Tải bản đầy đủ (.pdf) (38 trang)

VĂN bản CÔNG CHỨNG và GIÁ TRỊ PHÁP LÝ của văn bản công chứng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (452.97 KB, 38 trang )

HỌC VIỆN TƯ PHÁP
KHOA ĐÀO TẠO CÔNG CHỨNG VIÊN VÀ CÁC CHỨC DANH KHÁC

---o0o---

BÁO CÁO KẾT THÚC HỌC PHẦN
CÔNG CHỨNG VIÊN VÀ NGHỀ CÔNG CHỨNG
Chuyên đề: Văn bản công chứng và giá trị pháp lý
của văn bản công chứng

Họ và tên: Vương Thị Phương Nam
Lớp: 21.1C

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 30 tháng 6 năm 2019

1


MỤC LỤC
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu .......................................................................... 1
2. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng nghiên cứu ............................................................ 3
3. Cơ cấu của bài báo cáo ............................................................................................ 3

Chương 1: Quy định của pháp luật về công chứng, văn bản công
chứng
1.1. Quy định của pháp luật về công chứng ................................................................... 5
1.1.1. Khái niệm công chứng ............................................................................... 5
1.1.2. Đặc điểm của công chứng .......................................................................... 6
1.2. Quy định của pháp luật về văn bản công chứng ................................................... 7
1.2.1 Khái niệm văn bản công chứng .................................................................. 7


1.2.2 Đặc điểm của văn bản công chứng ............................................................. 9

Chương 2: Thực tiễn pháp luật Việt Nam về giá trị pháp lý của văn
bản công chứng
2.1 Một số quy định chung về giá trị pháp lý của văn bản công chứng ....................... 12
2.1.1 Giá trị thi hành của văn bản công chứng .................................................. 13
2.1.2 Giá trị chứng cứ không phải chứng minh của văn bản công chứng ......... 15
2.2 Một số quy định pháp luật có liên quan tác động tới giá trị pháp lý của văn bản
công chứng ................................................................................................................... 17
2.2.1 Tiêu chuẩn của công chứng viên ................................................................ 17
2.2.2 Về trình tự, thủ tục công chứng .................................................................. 18
2.2.3 Lưu trữ hồ sơ công chứng ........................................................................... 20

2


2.2.4 Về trách nhiệm pháp lý của công chứng viên ............................................. 21
2.2.5 Về thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm trong tổ chức và hoạt động công
chứng ........................................................................................................................... 22
2.2.6 Về thời điểm có hiệu lực của văn bản công chứng và hiệu lực của hợp
đồng, giao dịch ............................................................................................................. 23

Chương 3: Giải pháp, kiến nghị đối với giá trị pháp lý của văn bản
công chứng
3.1. Nâng cao nhận thức về công chứng ...................................................................... 25
3.2 Giải pháp, kiến nghị các quy định của pháp luật về giá trị văn bản công chứng
3.2.1 Hoàn thiện các quy định của pháp luật về giá trị chứng cứ không phải
chứng minh ........................................................................................................ 26
3.2.2 Hoàn thiện các quy định của pháp luật về giá trị thi hành ........................ 27


Kết luận....................................................................................................... 31
Danh mục tài liệu tham khảo

32

3


MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của việc nghiên cứu:
Trong nền kinh tế xã hội ngày càng phát triển kéo theo đó là sự đa dạng của
các quan hệ dân sự, thương mại. Các giao dịch dân sự, kinh tế luôn có xu hướng
gia tăng cả về số lượng và tính phức tạp. Điều đó cho thấy, nguy cơ xảy ra tranh
chấp trong các giao dịch ngày càng gia tăng. Khi đã xảy ra tranh chấp, một loạt
vấn đề phát sinh mà hậu quả của nó chính là việc làm mất thời gian, gây tổn hại
đến uy tín, danh dự của tổ chức cá nhân tham gia giao kết, đồng thời gây mất trật
tự trong xã hội. Chính vì thế, cần một văn bản công chứng có giá trị pháp lý nhất
định.
Trong hệ thống công chứng La tinh, các công chứng viên hoạt động chịu
ảnh hưởng của luật La Mã và các khái niệm pháp luật của Châu Âu lục địa; nhờ sự
đồng bộ này mà họ có thể thực hành nghề gần giống nhau, tập hợp lại trong một
với tên gọi là Liên đoàn công chứng La tinh quốc tế, gồm công chứng của các
nước ở châu Âu, châu Mỹ, châu Phi và châu Á. Ở Việt Nam, công chứng viên thực
hiện các chức năng giống như các công chứng viên của Pháp; chỉ có những khác
biệt ở thể thức đào tạo, bổ nhiệm. Về quy chế, các công chứng viên có quy chế
tương đối khác nhau tùy theo từng nước. Việc tham gia vào quá trình giao kết hợp
đồng của công chứng viên có thể được thực hiện theo nhiều phương thức khác
nhau, kết quả cuối cùng của quá trình đó được thể hiện dưới một hình thức chung
nhất là những hợp đồng, giao dịch đã được công chứng hay còn gọi là văn bản
công chứng.

Phần lớn các nước trên thế giới, từ lâu đã tồn tại một thiết chế pháp luật cho
phép phòng ngừa các tranh chấp một cách chủ động, tích cực và hiệu quả. Đó là
thiết chế công chứng. Các văn bản công chứng có giá trị xác thực, giá trị pháp lý
và độ tin cậy hơn hẳn các loại giấy tờ không có chứng nhận xác thực hoặc chỉ trình
bày bằng miệng. Các văn bản công chứng bảo đảm sự an toàn của các giao dịch,
tạo nên sự yên tâm tin tưởng của khách hàng, hạn chế đến mức thấp nhất các tranh
chấp xảy ra. Về phương diện Nhà nước cũng đảm bảo trật tự, kỷ cương, ổn định
trong việc quản lý các giao dịch; từ đó cũng góp phần làm giảm đáng kể việc giải

1


quyết tranh chấp luôn là gánh nặng của các cơ quan chức năng và giúp các cơ quan
chức năng quản lý tốt hơn các hoạt động giao dịch.
Theo thông lệ của các nước có hệ thống công chứng La tinh, văn bản công
chứng có giá trị chứng cứ và giá trị thi hành. Gía trị thi hành và giá trị chứng cứ
của văn bản công chứng thể hiện ở chỗ: các hợp đồng, giao dịch đã được công
chứng thì có hiệu lực thi hành đối với các bên trong hợp đồng, giao dịch đó và có
hiệu lực với người thứ ba. Nếu vì một lý do nào đó mà một bên không thực hiện
nghĩa vụ của mình thì bên kia có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết theo quy định
của pháp luật, trừ trường hợp các bên tham gia hợp đồng, giao dịch có thỏa thuận
khác.
Trong trường hợp muốn bác bỏ hiệu lực của văn bản công chứng thì phải
kiện ra tòa án và khi đó thì các tình tiết, sự kiện đã ghi trong hợp đồng, giao dịch
đó sẽ trở thành chứng cứ hiển nhiên trước tòa, không cần phải xác minh, người
muốn bác bỏ nó phải xuất trình được chứng cứ ngược lại. Đặc điểm nêu trên của
văn bản công chứng có ý nghĩa rất lớn thể hiện vai trò phòng ngừa, bảo đảm an
toàn pháp lý cho các bên trong hợp đồng, giao dịch, đồng thời hạn chế được rất
nhiều các vụ kiện tụng ra Tòa án, gây tốn kém, lãng phí.
Luật công chứng năm 2014 nhằm khắc phục những hạn chế, bất cập về thể

chế, tạo cơ sở pháp lý cho bước phát triển mới của hoạt động công chứng theo chủ
trương xã hội hóa, nâng cao chất lượng và tính bền vững của hoạt động công
chứng, từng bước phát triển nghề công chứng Việt Nam phù hợp với thông lệ quốc
tế, đưa công chứng nước ta tiến gần hơn với thông lệ của công chứng Latinh trên
thế giới, thể hiện vai trò của công chứng với chức năng bảo đảm an toàn pháp lý
cho các bên tham gia hợp đồng, giao dịch, phòng ngừa tranh chấp, đồng thời hạn
chế nhiều vụ kiện tại tòa án. Bên cạnh Luật Công chứng, nhiều văn bản quy phạm
pháp luật hiện hành cũng có những quy định liên quan đến giá trị pháp lý của văn
bản công chứng như Bộ Luật dân sự, Luật Đất đai, Luật Nhà ở, Luật hôn nhân và
gia đình…
Tuy nhiên, hiện nay Luật Công chứng 2014 đang bộc lộ những hạn chế, bất
cập như văn bản công chứng không đạt được một sức mạnh chứng cứ và hiệu lực
cưỡng chế thi hành như một văn bản của cơ quan công quyền, một số quy định còn

2


chưa rõ hoặc có nội dung chồng chéo, thậm chí vô hiệu dẫn đến tình trạng nhiều
cơ quan, tổ chức và cá nhân chưa nhận thức đúng, đầy đủ và thực sự tôn trọng.
Chính vì lý do đó, học viên lựa chọn đề tài “văn bản công chứng và giá trị pháp lý
của văn bản công chứng” làm báo cáo kết thúc học phần .

2. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng nghiên cứu
2.1 Mục đích nghiên cứu:
Góp phần làm rõ vấn đề văn bản công chứng và giá trị pháp lý của văn bản
công chứng; đánh giá đúng thực trạng văn bản công chứng và giá trị pháp lý của
văn bản công chứng hiện nay; đề xuất các giải pháp hoàn thiện văn bản công
chứng và giá trị pháp lý của văn bản công chứng.
2.2 Nhiệm vụ nghiên cứu:
Trên cơ sở nhận thức chung về văn bản công chứng và giá trị pháp lý của

văn bản công chứng đưa ra khái niệm, đặc điểm. Đánh giá những kết quả đạt được,
làm rõ những tồn tại, hạn chế, nguyên nhân của văn bản công chứng và giá trị
pháp lý của văn bản. Đề xuất được các giải pháp nhằm hoàn thiện văn bản công
chứng.
2.3 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của bài báo cáo là văn bản công chứng và giá trị pháp
lý của văn bản công chứng, tập trung vào một số nội dung chủ yếu như: xác định
rõ khái niệm công chứng, văn bản công chứng; hình thức, những nội dung cơ bản
của văn bản công chứng; làm rõ nội hàm giá trị chứng cứ không phải chứng minh
và hiệu lực thi hành của văn bản công chứng; đề xuất quan điểm, định hướng
nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật về văn bản công chứng và giá trị pháp
lý của văn bản công chứng, đồng thời xây dựng cơ chế bảo đảm quy định của pháp
luật về hiệu lực thi hành của văn bản công chứng...
3 Cơ cấu của bài báo cáo
Chương 1: Quy định của pháp luật về công chứng, văn bản công chứng.
Chương 2: Thực tiễn pháp luật Việt Nam về giá trị pháp lý của văn bản công
chứng.

3


Chương 3: Nguyên nhân, giải pháp, kiến nghị đối với văn bản công chứng
và giá trị pháp lý của văn bản công chứng

4


CHƯƠNG 1
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ CÔNG CHỨNG VÀ VĂN BẢN
CÔNG CHỨNG

1.1

Quy định của pháp luật về công chứng

1.1.1 Khái niệm công chứng
Công chứng theo hệ thống công chứng Anglo Saxon và hệ thống công chứng
La tinh là một nghề tự do, công chứng viên tự chịu trách nhiệm cá nhân về hoạt
động của mình nhưng đó là một nghề đặc biệt, đòi hỏi công chứng viên phải có
trình độ chuyên môn và kỹ năng nghiệp vụ được nhà nước công nhận để có thể
đảm bảo tính xác thực cho các hợp đồng vốn rất phức tạp, công chứng viên do
nhà nước bổ nhiệm hoặc công nhận theo các điều kiện, tiêu chuẩn do luật định và
hoạt động theo chế độ chứng chỉ hành nghề. Điều khác biệt giữa trường phái công
chứng Anglo saxon và trường phái công chứng La tinh là trong trường phái công
chứng Latinh thì các hợp đồng, giao dịch hợp pháp mới được công chứng viên
xác nhận, những hợp đồng, giao dịch bất hợp pháp thì bị từ chối công chứng.
Đặc điểm này quy định chức năng phòng ngừa các tranh chấp.
Công chứng ở Việt Nam hiểu một cách đơn giản nhất, "công chứng" chính
là việc "công" quyền đứng ra làm "chứng". Nói một cách khác, thay vì để cá
nhân tự đứng ra làm chứng cho nhau trong các giao dịch, thì nhà nước bằng việc
đào tạo, bổ nhiệm đã trao cho một số cá nhân, tổ chức nhất định một phần quyền
để những người này thay mặt nhà nước đứng ra làm chứng giao dịch đó.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 2 Luật công chứng năm 2014 thì công
chứng được định nghĩa “Công chứng là việc công chứng viên của một tổ chức
hành nghề công chứng chứng nhận tính xác thực, hợp pháp của hợp đồng, giao
dịch dân sự khác bằng văn bản (sau đây gọi là hợp đồng, giao dịch), tính chính
xác, hợp pháp, không trái đạo đức xã hội của bản dịch giấy tờ, văn bản từ tiếng
Việt sang tiếng nước ngoài hoặc từ tiếng nước ngoài sang tiếng Việt (sau đây
gọi là bản dịch) mà theo quy định của pháp luật phải công chứng hoặc cá nhân,
tổ chức tự nguyện yêu cầu công chứng công chứng”. Với định nghĩa này, ngoài
việc xác định cụ thể hình thức hoạt động hành nghề của công chứng viên là tại


5


các tổ chức hành nghề công chứng, Luật Công chứng 2014 còn quy định thêm
thẩm quyền của công chứng viên đối với việc chứng nhận tính chính xác, hợp
pháp, không trái đạo đức xã hội của bản dịch giấy tờ, văn bản; công chứng viên
chịu trách nhiệm về nội dung bản dịch mà mình công chứng trước người yêu cầu
công chứng, người dịch sẽ chịu trách nhiệm về tính chính xác của bản dịch trước
công chứng viên.
Như vậy, công chứng là một loại hình dịch vụ công ích quan trọng, một thể
chế không thể thiếu được của Nhà nước pháp quyền để đảm bảo giá trị pháp lý,
sự an toàn của các giao dịch nói trên. Các văn bản công chứng có giá trị xác
thực, giá trị pháp lý và độ tin cậy hơn hẳn các loại giấy tờ không có chứng nhận
xác thực hoặc chỉ trình bày bằng miệng. Các văn bản công chứng bảo đảm sự an
toàn của các giao dịch, tạo nên sự yên tâm tin tưởng của khách hàng, hạn chế
đến mức thấp nhất các tranh chấp xảy ra. Về phương diện Nhà nước cũng đảm
bảo trật tự, kỷ cương, ổn định trong việc quản lý các giao dịch; từ đó cũng góp
phần làm giảm đáng kể việc giải quyết tranh chấp luôn là gánh nặng của các cơ
quan chức năng và giúp các cơ quan chức năng quản lý tốt hơn các hoạt động
giao dịch.
1.1.2 Đặc điểm của công chứng
Hoạt động của công chứng vừa mang tính công quyền vừa mang tính chất
dịch vụ công. Tính công quyền thể hiện ở chỗ công chứng viên của phòng công
chứng hay của các văn phòng công chứng đều do Bộ trưởng Bộ Tư pháp bổ
nhiệm để công chứng các hợp đồng giao dịch giữa các tổ chức, công dân theo
qui định của pháp luật. Khi tác nghiệp, công chứng viên nhân danh nhà nước
thực thi công việc. Hoạt động công chứng còn mang tính chất dịch vụ công tức
là thực hiện một loại dịch vụ của Nhà nước nhưng được Nhà nước giao cho tổ
chức hành nghề công chứng đảm nhiệm, đó là công chứng các hợp đồng giao

dịch mà các tổ chức và cá nhân yêu cầu. Một trong những nguyên tắc cơ bản của
dịch vụ công là phải bảo đảm được tính liên tục không bị gián đoạn của dịch vụ
công. Hoạt động dịch vụ này nhằm hướng tới:
Thứ nhất, lợi ích của nhà nước. Hoạt động công chứng góp phần làm cho
các giao dịch dân sự, kinh tế, thương mại được thực hiện theo đúng khuôn khổ

6


của pháp luật, góp phần tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Thứ hai, lợi ích của các bên tham gia giao dịch. Công chứng giúp cho các
tổ chức, cá nhân thực hiện các giao dịch dân sự, thương mại theo đúng pháp luật,
nhờ đó giảm thiểu tranh chấp, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ
chức, cá nhân tham gia giao dịch.
Thứ ba, lợi ích của tổ chức hành nghề công chứng. Khi thực hiện hoạt động
công chứng, tổ chức hành nghề công chứng được thu phí và thù lao công chứng
theo qui định.
Công chứng viên có sự độc lập, trong tác nghiệp chuyên môn, công chứng
viên không chịu trách nhiệm trước các cơ quan cơ quan cấp trên hay trước
trưởng phòng, trưởng văn phòng mà tự chịu trách nhiệm trước pháp luật. Vì vậy,
trong tác nghiệp chuyên môn, công chứng viên không bị lệ thuộc vào cấp trên.
Các tổ chức hành nghề công chứng được Nhà nước chuyển giao cho một phần
quyền của Nhà nước để thực hiện chức năng của Nhà nước trong một lĩnh vực
cụ thể là công chứng các hợp đồng giao dịch. Đồng thời, Nhà nước cũng chuyển
giao cho các tổ chức hành nghề công chứng một trách nhiệm và nghĩa vụ lớn là
phải thực hiện công chứng một cách đúng pháp luật và đảm bảo được lợi ích của
Nhà nước.

1.2


Quy định của pháp luật về văn bản công chứng

1.2.1 Khái niệm văn bản công chứng
Qua nghiên cứu pháp luật của các nước theo trường phái công chứng La
tinh cho thấy khái niệm văn bản công chứng và những vấn đề liên quan đến loại
văn bản này có thể quy định một cách trực tiếp bằng điều luật riêng hay gián tiếp
thông qua các quy định về thủ tục công chứng, giá trị pháp lý của việc công
chứng nhưng nhìn chung điều khẳng định văn bản công chứng là sản phẩm của
công chứng viên do công chứng viên soạn hoặc xác nhận với những yêu cầu
chính xác về mặt nội dung và hình thức, nhờ đó có giá trị pháp lý cao. Ở những
nước theo hệ thống luật thành văn, những nhà lập pháp tin tưởng, coi công
chứng viên như những viên chức công và văn bản do họ soạn thảo, chứng nhận
như văn bản của cơ quan công quyền.

7


Theo điều 7 nghị định 45-HĐBT “Văn bản công chứng phải được thể hiện
rõ ràng và theo đúng mẫu thống nhất do Bộ Tư pháp quy định.Hồ sơ, văn bản
công chứng và sổ công chứng phải được lưu trữ, bảo quản đầy đủ, chặt chẽ, lâu
dài tại phòng công chứng Nhà nước”. Như vậy, vào năm 1991 thuật ngữ văn
bản công chứng đã được sử dụng nhưng các nhà làm luật vẫn chưa đưa ra khái
niệm một cách chính xác.
Nghị định số 31/CP thay thế nghị định 45/HĐBT cụ thể là bên cạnh thuật
ngữ công chứng còn có nội dung công chứng qui định “Nội dung công chứng
phải được thể hiện rõ ràng và theo đúng mẫu thống nhất do Bộ Tư pháp quy
định. Các văn bản công chứng phải được công chứng viên ký, đóng dấu và ghi
vào sổ công chứng.” Với sự hoàn thiện và phát triển của các chế định công
chứng qua các thời kỳ, có thề thấy rằng đến thời điểm này, các quy định mang
tính nền tảng, nội dung , hình thức của văn bản công chứng đã dần hình thành

một cách rõ nét.
Đến năm 2006, Luật công chứng ra đời, khái niệm và nhiều quy định của
văn bản công chứng đã dần hoàn thiện một cách rõ nét. Theo đó, tại điều 4 Luật
công chứng 2006 quy định: “hợp đồng, giao dịch bằng văn bản đã được công
chứng theo quy định của Luật này gọi là văn bản công chứng.Văn bản công
chứng bao gồm các nội dung sau đây: Hợp đồng, giao dịch;Lời chứng của công
chứng viên. Văn bản công chứng có hiệu lực kể từ ngày được công chứng viên
ký và có đóng dấu của tổ chức hành nghề công chứng.” Qua đó khẳng định, văn
bản công chứng gồm hai bộ phận là hợp đồng, giao dịch và phần lời chứng của
công chứng viên.
Theo quy định tại khoản 4 Điều 2 Luật Công chứng năm 2014 thì: “Văn
bản công chứng là hợp đồng, giao dịch, bản dịch đã được công chứng viên
chứng nhận theo quy định của Luật này.” Như vậy, văn bản công chứng là
những tài liệu đã được công chứng viên chứng nhận về tính xác thực, hợp pháp,
không trái đạo đức xã hội hoặc tính chính xác của một bản dịch từ tiếng nước
ngoài sang tiếng Việt bao gồm: Hợp đồng được kí kết giữa các bên trong quan
hệ dân sự, thương mại, đất đai, kinh doanh bất động sản lao động, …Văn bản
giao dịch giữa các bên còn là di chúc, thỏa thuận phân chia di sản … Các bản

8


dịch Văn bản công chứng có hiệu kể từ ngày được công chứng viên ký và đóng
dấu của tổ chức hành nghề công chứng căn cứ theo khoản 1 Điều 5 Luật công
chứng năm 2014. Đối với một số loại hợp đồng, giao dịch, pháp luật yêu cầu bắt
buộc phải công chứng hợp đồng mới có hiệu lực. Ngoài ra, các bên có thể tự
nguyện yêu cầu công chứng.
1.2.2 Đặc điểm của văn bản công chứng
Thứ nhất, căn cứ theo khoản 2, điều 45 Luật công chứng 2014 quy định tính
chính xác về thời điểm công chứng. Ngày, tháng, năm phải chính xác vì đó là

ngày, tháng, năm giao kết hợp đồng, giao dịch; ngày, tháng, năm công chứng
viên ký là ngày văn bản công chứng có hiệu lực thi hành, ngày, tháng, năm trong
lời chứng của công chứng viên phải được thể hiện bằng số và bằng chữ. Trong
một số trường hợp như công chứng di chúc, theo yêu cầu của người yêu cầu
công chứng hoặc công chứng viên thấy cần thiết, thời gian công chứng còn phải
chính xác cả giờ, phút. Các số liệu, sau phần ghi bằng số phải ghi bằng chữ để
tránh sửa chữa, sai lệch. Ngoài ra, chính xác về chủ thể yêu cầu công chứng, chủ
thể là cá nhân hoặc pháp nhân phải có đủ năng lực hành vi dân sự theo quy định
của pháp luật; thông tin về chủ thể phải đầy đủ, đúng với những giấy tờ mà họ
đã cung cấp vì nếu có sai sót sẽ có thể dẫn đến sự nhầm lẫn, tranh chấp, gây mất
hiệu lực của văn bản công chứng.
Chính xác về địa điểm công chứng: Trong văn bản công chứng phải ghi rõ
địa điểm công chứng. Việc công chứng phải được thực hiện tại trụ sở, tuy nhiên
tại khoản 2 điều 44 Luật công chứng 2014 có quy định: “Việc công chứng có thể
được thực hiện ngoài trụ sở của tổ chức hành nghề công chứng trong trường
hợp người yêu cầu công chứng là người già yếu, không thể đi lại được, người
đang bị tạm giữ, tạm giam, đang thi hành án phạt tù hoặc có lý do chính đáng
khác không thể đến trụ sở của tổ chức hành nghề công chứng”.Ý chí của các bên
phải được thể hiện rõ ràng trong văn bản công chứng vì đây sẽ là cơ sở cho việc
thực hiện hoạt động công chứng.
Thứ hai, tuân thủ về mặc hình thức. Văn bản công chứng phải đáp ứng các
điều kiện của pháp luật về hình thức để đảm bảo tính chính xác và giá trị pháp lý
của văn bản công chứng.

9


Ví dụ: Ông A chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho bà C thì hình thức
văn bản bắt buộc phải là hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất mà không
phải là một văn bản chuyển nhượng nào khác; hoặc các bên yêu cầu công chứng,

chứng nhận hợp đồng cầm cố tài sản thì công chứng viên không thể soạn thảo và
công chứng hợp đồng thế chấp được. Ngoài ra, văn bản công chứng cũng cần
tuân thủ các quy định về chữ viết, sửa lỗi kỹ thuật, ghi số tờ, số trang trong văn
bản, ký tên hoặc điểm chỉ, lời chứng của công chứng viên,… Mọi chi tiết trong
văn bản công chứng phải được thể hiện rõ ràng, chính xác, không viết tắt, không
viết xen hoặc đè dòng; việc sửa lỗi kỹ thuật cũng phải thực hiện đúng quy định
để người nhận hoặc thực hiện các băn bản đó có thể nhận biết đúng các nội dung
đã được chỉnh sửa, tránh nhẫm lẫn hoặc gây khó hiểu cho họ.
Thứ ba, tính phù hợp với pháp luật, đạo đức xã hội của văn bản công
chứng
Sự phù hợp của nội dung văn bản công chứng với pháp luật, đạo đức xã
hội là điều kiện cơ bản, quan trọng để văn bản công chứng đó có giá trị pháp lý
căn cứ theo khoản 1 điều 2 luật công chứng 2014 “Công chứng là việc công
chứng viên của một tổ chức hành nghề công chứng chứng nhận tính xác thực,
hợp pháp của hợp đồng, giao dịch dân sự khác bằng văn bản, tính chính xác,
hợp pháp, không trái đạo đức xã hội của bản dịch giấy tờ, văn bản từ tiếng Việt
sang tiếng nước ngoài hoặc từ tiếng nước ngoài sang tiếng Việt mà theo quy
định của pháp luật phải công chứng hoặc cá nhân, tổ chức tự nguyện yêu cầu
công chứng.” Do vậy, khi thực hiện việc công chứng, công chứng viên phải có
trách nhiệm xem xét các nội dung của hợp đồng, giao dịch có phù hợp với các
quy định của pháp luật hiện hành và đạo đức xã hội hay không.
Ví dụ: Công chứng viên không thể chứng nhận hợp đồng chuyển nhượng
quyền sử dụng đất nếu bên bán chỉ có một mình người vợ mà tài sản chuyển
nhượng là tài sản có trong thời kỳ hôn nhân nhưng người vợ không chứng minh
được đó là tài sản riêng của mình như được tặng cho hoặc có văn bản thỏa thuận
tài sản riêng vợ chồng. Cũng như công chứng viên không thể chứng nhận hợp
đồng mua bán nhà ở, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngoài phạm vi
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi tổ chức hành nghề công chứng đặt trụ

10



sở.
Thứ tư, tuân thủ các nguyên tắc, thủ tục công chứng. Công chứng viên là
người chịu trách nhiệm trước pháp luật về văn bản công chứng của mình chứng
nhận, do đó công chứng viên phải bảo đảm thực hiện theo đúng những nguyên
tắc và thủ tục công chứng. Việc tuân thủ nghiêm túc các nguyên tắc, thủ tục này
đem lại sự an toàn cho công chứng viên đồng thời bảo đảm tính pháp lý cho văn
bản mà công chứng viên chứng nhận, tránh được các tranh chấp có thể xảy ra.

11


CHƯƠNG 2
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ GIÁ TRỊ PHÁP LÝ
CỦA VĂN BẢN CÔNG CHỨNG
2.1 Một số quy định chung về giá trị pháp lý của văn bản công
chứng
Theo thông lệ của các nước có hệ thống công chứng La tinh, văn bản công
chứng có giá trị chứng cứ và giá trị thi hành. Gía trị thi hành và giá trị chứng cứ
của văn bản công chứng thể hiện ở chỗ: các hợp đồng, giao dịch đã được công
chứng thì có hiệu lực thi hành đối với các bên trong hợp đồng, giao dịch đó và có
hiệu lực với người thứ ba. Nếu vì một lý do nào đó mà một bên không thực hiện
nghĩa vụ của mình thì bên kia có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết theo quy định
của pháp luật, trừ trường hợp các bên tham gia hợp đồng, giao dịch có thỏa thuận
khác.
Trong trường hợp muốn bác bỏ hiệu lực của văn bản công chứng thì phải
kiện ra tòa án và khi đó thì các tình tiết, sự kiện đã ghi trong hợp đồng, giao dịch
đó sẽ trở thành chứng cứ hiển nhiên trước tòa, không cần phải xác minh, người
muốn bác bỏ nó phải xuất trình được chứng cứ ngược lại. Đặc điểm nêu trên của

văn bản công chứng có ý nghĩa rất lớn thể hiện vai trò phòng ngừa, bảo đảm an
toàn pháp lý cho các bên trong hợp đồng, giao dịch, đồng thời hạn chế được rất
nhiều các vụ kiện tụng ra Tòa án, gây tốn kém, lãng phí.
Như chúng ta đã biết, hoạt động công chứng là việc cơ quan, tổ chức hoạt
động công chứng xác nhận tính hợp pháp của hợp đồng, giao dịch theo quy định
của pháp luật hoặc khi có yêu cầu của người yêu cầu công chứng. Công chứng
viên phải kiểm tra các thông tin mà mình thực hiện việc công chứng, sau khi đã
đối chiếu các thông tin với bản chính công chứng viên phải ghi lời làm chứng của
mình; ký, ghi rõ họ tên và đóng dấu của tổ chức hành nghề công chứng lên văn
bản công chứng. Thể hiện việc ghi nhận và bảo đảm nội dung, hình thức cũng như
tính hợp pháp của hợp đồng, giao dịch. Lúc này, văn bản công chứng có giá trị,
hiệu lực kể từ ngày được công chứng viên ký và đóng dấu của tổ chức hành nghề

12


công chứng.
Mặt khác, việc công chứng các bản hợp đồng, giao dịch là bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của các bên, phòng ngừa rủi ro và tranh chấp, tạo ra sự ổn định
của quan hệ giữa các bên trong giao dịch dân sự, tài sản, bảo đảm trật tự, kỷ
cương, là cơ sở thực hiện quyền và nghĩa vụ của các bên. Do đó, khi phát sinh mâu
thuẫn giữa các bên mà không giải quyết được dựa trên các thỏa thuận của hợp
đồng, giao dịch công chứng; bên có nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ của mình
thì bên kia có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật. Việc
quy định hợp đồng, các văn bản được công chứng có giá trị chứng cứ là một chế
định đặc biệt đối với hoạt động công chứng. Với việc quy định như vậy đã nâng
cao tinh thần trách nhiệm của các công chứng viên trong quá trình thực hiện hoạt
động công chứng của mình. Bởi lẽ, qua việc công chứng nếu công chứng viên phát
hiện ra các sai phạm cũng như dấu hiệu tội phạm có thể báo cáo với cơ quan có
thẩm quyền, đồng thời việc công chứng các văn bản giấy tờ sẽ được văn phòng

công chứng lưu lại một bản trong kho dữ liệu, từ đó các văn bản công chứng trở
thành nguồn chứng cứ quan trọng nếu có các tranh chấp xảy ra. Và những tình tiết,
sự kiện trong hợp đồng, giao dịch được công chứng không phải chứng minh bởi lẽ
khi hoạt động công chứng, công chứng viên đã kiểm tra tính xác thực của các
thông tin của văn bản công chứng với bản chính và ghi lời làm chứng, ký tên đóng
dấu nhằm khẳng định điều đó.
Việc quy định như trên là hoàn toàn hợp lý, khi mà văn bản công chứng đã
được công chứng viên kiểm tra, đối chiếu tính xác thực với bản chính một cách
đầy đủ, chính xác; đã ghi lời làm chứng của mình, ký tên, đóng dấu để khẳng định
điều đó thì bản dịch được công chứng có giá trị sử dụng như giấy tờ, văn bản được
dịch. Tạo điều kiện thuận lợi cho người có nhu cầu công chứng có thể đạt được kết
quả mà họ mong muốn.
2.1.1 Giá trị thi hành của văn bản công chứng
Pháp luật Việt Nam thừa nhận chức năng của công chứng viên về xác nhận
tính xác thực của các văn bản đã công chứng. Về bản chất khi hợp đồng, giao dịch
được công chứng nó sẽ có giá trị chứng cứ không phải chứng minh, trừ trường hợp
bị Tòa án tuyên bố là vô hiệu. Có nghĩa là khi bị Tòa án tuyên bố vô hiệu, văn bản

13


công chứng sẽ không có giá trị thực hiện, không làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt
quyền và nghĩa vụ dân sự của các bên.Tuy nhiên một người muốn yêu cầu Tòa án
tuyên bố một văn bản công chứng là vô hiệu thì phải chứng minh được văn bản
công chứng đó được lập một cách trái pháp luật. Nếu không chứng minh được thì
văn bản công chứng sẽ được công nhận là chứng cứ hiển nhiên trước Tòa án. Như
vậy, vai trò phòng ngừa của Công chứng viên thể hiện ở chỗ: ngay khi lập hợp
đồng, các bên giao kết hợp đồng đã củng cố chứng cứ về việc ký kết hợp đồng đó
để đề phòng các tranh chấp.
Theo khoản 2 Điều 5 Luật Công chứng năm 2014 thì : “Hợp đồng, giao dịch

được công chứng có hiệu lực thi hành đối với các bên liên quan; trong trường hợp
bên có nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ của mình thì bên kia có quyền yêu cầu
Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật, trừ trường hợp các bên tham gia
hợp đồng, giao dịch có thỏa thuận khác.”
Nghĩa là những gì đã thoả thuận trong văn bản công chứng thì có hiệu lực
bắt buộc thi hành đối với các bên tham gia hợp đồng, giao dịch đồng thời đối với
cả bên thứ ba. Trước hết, xét trong mối quan hệ giữa các bên tham gia hợp đồng
thì hiển nhiên là những gì họ đã cam kết trong hợp đồng, giao dịch thì họ có nghĩa
vụ thực hiện, không được bội ước. Đó cũng là nguyên tắc của luật dân sự. Vì vậy,
giá trị thi hành của văn bản công chứng thực ra không có gì mới. Mặt khác, xét
trong mối quan hệ với người thứ ba thì văn bản công chứng cũng có hiệu lực bắt
buộc người thứ ba phải tôn trọng và thi hành.
Ví dụ 1: một hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã được các bên
ký kết và đã được công chứng thì các cơ quan và các cá nhân có liên quan cũng
phải công nhận và làm các thủ tục liên quan như trước bạ, sang tên. Điều này cũng
là xuất phát từ nguyên tắc tôn trọng quyền tự do giao kết hợp đồng của chủ thể.
Ví dụ 2: ông A và bà C ký kết với nhau một hợp đồng mua bán nhà ở, có
chứng nhận của công chứng viên, kể từ ngày được công chứng, trong thời hạn ghi
trong hợp đồng, ông A và bà C phải tự nguyện, chủ động thực hiện hợp đồng theo
các điều khoản đã thỏa thuận; đồng thời, các cơ quan có thẩm quyền liên quan để
trước bạ, nhà đất... cũng buộc phải chấp hành giải quyết các việc liên quan đến thủ
tục mua bán nhà ở mà không thể từ chối, cản trở.

14


Văn bản công chứng có hiệu lực ngay lập tức sau khi được ký và đóng dấu
mà không cần qua sự kiểm định của bất cứ cơ quan nhà nước nào khác. Bởi thực
chất khi thực hiện công chứng, bản thân văn bản công chứng đã được kiếm tra,
thẩm định dưới một quy trình nghiêm ngặt của tổ chức hành nghề công chứng tổ chức được nhà nước trao quyền trong hoạt động công chứng. Hợp đồng của

gia đình bạn và khách hàng sẽ có hiệu lực ngay lập tức sau khi được ký và đóng
dấu. Công chứng viên đã thực hiện kiểm tra, thẩm định dưới một quá trình
nghiêm ngặt và không cần phải qua thêm sự kiểm định của bất cứ cơ quan nhà
nước nào khác mới có hiệu lực.
2.1.2 Giá trị chứng cứ không phải chứng minh của văn bản công chứng
Trong pháp luật tố tụng dân sự nước ngoài và pháp luật dân sự Việt Nam
đều qui định việc cung cấp chứng cứ và chứng minh vừa là quyền, vừa là nghĩa
vụ của các bên đương sự. Trong tố tụng dân sự người đưa ra yêu cầu phải có
nghĩa vụ chứng minh trước, họ phải xuất trình các chứng cứ, đưa ra lý lẻ để
chứng minh yêu cầu của mình là có căn cứ đồng thời họ phải chỉ ra quy định của
pháp luật cho phép chấp nhận yêu cầu của họ, đó là tính hợp pháp của yêu cầu.
Giá trị chứng cứ không phải chứng minh của văn bản công chứng quy định
tại khoản 3 Điều 5 Luật Công chứng năm 2014. “Hợp đồng, giao dịch được
công chứng có giá trị chứng cứ; những tình tiết, sự kiện trong hợp đồng, giao
dịch được công chứng không phải chứng minh, trừ trường hợp bị Tòa án tuyên
bố là vô hiệu.” Chứng cứ là cái gì có thật để làm căn cứ cho một yêu cầu, một
kết luận, phân xử của các chủ thể có liên quan. Trong hoạt động tố tụng, chứng
cứ đóng vai trò quyết định trong việc làm sáng tỏ các quan hệ cần giải quyết và
làm cơ sở để tòa án phân xử.
Vấn đề giá trị chứng cứ của văn bản công chứng không phải chứng minh
cũng đã được quy định tại Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Cụ thể tại khoản 1
Điều 95 bộ luật này: “Các tài liệu đọc được nội dung được coi là chứng cứ nếu

15


là bản chính hoặc bản sao có công chứng, chứng thực hợp pháp hoặc do cơ
quan, tổ chức có thẩm quyền cung cấp, xác nhận.”Ngoài ra, điểm c khoản 1
Điều 92 bộ luật này cũng đã ghi nhận tính tiết, sự kiện sau không phải chứng
minh: “Những tình tiết, sự kiện đã được ghi trong văn bản và được công chứng,

chứng thực hợp pháp.”
Cơ sở của quy định này là xuất phát từ việc thừa nhận chức năng của
Công chứng viên về chứng nhận tính xác thực của các hợp động, giao dịch về cả
thời gian, địa điểm, tư cách chủ thể của người tham gia ký kết hợp đồng, giao
cũng như tính hợp pháp của các điều khoản hợp đồng, sự tự do ý chí của các.
Tính xác thực do Công chứng viên chứng nhận biến các tình tiết, sự kiện có
trong hợp đồng, giao dịch trở thành chứng cứ hiển nhiên trước Tòa. Tại điều
khoản 3 điều 5 của Luật Công chứng 2014 cũng khẳng định là giá trị chứng cứ
của văn bản công chứng sẽ bị bác bỏ khi bị Tòa án tuyên bố là vô hiệu. Nhưng
như vậy cũng không có nghĩa là Tòa án có thể tuyên vô hiệu một cách tùy tiện.
Một người muốn yêu cầu Tòa án tuyên bố một văn bản công chứng là vô hiệu thì
phải chứng minh được văn bản công chứng đó được lập một cách trái pháp luật.
Nếu không chứng minh được điều đó thì văn bản công chứng sẽ được công nhận
là chứng cứ hiển nhiên trước Tòa án. Như vậy, vai trò phòng ngừa của Công
chứng viên thể hiện ở chỗ: ngay khi lập hợp đồng, các bên giao kết hợp đồng đã
củng cố chứng cứ về việc ký kết hợp đồng đó để đề phòng các tranh chấp về sau.
Ví dụ: Ông A là người mua nhà và nhờ bà C là chị đứng tên trong giấy tờ
sở hữu, một thời gian sau bà C đã khai nhà của bà C, do C bỏ tiền mua cho A ở
nhờ và kiện đòi A trả nhà. C đã xuất trình giấy tờ sở hữu nhà đứng tên C làm căn
cứ cho yêu cầu của mình, còn A xuất trình giấy ủy quyền cho C đứng tên sở hữu
nhà hộ A, đồng thời người bán nhà và các nhân chứng chứng kiến việc mua bán
đều khai như lời của A. Như vậy trong trường hợp này giấy sở hữu nhà đứng tên
C không được coi là chứng cứ của vụ án, vì nếu thừa nhận giấy sở hữu nhà là

16


chứng cứ của vụ án tranh chấp quyền sở hữu nhà thì phải thừa nhận C là chủ sở
hữu nhà đang tranh chấp và như vậy đã không đảm bảo được quyền lợi hợp pháp
của các bên và không giải quyết đúng nội dung vụ án.

Cũng tương tự như vậy, kết luận giám định có thể là chứng cứ, nhưng nếu
kết luận giám định là một kết luận sai, không phản ánh đúng bản chất sự việc. Ví
dụ: chữ ký, chữ viết trong một tài liệu là của A, nhưng kết quả giám định lại kết
luận là của C , thì nội dung kết luận đó không được coi là chứng cứ của vụ án,
không phải là căn cứ để tòa án ra phán quyết.
Có thể thấy rằng, thông qua hoạt động công chứng, công chứng viên mang
lại tính xác thực cho các hợp đồng, giao dịch nhờ đó những văn bản này được
coi là có sức mạnh chứng minh. Với sức mạnh chứng minh đó, khi được xuất
trình trước tòa án với tư cách là chứng cứ, thì tòa án, nói chung không cần phải
đánh giá lại tính xác thực của những điều đã được ghi trong văn bản đó và mặc
nhiên xem nó là chứng cứ. Vì lý do nào đó, để bác bỏ hiệu lực chứng cứ của một
văn bản công chứng, tòa án phải xem xét theo một trình tự tố tụng riêng về chính
văn bản công chứng đó, chứ không thể tùy tiện bác bỏ giá trị văn bản công
chứng trong một vụ kiện khác.

2.2 Một số quy định pháp luật có liên quan tác động tới giá trị
pháp lý của văn bản công chứng
2.2.1 Tiêu chuẩn của công chứng viên
Theo quy định tại Điều 8, Luật công chứng năm 2014 về tiêu
chuẩn công chứng viên thì:“Công dân Việt Nam thường trú tại Việt
Nam, tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, có phẩm chất đạo đức tốt và
có đủ các tiêu chuẩn sau đây thì được xem xét, bổ nhiệm công chứng
viên:Có bằng cử nhân luật;Có thời gian công tác pháp luật từ 05 năm
trở lên tại các cơ quan, tổ chức sau khi đã có bằng cử nhân luật; Tốt
17


nghiệp khóa đào tạo nghề công chứng quy định tại Điều 9 của Luật
này hoặc hoàn thành khóa bồi dưỡng nghề công chứng quy định tại
khoản 2 Điều 10 của Luật này; Đạt yêu cầu kiểm tra kết quả tập sự

hành nghề công chứng;Bảo đảm sức khỏe để hành nghề công chứng”.
Như vậy, quá trình trở thành công chứng chứng viên phải trải qua khá
nhiều bước, cần tham dự một khóa đào tạo nghề công chứng trong thời
gian 12 tháng hoặc tham gia khóa bồi dưỡng kỹ năng hành nghề công
chứng và quy tắc đạo đức hành nghề công chứng trong 3 tháng đối với
trường hợp được miễn đào tạo nghề công chứng. Sau khi được cấp
giấy chứng nhận tốt nghiệp khóa đào tạo nghề công chứng hoặc giấy
chứng nhận bồi dưỡng nghề công chứng phải tập sự hành nghề tại một
tổ chức hành nghề công chứng. Thời gian tập sự hành nghề công
chứng là 12 tháng đối với người có giấy chứng nhận tốt nghiệp khóa
đào tạo nghề công chứng và 06 tháng đối với người có giấy chứng
nhận bồi dưỡng nghề công chứng.
Khi hết thời gian tập sự, phải báo cáo kết quả tập sự có nhận xét
của công chứng viên hướng dẫn và xác nhận của tổ chức hành nghề
công chứng nhận tập sự gửi đến Sở Tư pháp nơi mình đã đăng ký tập
sự. Sau đó, phải tham dự tiếp kỳ kiểm tra kết quả tập sự hành nghề
công chứng. Người đạt yêu cầu kiểm tra kết quả tập sự hành nghề
công chứng được cấp giấy chứng nhận kết quả kiểm tra tập sự hành
nghề công chứng. Lúc này, mới đủ tiêu chuẩn để trở thành công chứng
viên và có quyền đề nghị Bộ trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm mình trở
thành công chứng viên.

18


2.2.2 Về trình tự, thủ tục công chứng
Những tình tiết, sự kiện trong văn bản công chứng là những tình
tiết sự kiện không phải chứng minh nhằm bảo đảm cho văn bản công
chứng có giá trị chứng cứ; hợp đồng, giao dịch sau khi được công
chứng có giá trị thi hành, căn cứ theo Điều 46 của Luật Công chứng

2014 về Lời chứng của công chứng viên, đã quy định công chứng viên
khi thực hiện công chứng phải ghi rõ “Lời chứng của công chứng viên
đối với hợp đồng, giao dịch phải ghi rõ thời điểm, địa điểm công
chứng, họ, tên công chứng viên, tên tổ chức hành nghề công chứng;
chứng nhận người tham gia hợp đồng, giao dịch hoàn toàn tự nguyện,
có năng lực hành vi dân sự, mục đích, nội dung của hợp đồng, giao
dịch không vi phạm pháp luật, không trái đạo đức xã hội, chữ ký hoặc
dấu điểm chỉ trong hợp đồng, giao dịch đúng là chữ ký hoặc dấu điểm
chỉ của người tham gia hợp đồng, giao dịch; trách nhiệm của công
chứng viên đối với lời chứng; có chữ ký của công chứng viên và đóng
dấu của tổ chức hành nghề công chứng” Các quy định như vậy là phù
hợp, thể hiện đúng bản chất của công chứng nội dung, đồng thời qua
đó xác định cụ thể trách nhiệm của công chứng viên đối với việc công
chứng. Tuy nhiên, trên thực tế cho thấy, do chỉ căn cứ vào giấy tờ
chứng minh quyền sở hữu, quyền sử dụng nên nhiều trường hợp công
chứng viên đã công chứng hợp đồng mà đối tượng của hợp đồng
không có thực hoặc có thực nhưng không phù hợp với giấy tờ. Ví dụ
như trường hợp người yêu cầu công chứng xuất trình giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở ghi là nhà cấp bốn nhưng trên

19


thực tế ngôi nhà đó đã được xây dựng thêm ba tầng.
2.2.3 Lưu trữ hồ sơ công chứng
Chế độ lưu trữ hồ sơ công chứng được quy định tại Điều 64 Luật
Công chứng 2014 quy định “Tổ chức hành nghề công chứng phải bảo
quản chặt chẽ, thực hiện biện pháp an toàn đối với hồ sơ công chứng.
Bản chính văn bản công chứng và các giấy tờ khác trong hồ sơ công
chứng phải được lưu trữ ít nhất là 20 năm tại trụ sở của tổ chức hành

nghề công chứng; trường hợp lưu trữ ngoài trụ sở thì phải có sự đồng
ý bằng văn bản của Sở Tư pháp.Trong trường hợp cơ quan nhà nước
có thẩm quyền có yêu cầu bằng văn bản về việc cung cấp hồ sơ công
chứng phục vụ cho việc giám sát, kiểm tra, thanh tra, điều tra, truy tố,
xét xử, thi hành án liên quan đến việc đã công chứng thì tổ chức hành
nghề công chứng có trách nhiệm cung cấp bản sao văn bản công
chứng và các giấy tờ khác có liên quan. Việc đối chiếu bản sao văn
bản công chứng với bản chính chỉ được thực hiện tại tổ chức hành
nghề công chứng nơi đang lưu trữ hồ sơ công chứng. Việc kê biên,
khám xét trụ sở của tổ chức hành nghề công chứng phải thực hiện
theo quy định của pháp luật và có sự chứng kiến của đại diện Sở Tư
pháp hoặc đại diện tổ chức xã hội - nghề nghiệp của công chứng viên
tại địa phương.”Qua đó, hồ sơ công chứng là loại hồ sơ đối chứng vô
cùng quan trọng, trong đó văn bản công chứng là căn cứ chứng minh
sự phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ dân sự của
người đã yêu cầu công chứng đối với các tài sản, lợi ích của mình,
đồng thời cũng là căn cứ để chứng minh việc công chứng viên có lỗi

20


hay không có lỗi trong việc xảy ra thiệt hại cho các chủ thể đã tham
gia ký kết hợp đồng. Trên thực tế, các khiếu kiện, tranh chấp về các
hợp đồng, giao dịch đã được ký kết giữa các bên chủ thể có thể xảy ra
bất kỳ lúc nào, không hạn định. Nếu tại thời điểm xảy ra tranh chấp
mà văn bản công chứng hoặc các giấy tờ trong hồ sơ công chứng đã
được tiêu hủy theo sự cho phép của pháp luật thì sẽ không còn chứng
cứ để chứng minh hợp đồng giao dịch đó có phù hợp với pháp luật và
đạo đức xã hội không, người công chứng viên chứng nhận hợp đồng,
giao dịch đó có thực sự không có lỗi với thiệt hại xảy ra cho các bên

chủ thể hay không.
2.2.4 Về trách nhiệm pháp lý của công chứng viên
Theo điều 38 của Luật Công chứng 2014 quy định nghĩa vụ bồi
thường, bồi hoàn trong hoạt động công chứng của tổ chức hành nghề
công chứng là phải “Tổ chức hành nghề công chứng phải bồi thường
thiệt hại cho người yêu cầu công chứng và cá nhân, tổ chức khác do
lỗi mà công chứng viên, nhân viên hoặc người phiên dịch là cộng tác
viên của tổ chức mình gây ra trong quá trình công chứng. Công chứng
viên, nhân viên hoặc người phiên dịch là cộng tác viên gây thiệt hại
phải hoàn trả lại một khoản tiền cho tổ chức hành nghề công chứng
đã chi trả khoản tiền bồi thường cho người bị thiệt hại theo quy định
của pháp luật; trường hợp không hoàn trả thì tổ chức hành nghề công
chứng có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết”. Như vậy, có thể hiểu là
trách nhiệm bồi thường thiệt hại do công chứng viên của Văn phòng
công chứng gây ra được thiết kế theo mô hình bảo hiểm kép. Đầu tiên,

21


thiệt hại do công chứng viên gây ra sẽ được doanh nghiệp bảo hiểm
bồi thường; ngoài ra, với tư cách là khoản nợ của Văn phòng công
chứng, thiệt hại do công chứng viên của Văn phòng công chứng gây
nên còn được bảo đảm bởi tài sản của cá nhân các công chứng viên là
thành viên trong Văn phòng công chứng đó, vì với tư cách chủ doanh
nghiệp tư nhân hay thành viên công ty hợp danh thì họ đều chịu trách
nhiệm vô hạn bằng tài sản của mình đối với hoạt động của doanh
nghiệp.
2.2.5 Về thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm trong tổ chức và hoạt
động công chứng
Việc thanh tra kiểm tra trong lĩnh vực công chứng cho đến nay

chủ yếu được tiến hành theo vụ việc hoặc khi các cơ quan có thẩm
quyền phát hiện ra các sai phạm đã xảy ra. Quy định liên quan đến
việc xử lý vi phạm trong lĩnh vực công chứng tuy bước đầu đã xác lập
được nền tảng các nguyên tắc và mức độ, phạm vi xử lý các vi phạm
nhưng vẫn chưa làm rõ được ranh giới giữa vi phạm kỷ luật, đạo đức
nghề nghiệp, vi phạm hành chính và hình sự.
Ví dụ, có những Văn phòng công chứng thành lập ra các Chi
nhánh văn phòng công chứng để tiếp nhận và giải quyết yêu cầu công
chứng, hạ mức thu lệ phí công chứng, quảng cáo cạnh tranh không
lành mạnh, tổ chức ký ngoài trụ sở không đúng quy định; công chứng
viên không trực tiếp chứng kiến việc ký kết hợp đồng của người yêu
cầu công chứng mà ủy thác cho các thư ký nghiệp vụ làm thay công
việc này rồi chỉ thực hiện nốt khâu ký lời chứng.

22


×