Chỉ có một vài vùng nhƣ bang Louisiana (Hoa Kỳ), bang Quebec
(Canada) có sự pha trộn giữa truyền thống Civil Law và truyền thống Common
Law.
Các nƣớc thực dân Pháp, Đức, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Bỉ, Italia bằng các
chính sách thuộc địa của mình đã du nhập truyền thống pháp luật Civil Law vào
châu Phi. Trƣớc khi phƣơng Tây đô hộ, những nƣớc này không có hệ thống pháp
luật phát triển nên họ dễ dàng tiếp nhận pháp luật của những ngƣời đô hộ nhƣ là
tiếp nhận một nền văn hóa pháp luật cao hơn.
Ở châu Á, các thuộc địa của Pháp, Hà Lan, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha cũng
chịu sự ảnh hƣởng sâu sắc truyền thống pháp luật Civil Law từ tổ chức chính quyền,
tƣ tƣởng pháp luật, tƣ duy pháp lý đến các chế định pháp luật cụ thể. Các thuộc địa
cũ của châu Âu lục địa nhƣ Việt Nam, Lào, Campuchia, Indonesia, Philippines đều
chịu ảnh hƣởng từ các yếu tố pháp luật của Civil Law mặc dù sự ảnh hƣởng ở từng
nƣớc diễn ra với mức độ khác nhau.
- Ảnh hƣởng qua sự tiếp nhận tự nguyện
Do nhu cầu cần phải cải cách pháp luật và mong muốn phƣơng tây hóa hệ
thống pháp luật nên một số quốc gia mặc dù chƣa từng là thuộc địa của các nƣớc
châu Âu, nhƣng vẫn tự nguyện tiếp nhận truyền thống pháp luật Civil Law vào
nƣớc mình. Các nƣớc này tiến hành pháp điển hóa dựa trên hình mẫu là những bộ
luật thành văn của châu Âu lục địa, tổ chức bộ máy chính quyền, hệ thống tƣ pháp
theo mô hình giống nhƣ các nƣớc châu Âu lục địa.
Nhật Bản là một trong những quốc gia tự nguyện tiếp nhận truyền thống Civil
Law kể từ thời Minh Trị. Để cải cách pháp luật, ngƣời Nhật Bản đứng trƣớc sự lựa
chọn giữa việc tiếp nhận Civil Law hay Common Law. Và do họ nhận thấy hệ
thống pháp luật kiểu Civil Law gần gũi với pháp luật truyền thống của Nhật Bản
hơn cả và việc pháp điển hóa và ban hành các bộ luật thành văn sẽ mang lại hiệu
quả hơn là việc tiếp nhận Common Law. Từ thế kỷ XIX, Nhật Bản đã cho biên dịch


24


×