Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

PHỤ ĐẠO HỌC SINH YẾU KÉM KHI VIẾT BÀI VĂN, ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI LỚP 9

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (245.6 KB, 30 trang )

Tác giả chuyên đề: Đào Thị Thùy Linh
Giáo viên – Trường THCS Chấn Hưng
MỘT SỐ KINH NGHIỆM PHỤ ĐẠO HỌC SINH YẾU KÉM KHI VIẾT BÀI
VĂN, ĐOẠN VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI LỚP 9
PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ

1.1. Lí do chọn đề tài

Trong chương trình Ngữ văn những năm gần đây, Bộ Giáo dục và Đào tạo
đã đưa dạng bài nghị luận xã hội vào các hình thức thi cử, kiểm tra, đánh giá. Đó
là một chủ trương đúng đắn với mục tiêu: học văn, các em không chỉ biết cái
hay, cái đẹp của tác phẩm, tài năng của nhà văn mà còn giúp các em biết những
vấn đề của cuộc sống, những vấn đề diễn ra xung quanh các em như: phẩm chất
đạo đức, lối sống của con người, lối sống, quan niệm sống, môi trường sống,…
Từ đó các em định hướng cho mình một quan điểm sống phù hợp, sống có ích,
có ý nghĩa, hoàn thiện nhân cách, đạo đức, tâm hồn của mình hơn, phát triển
toàn diện hơn, đồng thời cũng đưa bộ môn Văn ở THCS gắn liền với thực tế đời
sống hơn bằng một ngôn ngữ trong sáng, hùng hồn với những lập luận chặt chẽ,
giàu sức thuyết phục.
Nhưng thực tế cho thấy, văn Nghị luận xã hội là một kiểu bài khó đối với
học sinh THCS. Hơn nữa, kiểu bài này không chỉ đòi hỏi kỹ năng làm bài mà
còn đòi hỏi kiến thức về các vấn đề thực tế của đời sống, để từ đó đòi hỏi các em
phải bộc lộ tư tưởng, quan điểm, suy nghĩ của mình. Đây thực sự là hạn chế ở
các em học sinh lớp 9, nhất là học sinh yếu kém, khi mà nhận thức của các em
còn khó khăn, vốn hiểu biết còn ít ỏi, tư duy chưa phát triển, có phần còn non
nớt thì việc bộc lộ suy nghĩ, quan điểm, bình luận, đánh giá, đưa ra các dẫn
chứng…thực sự là một khó khăn rất lớn. Chính vì thế, các em thường hay lúng
túng khi làm kiểu bài này, ngại học, ngại làm, dẫn đến kết quả làm bài còn rất
thấp, thường mắc nhiều lỗi trong quá trình làm kiểu bài này.
Việc phụ đạo học sinh yếu kém bộ môn Ngữ văn nói chung và phần Nghị
luận xã hội nói riêng là một trong những vấn đề rất quan trọng, cấp bách, cần


thiết và không thể thiếu. Ở giai đoạn này học sinh phải chuẩn bị kiến thức, kĩ
năng vững vàng để chuẩn bị cho kì thi tốt nghiệp THCS và thi vào THPT. Là
một giáo viên đang giảng dạy lớp 9, thấy được những hạn chế các em thường
mắc phải, những băn khoăn của đồng nghiệp, tôi đã luôn trăn trở làm thế nào để
khắc phục được những hạn chế của các em? Làm thế nào để các em viết tốt hơn
bài nghị luận xã hội? Chính vì vậy, sau khi phân tích một số nguyên nhân dẫn
đến tình trạng học sinh yếu kém phân môn Nghị luận xã hội, tôi đã dựa vào đó
để có thể tìm ra hướng khắc phục khó khăn giúp học sinh vươn lên trong học tập
1


thông qua đề tài sau đây: "Một số kinh nghiệm phụ đạo học sinh yếu kém khi
viết bài văn, đoạn văn nghị luận xã hội lớp 9"

1.2. Mục đích nghiên cứu.
Chỉ ra những hạn chế của học sinh khi viết bài văn nghị luận xã hội, nguyên
nhân mắc lỗi của các em để đưa ra các biện pháp khắc phục, để từ đó giúp các
em biết viết tốt bài nghị luận xã hội trong quá trình học và tham gia các kỳ thi
khảo sát, thi vào THPT.
Đồng thời trao đổi cùng các đồng nghiệp, giúp các đồng nghiệp có thêm
kinh nghiệm, phương pháp giảng dạy kiểu bài nghị luận xã hội lớp 9 có hệ
thống, khoa học hơn và đạt hiệu quả cao hơn đối với học sinh miền núi.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
- Đề tài nghiên cứu những hạn chế học sinh Yếu – Kém thường gặp khi viết
bài văn nghị luận xã hội, nguyên nhân và cách khắc phục những hạn chế của học
sinh.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết: nghiên cứu hệ thống lí
thuyết về đặc điểm, yêu cầu, các bước làm bài văn nghị luận xã hội lớp 9.
Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin: khảo sát thực

trạng của học sinh khi viết bài nghị luận xã hội.
Phương pháp thống kê, xử lý số liệu: thu thập số liệu, xử lý số liệu sau thu
thập, điều tra khảo sát thực tế tình trạng của học sinh.
PHẦN II: NỘI DUNG CHUYÊN ĐỀ
2.1. Cơ sở lí luận của chuyên đề
Như chúng ta đã biết trong cấu trúc đề thi môn Ngữ văn những năm gần
đây đều có câu hỏi yêu cầu học sinh vận dụng kiến thức xã hội và đời sống để
viết bài nghị luận xã hội ngắn khoảng 300 từ (hoặc một trang giấy thi). Có hai
dạng bài cụ thể là: Nghị luận về một vấn đề tư tưởng đạo lí; Nghị luận về một sự
việc, hiện tượng đời sống. Học sinh phải biết bám sát vào quy định trên để định
hướng ôn tập và làm bài thi cho hiệu quả. Ở kiểu bài nghị luận xã hội, học sinh
qua những trải nghiệm của bản thân, trình bày những hiểu biết, ý kiến, quan
niệm, cách đánh giá, thái độ...của mình về các vấn đề xã hội, từ đó rút ra được
bài học (nhận thức và hành động) cho bản thân. Để làm tốt khâu này, học sinh
không chỉ biết vận dụng những thao tác cơ bản của bài văn nghị luận (như giải
thích, phân tích, chứng minh, bình luận, so sánh, bác bỏ...) mà còn phải biết
trang bị cho mình kiến thức về đời sống xã hội .
Bài văn nghị luận xã hội nhất thiết phải có dẫn chứng thực tế. Cần tránh
tình trạng hoặc không có dẫn chứng hoặc lạm dụng dẫn chứng mà bỏ qua các
bước đi khác của quá trình lập luận. Mặt khác với kiểu bài nghị luận xã hội, học
sinh cần làm rõ vấn đề nghị luận, sau đó mới đi vào đánh giá, bình luận, rút ra
2


bài học cho bản thân. Thực tế cho thấy nhiều học sinh mới chỉ dừng lại ở việc
làm rõ vấn đề nghị luận mà coi nhẹ khâu thứ hai, vẫn coi là phần trọng tâm của
bài nghị luận...Vì những yêu cầu trên mà việc khắc phục những hạn chế của học
khi làm bài cũng như rèn luyện giúp cho học sinh có kĩ năng làm tốt một bài văn
nghị luận xã hội là một việc làm rất cần thiết.
2.2. Cơ sở thực tiễn của chuyên đề

Theo cấu trúc đề thi do Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định, ở tất cả các kì thi
Học sinh giỏi cấp tỉnh, cho đến thi vào lớp 10 THPT, thi tốt nghiệp THPT và
thi vào đại học, cao đẳng từ năm 2009, trong đề thi môn Ngữ văn sẽ có một câu
hỏi (chiếm khoảng 30%) yêu cầu vận dụng kiến thức về xã hội đời sống để
viết bài nghị luận xã hội về một tư tưởng, đạo lí; một hiện tượng đời sống xã
hội.
Việc đưa nghị luận xã hội vào cấu trúc đề thi là hợp lý, bởi kiểu bài này đòi
hỏi học sinh phải có ý thức học một cách nghiêm túc; có thói quen chủ động giải
quyết nhiều tình huống bất ngờ, đa dạng trong cuộc sống; rèn luyện tư duy
nhanh nhạy, biết gắn việc học lí thuyết với thực tiễn đời sống xã hội. Kiểu bài
này khá hay, có ích và phân loại đúng trình độ người học.
Việc đưa văn nghị luận xã hội trở thành một nội dung trong các bài thi, bài
kiểm tra đánh giá môn Ngữ văn các cấp là một chủ trương đúng. “Văn nghị luận
xã hội thực sự là một kiểu bài rất có khả năng kích thích tính tư duy sáng tạo
của cả người dạy và người học”- (TS. Nguyễn Văn Tùng)
Tuy nhiên, trong quá trình giảng dạy kiểu bài nghị luận xã hội ở nhà trường
chúng tôi đã gặp không ít những khó khăn:
2.2.1.Về sách giáo khoa:
Trong chương trình Ngữ văn kỳ II lớp 9, có 5 tiết dạy về kiểu bài này. Cụ thể:
Tiết 99: Nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống.
Tiết 100: Cách làm bài văn nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống.
Tiết 108: Nghị luận về một vấn đề tư tưởng, đạo lý.
Tiết 114,115: Cách làm bài văn nghị luận về một vấn đề tư tưởng, đạo lí.
Trong đó, phần lí thuyết được thiết kế một cách chung chung, chưa cụ thể, các
bước làm bài còn sơ sài, thiếu chi tiết ở cả 2 dạng bài, bố cục bài làm cũng còn
mang tính khái quát, chỉ mang tính định hướng chung chung, điều đó đã gây không
ít khó khăn cho giáo viên và học sinh trong quá trình dạy và học.
Bên cạnh đó, trong những năm gần đây, đề thi học sinh giỏi môn Văn lớp 9
cấp Huyện, cấp Tỉnh, đề thi khảo sát chất lượng học kỳ II của Sở Giáo dục và
Đào tạo, đề thi vào lớp 10 THPT, thường có dạng nghị luận về một vấn đề xã hội

đặt ra trong tác phẩm văn học, tuy nhiên trong sách giáo khoa lại không có bài
học về dạng này, chính vì thế, học sinh không biết cách làm
3


2.2.2.Về phía giáo viên dạy:
Bản thân một số giáo viên cũng có phần lúng túng, vừa dạy vừa học hỏi,
chưa vững kiến thức, kỹ năng, cách làm bài của kiểu bài này, nên chỉ thường
bám vào phần thiết kế trong sách giáo khoa mà chưa có sự đào sâu, cụ thể hóa
từng dạng nghị luận thành các bước làm bài cụ thể cho học sinh.
2.2.3.Về phía học sinh học:
Những năm gần đây học sinh có xu thế ngại học văn, sợ học văn, nhất là văn
nghị luận xã hội, vì đây là một kiểu bài khó, ngoài đòi hỏi kỹ năng về văn nghị luận
học ở lớp 7, còn đòi hỏi vốn sống phong phú, hiểu biết nhiều, khả năng lập luận,
dẫn dắt, nêu suy nghĩ, quan điểm, bình luận, đánh giá, các em không xác định được
yêu cầu của đề bài, không phân định rõ đó là dạng nghị luận gì, từ đó khó có thể
xác định và tìm được hướng đi của bài, thường mắc nhiều hạn chế khi làm bài.
2.2.4. Về thực trạng giáo dục của nhà trường so với toàn huyện, tỉnh
năm 2018-2019
Trường THCS Chấn Hưng là một trường có bề dày về thành tích và chất
lượng giáo dục trong nhiều năm. Qua kết quả các kì thi học sinh giỏi, thi liên
môn, điển hình là thi vào 10 THPT, có thể nhận thấy so với toàn Huyện số lượng
học sinh đạt kết quả tốt về môn văn chiếm vị trí khá trong bảng xếp hạng (nằm
trong top 20 so với toàn huyện). Tuy nhiên phần điểm bị trừ trong bài lại rơi vào
phần văn nghị luận xã hội. Nguyên nhân chính là do cách diễn đạt của các em
chưa được tốt, các ý còn chung chung, chưa cụ thể và rõ ràng, kiểu nghị luận
này yêu cầu học sinh phải vận dụng kiến thức thực tế thì các em lại chưa có.
Nhiều em còn mắc các lỗi về dùng từ, diễn đạt...có em còn xác định sai đề, dẫn
đến sai kiến thức cơ bản do suy diễn cảm tính, suy luận chủ quan hoặc tái hiện
quá máy móc dập khuôn trong tài liệu, thậm chí có chỗ “râu ông nọ cắm cằm bà

kia” nhầm lẫn giữa các dạng NLXH.
a, Đánh giá kết quả thi, sự tiến bộ so với năm trước:
Năm
học

Toán

Văn

Tiếng Anh

Điểm TT
TT Điểm
TT
TT Điểm TT
TT
TB Huyện Tỉnh TB Huyện Tỉnh TB Huyện Tỉnh

20182019

5,34

9

33

5,03

18


53

6,11

5

23

20192020

5,7

9

25

5,9

20

65

5,2

11

32

Bảng 1: Điểm trung bình thi các môn Toán – Văn – Anh
*Nhận xét:

4


Xếp thứ tự trong huyện, tỉnh :
Môn Toán : Cấp huyện không đổi (Thứ 9), cấp Tỉnh cao hơn 8 bậc ( Thứ 25)
Môn Văn : Cấp huyện thấp 2 bậc (20), cấp tỉnh thấp 12 bậc (65).
Môn T.anh : cấp huyện thấp 6 bậc(11), cấp tỉnh thấp 9 bậc(32).
*/ Đánh giá về độ lệch điểm học so với điểm thi :
+/Môn Toán Điểm học 6,9, điểm thi 5,7 Lệch 1,2 điểm
+/Môn Văn Điểm học 6,9, điểm thi 5,9 Lệch 1,0 điểm
+/Môn Anh Điểm học 6,9, điểm thi 5,2 Lệch 1,75 điểm
*/ Đánh giá về điểm liệt:
Môn Toán có 1 học sinh : Tạ Anh Duy : 0,5 điểm
Môn Tiếng Anh có 3 học sinh : Nguyễn Thị Hồng Vân: 0,4 điểm. Vũ Ngọc Trí:
0,4 điểm; Nguyễn Văn Lâm: 0,4 điểm
Môn Văn: 0 học sinh
b, Từ việc điều tra thực trạng.
Năm học 2019- 2020 tôi được nhà trường phân công dạy Ngữ văn 9, ngay
từ đầu năm học tôi đã phân luồng học sinh, xác định rõ các đồi tượng học sinh
yếu kém trên 2 cơ sở:
- Căn cứ 1: Điểm bộ môn Ngữ văn của năm học, tham khảo thêm điểm một số
môn học có liên quan ví dụ như Sử, Địa.
- Căn cứ 2: Không thể dựa hoàn toàn vào điểm bộ môn của năm học qua mà
phải kết hợp với những biểu hiện và quá trình học tập trên lớp, các con điểm
hiện tại.
Từ đó đưa ra nhiệm vụ trọng tâm của giáo viên dạy lớp 9 đối với học sinh
yếu kém đó là ngoài giảng dạy kiến thức trong sách giáo khoa theo phân phối
chương trình 37 tuần thì song song với đó cần ôn luyện, rèn kĩ năng thuần thục,
cung cấp kiến thức đầy đủ để cuối năm học các em có thể tham dự kì thi tuyển
vào THPT. Chính vì thế ngay từ đầu tháng 9 tôi đã ra tiến hành ra đề nghị luận

kiểu dạng nghị luận mà các em đã học ở lớp 7 sau đó tôi tiến hành chấm bài mục
đích để nắm bắt được khả năng làm bài nghị luận của học sinh. Đề khảo sát (phụ
lục1). Kết quả như sau:
Số HS không biết cách Số HS biết cách làm bài Số HS làm bài
Lớ Sĩ số làm bài (1->4điểm)
ở mức Tb-khá (5- tốt
p
>7điểm)
(8-9 điểm)
SL
%
SL
%
SL %
9A1 42
14
33,33
25
59,5
3
7,14
9A2 42
24
57,14
18
42,85
0
0
9A3 41
26

63,41
15
36,58
0
0
9A4 40
24
60,0
16
40,0
0
0
165
88
53,33
74
44,84
3
1,81
Bảng 2: Kết quả khảo sát đầu năm
5


Qua kết quả bài kiểm tra đầu tiên tôi nhận thấy học sinh còn mắc nhiều hạn chế
khi viết bài nghị luận, nhất là dạng nghị luận xã hội. Xuất phát từ thực tế đó,
việc nâng cao, mở rộng, rèn thêm cho học sinh Yếu kĩ năng làm bài văn nghị
luận xã hội là rất cần thiết.
c. Các giải pháp thực hiện
- Việc phụ đạo phải kết hợp giữa lý thuyết và thực hành, coi trọng thực hành
viết bài và rèn kĩ năng diễn đạt.

- Trong giờ ôn luyện, phụ đạo phải gây hứng thú học tập của học sinh, phát huy
tính tích cực, độc lập, sáng tao của học sinh. Học sinh rất sinh động, hoạt bát
trong nói năng hàng ngày nhưng vào giờ ôn luyện thì lại rụt rè, nói không nên
lời (vì các em đọc kém, viết kém, tiếp thu chậm nên e ngại, xấu hổ). Nguyên
nhân là phương pháp người giáo viên chưa khêu gợi được sự hứng thú của học
sinh, chưa tạo được không khí chan hòa, đồng cảm giữa thầy và trò, giữa trò với
nhau. Giờ phụ đạo giáo viên đừng gò bó các em, đừng vội vàng phê phán các
biểu hiện chưa tốt của các em. Vấn đề là phải tạo những điều kiện cần và đủ để
các em nắm bắt dần tri thức.
- Ôn luyện phải kết hợp việc rèn luyện kĩ năng với việc giáo dục tư tưởng, tình
cảm, tư duy cho học sinh. Phụ đạo học sinh yếu trước hết phải giáo dục lòng yêu
mến tự hào về tiếng Việt, từ đó khơi gợi chiều sâu của tâm hồn, tư tưởng của học
sinh.
- Phụ đạo phải kết hợp nhà trường, đoàn thể và gia đình: Xuất phát từ phương
châm giáo dục: " Kết hợp nhà trường, gia đình và xã hội". Trước hết phải làm
cho gia đình gương mẫu, tạo điều kiện cho các em có ý thức học hơn. Phải biết
nhắc nhở, đôn đốc con cái.
- Hướng dẫn việc chuẩn bị bài ở nhà cho học sinh. Muốn một giờ phụ đạo đạt
kết quả tốt, ngoài việc hướng dẫn học sinh đi đúng yêu cầu của một giờ ôn luyện
trên lớp thì việc cho các em chuẩn bị bài ở nhà cũng rất quan trọng. Muốn các
em chuẩn bị bài tốt, có chất lượng thì sự chuẩn bị, hướng dẫn của giáo viên cũng
phải chu đáo. Người thầy phải làm khâu này khoa học, cụ thể. Trong sách giáo
khoa thường có một số vấn đề để giáo viên lựa chọn, vậy nên chọn đề nào cho
phù hợp, để có hiệu quả cao cho đối tượng học sinh của mình dạy theo ý chủ
quan của giáo viên. Khi đã chọn được đề phù hợp rồi, giáo viên phải phân việc
cụ thể cho từng đối tượng học sinh ( có thể phân theo dãy bàn, tổ, nhóm) để học
sinh chuẩn bị kĩ lưỡng, tránh đối phó qua loa, đại khái.
2.3. Các lỗi thường gặp và nguyên nhân mắc lỗi của học sinh yếu kém khi
viết bài văn NLXH
Bên cạnh việc xác định giải pháp, định hướng chung cho học sinh yếu

kém thông qua các buổi phụ đạo đại trà thì việc tìm ra nguyên nhân dẫn đến việc
học sinh không viết được bài văn, đoạn văn NLXH đảm bảo theo yêu cầu của đề
bài, dạng bài cũng vô cùng cần thiết.

6


2.3.1. Giáo viên cần phát hiện đúng những hạn chế của học sinh, chỉ ra được các
lỗi thường gặp của học sinh khi viết bài văn nghị luận xã hội
Đây là một thao tác rất quan trọng. Bởi nếu không chỉ ra đúng các lỗi, những hạn
chế của các em khi viết bài văn nghị luận xã hội thì giáo viên sẽ không thể đưa ra được
biện pháp để khắc phục.
Trong quá trình giảng dạy, giáo viên cần chú ý tới việc tiếp thu của các em ngay
trong các tiết học cũng như qua quá trình thực hành. Thông thường, khi viết bài nghị
luận, các em thường mắc phải những hạn chế như: Không nhận diện đúng dạng bài
nghị luận xã hội; Không biết cách viết, viết lan man, viết theo cảm tính, nghĩ gì viết
nấy, không theo các bước làm bài cụ thể hay một bố cục hoàn chỉnh; Không biết triển
khai các ý, sắp xếp các ý một cách lộn xộn, lặp ý; Không biết cách viết mở bài, kết bài
trúng vấn đề; Nhầm lẫn các dạng bài nghị luận xã hội, nhất là nghị luận về một vấn đề
xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học sang nghị luận về tác phẩm văn học; Không biết
lập luận, bài viết thiếu chặt chẽ, lôgic, thiếu độ sâu, chưa làm toát lên vấn đề; Học sinh
không biết lấy dẫn chứng, thường không có dẫn chứng trong bài viết hoặc nhầm lẫn
các dẫn chứng không phù hợp với vấn đề nghị luận.
2.3.2. Giáo viên cần tìm ra đúng nguyên nhân vì sao học sinh mắc lỗi để từ đó có
cách khắc phục hiệu quả những hạn chế của học sinh.
Qua quá trình giảng dạy, cũng như chấm bài thi khảo sát chất lượng giữa các
trường, tôi nhận thấy nguyên nhân chủ yếu dẫn đến bài làm văn nghị luận xã hội của
học sinh chưa tốt là vì:
Học sinh không hiểu đúng về kiểu bài nghị luận xã hội, các em còn mơ hồ về
kiểu bài này chính vì thế cũng không nắm vững được yêu cầu của kiểu bài nghị luận

xã hội về nội dung, hình thức, kỹ năng là gì, thường hay viết chung chung, lan man,
khó xác định.
Học sinh chưa nắm vững từng dạng nghị luận xã hội, đâu là nghị luận về tư
tưởng, đạo lí; đâu là dạng nghị luận về hiện tượng đời sống, nghị luận về vấn đề xã hội
đặt ra trong một tác phẩm văn học, cho nên thường nhầm lẫn trong quá trình viết bài.
Học sinh không nắm vững các bước làm bài của từng dạng một, nên không biết
cách triển khai vấn đề một cách khoa học, logic.
Học sinh chưa thành thạo ở kỹ năng phân tích đề, tìm ý, xây dựng luận điểm,
luận cứ nên bài viết chưa chặt chẽ, còn lộn xộn.
Học sinh chưa hiểu cách viết mở bài, kết bài, vì thế thường không biết viết và
viết không trúng, không đúng.
Học sinh chưa thành thạo các thao tác làm bài của kiểu bài này như thao tác
chứng minh, giải thích, bình luận…
2.4. Biện pháp khắc phục
2.4.1. Cần giúp học sinh hiểu thế nào là kiểu bài nghị luận xã hội và phân biệt kiểu
bài này với kiểu bài nghị luận văn học
Nghị luận xã hội thực chất là trình bày quan điểm thái độ của mình về một vấn đề
xã hội nào đó được nêu ở phần đề bài bằng hình thức bình và bàn luận mở rộng. Từ đó
7


đưa ra bài học cho bản thân, nhận thức được điều gì đó sau khi bàn luận và tự nêu
được hành động hoặc đề xuất biện pháp góp phần làm cho vấn đề bàn luận tốt đẹp hơn
trong cuộc sống.
Ví dụ 1: Em hãy viết một bài nghị luận ngắn về hiện tượng gian lận trong thi cử của
học sinh hiện nay.
Còn nghị luận văn học là dạng đưa ra các vấn đề bàn luận là các vấn đề bàn bạc
về văn học, có thể là tác giả, tác phẩm, ý kiến nhận định về tác phẩm, nhân vật trong
tác phẩm…
Ví dụ 2: Cảm nhận của em về vẻ đẹp của nhân vật anh thanh niên trong truyện ngắn “

Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành Long ( Sách Ngữ văn lớp 9, tập 1)
2.4.2. Giúp học sinh nắm vững yêu cầu chung của kiểu bài nghị luận xã hội
Về nội dung:
Bài làm văn về nghị luận xã hội là một bài tập làm văn mà ở đó yêu cầu học sinh
trình bày được:
+ Quan điểm, thái độ của mình về một vấn đề xã hội nào đó (được nêu trong yêu
cầu của đề bài) bằng hình thức bình luận và bàn luận mở rộng.
+ Xác định được bài học cho bản thân trên các khía cạnh: Nhận thức được gì sau
khi bàn luận và tự nêu được hành động hoặc đề xuất những biện pháp góp phần làm
cho vấn đề vừa bàn luận tốt đẹp hơn trong cuộc sống.
Về hình thức:
Một bài nghị luận xã hội dù dung lượng ngắn hay dài cũng vẫn phải đảm bảo cấu
trúc của một bài làm văn. Bố cục 3 phần như các bài văn khác. Phần Giải quyết vấn đề
được tổ chức bằng một số đoạn văn. Yêu cầu lập luận (có lý lẽ) chặt chẽ kết hợp minh
chứng, diễn đạt logic mạch lạc và trình bày sáng sủa.
Về kĩ năng:
Mỗi bài văn nghị luận xã hội đều yêu cầu sự vận dụng nhiều kĩ năng của học sinh: Kỹ
năng quan sát thực tiễn, kĩ năng lập ý, kĩ năng bố cục văn bản, kĩ năng lập luận, bàn luận,
bình luận, đánh giá, kĩ năng dẫn chứng và phân tích dẫn chứng…
2.4.3. Giúp học sinh nhận diện đúng từng dạng bài nghị luận xã hội
Mỗi một dạng bài nghị luận xã hội sẽ có cách làm bài khác nhau, giáo viên
cần hướng dẫn cho học sinh nhận diện đúng từng dạng một. Tuy nhiên, với đối
tượng học sinh yếu kém, phụ đạo để nâng cao chất lượng đại trà thì tôi xin được
tập chung vào hai dạng chính là nghị luận về tư tưởng đạo lí và nghị luận về hiện
tượng đời sống.
a, Nghị luận về tư tưởng, đạo lí
Nghị luận về một tư tưởng đạo lí có thể đề cập đến các vấn đề của đời sống xã
hội như: đạo đức, tư tưởng, văn hoá, nhân sinh quan, thế giới quan,…Có thể khái quát
một số vấn đề thường được đưa vào đề thi như: Về nhận thức (lí tưởng, mục đích
sống); Về tâm hồn, tính cách, phẩm chất (lòng nhân ái, vị tha, độ lượng…, tính trung

thực, dũng cảm chăm chỉ, cần cù…). Về quan hệ gia đình, quan hệ xã hội : Tình mẫu
tử, tình anh em, tình thầy trò, tình bạn, tình đồng bào…; Về lối sống, quan niệm sống,

8


Các thao tác lập luận cơ bản thường được sử dụng trong kiểu bài này là : Sử
dụng thao tác lập luận giải thích để làm rõ ý nghĩa vấn đề, các nghĩa nghĩa tường
minh, hàm ẩn (nếu có); Sử dụng thao tác lập luận phân tích để chia tách vấn đề thành
nhiều khía cạnh, nhiều mặt, chỉ ra các biểu hiện cụ thể của vấn đề; Sử dụng thao tác
lập luận chứng minh để làm sáng tỏ vấn đề. Dẫn chứng lấy từ thực tế, có thể lẩy trong
thơ văn nhưng không cần nhiều (tránh lạc sang nghị luận văn học); Sử dụng thao tác
lập luận so sánh, bình luận, bác bỏ để đối chiếu với các vấn đề khác cùng hướng hoặc
ngược hướng, phủ định cách hiểu sai lệch, bàn bạc tìm ra phương hướng…
b, Nghị luận về một hiện tượng đời sống
Kiểu bài nghị luận về hiện tượng đời sống thường đề cập đến những vấn đề của
đời sống xã hội, những hiện tượng nổi bật, tạo được sự chú ý và có tác động đến đời
sống con người, những vấn đề chính trị, tư tưởng, văn hoá, đạo đức,…
Yêu cầu của kiểu bài này là học sinh cần làm rõ hiện tượng đời sống (qua việc
miêu tả, phân tích nguyên nhân, các khía cạnh của hiện tượng…) từ đó thể hiện thái độ
đánh giá của bản thân cũng như đề xuất ý kiến, giải pháp trước hiện tượng đời sống.
Học sinh cần có cách viết linh hoạt theo yêu cầu của đề bài, tránh làm bài máy móc hoặc
chung chung. Ngoài việc trang bị cho mình những kỹ năng làm bài, học sinh cần tích
lũy những vốn hiểu biết thực tế về đời sống xã hội..
Các thao tác lập luận chủ yếu là: phân tích, chứng minh, bác bỏ, bình luận.
2.4.4. Hướng dẫn học sinh nắm vững các bước làm bài văn nghị luận xã hội.(Có
giáo án minh họa kèm theo ở phụ lục 2)

Bước 1: Tìm hiểu, phân tích đề
Phân tích đề là chỉ ra những yêu cầu về nội dung, thao tác lập luận và phạm vi dẫn

chứng của đề. Đây là bước đặc biệt quan trọng trong làm văn nghị luận xã hội.
Các bước phân tích đề : Đọc kĩ đề bài, gạch chân các từ then chốt (những từ chứa
đựng ý nghĩa của đề), chú ý các yêu cầu của đề (nếu có), xác định yêu cầu của đề
(Tìm hiểu nội dung của đề, tìm hiểu hình thức và phạm vi tư liệu cần sử dụng).
Cần trả lời các câu hỏi : Đây là dạng đề nào? Đề đặt ra vấn đề gì cần giải quyết?
a-Đối với dạng đề nghị luận về một vấn đề tư tưởng đạo lí:
Dạng nghị luận về một vấn đề tư tưởng đạo lí thường có có 2 dạng đề:
- Đề nổi, học sinh dễ dàng nhận ra và gạch dưới luận đề trong đề bài, trong
đó tư tưởng đạo lí được nói đến một cách trực tiếp.
Ví dụ : Bàn về sự tự tin, lòng tự trọng của con người
- Đề chìm, học sinh cần đọc kĩ đề bài, dựa vày ý nghĩa câu nói, câu chuyện,
văn bản được trích dẫn mà xác định luận đề. trong đó tưởng đạo lí được
nói tới một cách gián tiếp
Ví dụ: “ Sứ mạng của người mẹ không phải là làm chỗ dựa cho con cái mà là
làm cho chỗ dựa ấy trở nên không cần thiết” (B.Babbles)
Hãy trình bày suy nghĩ của anh/ chị về ý kiến trên
Hướng dẫn phân tích đề : Ý kiến trên có các từ khoá trọng tâm cần giải thích:
9


+ “Sứ mạng” : Vai trò lớn lao, cao cả của cha mẹ trong việc nuôi dạy con cái.
+ “ Người mẹ”: Người sinh ra con cái , rộng hơn đó chính là mái ấm gia đình.
+ “ Chỗ dựa cho con cái”: nơi che chở , yêu thương , là nơi con cái có thể nương tựa.
=>Câu nói đã đưa ra quan điểm giáo dục của cha mẹ với con cai hết sức
thuyêt phục : Vai trò của cha mẹ không chỉ nằm trong việc dạy dỗ con mà quan
trọng hơn là làm sao để con cái biết sống chủ động, tích cực, không dựa dẫm.
Đây chính là vấn đề nghị luận.
b-Đối với dạng bài nghị luận về một hiện tượng đời sống cần rèn cho học
sinh có kĩ năng phân tích đề:
Xác định ba yêu cầu:

+ Yêu cầu về nội dung: Hiện tượng cần bàn luận là hiện tượng nào ? Đó là
hiện tượng tốt đẹp, tích cực trong đời sống hay hiện tượng mang tính chất tiêu
cực, đang bị xã hội lên án, phê phán ? Có bao nhiêu ý cần triển khai trong bài
viết ? Mối quan hệ giữa các ý như thế nào?
+ Yêu cầu về phương pháp : Các thao tác nghị luận chính cần sử dụng ?
Giải thích, chứng minh, bình luận, phân tích, bác bỏ, so sánh,…
+ Yêu cầu về phạm vi dẫn chứng: Bài viết có thể lấy dẫn chứng trong văn
học, trong đời sống thực tiễn (chủ yếu là đời sống thực tiễn).
Ví dụ minh hoạ: Nghị luận về vấn đề ô nhiễm môi trường hiện nay.
+ Vấn đề nghị luận : Hiện tượng ô nhiễm môi trường. Đây là hiện tượng
mang tính tiêu cực, ảnh hưởng xấu tới đời sống của con người. Bài viết cần đảm
bảo cấu trúc 4 phần chính : Thực trạng- Nguyên nhân- Tác hại- Giải pháp và bài
học.
+ Học sinh có thể sử dụng kết hợp các thao tác : giải thích hiện tượng, phân
tích bình luận về tác hại của hiện tượng, bác bỏ những quan niệm sai lệch liên
quan đến vấn đề, …
+ Dẫn chứng : Bài viết có thể lấy dẫn từ cuộc sống, tư liệu…
Bước 2: Lập dàn ý
Gv cần cung cấp, định hướng cho học sinh cách lập dàn ý cũng như dàn ý
cụ thể của từng dạng để các em tránh nhầm lẫm khi mà bài.
a- Dạng bài nghị luận về một hiện tượng đời sống.
Đối với dạng nghị luận về một hiện tượng đời sống, có 2 dạng nhỏ:
+ Đối với dạng nghị luận về một hiện tượng đời sống tiêu cực:
Mở bài: Nêu hiện tượng đời sống cần nghị luận.
- Giới thiệu sự việc, hiện tượng cần bàn luận
- Mở ra hướng giải quyết vấn đề: Thường là trình bày suy nghĩ
Thân bài:

Bước 1: Miêu tả hiện tượng được đề cập đến trong bài.
10



+ Giải thích ( nếu trong đề bài có khái niệm, thuật ngữ hoặc các ẩn dụ, hoán dụ,
so sánh…) cần làm rõ để đưa ra vấn đề bàn luận.
Ví dụ : giải thích thế nào là ô nhiễm môi trường? thế nào là bệnh vô cảm?…
+ Chỉ ra thực trạng ( biểu hiện của thực trạng)
Bước 2: Phân tích tác hại của vấn đề.
- Đối với mỗi cá nhân ( ảnh hưởng sức khoẻ, kinh tế, danh dự, hạnh phúc gia
đình, ảnh hưởng tâm lí….)
- Đối với cộng đồng, xã hội; Đối với môi trường xung quanh.
Bước 3: Chỉ ra nguyên nhân ( khách quan và chủ quan)
Khách quan : trường xung quanh, do trào lưu, do gia đình, nhà trường…
Chủ quan: Do ý thức, tâm lí, tính cách, ….của mỗi người
Bước 4: Bày tỏ thái độ, ý kiến đánh giá của người viết về hiện tượng.
Giải pháp : Thông thường mỗi hiện tượng đều xuất phát từ những nguyên nhân
cụ thể, nguyên nhân nào thì đi kèm với giải pháp ấy.
Nêu bài học rút ra cho bản thân : Bài học nhận thức và hành động.
Kết bài:
- Đánh giá chung về sự việc, hiện tượng đời sống đã bàn luận
- Phát triển, mở rộng, nâng cao vấn đề.
Ví dụ: Đề bài, em hãy nghị luận về hiện tượng gian lận trong thi cử của học
sinh hiện nay.
I. Mở bài: giới thiệu vấn đề nghị luận: gian lận trong thi cử
II. Thân bài: nghị lận gian lận trong kì thi
1. Giải thích gian lận trong thi cử là gi:
- Là không trung thực, dối trá trong kì thi, không làm đúng với khả năng của
mình,làm không đúng với tư duy của mình, sai lệch sự thật
2. Hiện trạng gian lận trong kì thi cử hiện nay:
- Gian lận trong thi cử diễn ra ngày càng nhiều và phổ biến.
- Gian lận trong thi cử diễn ra với nhiều hình thức: quay cóp, dung phao, thi hộ,

sử dụng những vật công nghệ hiện đại để xme tài liệu,….
- Các hình thức gian lận ngày càng tinh vi hơn
3. Nguyên nhân dẫn đến gian lận trong thi cử:
- Do học sinh lười học,do cha mẹ háo danh vọng, ép buộc con,nhà trường vì
bệnh thành tích…
4. Hậu quả của gian lận trong thi cử:
- Chất lượng học sinh khi ra trường không đảm bảo chất lượng,
- Làm mất niềm tin vào thế hệ tương lai của đất nước
- Thiếu trung thực trong học tập sẽ dẫn đến thiếu trung thực trong cuộc
sống xã hội.
11


5. Khắc phục tình trạng gian lận trong thi cử:
- Ý thức được hành vi gian lận của mình là sai; xử lí nghiêm khắc đối với học
sinh gian lận trong thi cử
III. Kết bài: nêu cảm nghĩ của em về hành vi gian lận trong thi cử
- Đây là một vấn nạn hết sức không tốt, Chúng ta hãy loại bỏ vấn nạn này
+ Đối với dạng nghị luận về một hiện tượng đời sống tích cực:
Mở bài:
- Nêu hiện tượng đời sống cần nghị luận.
- Giới thiệu sự việc, hiện tượng cần bàn luận, mở ra hướng giải quyết vấn đề.
Thân bài:
Bước 1: Nêu cách hiểu về hiện tượng, đánh giá về hiện tượng
Nêu cách hiểu, khái niệm, bản chất của hiện tượng, đánh giá về hiện tượng
Bước 2: Phân tích tác dụng của vấn đề.
Nêu tác dụng, ý nghĩa của hiện tượng đối với đời sống, mở rộng vấn đề, phản đề.
Bước 3: Nêu giải pháp phát huy vấn đề.
Bước 4: Rút ra bài học nhận thức và hành động
Khẳng định tính nhân văn của hiện tượng; Bài học hành động cho bản thân.

Kết bài:
Khái quát lại vấn đề, khẳng định ý nghĩa, tính đúng đắn của vấn đề.
VD: Em hãy viết bài văn nghị luận về phong trào hiến máu nhân đạo hiện nay.
I. Mở bài: giới thiệu về phòng trào hiến máu nhân đạo
II. Thân bài:
1. Giải thích thế nào là hiến máu nhân đạo:
- Hiến có nghĩa là cho đi, tự dâng hiến, tự nguyện không có ai ép buộc và bắt làm
- Hiến máu là cho đi máu của mình không phải người ta ép buộc
- Nhân đạo là một hành động có ý nghĩa
- Hiến máu nhân đạo là một hành động ý nghĩa
- Là một nghĩa cử cao đẹp của con người
2. Vì sao phải hiến máu nhân đạo:
- Máu là một thứ kì diệu, nuôi sống mỗi con người, không một ai có thể tạo ra
máu
- Thế giới ngày càng phát triển thì hiểm họa đến với con người ngày càng nhiều
như: tai nạn gia thông, tai nạn nghề nghiệp, các ca phẫu thuật trong bệnh viện,
….
- Nhu cầu máu là một nhu cầu cần thiết và cấp bách của con người khi cần thiết,
máu có thể cứu sống một con người
3. Ý nghĩa của việc tham gia hiến máu nhân đạo:
- Một mục tiêu hàng đầu và vô cùng ý nghĩa đó là cứu sống con người
- Hiến máu còn thể hiện tình yêu thương, đùm bọc và chia sẻ với con người
12


- Cho đi rồi chúng ta sẽ nhận lại, ai dám nói trong đời mình không lần gặp rủi ro,
chính vì thế khi chúng ta cho đi giọt máu của mình sẽ nhận lại được giọt máu
của người khác
- Đây là nghĩa cử cao đẹp và được tổ chức mọi lúc mọi nơi trên đất nước
III. Kết bài: nêu cảm nghĩ của em về phong trào hiên máu nhân đạo

- Đây là một nghĩa sử rất cao đẹp
- Chúng ta một lần cũng đi hiến máu
* Dạng nghị luận về một vấn đề tư tưởng, đạo lý.
I.Mở bài:
- Dẫn dăt, giới thiệu tư tưởng, đạo lí cần bàn luận, hướng giải quyết vấn đề.

II.Thân bài:
Bước 1: Giải thích tư tư tưởng , đạo lí.
Tùy theo yêu cầu đề bài có thể có những cách giải thích khác nhau:
- Giải thích khái niệm, trên cơ sở đó giải thích ý nghĩa, nội dung vấn đề.
- Giải thích nghĩa đen của từ ngữ, rồi suy luận ra nghĩa bóng, trên cơ sở đó giải
thích ý nghĩa, nội dung vấn đề.
- Giải thích mệnh đề, hình ảnh trong câu nói, trên cơ sở đó xác định nội dung, ý
nghĩa của vấn đề mà câu nói đề cập.
Thường trả lời câu hỏi : Là gì? Như thế nào? Biểu hiện cụ thể?
Bước 2: Giải thích, chứng minh làm sáng tỏ vấn đề
- Phân tích và chứng minh các mặt đúng của tư tưởng, đạo lý (thường trả lời câu
hỏi tại sao nói như thế? Dùng dẫn chứng cuộc sống xã hội để chứng minh. Từ đó chỉ
ra tầm quan trọng, tác dụng của tư tưởng, đạo lý đối với đời sống xã hội).
- Bác bỏ (phê phán) những biểu hiện sai lệch có liên quan đến vấn đề.
- Phần này thực chất là trả lời câu hỏi: Tại sao? (Vì sao?) Vấn đề được biểu hiện
như thế nào? Có thể lấy những dẫn chứng nào làm sáng tỏ?
Bước 3: Bàn luận, mở rộng.
- Đánh giá vấn đề: Nêu ý nghĩa của vấn đề, mức độ đúng - sai, đóng góp - hạn
chế của vấn đề.
- Mở rộng vấn đề: giải thích, chứng minh, đào sâu thêm vấn đề, lật ngược vấn đề.
Bước 4 : Bài học: Nêu ý nghĩa, rút ra bài học nhận thức và hành động.
- Từ sự đánh giá trên, rút ra bài học kinh nghiệm trong cuộc sống cũng như
trong học tập, trong nhận thức cũng như trong tư tưởng, tình cảm, …( Thực chất
trả lời câu hỏi: từ vấn đề bàn luận, hiểu ra điều gì? Nhận ra vấn đề gì có ý nghĩa

đối với tâm hồn, lối sống bản thân?...)
- Bài học hành động - Đề xuất phương châm đúng đắn, phương hướng hành
động cụ thể ( thực chất trả lời câu hỏi: Phải làm gì? …)
III.Kết bài:
Đánh giá ngắn gọn, khái quát về tư tưởng, đạo lí đã bàn luận.
13


Phát triển, liên tưởng, mở rộng, nâng cao vấn đề.
Ví dụ: Đề bài: Suy nghĩ của em về câu nói Học tập là một cuốn vở không có
trang cuối
I.Mở bài:
Nêu vai trò của học tập đối với con người.
Trích dẫn câu nói.
II.Thân bài:
1. Giải thích
Học tập: Học và luyện tập để có hiểu biết và kĩ năng.
Cuốn vở: Ghi chép những hiểu biết trong quá trình học tập.
Ý cả câu: Học tập là công việc suốt đời, không ngừng nghỉ.
2. Phân tích – chứng minh
Con người chúng ta từ chỗ không biết gì, nhờ quá trình học tập, tích lũy
kinh nghiệm mà có kiến thức - kĩ năng. Công việc ấy tiếp diễn bao đời nay.
Biển học thì vô cùng, không ai có thể khẳng định mình đã nắm chắc mọi
thứ, vì vậy phải liên tục học tập: Lê - nin: "Học, học nữa, học mãi". Đắc – uyn:
"Bác học không có nghĩa là ngừng học"
Thời đại ngày nay, con người có thể học tập bằng nhiều hình thức.
3. Bàn luận – mở rộng
Học tập là cuốn vở không trang cuối: Đó là phương châm sống của những
người cầu tiến, khát khao vươn tới chiếm lĩnh tri thức nhân loại và biết làm cho
cuộc sống của mình có giá trị thực sự.

Phê phán những người tự bằng lòng với sự hiểu biết của mình, tự mãn, tự
phụ hoặc ngại khó, biếng nhác, lười học tập...
Học tập suốt đời là việc phải làm và cần làm nhưng cũng cần có phương
pháp học tập để có kết quả thật tốt.
4. Bài học
Nhận thức: Coi học tập là niềm vui và hạnh phúc của đời mình.
Muốn học tập suốt đời có kết quả cần có ý thức và rèn luyện khả năng tự
học (chìa khóa để học tập suốt đời)
Học để mở mang kiến thức, nâng cao tầm nhìn và để có trình độ, khả năng
phục vụ cho đất nước, cho nhân dân, đáp ứng yêu cầu của thời đại (điều cần
thiết ở người lao động mới)
Hành động:Cần nắm vững kiến thức cơ bản trong học tập ở trường, lớp để
có cơ sở học nâng cao. Học tập với ý thức tự giác, chủ động, học đi đôi với hành
III. Kết bài: Khẳng định lại ý nghĩa của học tập, liên hệ bản thân.
+ Đối với dạng nghị luận tư tưởng đạo lý có 2 quan điểm trái ngược nhau.
Mở bài: Dẫn dắt vấn đề nghị luận, trích dẫn hai ý kiến.
Thân bài:
14


Bước 1:
Giải thích ý kiến, rút ra vấn đề nghị luận.
Giải thích ý kiến 1.
Giải thích ý kiến 2.
Nội dung 2 ý kiến.
Bước 2: Giải thích tư tưởng.
Về ý kiến 1.
Về ý kiến 2.
Bước 3: Bàn luận.
Bàn luận ý kiến 1.

Bàn luận ý kiến 2.
So sánh 2 ý kiến: giống, khác nhau và đưa ra cách hiểu vấn đề đúng đắn nhất.
Bước 4: Bài học nhận thức và hành động.
Bài học nhận thức: Khẳng định ý kiến quan điểm đúng đắn.
Bài học hành động: Rút ra bài học hành động cụ thể cho bản thân.
Kết bài: Khẳng định lại vấn đề.
Ví dụ: Đề bài: “ Mỗi người chúng ta đều có thể hạnh phúc khi chúng ta tin
rằng mình hạnh phúc”. Người khác lại cho rằng: “ Hạnh phúc cần phải được
đảm bảo bởi những điều kiện nhất định”. Vậy em nghĩ sao?
Mở bài: Giới thiệu vấn đề nghị luận, quan niệm về hạnh phúc, trích dẫn hai ý kiến.
Thân bài:
Bước 1. Giải thích hai ý kiến, rút ra vấn đề nghị luận
- Hạnh phúc: là một trạng thái cảm xúc của con người khi được thỏa mãn
một nhu cầu nào đó mang tính trừu tượng.
- Ý kiến 1: cảm giác hài lòng, thoả mãn khi nhận được những điều tốt đẹp,
có ý nghĩa đến với mình ( dù là những điều đơn giản nhất)-> Ý kiến khẳng định
giá trị hạnh phúc ở phương diện tinh thần, trong cảm nhận chủ quan của mỗi
người.
- Ý kiến hai: Hạnh phúc đó là những điều kiện về vật chất và các điều kiện
khách quan khác có khả năng duy trì sự tồn tại và phát triển tốt đẹp của con
người. -> Ý kiến khẳng định giá trị của hạnh phúc ở phương diện vật chất.
Bước 2: Giải thích tư tưởng.
a. Ý kiến 1:
- Khi cảm thấy hài lòng về cuộc sống của chính mình, hạnh phúc sẽ mỉm cười
với ta. ( dẫn chứng)
- Hạnh phúc đến từ những giá trị tinh thần rất giản dị, gần gũi: yêu thương ai
đó, biết sẻ chia niềm vui và nỗi buồn; biết đặt tin yêu vào cuộc sống và chính
mình; biết ước mơ và biến ước mơ thành hiện thực…( dẫn chứng)
15



- Nhận ra được giá trị đó, tâm hồn mỗi người trở nên thanh thản, thêm yêu đời,
yêu người, cảm thấy cuộc sống thực sự có ý nghĩa.( dẫn chứng)
b. Ý kiến 2:
- “ Vật chất quyết định ý thức”. Con người nếu không được thoả mãn những
điều kiện nhất định thì khó cảm nhận được niềm hạnh phúc đến với mình.
- Các yếu tố khách quan cũng rất quan trọng có tác động tích cực hay tiêu cực
đến tâm lí, cảm xúc con người, khiến ta thấy hạnh phúc hay ngược lại.
Bước 3: Bàn luận, mở rộng - Hai ý kiến trên không hề mâu thuẫn nhau mà bổ
sung, hoàn thiện cho nhau. Đó chính là hai mặt của một vấn đề - yếu tố chủ quan của
cảm nhận, khách quan của hoàn cảnh, tạo nên niềm hạnh phúc trọn vẹn cho con
người.
- Thực tế đôi khi hai yếu tố lại chuyển hoá cho nhau:
+ Nếu điều kiện thoả mãn hạnh phúc có hạn, con người sẽ rơi vào cảm xúc
buồn khổ, thất vọng.
+ Nếu điều kiện thoả mãn của hạnh phúc vẫn luôn hiện hữu nhưng mong muốn của
cá nhân lại ở tương lai xa vời thì ắt ta cũng chỉ cảm thấy đau khổ, bất hạnh.
Bước 4: Bài học.
Cần nhận thức được giá trị của hạnh phúc chân chính trong cuộc đời mỗi người.
- Nên biết cân bằng giữa mong muốn thoả mãn với điều kiện thực tế của bản
thân để tìm thấy giá trị thực sự của hạnh phúc.
- Biết hài lòng với chính mình và nỗ lực cố gắng vươn lên để tạo nên những điều
tốt đẹp, khiến ta hạnh phúc.
( Sau khi lập dàn ý, giáo viên có thể cho học sinh vẽ sơ đồ tư duy hoặc
cụ thể hóa thành sơ đồ cấu trúc bài văn nghị luận xã hội như ở phụ lục 3 để
học sinh nắm vững như một công thức sẵn có khi làm bài)
Bước 4: Hướng dẫn học sinh viết bài.
* Hướng dẫn viết mở bài: Học sinh rất lúng túng khó khăn khi viết mở bài vì
chưa biết cách để viết tốt phần mở bài nên giáo viên cần hướng dẫn học sinh viết
mở bài thật kỹ lưỡng..

Mở bài là đoạn văn khởi đầu cần giới thiệu được vấn đề nghị luận đã được đặt ra
ở phần đề bài để phần thân bài sẽ đi giải quyết. Vì thế mở bài không được lấn
sâu vào phần thân bài như giải thích, nhận xét, đánh giá.
Ví dụ viết phần mở bài cho đề sau: Suy nghĩ về đức hi sinh.
Con người Việt Nam đã từ lâu có nhiều phẩm chất đạo đức tốt đẹp như nhân
nghĩa, thủy chung, cần cù, chăm chỉ, dũng cảm…Một trong những phẩm chất
tốt đẹp ấy đó là đức hi sinh. Vậy chúng ta nên hiểu thế nào về đức tính này tôi
và các bạn cùng bàn luận nhé.
*Hướng dẫn viết thân bài:
16


Phần thân bài bao hàm nhiều ý để làm sáng tỏ vấn đề nghị luận (nhiều luận
điểm) mỗi luận điểm là một đoạn văn, đoạn văn ấy phải đúng quy cách.
Giữa các đoạn văn (các luận điểm) cần có sự liên kết, chuyển ý, chuyển
đoạn nhịp nhàng bằng các phép liên kết đã học để bài văn mượt mà, tránh gò bó,
máy móc, công thức.
Ví dụ viết đoạn văn giải thích đức hi sinh là gì?
Trước tiên ta cần hiểu thế nào là đức hi sinh? “Đức”ở đây là nói đến một đạo
đức, đức tính tốt đẹp trong cuộc sống. “Hi sinh”là chịu thiệt, nhận phần thiệt
thòi về mình để cho người khác hưởng những điều tốt đẹp. Hi sinh mang ý nghĩa
cao cả, cống hiến những điều mà bản thân đang có cho người khác vì mục đích
cao đẹp. “Đức hi sinh” là sự cống hiến, hi sinh bản thân mình vì người khác, vì
nghĩa lớn. Người có đức hi sinh là người biết đặt lợi ích của người khác cũng
như lợi ích của đất nước lên trên lợi ích của chính mình, sẵn sàng đối đầu với
mọi gian khổ khó khăn vì mục đích cao cả tốt đẹp mà mình hướng tới. Có thể
nói sự hi sinh vì lí tưởng cao đẹp là thứ vĩ đại, thiêng liêng và đẹp đẽ nhất trên
thế giới này.
* Hướng dẫn viết kết bài:
Phần kết bài cũng là phần quan trọng làm không chỉ làm nhiệm vụ khép lại

bài văn mà còn khẳng định lại vấn đề đã nghị luận ở trên, bày tỏ quan điểm và
nêu lời khuyên bổ ích của tư tưởng, đạo lí đã nêu. ( Xem phụ lục 2)
Bước 5: Hướng dẫn học sinh đọc và sửa bài.
Thực tế học sinh không hay thực hiện bước này. Đây là bước tương đối
quan trọng, sau khi hoàn thành bài viết cần đọc lại để sửa lỗi như lỗi chính tả, lỗi
diễn đạt, lỗi đánh dấu câu...phải kiểm tra soát lỗi thật chính xác rồi mới nộp bài.
Giáo viên cần lưu ý học sinh khắc phục lỗi này và yêu cầu các em khi viết bài
cần lưu ý thời gian, viết phải đúng trúng ý tránh dài dòng, lan man mà thiếu thời
gian đọc và sửa lỗi.
2.4.5. Hướng dẫn học sinh nắm vững các thao tác lập luận khi làm bài văn nghị
luận xã hội.
Thao tác giải thích:
Giải thích là vận dụng tri thức lí giải cho người khác hiểu vấn đề mà mình
đề cập tới. Trong một bài nghị luận xã hội, thao tác giải thích thể hiện cụ thể
trước hết ở việc giải nghĩa ( nghĩa đen, nghĩa bóng, nghĩa hẹp, nghĩa mở rộng)
của các khái niệm, các từ ngữ khó hiểu...Trên cơ sở đó giải thích toàn bộ vấn đề
(chú ý đến nghĩa tường minh và nghĩa hàm ẩn).
Ví dụ: Trong đề: Đức Phật dạy: “Giọt nước chỉ hòa vào biển cả mới không
cạn mà thôi”.
Em nghĩ gì về lời dạy trên? Viết bài văn bàn về vai trò của cá nhân với tập thể.
17


Vấn đề được đưa ra nghị luận là vai trò của cá nhân và tập thể được thể
hiện trong lời dạy của Phật. Để hiểu vấn đề trên, người viết cần :
Giải thích lời răn dạy:
+ Nghĩa đen : Một giọt nước riêng rẽ dễ bay hơi, khó tồn tại
Triệu triệu giọt nước hoà thành biển cả thì bền vững “ không cạn”
+ Nghĩa bóng : Mỗi cá nhân là một giọt nước, đứng một mình thì khó tồn
tại và phát triển

Con người phải biết hoà mình vào tập thể mới đứng vững, mới phát huy hết
khả năng, mới có điều kiện để phát triển.
- Trả lời câu hỏi : Tại sao lại như vậy ?
+ Cuộc sống có nhiều khó khăn, vất vả; mỗi cá nhân không thể làm mọi
việc, đáp ứng mọi nhu cầu.
+ Bước vào tập thể, con người học tập sẻ chia, giúp đỡ, động viên nhau xây
dựng tập thể vững mạnh trong đó các cá nhân đầu được đáp ứng nhu cầu.
+ Cá nhân và tập thể có mối quan hệ khăng khít : cá nhân xây dựng nên tập
thể, tập thể tạo điều kiện cho cá nhân phát triển.
Trên cơ sở giải thích ý nghĩa của lời dạy, giải thích ý nghĩa của vấn đề xã hội
được đưa ra bàn luận : Vai trò cũng như mối quan hệ giữa cá nhân và tập thể.
Thao tác chứng minh
Chứng minh là đưa ra các cứ liệu, dẫn chứng xác đáng để làm sáng tỏ một
lí lẽ, một ý kiến; làm sáng tỏ vấn đề xã hội đang bàn luận, thuyết phục người
đọc, người nghe tin tưởng vào vấn đề đang được nghị luận.
Để chứng minh, trước hết người viết cần phải hiểu về điều cần chứng minh.
Chứng minh làm sáng tỏ cho những thao tác giải thích trước đó cũng như chứng
minh cho những luận điểm,luận cứ trong bài viết. Để dẫn chứng và lí lẽ có sức
thuyết phục cao, phải sắp xếp chúng thành một hệ thống mạch lạc và chặt chẽ
theo các mặt của vấn đề, theo trình tự thời gian, không gian, từ xa đến gần, từ
ngoài vào trong... cho hợp lý và lôgíc.
Ví dụ : Tuổi trẻ học đường suy nghĩ và hành động để giảm thiểu tai nạn
giao thông.
“Những thực tế đau buồn về tình hình tai nạn giao thông đã phản ánh tầm
quan trọng của vấn đề. Mỗi ngày đi qua lại có tới hơn ba mươi người chết và bị
thương do tai nạn giao thông. Trong vài năm gần đây, trong chương trình “ Chào
buổi sáng” có thêm chuyên mục “ An toàn giao thông”. Đó là bởi tình hình tai
nạn giao thông đã quá phổ biến, gây xôn xao trong dư luận : Những vụ đâm tàu
tại Hà Nam, Quảng Bình; những tai nạn ô tô nghiêm trọng, phổ biến hơn là tai
nạn mô tô, xe máy... tại các thành phố lớn và khu vực đông dân cư. Và đáng

buồn thay, trong số đó có nhiều vụ là hậu quả của những học sinh, sinh viên coi
thường trật tự an toàn giao thông”
18


Thao tác phân tích
Phân tích là việc chia tách đối tượng,sự việc thành nhiều bộ phận, yếu tố
nhỏ để đi sâu xem xét kĩ lưỡng nội dung và mối liên hệ bên trong của đối tượng.
Tác dụng của phân tích là thấy được giá trị ý nghĩa của sự vật, hiện tượng ,
mối quan hệ giữa hình thức bên ngoài và bản chất bên trong của sự vật hiện tượng
đó. Phân tích để nhận thức đầy đủ và sâu sắc về các vấn đề xã hội đang được đưa ra
xem xét, bàn luận. Yêu cầu khi phân tích cần phải nắm vững đặc điểm cấu trúc của
đối tượng để chia tách cho hợp lí. Sau khi phân tích, tìm hiểu từng bộ phận, chi tiết,
phải tổng hợp khái quát lại để nhận thức đối tượng đầy đủ, chính xác.
Ví dụ : “ Đức Phật từng dạy “Giọt nước chỉ hoà vào biển cả mới không bao
giờ khô cạn mà thôi”. Nếu coi từng giọt nước là những các thể riêng lẻ trong xã
hội và biển cả là tập thể rộng lớn thì lời dạy của Đức Phật thật sâu xa, thâm
thuý.Câu nói ấy nhắc nhở con người phải biết hoà mình vào tập thể, sống trong
tập thể và sống vì tập thể “ một người vì mọi người”. Mỗi cá nhân là một bộ phận
hữu cơ của tập thể xung quanh. Tự cá nhân ấy không thể đáp ứng mọi nhu cầu về
vật chất, tinh thần cho mình bởi mỗi con người không phải là một thế giới.
Thao tác bình luận
Bình luận là bàn bạc, đánh giá vấn đề, sự việc, hiện tượng; chỉ ra sự đúng sai, tốt – xấu, lợi – hại…để nhận thức đối tượng, có cách ứng xử phù hợp,
phương châm hành động đúng. Đây là thao tác có tính tổng hợp vì nó bao hàm
công việc giải thích lẫn chứng minh nhằm mở rộng, nâng cao vấn đề.Việc nhìn
bình luận phải dựa trên sự nhìn nhận vấn đề một cách toàn diện, khách quan; có
lập trường tư tưởng đúng đắn rõ ràng.
Bằng thao tác bình luận, người viết thể hiện ý kiến của mình đối với vấn đề
xã hội được đưa ra nghị luận: đồng ý hay không đồng ý;đồng ý ở những nội
dung, khía cạnh nào; sau đó, bình luận - mở rộng vấn đề hơn, toàn diện và triệt

để hơn. Cuối cùng cần chỉ ra phương hướng vận dụng vào cuộc sống.
Ví dụ:“Là học sinh, chúng ta phải thực hiện nhiệm vụ và bổn phận của
mình, luôn tự nhắc nhở bản thân: “đường đi không khó vì ngăn sông cách núi
mà khó vì lòng người ngại núi, e sông”. Nói như vậy có nghĩa là, nhiệm vụ
chính của chúng ta là học tập, sẽ không có lí do gì để chúng ta không cố gắng
học tốt. Chỉ có tích cực trau dồi kiến thức, mỗi người trẻ tuổi mới có thể trở
thành những chủ nhân có ích cho đất nước. Vì vậy, hãy cố gắng ở mức cao nhất
để trở thành những con người ưu tú, có ích cho cộng đồng”.
2.4.6. Rèn cho học sinh kĩ năng xác định luận điểm, triển khai luận cứ
Khi làm kiểu bài này, các em thường không biết xác định luận điểm, triển khai luận
cứ, vì thế bài viết mơ hồ, không rõ ràng. Vì thế giáo viên cần hướng dẫn học sinh kỹ
năng này. Các em cần dựa vào dàn ý chung của kiểu bài nghị luận để xây dựng luận
19


điểm. Ví dụ dạng nghị luận về tư tưởng đạo lí, thông thường, kiểu bài này sẽ có
những luận điểm chính sau:
Luận điểm 1: Giải thích tư tưởng đạo lí
Luận điểm 2: Giải thích, chứng minh tư tưởng đạo lí, phê phán những biểu hiện sai
lệch liên quan đến vấn đề
Luận điểm 3: Bàn luận, mở rộng vấn đề.
Luận điểm 4: Bài học rút ra
Để làm sáng tỏ cho luận điểm lớn, người ta thường đề xuất các luận điểm nhỏ. Một
bài văn có thể có nhiều luận điểm lớn, mỗi luận điểm lớn lại được cụ thể hoá bằng
nhiều luận điểm nhỏ hơn.Tuỳ vào từng đề bài, học sinh có thể triển khai những luận
điểm nhỏ hơn.
Kiểu bài nghị luận về hiện tượng đời sống thường dễ xác định luận điểm, luận cứ.
Học sinh chỉ cần nắm vững dàn ý chung là có thể tìm được các luận điểm phù hợp
cho từng đề cụ thể. Thông thường bài văn sẽ có các luận điểm sau :
Luận điểm 1 :Thực trạng

Luận điểm 2 : Nguyên nhân
Luận điểm 3 : Tác hại/ tác dụng
Luận điểm 4 : Giải pháp, bài học
Khi xây dựng lập luận, bên cạnh xác định đúng luận điểm, điều quan trọng nhất là
phải tìm cho được các luận cứ có sức thuyết phục cao. Luận cứ là những ý nhỏ, triển
khai cho luận điểm. Luận cứ có thể là dẫn chứng, lí lẽ làm sáng tỏ cho luận điểm.
Luận cứ phải đảm bảo những yêu cầu cơ bản sau: phải phù hợp với yêu cầu khẳng
định của luận điểm. Nội dung của luận cứ phải thống nhất với nội dung của luận
điểm; phải xác thực, tiêu biểu; phải vừa đủ, đáp ứng yêu cầu chứng minh toàn diện
cho luận điểm.
2.4.7. Hướng dẫn học sinh cách tìm dẫn chứng cho bài văn nghị luận xã hội
Để chứng minh một cách thuyết phục cho các luận điểm của một bài văn
nghị luận xã hội, người viết phải sử dụng dẫn chứng cụ thể, tiêu biểu về những
người thật, việc thật. GV hướng dẫn học sinh cách tìm dẫn chứng:
- Trong quá trình đọc sách báo, nghe tin tức trên các phương tiện thông tin đại
chúng, cần ghi lại những nhân vật tiêu biểu, những sự kiện, con số chính xác về
một sự việc nào đó.
- Sau một thời gian tích luỹ cần chọn lọc, ghi nhớ và rút ra bài học ý nghĩa nhất
cho một số dẫn chứng tiêu biểu.
- Cần nhớ, một dẫn chứng có thể sử dụng cho nhiều đề văn khác nhau. Quan
trọng là phải có lời phân tích khéo léo. (Ví dụ lấy dẫn chứng về Bác Hồ hay
BillGates vừa có thể dùng cho đề bài về tinh thần tự học, về tài năng của con
người, hoặc vừa là đề bài về khả năng ý chí vươn lên trong cuộc sống hay về
niềm đam mê, bài học về sự thành công, tấm gương về một lòng nhân ái...).
20


Giáo viên có thể hướng dẫn học sinh cách lấy dẫn chứng như:
Dùng nhân vật trong thực tế đời sống để làm dẫn chứng.
VD: Bác Hồ - Một lãnh tụ vĩ đại, một nhà cách mạng lỗi lạc đồng thời là một nhà

văn, nhà thơ. Để có được điều đó Người phải tự học, ý chí vươn lên trong cuộc
sống, quan trọng hơn Bác còn là người biết hy sinh mình cho tổ quốc nhân dân. ->
Khó khăn không làm cho ý chí lung lay mà ngược lại còn giúp cho con người có
nghị lực hơn.
Dùng những con số biết nói để làm dẫn chứng.
VD: Tính trên toàn thế giới, số người nhiễm HIV hiện nay là 45 triệu người.
Trong đó 50% là phụ nữ. Có khoảng 14 triệu trẻ em trên thế giới có cha mẹ,
hoặc cả cha mẹ qua đời vì HIV/AIDS.
Dẫn chứng trong các tác phẩm văn học.
VD: Về nghị lực sống: nhân vật Giôn –xi trong tác phẩm Chiếc lá cuối cùng của Ô
– hen – ri; về tình bạn: Xiu và Giông – xi; về tình thương người: cụ Bơ – men.
Dẫn chứng từ lịch sử hào hùng của dân tộc.
VD: Về lý tưởng sống của thanh niên, về lòng dũng cảm, lòng yêu nước...ví dụ
như các anh hùng dân tộc: Phan Đình Giót, Võ Thị Sáu...
2.4.8. Giáo viên cần có những bài văn mẫu để đọc cho học sinh tham khảo.
Để học sinh hình dung cụ thể về cách làm bài dạng đề này thì giáo viên nên
đọc một số bài văn mẫu từ đó học sinh được cảm nhận về nội dung, hình thức,
cách viết để vận dụng trong bài viết của mình một cách tốt hơn. Những bài mẫu
được chọn phải thực sự xúc động để lay động được tâm hồn đồng thời khơi gợi
được chất văn trong các em.
Ví dụ: Viết một bài văn ngắn bàn về vấn đề: Những con người không chịu thua
số phận.
Bài mẫu.
“Mỗi trang đời đều là một điều kỳ diệu” M.Gorki đã từng nói như thế và
điều đó thực sự khiến chúng ta cảm động khi lật giở những trang đời của những
con người không chịu thua số phận như thầy Nguyễn Ngọc Ký, anh Trần Văn
Thước, Nguyễn Công Hùng...
Trước hết ta phải hiểu thế nào là “không chịu thua số phận”. Đó là những
người không chấp nhận mình mãi là tàn phế, vô dụng, không học tập, không
đóng góp gì cho xã hội.

Không mấy người Việt Nam không biết đến thầy Nguyễn Ngọc Ký đã liệt cả
hai tay đã kiên trì luện tập biến đôi bàn chân thành đôi bàn tay kì diệu viết
những dòng chữ đẹp, học tập trở thành nhà giáo, nhà thơ. Anh Trần Văn Thước :
bị tai nạn lao động liệt toàn thân. Không gục ngã trước số phận, anh can đảm tự
học và trở thành nhà văn. Không thể nói hết những gian nan, những giọt nước
mắt đâu khổ của họ trong những ngày tự mình vượt qua bệnh tật để khẳng định
giá trị của mình, để chứng tỏ bản thân tàn nhưng không phế.
21


Vào năm 2005 cả nước biết đến một Nguyễn Công Hùng (Xã Nghi Diênhuyện Nghi Lộc-Nghệ An) Từ khi sinh đã mắc chứng bại liệt. Anh còn bị căn
bệnh viêm phổi hành hạ làm cho sức khoẻ suy kiệt. Vậy mà anh đã không gục
ngã. Chàng trai 23 tuổi, bại liệt, chân tay teo tóp, trọng lượng chỉ 12kg và gần
như mất hoàn toàn khả năng lao động đã trở thành một chuyên gia tin học và
được tôn vinh là Hiệp sỹ công nghệ thông tin năm 2005 vì những đóng góp
không vụ lợi của mình cho cộng đồng. Tháng 5/2005 anh được trung tâm sách
kỷ lục Việt Nam đưa vào “Danh mục kỷ lục Việt Nam” về người khuyết tật bị
bại liệt toàn thân đầu tiên làm giám đốc cơ sở đào tạo tin học và ngoại ngữ nhân
đạo.
Điều gì khiến những con người tật nguyền ấy có thể vượt qua bệnh tật và
khẳng định được bản thân mình? Họ đã tạo dựng cuộc sống từ muôn vàn khó
khăn, gian khổ, thử thách bằng sự kiên trì, nhẫn nại và quyết tâm chiến thắng số
phận của mình. Họ đã không mất đi niềm tin yêu vào cuộc sống tinh thần mạnh
mẽ của họ. Song bên cạnh đó còn có những nguyên nhân khác. Đó chính là sự
động viên, khích lệ, giúp đỡ của bạn bè, của người thân, là khát khao không
muốn người thân của mình đau khổ, thất vọng và còn nhờ dòng máu kiên cường
và truyền thống anh hùng của dân tộc Việt Nam.
Những con người vượt lên số phận đứng lên bằng nghị lực, khát vọng và ý chí
của mình khiến em vô cùng khâm phục. Chính những tấm gương về họ đã xây
đắp những ước mơ, hoài bão, trong em, dạy em phải biết vượt qua những khó

khăn trong cuộc sống để thực hiện những khát khao của mình. Những người
không chịu thua số phận những con người tàn mà không phế thực sự là những
tấm gương cho lứa tuổi học sinh chúng em, khích lệ bản thân mỗi người cố gắng
phấn đấu học tập, rèn luyện để trở thành những người con có ích cho xã hội.
2.5. Hướng dẫn học sinh yếu – kém viết đoạn văn NLXH
So với bài văn NLXH hoàn chỉnh, thì viết đoạn văn NLXH những năm gần đây
thường xuất hiều trong đề thi. Về cách thức làm nó cũng có 4 thao tác cơ bản giống
với một bài văn hoàn chỉnh, nhưng cũng có nhiều giới hạn nhất định về dung lượng, về
hình thức viết đoạn.
2.5.1. Tạo lập và xây dựng đoạn văn nghị luận:
a-Hình thức:

- Khi viết đoạn văn 200 chữ, thí sinh cần chú ý trình bày đúng quy tắc một đoạn
văn là không ngắt xuống dòng. Dung lượng an toàn của một đoạn là 2/3 tờ giấy
thi, tương đương khoảng 20 dòng viết tay.
- Học sinh nên linh hoạt lựa chọn hình thức đoạn văn phù hợp, có thể là diễn
giải, quy nạp, tổng phân hợp… Tuy nhiên, nên ưu tiên sự lựa chọn hình thức
tổng- phân- hợp để tạo ấn tượng về một văn bản hoàn chỉnh, độc lập, đầy đặn.
- Các câu được liên kết với nhau bằng phép nối, phép thế, phép lặp,…Có câu
mở, các câu triển khai và câu kết rõ ràng.

22


b-Nội dung: Các câu đều tập trung thể hiện vấn đề nghị luận, hệ thống luận
điểm, luận cứ rõ ràng, chặt chẽ, có sức thuyết phục.
- Cần lưu ý nguyên tắc viết đoạn, tránh kể lể bàn luận lan man trùng lặp. Phần
mở đoạn và kết đoạn chỉ nên viết trong một câu ngắn gọn. Trong đó mở đoạn
giới thiệu vấn đề nghị luận, thân đoạn triển khai nội dung nghị luận, kết đoạn
viết về bài học cho bản thân

c- Kết cấu:
-Thường được kết cấu theo cách tổng – phân – hợp, diễn dịch và quy nạp.
* Đoạn diễn dịch
Đoạn diễn dịch là một đoạn văn trong đó câu chủ đề mang ý nghĩa khái quát
đứng ở đầu đoạn, các câu còn lại triển khai ý tưởng chủ đề, mang ý nghĩa minh hoạ,
cụ thể. Các câu triển khai được thực hiện bằng các thao tác giải thích, chứng minh,
phân tích, bình luận; có thể kèm những nhận xét, đánh giá và bộc lộ sự cảm nhận
của người viết.
Ví dụ: Đoạn văn diễn dịch, nội dung nói về nạn tham nhũng:
Tham nhũng là vấn đề được quan tâm hàng đầu ở Châu Á (1). Mới đây
chính phủ Hàn Quốc bắt giam hai cựu bộ trưởng Bộ quốc phòng và hai cựu tướng
lĩnh về tội nhận hối lộ một triệu đô la (2). Giới lập pháp ở Đài Loan hiện phải công
khai tài sản của mình và rồi đây các viên chức cao cấp trong chính phủ cũng sẽ làm
điều đó (3). Cũng do tham nhũng, đảng dân chủ tự do cầm quyền ở Nhật Bản đã
mất đa số ghế tại hạ viện (4).
(Báo Tuổi trẻ, số ngày 05/08/1993)
Mô hình đoạn văn: Câu 1 là câu mở đoạn, mang ý chính của đoạn gọi là câu chủ
đề. Bốn câu còn lại là những câu triển khai làm rõ ý của câu chủ đề. Đây là đoạn văn
giải thích có kết cấu diễn dịch.
* Đoạn quy nạp.
Đoạn văn quy nạp là đoạn văn được trình bày đi từ các ý chi tiết, cụ thể nhằm
hướng tới ý khái quát nằm ở cuối đoạn. Các câu trên được trình bày bằng thao tác
minh hoạ, lập luận, cảm nhận và rút ra nhận xét, đánh giá chung.
Ví dụ: Những đứa con từ khi sinh ra đến khi trưởng thành, phần lớn thời gian là
gần gũi và thường là chịu ảnh hưởng từ người mẹ hơn từ cha. Chúng được mẹ cho
bú sữa, bồng ẵm, dỗ dành, tắm giặt, ru ngủ, cho ăn uống, chăm sóc rất nhiều khi
ốm đau…Với việc nhận thức thông qua quá trình bé tự quan sát, học hỏi tự nhiên
hàng ngày và ảnh hưởng đặc biệt các đức của người mẹ, đã hình thành dần dần bản
tính của đứa con theo kiểu “mưa dầm, thấm lâu”. Ngoài ra, những đứa trẻ thường
là thích bắt chước người khác thông qua những hành động của người gần gũi nhất

chủ yếu là người mẹ. Chính người phụ nữ là người chăm sóc và giáo dục con cái
chủ yếu trong gia đình.
(Trần Thanh Thảo)
23


Mô hình đoạn văn: những câu đầu triển khai phân tích vấn đề, từ đó khái quát vấn
đề trong câu cuối – câu chủ đề, thể hiện ý chính của đoạn. Đây là đoạn văn phân tích
có kết cấu quy nạp.
* Đoạn tổng phân hợp.
Đoạn văn tổng phân hợp là đoạn văn phối hợp diễn dịch với quy nạp. Câu
mở đoạn nêu ý khái quát bậc một, các câu tiếp theo khai triển ý khái quát, câu
kết đoạn là ý khái quát bậc hai mang tính chất nâng cao, mở rộng. Những câu
khai triển được thực hiện bằng thao tác giải thích, chứng minh, phân tích, bình
luận, nhận xét hoặc nêu cảm tưởng, để từ đó đề xuất nhận định đối với chủ đề,
tổng hợp lại, khẳng định thêm giá trị của vấn đề.
Ví dụ: Đoạn văn tổng phân hợp, nội dung nói về đạo lí uống nước nhớ nguồn:
“ Lòng biết ơn là cơ sở của đạo làm người(1). Hiện nay trên khắp đất nước ta
đang dấy lên phong trào đền ơn đáp nghĩa đối với thương binh, liệt sĩ, những bà
mẹ anh hùng, những gia đình có công với cách mạng(2). Đảng và Nhà nước
cùng toàn dân thực sự quan tâm, chăm sóc các đối tượng chính sách(3). Thương
binh được học nghề, được trợ vốn làm ăn; các gia đình liệt sĩ, các bà mẹ Việt
Nam anh hùng được tặng nhà tình nghĩa, được các cơ quan đoàn thể phụng
dưỡng, săn sóc tận tình(4). Rồi những cuộc hành quân về chiến trường xưa
tìm hài cốt đồng đội, những nghĩa trang liệt sĩ đẹp đẽ với đài Tổ quốc ghi công
sừng sững, uy nghiêm, luôn nhắc nhở mọi người, mọi thế hệ hãy nhớ ơn các liệt
sĩ đã hi sinh anh dũng vì độc lập, tự do…(5)Không thể nào kể hết những biểu
hiện sinh động, phong phú của đạo lí uống nước nhớ nguồn của dân tộc ta(6).
Đạo lí này là nền tảng vững vàng để xây dựng một xã hội thực sự tốt đẹp(7).
Mô hình đoạn văn: Đoạn văn gốm bảy câu:

 Câu đầu (tổng): Nêu lên nhận định khái quát về đạo làm người, đó là lòng
biết ơn.
 Năm câu tiếp ( phân): Phân tích để chứng minh biểu hiện của đạo lí uống
nước nhớ nguồn.
 Câu cuối (hợp): Khẳng định vai trò của đạo lí uống nước nhớ nguồn đối
với việc xây dựng xã hội.
d-Kĩ năng phân tích, đánh giá, nhận định:

– Huy động các kiến thức xã hội để bày tỏ quan điểm, thái độ, nhận định riêng
của mình trước vấn đề nghị luận.
– Có thể triển khai vấn đề theo nhiều cách khác nhau nhưng phải có lí lẽ và căn
cứ xác đáng, được tự do bày tỏ quan điểm của mình nhưng phải có thái độ chân
thành, nghiêm túc, phù hợp với chuẩn mực đạo đức xã hội và luật pháp quốc tế.
2.5.2. Cách làm bài:
24


Cách viết đoạn văn NLXH cũng có 4 thao tác như viết 1 bài văn NLXH hoàn
chỉnh, tuy nhiên trong giới hạn đoạn văn, hình thức ở mỗi thao tác sẽ có sự khác
nhau.
Bước 1. Tìm hiểu đề:
– Xác định dạng đề chính xác: Đề là nghị luận về tư tưởng, về hiện tượng đời
sống hay vấn đề từ tác phẩm?
– Xác định đối tượng, phạm vi nghị luận
– Xác định thao tác lập luận
Bước 2. Lập dàn ý:
Dàn ý tham khảo dạng đề
a. Nghị luận về tư tưởng, đạo lý:
* Câu mở đoạn: Giới thiệu khái quát tư tưởng đạo lý
* Thân đoạn:

+ Giải thích: Tùy theo yêu cầu đề bài có thể có những cách giải thích khác nhau:
+ Giải thích khái niệm, trên cơ sở đó giải thích ý nghĩa, nội dung vấn đề.
+ Giải thích nghĩa đen của từ ngữ, rồi suy luận ra nghĩa bóng, trên cơ sở đó giải
thích ý nghĩa, nội dung vấn đề.
+ Giải thích mệnh đề, hình ảnh trong câu nói, trên cơ sở đó xác định nội dung, ý
nghĩa của vấn đề mà câu nói đề cập.
+ Phân tích và chứng minh những mặt đúng của tư tưởng, đạo lí cần bàn luận:
Bản chất của thao tác này là giảng giải nghĩa lí của vấn đề được đặt ra để làm
sáng tỏ tới cùng bản chất của vấn đề. Phần này thực chất là trả lời câu hỏi:
- Tại sao? (Vì sao?)
- Vấn đề được biểu hiện như thế nào?
- Có thể lấy những dẫn chứng nào làm sáng tỏ?
+ Bình luận, đánh giá (bàn bạc, mở rộng, đề xuất ý kiến…):
- Đánh giá vấn đề: Nêu ý nghĩa của vấn đề, mức độ đúng – sai, đóng góp –
hạn chế của vấn đề.
- Phê phán, bác bỏ những biểu hiện sai lệch có liên quan đến vấn đề đang
bàn luận
- Mở rộng vấn đề, liên hệ bản thân: Từ sự đánh giá trên, rút ra bài học kinh
nghiệm trong cuộc sống cũng như trong học tập, trong nhận thức cũng như trong
tư tưởng, tình cảm, …( Thực chất trả lời câu hỏi: từ vấn đề bàn luận, hiểu ra điều
gì? Nhận ra vấn đề gì có ý nghĩa đối với tâm hồn, lối sống bản thân?…). Bài học
hành động . Đề xuất phương châm đúng đắn, phương hướng hành động cụ thể
* Kết đoạn: Khẳng định chung về tư tưởng, đạo lí đã bàn luận
Bước 3: Viết bài
b. Nghị luận về hiện tượng đời sống:

25



×