Tải bản đầy đủ (.pdf) (129 trang)

Chế định giám đốc thẩm theo Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.29 MB, 129 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ HIÊN

CHẾ ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM THEO
BỘ LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ NĂM 2015

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2018


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ HIÊN

CHẾ ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM THEO
BỘ LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ NĂM 2015

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN: PGS.TS TRẦN ANH TUẤN

HÀ NỘI - 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong


bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN

NGUYỄN THỊ HIÊN


MỤC LỤC

Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHẾ ĐỊNH GIÁM
ĐỐC THẨM DÂN SỰ ....................................................................... 9
1.1.

Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của chế định giám đốc thẩm ....... 9

1.1.1. Khái niệm chế định giám đốc thẩm dân sự .......................................... 9
1.1.2. Đặc điểm chế định giám đốc thẩm dân sự ......................................... 13
1.1.3. Ý nghĩa của chế định giám đốc thẩm dân sự ..................................... 17
1.2.


Các yếu tố ảnh hƣởng tác động tới hiệu quả của chế định
giám đốc thẩm................................................................................... 20

1.3.

Sự hình thành và phát triển chế định giám đốc thẩm dân sự
trong pháp luật Việt Nam ................................................................ 22

1.3.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến trƣớc năm 1988 ...................................... 22
1.3.2. Giai đoạn từ năm 1989 đến trƣớc năm 2004 ...................................... 26
1.3.3. Giai đoạn từ năm 2004 đến nay ......................................................... 27
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1................................................................................ 33
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG VỀ CHẾ ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM DÂN
SỰ TRONG BỘ LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ NĂM 2015 ................ 34
2.1.

Thực trạng các quy định về đơn đề nghị xem xét theo thủ tục
giám đốc thẩm................................................................................... 34

2.1.1. Quy định về thời hạn và ngƣời có quyền đề nghị kháng nghị
giám đốc thẩm .................................................................................... 34
2.1.2. Quy định về nội dung và hình thức đơn đề nghị giám đốc thẩm ....... 37
2.1.3. Quy định về tài liệu, chứng cứ trong thủ tục giám đốc thẩm............. 38


2.1.4. Quy định về thủ tục nhận đơn đề nghị giám đốc thẩm ...................... 39
2.2.

Thực trạng các quy định về kháng nghị giám đốc thẩm dân sự ...... 41


2.2.1. Quy định về căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm ................................. 41
2.2.2. Quy định về thời hạn kháng nghị giám đốc thẩm .............................. 45
2.2.3. Quy định về thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm ........................ 47
2.2.4. Quy định về trình tự, thủ tục kháng nghị giám đốc thẩm .................. 49
2.3.

Thực trạng các quy định về xét xử giám đốc thẩm dân sự .......... 54

2.3.1. Quy định về chuẩn bị phiên tòa giám đốc thẩm................................. 54
2.3.2. Quy định về những ngƣời tiến hành tố tụng và những ngƣời
tham gia tố tụng trong phiên tòa giám đốc thẩm................................ 56
2.3.3. Quy định về thủ tục phiên tòa giám đốc thẩm ................................... 60
2.3.4. Quy định về phạm vi giám đốc thẩm ................................................. 63
2.3.5. Quy định về thẩm quyền giám đốc thẩm và quyền hạn của Hội
đồng giám đốc thẩm ........................................................................... 64
2.3.6. Quy định về quyết định giám đốc thẩm và gửi quyết định giám
đốc thẩm ............................................................................................. 71
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2................................................................................ 75
Chƣơng 3: THỰC TIỄN THỰC HIỆN CHẾ ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM
DÂN SỰ TRONG BỘ LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ NĂM 2015
VÀ KIẾN NGHỊ ...............................................................................................76
3.1.

Thực tiễn thực hiện chế định giám đốc thẩm dân sự trong Bộ
luật Tố tụng dân sự năm 2015 ......................................................... 76

3.1.1. Khái quát về tình hình thực hiện chế định giám đốc thẩm dân sự .......... 76
3.1.2. Thực tiễn thực thi các quy định về đơn đề nghị giám đốc thẩm ........ 79
3.1.3. Thực tiễn thực hiện các quy định về kháng nghị giám đốc thẩm ...... 81

3.1.4. Thực tiễn thực hiện các quy định về xét xử giám đốc thẩm .............. 95
3.2.

Một số kiến nghị về chế định giám đốc thẩm dân sự .................. 104

3.2.1. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về giám đốc thẩm dân sự ............... 104
3.2.2. Kiến nghị thực hiện pháp luật về giám đốc thẩm dân sự ................. 111
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3.............................................................................. 116
KẾT LUẬN CHUNG .................................................................................. 117


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 118


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLDS

Bộ luật dân sự

BLTTDS

Bộ luật tố tụng dân sự

HĐTP

Hội đồng Thẩm phán

LDN


Luật doanh nghiệp

LTCTAND

Luật Tổ chức Tòa án nhân dân

LTCVKSND

Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân

LTM

Luật thƣơng mại

PLTTGQCVADS

Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án
dân sự

QCGQĐGĐT

Quy chế giải quyết đơn đề nghị, kiến
nghị, thông báo đối với bản án, quyết
định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật
theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm

TAND

Tòa án nhân dân


TANDTC

Tòa án nhân dân tối cao

TTV

Thẩm tra viên

VKS

Viện kiểm sát

VKSNDCC

Viện kiểm sát nhân dân cấp cao

Vụ GĐKT II

Vụ giám đốc kiểm tra II


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nƣớc ta đặc biệt quan tâm đến
công tác cải cách tƣ pháp, theo đó nhiều văn kiện của Đảng đã đƣợc ban
hành nhƣ nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về
“Chiến lƣợc cải cách tƣ pháp đến năm 2020”, Kết luận số 79-KL/TW ngày
28/7/2010, Kết luận số 92-KL/TW ngày 12/3/2014 của Bộ Chính trị về việc
tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính
trị về chiến lƣợc cải cách tƣ pháp đến năm 2020. Các văn kiện này đã có

những định hƣớng chỉ đạo về nâng cao chất lƣợng xét xử, bảo vệ quyền lợi
hợp pháp của chủ thể, tạo môi trƣờng ổn định cho sự phát triển kinh tế, hội
nhập quốc tế.
Thực hiện đƣờng lối, chủ trƣơng, chính sách của Đảng, Nhà nƣớc ta đã
ban hành Hiến pháp năm 2013, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014
(LTCTAND năm 2014) làm căn cứ pháp lý để đổi mới tổ chức và hoạt động
của Tòa án theo tinh thần cải cách tƣ pháp mà Đảng đã đề ra, đặc biệt ngày
25/11/2015, tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Bộ luật tố
tụng dân sự năm 2015 (sau đây viết tắt là BLTTDS năm 2015). Đây là Bộ luật
đƣợc đổi mới, cải cách một cách mạnh mẽ, bổ sung nhiều nội dung mới nhƣ:
Tòa án không đƣợc từ chối giải quyết vụ việc dân sự vì lý do chƣa có điều
luật để áp dụng; bảo đảm tranh tụng trong xét xử; giải quyết vụ án dân sự theo
thủ tục rút gọn; thủ tục công nhận kết quả hòa giải thành ngoài Tòa án…
Nhiều thủ tục trong tố tụng dân sự đƣợc đổi mới nhằm đa dạng hóa các cơ chế
giải quyết, phù hợp với đặc thù của từng loại tranh chấp và việc dân sự, đáp
ứng yêu cầu hội nhập và thực hiện cam kết quốc tế, tăng cƣờng tính hiệu lực,
hiệu quả của hoạt động xét xử.

1


Từ khi có hiệu lực thi hành (ngày 01/7/2016) đến nay, những quy định
của BLTTDS đã trở thành công cụ pháp lý hữu hiệu, giúp Tòa án nhân dân
(TAND) các cấp giải quyết đúng đắn các vụ việc dân sự. BLTTDS năm 2015
không chỉ quy định trình tự, thủ tục giải quyết các vụ việc dân sự, hôn nhân
và gia đình mà còn giải quyết cả các tranh chấp kinh doanh, thƣơng mại và
tranh chấp lao động với mục tiêu đảm bảo việc giải quyết các vụ việc này một
cách nhanh chóng, chính xác, công minh và đúng luật. Do vậy, bên cạnh
những thủ tục xét xử thông thƣờng là xét xử sơ thẩm và phúc thẩm thì
BLTTDS còn quy định về thủ tục giám đốc thẩm với mục đích xem xét lại

các bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật nhƣng phát hiện có
sai lầm nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án. Tuy nhiên, qua áp dụng
trong thực tế xét xử đã nảy sinh một số vấn đề bất cập, vƣớng mắc mà cụ thể
là còn có sự chồng chéo, không thống nhất và mâu thuẫn, đòi hỏi cần phải
đƣợc sửa đổi, bổ sung và có hƣớng dẫn kịp thời. Vì vậy, đây là một thách
thức đặt ra cho giới nghiên cứu khoa học pháp lý nói chung và đặc biệt là
những ngƣời áp dụng và thực thi pháp luật trong hệ thống Tòa án nói riêng,
trong đó có công tác giám đốc thẩm với mục đích xem xét lại các bản án,
quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật nhƣng phát hiện có sai lầm
nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án.
Mặt khác, trong những năm gần đây, đơn đề nghị giám đốc thẩm về các
vụ án dân sự có xu hƣớng gia tăng về số lƣợng và phức tạp về tính chất. Việc
giải quyết các loại đơn này thƣờng diễn ra kéo dài, gây tốn kém, bức xúc
trong nhân dân; nhiều quy định của pháp luật về lĩnh vực này còn chƣa rõ
ràng, mâu thuẫn, chồng chéo, thậm chí trái ngƣợc nhau, dẫn đến nhiều Thẩm
phán, Thẩm tra viên (TTV) trong ngành Tòa án còn lúng túng khi áp dụng
pháp luật để giải quyết; một số cán bộ, công chức làm công tác giám đốc
thẩm hiểu chƣa chính xác và áp dụng chƣa đúng pháp luật khi đề xuất hƣớng

2


giải quyết. Điều đó dẫn đến nhiều vụ án phải họp đi họp lại nhiều lần, có khi
phải xác minh trong một thời gian dài mới có kết quả, làm cho thời gian giải
quyết án kéo dài; hoặc nhiều khi có những vụ án đã trả lời đơn cho đƣơng sự
nhƣng sau đó lại phải kháng nghị để giải quyết lại theo thủ tục giám đốc
thẩm, tái thẩm do phát hiện có sai lầm trong việc giải quyết vụ án và đƣơng sự
tiếp tục có đơn khiếu nại, điều này gây nên tình trạng đơn đề nghị giám đốc
thẩm bị tồn đọng, không đƣợc giải quyết dứt điểm gây bức xúc cho đƣơng sự.
Bên cạnh đó, BLTTDS năm 2015 bổ sung rất nhiều quy định về thủ tục

giám đốc thẩm nhƣ quy định rõ hơn căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm; sửa đổi,
bổ sung quy định về ngƣời có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm,
thẩm quyền giám đốc thẩm của Ủy ban Thẩm phán TAND cấp cao (TANDCC),
Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (HĐTP TANDTC). v.v... Nghị
quyết số 49-NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm 2005 của Bộ Chính trị về chiến
lƣợc cải cách tƣ pháp đến năm 2020 đã xác định rõ:
Từng bƣớc hoàn thiện thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm theo
hƣớng quy định chặt chẽ những căn cứ kháng nghị và quy định rõ
trách nhiệm của ngƣời ra kháng nghị đối với bản án hoặc quyết
định của toà án đã có hiệu lực; khắc phục tình trạng kháng nghị tràn
lan, thiếu căn cứ [4].
Do đó việc hoàn thiện chính sách pháp luật về chế định giám đốc
thẩm trong tố tụng dân sự là một trong những nhiệm vụ của chiến lƣợc cải
cách tƣ pháp.
Với những lý do trên, học viên đã chọn đề tài “Chế định giám đốc
thẩm theo Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015” làm đề tài luận văn thạc sĩ luật
học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Tính đến thời điểm hiện nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về thủ

3


tục xét lại bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật đƣợc công bố. Về luận
văn, luận án, có luận văn thạc sĩ luật học “Thủ tục xét lại bản án, quyết định
dân sự đã có hiệu lực pháp luật theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam” của
tác giả Ngô Anh Dũng bảo vệ tại Trƣờng Đại học Luật Hà Nội năm 1997;
luận án tiến sĩ luật học “Giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự Việt Nam - Một
số vấn đề lý luận và thực tiễn” của tác giả Mai Ngọc Dƣơng bảo vệ tại
Trƣờng Đại học Luật Hà Nội năm 2008; luận án tiến sĩ luật học “Thủ tục xét

lại bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật trong tố tụng kinh
tế, dân sự ở Việt Nam” của tác giả Đào Xuân Tiến bảo vệ tại Viện Nhà nƣớc
và Pháp luật năm 2009; luận văn thạc sĩ luật học “Giám đốc thẩm trong tố
tụng dân sự Việt Nam” của tác giả Hà Thị Thúy Hà bảo vệ tại Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2014.
Các công trình khoa học về luận văn, luận án nêu trên chủ yếu tiếp cận
về giám đốc thẩm dựa trên tính chất của giám đốc thẩm, chƣa xem xét một
cách toàn diện về giám đốc thẩm dân sự dƣới góc độ là một chế định pháp
luật.
Về đề tài khoa học, có đề tài khoa học cấp Bộ năm 2012 “Thực trạng
giải quyết đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm tại Tòa án nhân dân tối cao”
của TANDTC do tiến sĩ Nguyễn Huy Du làm chủ nhiệm đề tài .v.v...
Ngoài ra, còn có một số chuyên đề, bài viết của các tác giả đăng trong
các sách, báo, tạp chí chuyên ngành nhƣ bài “Chế định giám đốc thẩm, tái
thẩm và những vấn đề đặt ra trong việc thi hành” của tác giả Trần Anh Tuấn
đăng trên Tạp chí Luật học số Đặc san về tố tụng dân sự năm 2005; bài “Một
số vấn đề liên quan đến việc sửa đổi, bổ sung Điều 285, Điều 288 Bộ luật tố
tụng dân sự của tác giả Hà Tĩnh - Tạp chí TAND Kỳ 1 tháng 9 năm 2010; bài
“Một số ý kiến đối với Dự thảo sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật tố
tụng dân sự năm 2004” của tác giả Nguyễn Nhƣ Bích đăng trên Tạp chí

4


TAND kỳ 1 tháng 9 năm 2010; bài “Một số vấn đề về thủ tục giám đốc thẩm”
của tác giả Nguyễn Quang Hiền đăng trên Tạp chí TAND kỳ 1 tháng 4 năm
2009; bài “Vai trò của chế định giám đốc thẩm trong Tố tụng Dân sự” của tác
giả Mai Ngọc Dƣơng đăng trên Tạp chí Nhà nƣớc và Pháp Luật số 7 năm
2009 (trang 52 – 55); bài “Về thời hạn kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm
trong Bộ luật tố tụng Dân sự” của tác giả Đào Xuân Tiến đăng trên Tạp chí
Nhà nƣớc và Pháp luật số 2 năm 2009 (trang 30 – 34); bài “Bàn về Dự thảo

Thông tư liên tịch hướng dẫn Điều 284 Bộ luật tố tụng dân sự sửa đổi, bổ
sung năm 2011” của tác giả Nguyễn Hồng Nam đăng trên Tạp chí TAND
tháng 5 năm 2012 (kỳ 2) và tháng 6 năm 2012 (kỳ 1); chuyên đề “Thủ tục
giám đốc thẩm, tái thẩm dân sự và thủ tục xem xét lại các quyết định của Hội
đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao” của tác giả Trần Anh Tuấn trong
cuốn Bình luận khoa học BLTTDS sửa đổi năm 2011; chuyên đề “Bình luận
phần thủ tục xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật trong Bộ luật
Tố tụng Dân sự năm 2015” của TS. Nguyễn Hải An trong cuốn Bình luận
những điểm mới trong BLTTDS năm 2015; bài “Thủ tục xét lại bản án, quyết
định đã có hiệu lực pháp luật” của tác giả Phƣơng Nam đăng trên báo công lý
điện tử [50]; bài “Việc xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật theo
thủ tục giám đốc thẩm, thủ tục tái thẩm quy định tại Bộ luật tố tụng Dân sự
năm 2015” của tác giả Ngô Tiến Hùng đăng trên Tạp chí TAND số 01 năm
2016 (trang 07 – 12).v.v…
Tuy nhiên, những bài viết của các tác giả chỉ nghiên cứu, đề cập đến
một hoặc một số vấn đề của thủ tục giám đốc thẩm. Cho đến nay, nhất là từ
sau khi có BLTTDS năm 2015 chƣa có công trình khoa học nào nghiên cứu
một cách đầy đủ, toàn diện về giám đốc thẩm theo quy định của BLTTDS
năm 2015 cả về phƣơng diện lý luận, luật thực định và thực tiễn thực hiện.

5


3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Mục đích nghiên cứu đề tài là nhằm làm rõ những vấn đề lý luận về
chế định giám đốc thẩm trong BLTTDS năm 2015. Qua đó, đánh giá đúng
thực trạng các quy định pháp luật tố tụng dân sự hiện hành về giám đốc
thẩm và thực tiễn thực hiện chúng, chỉ ra những hạn chế, bất cập và tìm ra
các giải pháp khắc phục nhằm góp phần nâng cao chất lƣợng trong công tác
giám đốc thẩm.

Để đạt đƣợc mục đích nghiên cứu nêu trên, đề tài có nhiệm vụ nghiên
cứu một cách hệ thống, toàn diện các vấn đề lý luận về chế định giám đốc thẩm
trong tố tụng dân sự, phân tích cụ thể các quy định của pháp luật theo BLTTDS
năm 2015 và khảo sát việc thực hiện chúng tại TANDCC, TANDTC của Việt
Nam hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu đề tài
Đối tƣợng nghiên cứu đề tài là những vấn đề lý luận về giám đốc thẩm
trong tố tụng dân sự, chế định giám đốc thẩm trong BLTTDS năm 2015 và
thực tiễn thực hiện tại TANDTC, TANDCC kể từ khi BLTTDS năm 2015 có
hiệu lực đến nay. Ngoài ra, trong quá trình nghiên cứu về chế định giám đốc
thẩm trong BLTTDS năm 2015 tác giả còn lồng ghép, phân tích về thủ tục
giám đốc thẩm của một số nƣớc trên thế giới để so sánh, tham khảo trong
công tác giám đốc thẩm ở nƣớc ta.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài tập trung nghiên cứu các quy định về
giám đốc thẩm dân sự theo nghĩa rộng, áp dụng chung cho các vụ việc dân sự,
kinh doanh thƣơng mại, hôn nhân và lao động. Việc khảo sát thực tiễn thực
hiện các quy định về giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự chủ yếu đƣợc thực
hiện tại TANDTC và một số tại TANDCC trong những năm gần đây qua một
số vụ án cụ thể về dân sự, kinh doanh thƣơng mại.

6


5. Phƣơng pháp nghiên cứu đề tài
Luận văn đƣợc thực hiện trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng, Nhà nƣớc ta về
Nhà nƣớc và pháp luật, về công tác xét xử nói chung, xét xử các vụ án dân
sự nói riêng.
Luận văn cũng đƣợc tiến hành nghiên cứu bằng nhiều phƣơng pháp
khác nhau nhƣ: Phƣơng pháp thống kê, tổng hợp, phân tích, so sánh, khảo sát,
đánh giá thực trạng giám đốc thẩm các vụ án dân sự; phỏng vấn, trao đổi với

các thẩm phán và thẩm tra viên (TTV); khảo cứu các tài liệu có liên quan đến
công tác kháng nghị, xét xử giám đốc thẩm các vụ án dân sự.
Tác giả cũng lựa chọn một số vụ án đã đƣợc TANDTC xét lại theo thủ
tục giám đốc thẩm để bình luận minh họa; đồng thời có tham khảo số liệu
thống kê của ngành TAND để việc nghiên cứu đƣợc toàn diện và sâu sắc hơn.
6. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn
Qua kết quả nghiên cứu đề tài, Luận văn đã có một số đóng góp mới
sau đây:
- Làm rõ thêm những vấn đề lý luận về giám đốc thẩm trong tố tụng
dân sự;
- Luận văn nghiên cứu một cách tổng thể, toàn diện về chế định giám
đốc thẩm sau khi BLTTDS năm 2015 có hiệu lực ở cấp độ Thạc sĩ luật học;
- Đánh giá đúng thực trạng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự hiện
hành về giám đốc thẩm và thực tiễn thực hiện chúng tại TANDTC, TANDCC
trong những năm gần đây;
- Đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và thực hiện
pháp luật tố tụng dân sự về giám đốc thẩm nhằm nâng cao chất lƣợng trong
công tác giám đốc thẩm của TAND.

7


7. Kết cấu của luận văn
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về chế định giám đốc thẩm dân sự.
Chương 2: Thực trạng chế định giám đốc thẩm dân sự trong Bộ luật Tố
tụng dân sự năm 2015.
Chương 3: Thực tiễn thực hiện về chế định giám đốc thẩm dân sự trong
Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và kiến nghị.

8



Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ
CHẾ ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM DÂN SỰ
1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của chế định giám đốc thẩm
1.1.1. Khái niệm chế định giám đốc thẩm dân sự
Chế định pháp luật mang tính chất nhóm, mỗi chế định có một đặc
điểm riêng nhƣng chúng đều có mối liên hệ nội tại và thống nhất với nhau,
chúng không tồn tại một cách biệt lập. Việc xác định ranh giới giữa các chế
định nhằm tạo ra khả năng để xây dựng hệ thống quy phạm pháp luật phù hợp
với thực tiễn đời sống xã hội. Và phải đặt các chế định trong mối liên hệ qua
lại trong một chỉnh thể thống nhất của pháp luật cũng nhƣ một ngành luật.
Mỗi chế định pháp luật dù mang đặc điểm riêng những nó cũng phải tuân theo
các quy luật vận động khách quan, chịu sự ảnh hƣởng và tác động của chế
định khác trong hệ thống pháp luật [40, tr.403].
Hiến pháp là cơ sở pháp lý của tất cả các chế định pháp luật. Việc xác
định đúng tính chất chung của mỗi nhóm quan hệ xã hội từ đó đề ra những
quy phạm tƣơng ứng có ý nghĩa quan trọng, đó là cơ sở pháp lý để tạo ra cơ
cấp pháp lý của một ngành luật. Không thể xây dựng đƣợc một văn bản pháp
luật tốt cũng nhƣ một ngành luật hoàn chỉnh nếu không xác định rõ giới hạn
và nội dung của các chế định pháp luật [40, tr.402].
Do đó, chế định pháp luật chính là tổng thể các quy phạm, quy tắc của
một ngành luật hay nhiều ngành luật để điều chỉnh các nhóm quan hệ xã hội
tƣơng đối giống nhau trong phạm vi ngành luật đó.
Theo quy định của pháp luật thì bản án, quyết định có hiệu lực pháp
luật của Tòa án phải đƣợc thi hành. Nhƣng trên thực tế có những bản án,
quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật bị khiếu nại do có những sai lầm

9



trong đánh giá về sự việc hoặc vi phạm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp
luật dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh thƣơng mại, lao động và pháp
luật về thủ tục tố tụng. Để khắc phục tình trạng đó trong lĩnh vực giải quyết
án dân sự, kinh tế, lao động, pháp luật tố tụng dân sự đã quy định một thủ tục
đặc biệt để xem xét lại những bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật đó.
Việc xem xét lại bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật trong trƣờng hợp
này gọi là giám đốc thẩm dân sự.
Các bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật có thể bị xem xét theo thủ
tục giám đốc thẩm bao gồm: Bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm
không bị kháng cáo, kháng nghị trong thời hạn pháp luật quy định; bản án,
quyết định của Tòa án cấp phúc thẩm; quyết định giám đốc thẩm. Khi phát
hiện có một trong các căn cứ đƣợc pháp luật quy định thì đƣơng sự hoặc cơ
quan, tổ chức có quyền gửi đơn hoặc thông báo bằng văn bản đề nghị xem xét
lại bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục giám
đốc thẩm. Mục đích tối thƣợng của việc này là nhằm đảm bảo nguyên tắc
pháp chế xã hội chủ nghĩa và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đƣơng sự.
Do đó, chế định giám đốc thẩm là một chế định hết sức cần thiết.
Theo cuốn Từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học thì giám đốc
thẩm là việc: Toà án có thẩm quyền xét lại các bản án hoặc quyết định đã có
hiệu lực pháp luật của toà án cấp dưới khi bị kháng nghị trên cơ sở phát hiện
có sai lầm trong quá trình điều tra, xét xử vụ án. Trong cuốn Từ điển giải thích
thuật ngữ luật học của Trƣờng Đại học Luật Hà Nội thì giám đốc thẩm đƣợc giải
thích là: “Xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng
nghị vì phát hiện có vi phạm pháp luật trong việc xử lí vụ án” [39, tr.172].
Giám đốc thẩm trong cuốn Thuật ngữ pháp lý phổ thông xuất bản năm
1987 đƣợc giải thích là: “một giai đoạn tố tụng có mục đích kiểm tra tính hợp
pháp và tính có căn cứ của các bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp


10


luật” [48, tr.88]. Theo quan điểm này các bản án, quyết định có hiệu lực pháp
luật đều có thể bị kiểm tra, xem xét.
Khác với quan điểm trên, TS. Trần Anh Tuấn đƣa ra khái niệm nhƣ
sau: “Giám đốc thẩm là việc xét lại bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu
lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì phát hiện có sai lầm của Toà án khi
nhận định về những tình tiết, sự kiện của vụ án hoặc có vi phạm pháp luật
nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án” [44].
Dƣới nhiều góc độ, tác giả Mai Ngọc Dƣơng có quan điểm về giám đốc
thẩm nhƣ sau: Với cách tiếp cận là một chế định pháp luật, giám đốc thẩm là
một chế định pháp luật điều chỉnh những quan hệ phát sinh trong quá trình xét
lại những bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật khi có vi phạm pháp luật
trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự. Với cách tiếp cận là một quan hệ
pháp luật, thành phần quan hệ pháp luật trong giám đốc thẩm dân sự bao gồm:
Chủ thể, khách thể và nội dung của quan hệ pháp luật trong giám đốc thẩm
dân sự. Trong đó chủ thể của quan hệ pháp luật trong giám đốc thẩm dân sự là
những cá nhân, tổ chức tham gia vào quan hệ pháp luật trong giám đốc thẩm
dân sự, thực hiện các quyền và nghĩa vụ pháp lý nhất định và đƣợc đảm bảo
thực hiện bằng biện pháp cƣỡng chế Nhà nƣớc. Khách thể của quan hệ pháp
luật trong giám đốc thẩm dân sự là việc giải quyết để làm sáng tỏ tính hợp
pháp và tính có căn cứ của những bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu
lực pháp luật. Nội dung của quan hệ pháp luật trong giám đốc thẩm dân sự
bao gồm quyền chủ quan và nghĩa vụ pháp lý của các chủ thể tham gia quan
hệ pháp luật trong giám đốc thẩm dân sự [10, tr.18].
Dựa vào tính chất của các căn cứ xét lại bản án, quyết định đã có hiệu
lực pháp luật, Giáo trình Luật Tố tụng Dân sự Việt Nam do TS. Nguyễn Công
Bình chủ biên lại thiết lập hai thủ tục xem xét lại bản án, quyết định đã có
hiệu lực pháp luật tƣơng ứng là thủ tục giám đốc thẩm và thủ tục tái thẩm.


11


Theo đó, giám đốc thẩm là việc xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có
hiệu lực pháp luật nhƣng bị kháng nghị vì phát hiện có sai lầm của Tòa án khi
nhận định về những tình tiết, sự kiện của vụ án hoặc có vi phạm pháp luật
nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án [3, tr.247].
Đƣợc hiểu một cách ngắn gọn hơn, Giáo trình Luật tố tụng dân sự
Việt Nam của Trƣờng Đại học Luật Hà Nội đã đƣa ra khái niệm: “Giám đốc
thẩm dân sự là việc xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của
Tòa án bị kháng nghị do phát hiện có sai lầm, vi phạm pháp luật trong giải
quyết vụ án” [42, tr.325]. Cũng đƣa ra một khái niệm tƣơng tự, Giáo trình
Luật tố tụng dân sự của Học viện Tƣ pháp có quan điểm nhƣ sau: “Giám đốc
thẩm là xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật
nhưng bị kháng nghị vì phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong
việc giải quyết vụ án” [17, tr.417].
Từ những khái niệm và nội dung phân tích trên có thể đƣa ra kết
luận: Chế định giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự là tổng thể các quy
định về trình tự, thủ tục đặc biệt của tố tụng dân sự để Toà án có thẩm
quyền lấy làm cơ sở cho việc xem xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp luật nhưng bị kháng nghị vì phát hiện có sai lầm, vi phạm pháp luật
trong việc giải quyết vụ án.
Nhƣ vậy, quan điểm về giám đốc thẩm dân sự dƣới nhiều góc độ có
những cách tiếp cận khác nhau nhƣng nhìn chung đều xem đây là một thủ tục
đặc biệt để xét lại bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật khi phát hiện có vi
phạm pháp luật và bị ngƣời có thẩm quyền kháng nghị. Do đó, chế định giám
đốc thẩm quy định tất cả các các giai đoạn giám đốc thẩm từ việc phát hiện ra
sự vi phạm pháp luật trong việc giải quyết vụ án tới ngƣời có thẩm quyền
kháng nghị bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và tiếp theo đó là Tòa

án có thẩm quyền mở phiên họp giám đốc thẩm để ban hành quyết định giám

12


đốc thẩm. Để giúp chúng ta nhận thức rõ bản chất và phân biệt giám đốc thẩm
với các thủ tục tố tụng khác do Tòa án thực hiện trong quá trình giải quyết vụ
việc dân sự cần hiểu rõ đặc điểm của chế định giám đốc thẩm dân sự.
1.1.2. Đặc điểm chế định giám đốc thẩm dân sự
Thứ nhất, chế định giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự là chế định quy
định về căn cứ, trình tự, thủ tục xét lại những bản án, quyết định của Tòa án
đã có hiệu lực pháp luật.
Đây là dấu hiệu chung cơ bản của chế định giám đốc thẩm trong tố tụng
dân sự của các quốc gia có quy định thủ tục này. Đặc điểm này rất quan trọng,
nó có ý nghĩa để phân biệt chế định giám đốc thẩm với chế định sơ thẩm và
phúc thẩm. Chế định phúc thẩm là chế định điều chỉnh việc xét lại các bản án,
quyết định chƣa có hiệu lực pháp luật nhƣng có kháng cáo, kháng nghị.
Chế định giám đốc thẩm là chế định điều chỉnh việc xét lại các bản án,
quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Do đó, đây là chế định về thủ
tục đặc biệt nhằm kiểm tra, xem xét và xác định các bản án, quyết định có hiệu
lực pháp luật đƣợc giải quyết chính xác hay không. Về nguyên tắc, các bản án,
quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật phải đƣợc thi hành. Trong tố tụng
dân sự của Việt Nam cũng nhƣ các nƣớc đều quy định nguyên tắc bảo đảm
hiệu lực của bản án, quyết định của Tòa án. Tuy nhiên, có những trƣờng hợp
bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật nhƣng bị chính cơ quan
thi hành án kiến nghị xem xét lại vì không thể thi hành hoặc bản án, quyết định
đó không đúng với bản chất sự việc hoặc nếu có thi hành thì gây tổn hại đến
quyền, lợi ích hợp pháp của đƣơng sự. Vì vậy, để đảm bảo việc áp dụng pháp
luật một cách thống nhất, đảm bảo tính hợp pháp và đúng đắn của các bản án,
quyết định, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của đƣơng sự, nhà lập pháp đã

xây dựng chế định giám đốc thẩm làm cơ sở cho việc khắc phục những sai lầm,
vi phạm trên. Xét về bản chất thì chế định giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự

13


là chế định quy định về căn cứ, trình tự, thủ tục xét lại những bản án, quyết
định dân sự có hiệu lực pháp luật của Tòa án; các bản án, quyết định đó bao
gồm: bản án, quyết định sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị; bản án,
quyết định phúc thẩm (quyết định của Tòa án có thể là quyết định công nhận sự
thỏa thuận của các đƣơng sự, quyết định đình chỉ giải quyết vụ án) và các quyết
định giám đốc thẩm của Ủy ban Thẩm phán TANDCC.
Thứ hai, mục đích của chế định giám đốc thẩm nhằm đảm bảo quá
trình giải quyết vụ án đúng sự thật khách quan và đúng pháp luật.
Toàn bộ các quy định về giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự đƣợc thiết
lập để điều chỉnh các quan hệ tố tụng phát sinh, bảo đảm bản án, quyết định
của Tòa án có căn cứ và hợp pháp, bảo vệ đƣợc quyền lợi hợp pháp của các
chủ thể. Hoạt động xét xử của Tòa án là một hoạt động áp dụng pháp luật có
tính đặc thù, thể hiện rõ nét tính quyền lực Nhà nƣớc. Để đảm bảo việc xét xử
đƣợc đúng đắn, hoạt động này cần phải đƣợc giám sát một cách chặt chẽ bằng
các hình thức giám sát khác nhau. Giám đốc thẩm là hình thức giám sát xét xử
đặc biệt của Tòa án, có nhiệm vụ phát hiện, hủy bỏ hoặc sửa trực tiếp các bản
án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật nếu có căn cứ cho rằng bản án hoặc
quyết định đó có những sai lầm, vi phạm pháp luật nghiêm trọng. Những sai
lầm đó có thể về nội dung hoặc về thủ tục tố tụng nhƣ: Kết luận trong bản án,
quyết định không phù hợp với tình tiết khách quan của vụ án; có vi phạm
nghiêm trọng thủ tục tố tụng và có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng
pháp luật. Đây cũng là mục đích mà chế định giám đốc thẩm của các quốc gia
khác hƣớng tới, ví nhƣ các nhà luật học Pháp quan niệm: “Tòa phá án không
xét xử con người mà xét xử các bản án, Tòa phá án kiểm tra các thẩm phán

có vận dụng đúng pháp luật không trong khi xét xử” [21, tr.36]. Do vậy, các
quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ tố tụng phát sinh trong giám đốc thẩm
chủ yếu hƣớng tới việc phát hiện và khắc phục những sai lầm, vi phạm pháp
luật trong quá trình giải quyết vụ án trƣớc đó.

14


Thứ ba, chế định giám đốc thẩm xác định căn cứ, chủ thể có quyền cung
cấp thông tin về căn cứ xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật.
Khác với chế định sơ thẩm, phúc thẩm và tái thẩm dân sự, chế định
giám đốc thẩm dân sự xác định các căn cứ riêng làm cơ sở cho việc kháng
nghị các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật. Căn cứ kháng nghị giám
đốc thẩm khác về căn bản với căn cứ kháng nghị tái thẩm. Cùng là việc xét lại
những bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật nhƣng căn cứ của kháng nghị
giám đốc thẩm đƣợc xác định là những sai lầm, vi phạm pháp luật nghiêm
trọng trong việc giải quyết vụ án, trong khi đó căn cứ kháng nghị tái thẩm là
do phát hiện có tình tiết mới làm thay đổi cơ bản nội dung bản án, quyết định
mà Tòa án không biết đƣợc khi ra bản án, quyết định đó.
Với mục đích phát hiện và khắc phục sai lầm, vi phạm của Tòa án, đảm
bảo quá trình giải quyết vụ án đúng sự thật khách quan và đúng pháp luật, chế
định giám đốc thẩm ghi nhận quyền của đƣơng sự và các chủ thể khác trong
việc cung cấp các thông tin về sai lầm, vi phạm của Tòa án là căn cứ của
kháng nghị giám đốc thẩm. Việc phát hiện các sai lầm của bản án, quyết định
đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án thông qua nhiều hình thức khác nhau nhƣ
hoạt động thanh tra, giám sát, điều tra của các cơ quan hành pháp và tƣ pháp,
hoạt động chất vấn của cơ quan lập pháp, qua khiếu nại của đƣơng sự…
Nhƣng trên hết xuất phát từ nét đặc thù trong pháp luật dân sự đó là nguyên
tắc tôn trọng quyền tự định đoạt của đƣơng sự nên đơn đề nghị xem xét theo
thủ tục giám đốc thẩm của đƣơng sự đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực

pháp luật là cơ sở chủ yếu để Tòa án xem xét, kiểm tra lại bản án, quyết định
đó. Tuy nhiên, không phải đơn đề nghị hoặc văn bản thông báo nào của
đƣơng sự, của cá nhân, cơ quan, tổ chức cũng đƣợc kháng nghị và đƣa ra để
Hội đồng giám đốc thẩm xem xét mà còn cần dựa trên các căn cứ kháng nghị
theo quy định của pháp luật. Khi có căn cứ kháng nghị ngƣời có thẩm quyền

15


ra quyết định kháng nghị trong thời hạn luật định. Nhƣ vậy, quyền đề nghị
xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm của đƣơng sự chỉ là cơ sở để ngƣời có
thẩm quyền kháng nghị xem xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu
lực pháp luật chứ không mặc nhiên dẫn tới Hội đồng giám đốc thẩm mở phiên
tòa xét lại vụ án. Hội đồng giám đốc thẩm chỉ xem xét lại bản án, quyết định
đó tại phiên tòa giám đốc thẩm trên cơ sở quyết định kháng nghị của ngƣời có
thẩm quyền kháng nghị và tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án.
Thứ tư, chế định giám đốc thẩm ghi nhận về những chủ thể đặc biệt có
thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm và chủ thể có quyền xem xét lại bản
án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật
Nhƣ đã phân tích ở trên, khác với chế định sơ thẩm và phúc thẩm, đề
nghị của đƣơng sự và chủ thể có quyền phát hiện, cung cấp thông tin về căn
cứ kháng nghị giám đốc thẩm chỉ là một kênh thông tin ban đầu để khởi động
quy trình xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm chứ không có tính quyết định.
Do bản chất của giám đốc thẩm là thủ tục đặc biệt nên chế định giám đốc
thẩm giới hạn căn cứ và phạm vi các chủ thể nhất định có quyền kháng nghị
giám đốc thẩm. Có thể thấy chỉ duy nhất trong thủ tục giám đốc thẩm Tòa án
mới là chủ thể có quyền kháng nghị bên cạnh Viện kiểm sát (VKS) đó là
Chánh án TANDTC, Chánh án TANDCC. Nhƣ vậy, quyền kháng nghị giám
đốc thẩm theo quy định của BLTTDS năm 2015 thuộc về Chánh án TANDCC,
Chánh án TANDTC và Viện trƣởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao (Viện

trƣởng VKSNDCC), Viện trƣởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao (Viện
trƣởng VKSNDTC).
Chế định giám đốc thẩm xác định chủ thể có quyền xem xét và khắc
phục sai lầm, vi phạm của Tòa án trong bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp luật. Tuy nhiên, theo quan điểm của tác giả thì việc quy định nhiều cấp
giám đốc thẩm, cấp trên có quyền xem xét lại quyết định giám đốc thẩm của

16


cấp dƣới trong một số trƣờng hợp không đảm bảo tính thống nhất trong việc
hƣớng dẫn áp dụng pháp luật đối với Tòa án cấp dƣới, có thể dẫn đến tình
trạng “sáng đúng, chiều sai, sáng mai lại đúng” [8, tr.10]. Theo quy định của
pháp luật tố tụng dân sự nƣớc ta thì thẩm quyền giám đốc thẩm thuộc về Ủy
ban Thẩm phán TANDCC và HĐTP TANDTC. Theo đó, Hội đồng giám đốc
thẩm có thể ra một trong các quyết định: giữ nguyên bản án, quyết định có
hiệu lực pháp luật của Tòa án; hủy bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật
của Tòa án và giữ nguyên bản án, quyết định đúng pháp luật của Tòa án đã bị
hủy hoặc bị sửa; hủy một phần hoặc toàn bộ bản án, quyết định của Tòa án đã
có hiệu lực pháp luật để xét xử lại; hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp
luật và đình chỉ giải quyết vụ án; sửa một phần hoặc toàn bộ bản án, quyết
định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật (Điều 343 BLTTDS năm 2015).
Với những phân tích về khái niệm và đặc điểm chế định giám đốc thẩm
dân sự có thể thấy chế định giám đốc thẩm dân sự có ý nghĩa rất lớn trong
hoạt động của Tòa án nói riêng và xã hội nói chung.
1.1.3. Ý nghĩa của chế định giám đốc thẩm dân sự
Một là, chế định giám đốc thẩm dân sự có ý nghĩa quan trọng trong
việc thực hiện nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của đƣơng sự, khôi phục niềm tin của nhân dân vào nền công lý.
Xuất phát từ bản chất của Nhà nƣớc ta là Nhà nƣớc của dân, do dân và

vì dân, điều đó đã đƣợc chính Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định ngay sau khi
cách mạng tháng tám thành công “Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích
đều vì dân, bao nhiêu quyền hạn đều của dân… Mọi công việc đều vì lợi ích
của dân mà làm” [16]. Kế thừa những luận điểm đó và đƣợc cụ thể hóa ngay
trong các quy định của pháp luật, chế định giám đốc thẩm là một trong những
quy định của pháp luật nhằm đảm bảo yêu cầu quan trọng của nhà nƣớc pháp
quyền đó là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Thông qua công

17


tác giám đốc thẩm dân sự các sai lầm, vi phạm pháp luật trong quá trình giải
quyết vụ án sẽ đƣợc khắc phục, tạo cho đƣơng sự nói riêng và ngƣời dân nói
chung có niềm tin vào công lý, làm cho công tác xét xử đạt đƣợc mục đích là
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tập thể và Nhà nƣớc. Có thể
nói chế định giám đốc thẩm chính là “chiếc phao cuối cùng” và là cơ sở pháp
lý để đƣơng sự thực hiện quyền bảo vệ lợi ích chính đáng của mình.
Hai là, chế định giám đốc thẩm dân sự là phƣơng tiện để sửa chữa,
khắc phục những sai lầm của Tòa án trong việc giải quyết vụ việc dân sự, đảm
bảo bản án, quyết định của Tòa án đƣợc giải quyết đúng pháp luật.
Chế định giám đốc thẩm là quy định đặc thù tạo hành lang pháp lý để
Tòa án cấp trên kiểm tra hoạt động xét xử của Tòa án cấp dƣới. Thông qua
công tác giám đốc thẩm của TANDCC và TANDTC, hàng năm đã phát hiện
ra những bản án, quyết định của Tòa án cấp dƣới có sai lầm, vi phạm pháp
luật nghiêm trọng, qua đó khắc phục sửa sai, bảo vệ đƣợc quyền và lợi ích
hợp pháp của công dân. Ngoài việc, phát hiện các sai lầm, vi phạm, giám đốc
thẩm còn một lần nữa kiểm tra, xem xét lại các bản án, quyết định có hiệu lực
của Tòa án đã đƣợc xét xử đúng pháp luật.
Bên cạnh đó, hoạt động giám đốc thẩm còn giúp Tòa án phát hiện
những bất hợp lý của pháp luật nội dung và pháp luật tố tụng dân sự. Trên cơ

sở đó, kiến nghị với cơ quan có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung pháp luật thực
định cho phù hợp với yêu cầu của thực tiễn.
Ba là, chế định giám đốc thẩm dân sự là cơ sở giúp Tòa án cấp trên có
thể tổng kết, rút kinh nghiệm trong công tác xét xử cũng nhƣ định hƣớng cho
Tòa án cấp dƣới trong quá trình giải quyết vụ án.
Việc định hƣớng của TAND cấp trên không vi phạm nguyên tắc độc
lập xét xử của Tòa án mà chỉ nhằm nâng cao chất lƣợng giải quyết vụ việc
dân sự, bảo đảm cho việc áp dụng pháp luật đƣợc thống nhất.

18


×