SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TỈNH VĨNH PHÚC
PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THÀNH PHỐ VĨNH YÊN
BÁO CÁO
CHUYÊN ĐỀ
HÌNH ẢNH THẾ HỆ TRẺ VIỆT NAM
TRONG CÔNG CUỘC XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ TỔ QUỐC
QUA CÁC TÁC PHẨM VĂN HỌC THỜI KÌ CHỐNG MĨ
Môn: NGỮ VĂN
Tổ: KHOA HỌC XÃ HỘI
Mã: 29
Người thực hiện: TRẦN THU HIỆP
Điện thoại: 0982157468
Email:
Vĩnh Yên, năm 2019
môc lôc
PhÇn I : Më ®Çu
I. Lý do chän ®Ò tµi
1
1
II. Mục đích nghiên cứu
III. Nhim v nghiờn cu
IV. i tng, phm vi v k hoch nghiờn cu.
V. Phng phỏp nghiờn cu.
Phần II: Nội dung
I. C s khoa hc của chuyên đề
II. Thc trng ca vn nghiờn cu
III. Nội dung
1. Vài nét về hoàn cảnh lịch sử, xã hội và văn học Việt Nam
1
2
2
2
4
4
4
5
5
thời kì kháng chiến chống Mĩ.
a. Về lịch sử
5
b. Về văn học
5
2. Hình ảnh thế hệ trẻ Việt Nam trong công cuộc xây dựng 6
và bảo vệ đất nớc qua các tác phẩm văn học thời kì kháng
chiến chống Mĩ.
a. Đó là lớp thế hệ trả có lòng yêu nớc nồng nàn, có lí tởng
6
cách mạng, có hoài bão và ớc mơ cao đẹp, sẵn sàng cống hiến
tuổi xuân cho đất nớc.
b. Họ là những con ngời gan dạ, dũng cảm, đầy tinh thần
9
trách nhiệm, coi thờng hiểm nguy, vợt qua mọi khó khăn, thiếu
thốn.
c. Họ là những con ngời yêu đời, lạc quan, tơi trẻ.
d. Họ là những con ngời sống tình nghĩa, thủy chung.
e. Họ bất tử trong lòng Tổ quốc và Nhân dân.
IV. ứng dụng chuyên đề vào bồi dỡng học sinh giỏi
1. Phơng pháp chính dạy học khi bồi dỡng chuyên đề.
2. Các kỹ năng rèn cho học sinh qua chuyên đề.
3. ứng dụng chuyên đề để giải một số bài tập thi học sinh
14
17
19
20
20
21
21
giỏi.
V. Các giải pháp khi thực hiện đề tài
VI. kết quả khi áp dụng đề tài
Phần iii: kết luận và kiến nghị
I. Kt lun
29
30
32
32
II. Kiến nghị
32
* Tài liệu tham khảo
33
ii
PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Văn học là cuốn sách về cuộc đời, phản ánh đời sống, số phận con người ở
mọi thời đại , đấu tranh cho quyền sống hạnh phúc của con người. Văn học có
vai trò rất quan trọng trong đời sống và trong sự phát triển tư duy của con người.
M. Goóc-ki nói: “Văn học giúp con người hiểu được bản thân mình, nâng cao
niềm tin vào bản thân mình, làm nảy nở con người khát vọng hướng tới chân lí”.
Văn học chắp đôi cánh để các em đến với mọi thời đại văn minh, với mọi nền
văn hóa, xây dựng trong các em niềm tin vào cuộc sống, hướng các em tới đỉnh
cao của chân, thiện, mĩ. Do vậy, môn Ngữ văn là một môn thuộc nhóm khoa học
xã hội, có tầm quan trọng trong việc giáo dục quan điểm, tư tưởng, tình cảm cho
học sinh.
Nhiệm vụ cụ thể, trực tiếp của người giáo viên dạy Văn trong nhà trường
phổ thông nói chung và trung học cơ sở nói riêng là hình thành cho học sinh
năng lực văn học: giúp học sinh có kiến thức về văn học; hình thành và phát
triển cho các em năng lực sử dụng tiếng Việt, tiếp nhận văn học, cảm thụ thẩm
mĩ, phương pháp học tập, tư duy, phương pháp tự học, năng lực ứng dụng những
điều đã học vào cuộc sống; bồi đắp cho các em tình yêu văn học và những tình
cảm nhân văn, tốt đẹp. Để thực hiện tốt mục tiêu ấy, người giáo viên, bên cạnh
dạy học sinh đại trà theo hướng đảm bảo chuẩn kiến thức, kĩ năng cần phải chú
trọng đến công tác bồi dưỡng học sinh giỏi. Công tác bồi dưỡng học sinh giỏi là
một trong những công tác trọng tâm trong nhà trường, tác động tích cực vào việc
nâng cao trình độ chuyên môn của đội ngũ thầy cô giáo, nâng cao chất lượng
giảng dạy, góp phần phát hiện, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước.
Là một giáo viên trực tiếp bồi dưỡng đội tuyển học sinh giỏi trong nhiều
năm qua, bản thân tôi nhận thấy rằng công tác bồi dưỡng học sinh giỏi môn Ngữ
văn hiện nay ở địa phương còn nhiều hạn chế, số lượng giải ít và chất lượng giải
không cao bằng các bộ môn khác. Đây là điều trăn trở của những người làm
công tác bồi dưỡng học sinh giỏi, hầu như đội ngũ dạy bồi dưỡng chưa tiếp cận
với cách ra đề của phòng khảo thí kiểm định chất lượng của Sở GD - ĐT. Dạy
bám sát, chuyên sâu là một yêu cầu bức thiết đáp ứng cho yêu cầu thi học sinh
giỏi. Vấn đề được đưa ra trong chuyên đề này là “Hình ảnh thế hệ trẻ Việt Nam
trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc qua các tác phẩm văn học thời kì
chống Mĩ” là một chuyên đề có tính chất như vậy.
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Khi thực hiện chuyên đề “Hình ảnh thế hệ trẻ Việt Nam trong công cuộc xây
dựng và bảo vệ đất nước qua các tác phẩm văn học thời kì chống Mĩ”, tôi muốn
hướng tới những mục đích cơ bản sau:
Thứ nhất: Có những chuyên đề văn học tổng hợp, vừa bám sát chương trình,
vừa có tính mở rộng, nâng cao và chuyên sâu. Những chuyên đề này sẽ phục vụ
thiết thực cho công tác giảng dạy bộ môn nói chung và công tác bồi dưỡng học
sinh giỏi nói riêng.
Thứ hai: Qua chuyên đề giúp cho học sinh cảm nhận sâu sắc về vẻ đẹp của
“hình ảnh thế hệ trẻ Việt Nam trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc qua
1
các tác phẩm văn học thời kì chống Mĩ”, đặc biệt trong các tác phẩm các em
được học trong chương trình THCS. Qua đó, các em hình thành được những
quan niệm niệm sống đúng đắn và biết tự hoàn thiện nhân cách của mình. Từ
chuyên đề này, giúp các em có được những nội dung kiến thức thiết thực về một
chặng đường văn học của dân tộc, giúp các em hình thành được năng lực văn
học cho bản thân; khả năng tiếp cận, cảm thụ, phân tích, đánh giá, đối
chiếu,...những vấn đề văn học có tính chất tổng hợp, chuyên sâu; khơi dậy cho
các em niềm say mê, ham học hỏi, tìm tòi, sáng tạo.
Thứ ba: Nâng cao năng lực và trình độ chuyên môn của bản thân qua quá
trình tự học, tự nghiên cứu.
III. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
Từ những hiểu biết mang tính lịch sử và lí luận văn học về một chặng đường
văn học dân tộc cần làm rõ những những khía cạnh khác nhau về “hình ảnh thế
hệ trẻ Việt Nam trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước qua các tác phẩm
văn học thời chống Mĩ”. Từ đó, học sinh nhận thấy đây là một trong những nội
dung quan trọng góp phần làm nên sức sống cho các tác phẩm văn học trong
thời kì này. Hơn nữa, thông qua một chuyên đề cụ thể, giáo viên tìm ra phương
pháp bồi dưỡng học sinh giỏi hiệu quả, từ đó hướng dẫn học sinh tiếp cận, khai
thác các đề nghị luận văn học một cách tốt nhất. Đặc biệt, giáo viên phải phát
huy được khả năng tự học, tự đọc, tự nghiên cứu, sáng tạo của học sinh, rèn
luyện cho học sinh khả năng tạo lập văn bản theo đúng quy trình làm văn.
IV. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI VÀ KẾ HOẠCH NGHIÊN CỨU
1. Đối tượng:
Học sinh giỏi môn Ngữ văn lớp 9, trường THCS Liên Bảo, Vĩnh Yên, Vĩnh
Phúc.
2. Phạm vi:
“Hình ảnh thế hệ trẻ Việt Nam trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước
qua các tác phẩm văn học thời chống Mĩ” là một đề tài xuyên suốt trong nhiều
tác phẩm của văn học thời kì kháng chiến chống Mĩ. Trong chuyên đề này, tôi
chỉ dừng lại tìm hiểu trọng tâm trong các tác phẩm văn học ở chương trình Ngữ
văn 9 gồm các bài “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” (Phạm Tiến Duật),
“Những ngôi sao xa xôi” (Lê Minh Khuê), “Lặng lẽ Sa Pa” (Nguyễn Thành
Long), đồng thời tập hợp thêm những dẫn chứng của một vài tác phẩm tiêu biểu
khác trong cùng thời kì để làm nổi bật vấn đề.
3. Kế hoạch nghiên cứu:
Thời gian nghiên cứu: từ tháng 9 năm 2011 đến tháng 3 năm 2012.
+ Tháng 9: Viết đề cương chuyên đề.
Khảo sát, lấy số liệu trước khi áp dụng đề tài.
+ Từ tháng 9/3011 – 3/2012: Viết chuyên đề và áp dụng nội dung chuyên
đề vào thực tiễn bồi dưỡng học sinh giỏi lớp 9, Trường THCS Liên Bảo, Vĩnh
Yên, Vĩnh Phúc.
V. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Tìm hiểu về sự cần thiết của vấn đề trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi.
- Khảo sát, thống kê số liệu.
2
- Sưu tầm tài liệu, đọc và nghiên cứu tài liệu tham khảo, trao đổi với đồng
nghiệp để tìm ra hướng đi cho chuyên đề cả về nội dung và hình thức.
- Để làm sáng tỏ cho vấn đề được đưa ra trong chuyên đề, tôi đã tiến hành
nghiên cứu, tìm hiểu từ những cơ sở mang tính lịch sử và lí luận văn học về
chặng đường văn học mà đề tài hướng tới: từ sau 1954 đến 1975. Từ đó giới
thiệu về vấn đề và làm rõ vấn đề qua hệ thống luận điểm, luận cứ và cách lập
luận chặt chẽ, giàu sức thuyết phục bằng các cách lập luận cụ thể, linh hoạt như
giải thích, chứng minh, phân tích, bình luận, so sánh, khái quát, tổng hợp; chú ý
bám sát các tác phẩm được học trong chương trình kết hợp với việc nâng cao,
mở rộng kiến thức ở mức độ phù hợp với khả năng của học sinh giỏi bậc THCS.
- Thực hành vận dụng đề tài trong thực tế giảng dạy.
3
PHẦN II: NỘI DUNG
I. C¥ Së KHOA HäC CñA §Ò TµI
Văn học giai đoạn 1945 -1975 nói chung và văn học thời kì kháng chiến
chống Mĩ nói riêng đã trở thành mốc son chói lọi trong lịch sử văn học dân tộc.
Văn học ở chặng đường này vừa thực hiện xuất sắc thiên chức của văn học, vừa
làm tròn bổn phận của mình đối với lịch sử dân tộc, vừa có sự kế thừa và phát
huy truyền thống văn học nước nhà, vừa mang những nét mới của thời đại.
Mang đặc điểm là nền văn học cổ vũ chiến đấu, hướng về đại chúng, mang
khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn, văn học thời kì này tập trung viết
về công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc nước ta và về cuộc kháng
chiến chống Mĩ cứu nước vĩ đại. Chủ đề bao trùm là ca ngợi chủ nghĩa anh hùng
cách mạng, phản ánh cuộc sống chiến đấu và lao động của con người Việt Nam
anh dũng, kiên cường, bất khuất và khám phá sức mạnh kì diệu của con người
Việt Nam trong chiến tranh khốc liệt. Hình ảnh thế hệ trẻ Việt Nam là một hình
ảnh quen thuộc, trung tâm, thể hiện được giá trị, nội dung và nghệ thuật của
nhiều tác phẩm văn học có giá trị trong thời kì này, nhất là trong các tác phẩm
được đưa vào chương trình sách giáo khoa bậc THCS.
Khi tìm hiểu, khai thác về hình ảnh này, ta không chỉ có kiến thức sâu sắc
về một đề tài văn học, mà ta sẽ có cơ hội tiếp thu được nhiều kiến thức về văn
học của dân tộc trong một chặng đường với những đặc điểm và thành tựu của
nó. Từ đó, ta có thể dùng nó so sánh, đối chiếu với các tác phẩm ở giai đoạn
khác có cùng đề tài, hay để khai thác các tác phẩm văn học cùng giai đoạn một
cách linh hoạt, hợp lí.
II. THùC TR¹NG NGhI£N CøU
Một thực tế mà chúng ta dễ nhận thấy là hiện nay chất lượng dạy môn
Ngữ văn ở nhà trường Trung học cơ sở còn hạn chế. Môn học này chưa được
học sinh yêu thích, đam mê thực sự. Đa số học sinh ngại học môn Văn. Một
trong số những nguyên nhân khiến học sinh chưa say mê môn Ngữ văn là do xu
thế của xã hội đề cao các môn Khoa học tự nhiên, ngoại ngữ, mà phần lớn các
học sinh có nhận thức tốt thường thích các môn văn hóa này. Một số phụ huynh
học sinh không thích cho con tham gia vào đội tuyển Ngữ văn (dù học sinh đó
có năng lực văn học). Vì vậy, việc chọn học sinh có năng khiếu để bồi dưỡng
môn Ngữ văn thật sự nhọc nhằn.
Một khó khăn nữa trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi môn Ngữ văn
đó là vấn đề tài liệu. Hiện nay, chưa có các văn bản mang tính quy định về
chương trình và nội dung bồi dưỡng học sinh giỏi. Hơn nữa, những bài viết
mang tính chuyên sâu, tổng hợp, khái quát các vấn đề văn học theo phân phối
chương trình Ngữ văn cấp học còn quá ít. Đặc biệt, đội ngũ giáo viên trẻ tuổi
4
ngày càng đông, vốn hiểu biết về các vấn đề văn học mang tính chuyên đề còn
hạn chế.
Về phía học sinh, trong các đội tuyển học sinh giỏi ở cấp Trung học cơ sở,
các em đã bắt đầu biểu hiện được năng lực văn học của mình như nắm được
kiến thức văn học cơ bản, biết cách cảm thụ cái hay, cái đẹp về nội dung, nghệ
thuật trong tác phẩm văn học, bắt đầu biết tự rèn luyện kỹ năng viết văn nhưng
khả năng viết các đề văn tổng hợp của các em còn yếu.
Qua việc trực tiếp bồi dưỡng, nắm bắt tình hình thực tế, thông qua việc trao
đổi với các đồng nghiệp dạy môn Ngữ văn trong tổ chuyên môn và các trường bạn,
tôi nhận thấy việc tìm hiểu chuyên đề “Hình ảnh thế hệ trẻ Việt Nam trong công
cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc qua các tác phẩm văn học thời kì kháng
chiến chống Mĩ” là hết sức bổ ích và thiết thực. Bởi trong chương trình Ngữ văn
Trung học cơ sở, các tác phẩm văn học trong chặng đường này khá phong phú. Đặc
biệt, nội dung của chuyên đề cũng chính là một trong những nội dung tiêu biểu
xuyên suốt và khẳng định giá trị to lớn của nhiều tác phẩm văn học thời chống Mĩ..
Vậy, để nâng chất lượng giảng dạy môn Ngữ văn nói chung, chất lượng
học sinh giỏi môn Ngữ văn nói riêng, xuất phát từ những lý do trên, tôi mạnh
dạn nghiên cứu chuyên đề “Hình ảnh thế hệ trẻ Việt Nam trong công cuộc
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc qua các tác phẩm văn học thời kì kháng chiến
chống Mĩ”.
III. Néi dung
1.
Vài nét về hoàn cảnh lịch sử, xã hội và văn học Việt Nam thời kì
kháng chiến chống Mĩ.
a, Về lịch sử:
Chiến thắng Điện Biên phủ vang dội địa cầu đã chấm dứt cuộc kháng chiến
chống Pháp trường kì nhưng lại mở ra trên đất nước ta nhiều sự kiện lớn lao
khác. Trong suốt 20 năm ấy, dân tộc ta cùng lúc phải thực hiện những nhiệm vụ
hết sức nặng nề, khó khăn những rất vinh quang, đó là tiến hành cuộc kháng
chiến chống Mỹ để bảo vệ nền độc lập dân tộc, thống nhất đất nước và đi lên
xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở Miền Bắc. Những sự kiện lịch sử đó có tác động
mạnh mẽ, sâu sắc tới toàn bộ đời sống vật chất, tinh thần của dân tộc, trong đó
có văn học nghệ thuật.
b, Về văn học:
Kế thừa và phát huy những thành tựu văn học của thời kỳ trước, văn học
Việt Nam kì kháng chiến chống Mĩ đã sứng đáng với sứ mệnh cao cả của một
nền văn học trong thời đại mới. Đó là nền văn học của chế độ mới, vận động và
phát triển dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Nền văn học gắn bó sâu sắc với
vận mệnh chung của đất nước, đáp ứng yêu cầu của lịch sử dân tộc, văn học tập
trung phản ánh về cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước và đi lên xây dựng Chủ
nghĩa xã hội.
Đặc điểm cơ bản của văn học thời kì này là một nền văn học phục cách
mạng, cổ vũ chiến đấu, các tác giả văn học trở thành người chiến sĩ trên “mặt
trận văn hóa văn nghệ” (Hồ chí Minh); nền văn học hướng về đại chúng; nền
văn học chủ yếu mang khuynh sử thi và cảm hứng lạng mạn.
5
Văn học trong giai đoạn này đem lại nhiều giá trị. Văn học đã thực hiện
xuất sắc nhiệm vụ lịch sử. Có những đóng góp về tư tưởng: phát huy truyền
thống yêu nước và anh hùng, truyền thống nhân đạo trong thời kì mới. Về nghệ
thuật, văn học thời kì này phát triển toàn diện hơn về thể loại; phẩm chất thẩm
mĩ của văn học được nâng cao; đội ngũ các nhà văn, nhà thơ phát triển mạnh.
Nguồn cảm hứng của văn học chặng đường này tập trung vào đề tài Tổ
quốc và Nhân dân. Cách mạng và kháng chiến đã làm thay đổi hẳn cách nhìn
nhận nhân dân của nhiều nhà văn, đồng thời hình thành ở họ một quan niệm mới
về đất nước: đất nước của nhân dân. Chính nhân dân đã xây dựng, giữ gìn, bảo
vệ đất nước bằng mồ hôi, nước mắt và máu xương của mình qua hàng nghìn
năm lịch sử như trong bài “Người đi tìm hình của nước” nhà thơ Chế Lan Viên
có viết:
Nước Việt Nam nghìn năm từ Đinh, Lý, Trần, Lê
Thành nước Việt nhân dân trong mát suối.
hay:
Ôi đất nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta.
(Đất nước – Nguyễn Khoa Điềm)
Ngòi bút của các nhà văn hướng về đại chúng, hướng về nhân dân. Nhân
dân trong văn học chống Mĩ xuất hiện rất phong phú và đa dạng. Bên cạnh việc
xây dựng quần chúng cách mạng (người nông dân, người mẹ, người phụ nữ, em
bé…) diễn tả vẻ đẹp tâm hồn của nhân dân lao động, nền văn học mới đặc biệt
quan tâm tới các nhân vật trung tâm: người chiến sỹ trên trận tuyến chống quân
thù, những con người trực tiếp phục vụ kháng chiến và những con người lao
động mới trên mặt trận xây dựng Chủ nghĩa xã hội. Họ thuộc mọi tầng lớp, mọi
lứa tuổi và giới tính khác nhau nhưng ở họ đều mang lí tưởng chung của cả dân
tộc, là biểu tượng của một dân tộc anh hùng, nhân đạo.
Nhưng, có lẽ một trong những hình ảnh sinh động, nổi bật, sáng bừng lên
bức tranh về Tổ quốc, nhân dân trong giai đoạn này là hình ảnh của thế hệ trẻ
“Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước” với ý thức ngày càng sâu sắc về trách nhiệm
của thế hệ trước dân tộc và nhân dân, trước Tổ quốc và lịch sử” (Theo bài: “Mấy
nét khái quát về văn học Việt Nam từ sau Cách mạng tháng Tám 1945”).
2. Hình ảnh thế hệ trẻ Việt Nam trong công cuộc xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc qua các tác phẩm văn học thời kì kháng chiến chống Mĩ.
Trong lịch sử mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước, các thế hệ trẻ Việt
Nam đã cùng cha ông chiến đấu kiên cường để bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn
lãnh thổ. Ở bất cứ thời điểm nào, hoàn cảnh nào của dân tộc, trong cuộc xây
dựng và bảo vệ tổ quốc tuổi trẻ luôn là lớp người đi đầu, là lực lượng hùng hậu
nhất. Thế hệ trẻ Việt Nam trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ hiện lên trong
các tác phẩm văn học thật đẹp. Họ là kết tinh vẻ đẹp của nhân dân, đất nước và
thời đại anh hùng – thời đại Hồ Chí Minh.
a, Đó là lớp thế hệ trẻ có tình yêu nước nồng nàn, có lý tưởng cách mạng,
có hoài bão và ước mơ cao đẹp, sẵn sàng cống hiến tuổi xuân cho đất nước.
Thế hệ trẻ Việt Nam trong thời kì chống Mĩ là lớp người được kế thừa và
phát huy những truyền thống tốt đẹp bao đời của cha ông, được trực tiếp dẫn dắt
6
bởi thế hệ anh hùng vừa trải qua cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân
Pháp thắng lợi, được học tập ở mái trường xã hội mới, được nhìn thấy tương lai
về một chế độ xã hội chủ nghĩa tốt đẹp. Chính những điều kiện ấy đã bồi đắp
một thế hệ thanh niên có lòng yêu nước nồng nàn, có lý tưởng cách mạng cao
đẹp, có ước mơ và hoài bão.
Lí tưởng sống là mục đích cao nhất, đẹp nhất của đời người mà người ta
khao khát hướng tới, phấn đấu để đạt được. Lí tưởng được ví như ngọn đèn soi
tỏ đường đi. Khi Tổ quốc bị xâm lăng thì một trong những lí tưởng sống cao đẹp
nhất của thanh niên là “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”, là “Xẻ dọc Trường
Sơn đi cứu nước” như Chiến – người con gái đang ở độ tuổi hai mươi, trong tác
phẩm “Những đứa con trong gia đình” (1966 - Nguyến Thi) đã nói với em mình:
“Đã làm thân con gái ra đi thì tao chỉ có một câu: Nếu giặc còn thì tao mất… ”.
Với câu nói chân chất ấy, ta có thể hiểu ngọn đèn nào đang soi sáng trong tình
cảm và ý chí của người nữ thanh niên ấy.
Trong bài thơ “Tiếng gà trưa” (Xuân Quỳnh), khổ thơ cuối bài thơ có
đoạn:
Cháu chiến đấu hôm nay
Vì lòng yêu Tổ quốc
Vì xóm làng thân thuộc
Bà ơi, cũng vì bà
Vì tiếng gà cục tác
Ổ trứng hồng tuổi thơ.
Bài thơ “Tiếng gà trưa” được viết năm 1968. Bài thơ thể hiện cảm xúc của
một anh lính trẻ trên đường hành quân: khi nghe tiếng gà nhảy ổ ban trưa, bao
nhiêu kỷ niệm về tuổi thơ tươi đẹp, về tình bà cháu đã sống dậy. Từ đó khiến
anh nhận ra mục đích, lí do chiến đấu của mình vì Tổ quốc, làng quê, gia đình và
tuổi thơ. Và có lẽ, từ những lí do vừa giản dị, vừa cao cả ấy sẽ trở thành nguồn
động lực, trở thành sức mạnh giúp anh cầm chắc tay súng, chiến đấu bảo vệ Tổ
quốc.
“Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của nhà thơ Phạm Tiến Duật được viết
vào năm 1969 là một bài thơ tiêu biểu cho thơ ca kháng chiến chống Mỹ. Bài
thơ mang đậm “chất lính”, là tiếng nói hồn nhiên, thường ngày của người lính
trẻ của thời chống Mỹ có học thức, có lý tưởng thời đại, mang trong mình sự tự
tin, niềm kiêu hãnh của những con người rất đỗi tự hào về sứ mệnh của mình –
sứ mệnh giải phóng dân tộc, thống nhất nước nhà. Ngồi trong buồng lái của
những chiếc xe vận tải “không kính”, “không đèn”, “không mui” trên con
đường Trường Sơn mưa bom bão đạn, anh chiến sỹ lái xe vẫn cảm nhận rõ “con
đường chạy thẳng vào tim”. Đó là cảm nhận vừa rất thực của một người lính lái
xe khi nhìn về phía trước, nhưng phải chăng đó cũng chính là con đường cách
mạng, con đường của lý tưởng Cộng sản, của lòng yêu nước đang “chạy thẳng”
vào “tim” của người lính trẻ. Điều này cũng rõ ràng hơn khi ta đọc bốn câu thơ
cuối của bài thơ:
Không có kính, không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước
Xe vẫn chạy vì miền Nam ruột thịt
7
Chỉ cần trong xe có một trái tim”.
Hình ảnh “trái tim” là biểu tượng của ý chí, của bầu nhiệt huyết, của khát vọng
tự do, hòa bình cháy bỏng trong trái tim người lính trẻ. Cho dù xe không có
kính, xe không có đèn, không có mui, thì người lính vẫn còn một trái tim yêu
nước, lòng nhiệt tình cách mạng của tuổi trẻ, quyết tâm chiến đấu, giải phóng
miền Nam, thống nhất đất nước. Như chính tác giả cũng đã nói về tác phẩm của
mình: “Thực ra tôi chỉ lấy cái ô tô làm cớ. Con người cũng như cái xe ấy, có
thiếu mọi thứ (…) nhưng cái không thể thiếu được là trái tim anh chiến sỹ dũng
cảm…” Lý tưởng của anh, trái tim của anh cũng là lí tưởng và trái tim của cả
dân tộc Việt Nam anh hùng trong cuộc kháng chiến chống Mĩ vĩ đại.
Nhắc đến tuyến đường Trường Sơn huyền thoại nối liền Bắc – Nam, ta
không thể bỏ qua sự góp mặt của một “binh chủng đặc biệt” – thanh niên xung
phong. Trong những năm khói bom rực trời ấy, lực lượng thanh niên xung phong
có vai trò hết sức quan trọng tham gia mở đường, phá bom, bảo đảm con đường
huyết mạch ấy luôn được thông suốt cho những đoàn quân, đoàn xe ra trận. Nhớ
về họ, ta không thể nào quên hình ảnh các cô thanh niên xung phong và hình
tượng các cô đã đi vào không ít các trang thơ, trang văn. Thơ ca những năm
chống Mĩ đã dành một phần rất lớn sự ưu ái cho hình tượng người nữ thanh
niên xung phong: “Gửi em, cô thanh niên xung phong” (Phạm Tiến Duật),
“Khoảng trời - hố bom” (Lâm Thị Mỹ Dạ), “Những ngôi sao xa xôi”… (Lê
Minh Khuê). Tất cả học đều là những anh hùng sẵn sàng xả thân vì lí tưởng, vì
sự sống của dân tộc. Ta hãy nghe lời tâm sự của Phương Định, một cô gái Hà
thành, theo tiếng gọi của Tổ quốc, từ giã phố nhỏ thân thương dấn thân vào
Trường Sơn khói lửa trở thành cô “trinh sát mặt đường”: “Thực tình, trong suy
nghĩ của tôi, những người đẹp nhất, thông minh, can đảm và cao thượng nhất là
những người mặc quân phục, có ngôi sao trên mũ”. Một lời tâm sự rất hồn nhiên
nhưng lại ngời sáng một lý tưởng cao đẹp của một nữ thanh nhiên xung phong.
“Người mặc quân phục và có ngôi sao trên mũ” ấy là ai? Đó là những anh bộ
đội Cụ Hồ - Những người hội tụ đầy đủ nhất mọi vẻ đẹp của con người Việt
nam đương thời nói riêng và trong mọi thời đại nói chung. Họ mang trong mình
tinh thần, sức mạnh của cả một dân tộc anh hùng, một thời đại anh hùng. Nói về
họ bằng sự yêu mến, kính trọng và đầy ngưỡng mộ như vậy, chứng tỏ với
Phương Định, họ chính là lẽ sống mà cô hướng tới. Trong bài thơ “Khoảng trời
- hố bom” (Lâm Thị Mỹ Dạ) ta thật sự xúc động, cảm phục trước tình yêu Tổ
quốc và sự hi sinh cao cả của cô gái mở đường:
Em đã lấy tình yêu Tổ quốc của mình thắp lên ngọn lửa
Đánh lạc hướng thù hứng lấy luồng bom.
Vâng! Có một cái gì đó như nhói ở trong tim, nhưng cũng có cái gì đó làm
bừng sáng lên tâm hồn của người đọc. Phải chăng, đó chính là hình ảnh “ngọn
lửa” được thắp lên bởi cô gái mở đường. Ngọn lửa làm nhói tim ta, bởi ngọn lửa
ấy cho ta cảm nhận được hy sinh, mất mát do chiến tranh gây ra, nhưng nó lại
thắp sáng lên trong ta một lẽ sống cao đẹp, một ý chí nghị lực sống bất diệt bởi
nó là ngọn lửa của lí tưởng cách mạng, của lòng yêu Tổ quốc, của niềm khao
khát tự do độc lập, của niềm tin chiến thắng.
8
Lí tưởng và lẽ sống đẹp của thế hệ trẻ không chỉ được thể hiện trong cuộc
đấu tranh chống ngoại xâm mà còn được thể hiện sâu sắc trong cuộc sống đời
thường, trong công cuộc xây dựng đất nước, trong sứ mệnh là hậu phương của
tiền tuyến. Đến với tác phẩm “Lặng lẽ Sa Pa” (Nguyễn Thành Long), ta thực sự
ấn tượng về hình ảnh anh thanh niên làm công tác khí tượng trên đỉnh Yên Sơn
cao 2600m. Anh thanh niên có lý tưởng sống thật đẹp. Anh luôn tự nhủ “mình
sinh ra là gì, mình đẻ ở đâu, mình vì ai mà làm việc?”. Một lời tự nhủ nhưng
cũng chính là bộc lộ quan điểm sống chân chính, giản dị mà cao đẹp của anh
thanh niên, của thế hệ trẻ Việt Nam lúc bấy giờ. Anh tự ý thức được về bản thân
mình, ý thức được công việc mình làm “gắn liền với các anh em đồng chí dưới
kia” và là công việc góp một phần nhỏ bé và công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc. Chính vì vậy, anh không thấy cô đơn mà càng yêu nghề, yêu cuộc sống
của mình, lại tiếp tục thầm lặng cống hiến sức trẻ cho quê hương đất nước.
Truyện ngắn còn cho ta gặp gỡ một cô kỹ sư trẻ mới ra trường, sẵn sàng từ giã
chốn phồn hoa, đô hội để lên xứ lạnh buồn tẻ này công tác. “Những điều cô
cùng nghe, cùng với điều cô khám phá ra trên hai trang sách đang đọc dở của
người con trai khiến cô bàng hoàng. Có phải cái ánh sáng trong quyển sách rọi
sáng làm cho cô hiểu thêm cuộc sống một mình dũng cảm tuyệt đẹp của người
thanh niên, về cái thế giới mà anh kể và về con đường mà anh đang đi tới?”.
Trong lòng cô dội lên lòng biết ơn, không phải vì bó hoa to đẹp mà chàng trai
tặng cho cô, mà vì một bó hoa khác. Bó hoa của những háo hức, mộng mơ mà
ngẫu nhiên anh đã trao cho cô. Cô vui vẻ và sẵn sàng đón nhận để hòa mình vào
với trời Tây Bắc bạt ngàn, với cuộc đời kia, sống cho xứng đáng.
Đến với văn học thời kỳ chống Mĩ ta còn thấy lý tưởng cách mạng thấm
nhuần ngay cả trong nhận thức của của những cô dân quân:
Chào cô dân quân tay súng, vai cày
Chân lội bùn mơ hạ máy bay.
hay của các em nhỏ trong thơ Tố Hữu:
Chào các em, những đồng chí của tương lai
Mang mũ rơm đi học đường dài.
Hình ảnh của thế hệ trẻ mang trong mình lý tưởng sống cao đẹp, có hoài
bão, ước mơ, luôn sẵn sàng cống hiến sức mình cho đất nước đã trở thành một
biểu tượng đẹp của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, cho lẽ sống đẹp, cho lý
tưởng chung của mọi con người Việt Nam, đất nước Việt Nam trong thời kỳ:
“Mỗi đứa bé đều nằm mơ ngựa sắt
Mỗi con sông đều muốn hóa Bạch Đằng”
(Chế Lan Viên)
Hơn nữa, đó chính là biểu hiện của khuynh hướng sử thi và cảm hứng
lãng mạn trong thơ ca chống Mỹ. Đặc biệt, tình yêu đất nước, lòng nhiệt tình
cách mạng, lý tưởng Cộng sản kiên định đã làm nên sức mạnh để người lính trở
nên dũng cảm, kiên cường vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, sẵn sàng hi sinh
làm tròn nhiệm vụ với quê hương, đất nước.
b. Họ là những con người gan dạ, dũng cảm, đầy tinh thần trách nhiệm,
coi thường hiểm nguy, vượt qua mọi khó khăn, thiếu thốn, sẵn sàng hi sinh,
làm tròn nhiệm vụ.
9
Trong thời kì kháng chiến chống Mĩ cứu nước, cả dân tộc phải trải qua
một thời kỳ lịch sử khó khăn, ác liệt nhưng hào hùng. Một trong lớp người tiên
phong đi thực hiện nhiệm vụ ấy là thế hệ trẻ Việt Nam với tinh thần “Xẻ dọc
Trường Sơn đi cứu nước”, họ có mặt trên mọi mặt trận. Và đương nhiên, họ
cũng cùng dân tộc sẻ chia những vất vả nhọc nhằn, những hiểm nguy gian khó.
Người lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn phải chịu đựng sự khắc
nghiệt của thiên nhiên “Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng”, “Bụi phun tóc trắng
như người già”, “Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời”. Những con người trẻ tuổi
(người lính lái xe, những nữ thanh niên xung phong…) phải sống trong điều
kiện thiếu thốn, trang bị thô sơ “Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời/Chung bát
đũa nghĩa là gia đình đấ/Võng mắc chông chênh đường xe chạy”(Bài thơ về
tiểu đội xe không kính) hay “chúng tôi ở một trong những cái hang ở chân cao
điểm” (Những ngôi sao xa xôi – Lê Minh Khuê). Hơn thế, thế hệ trẻ Việt Nam đi
vào cuộc kháng chiến chống Mĩ, từng ngày, từng giờ, từng phút, từng giây họ
phải sống trong cảnh “mưa bom, bão đạn đe dọa đến sự sống”. Hình tượng
người chiến sĩ trẻ trong “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật
đi vào cuộc chiến đấu chống Mĩ đã có những bước phát triển vượt bậc. Họ
không phải là lính bộ binh như “Đồng chí” của Chính Hữu, họ là lính lái xe trên
tuyến lửa Trường Sơn – con đường huyền thoại. Đời sống vật chất, tinh thần của
họ đã khá hơn so với thời chống Pháp, không còn áo “rách vai, quần vài mảnh
vá” Nhưng họ có những khó khăn, gian khổ khác. Cuộc chiến tranh Việt Nam do
đế quốc Mĩ gây ra là cuộc chiến tranh hủy diệt. Người lính phải đối mặt với loại
chiến tranh tối tân, dã man. Bom đạn của giặc không loại trừ bất cứ một sự sống
nào. Vì thế, những chiếc xe của người lính trẻ mới trở nên như thế này:
Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi.
Hai câu thơ vừa có tác dụng lí giải sự bất thường của hình ảnh độc đáo
“những chiếc xe không kính” vừa tô điểm sự ác liệt của chiến trường luôn “bom
giật, bom rung”. Hay:
Không có kính rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước.
Hai câu thơ nhấn lại ba lần “không có” như nhấn lên ba lần thử thách;
ngắt làm bốn nhịp như bốn lần gập ghềnh, khúc khuỷu. Xe “không kính”,
“không đèn”, “không mui”, xước là sự thật. Bởi, không phải một chiếc như thế
mà tác giả nhìn thấy cả một tiểu đội xe như thế, hơn nữa thời điểm bài thơ ra đời
có thể nói là thời điểm ác liệt nhất trong thập niên 60 của thế kỷ XX. Ngay cả
Lãm (Mảnh trăng cuối rừng – Nguyễn Minh Châu) một thanh niên cùng chung
nhiệm vụ với “người lính” của Phạm Tiến Duật cũng phải trải qua những khó
khăn như thế. Hãy nhớ lại, vào cái đêm hôm đó, Lãm và Nguyệt đã phải vật lộn
như thế nào với đường gập ghềnh, rãnh sâu, hố bom, ngầm đá, đêm đen: “Có
đoạn bánh trước sục xuống rãnh sâu quá, Nguyệt phải xuống xi nhan” cho tô
kéo lên”; Có đoạn không nhích lên được tôi phải cài số phụ... không khí trong
buồng lái nóng sực. Lốp xe quay tròn, xiết trên đá, tóe lửa khét lẹt ...” hay đàn
máy bay ập xuống từ sau núi “như tiếng sét”, khi bay thấp thả pháo sáng và xả
súng hai mươi li, khi bay cao trút bom tọa độ. Lúc này, đường Trường Sơn – con
10
đường chi viện sức người, sức của, vũ khí lương thực cho miền Nam là nơi “túi
bom, chảo lửa”. Những cô gái thanh niên xung phong làm nhiệm vụ trên con
đường ấy cũng chịu chung nỗi nguy nan của anh lính lái xe. Như Phương Định
tâm sự: “Chúng tôi chạy trên cao điểm cả ban ngày. Khi có bom nổ thì chạy lên
đo khối lượng đất lấp vào hố bom, đếm bom chưa nổ và phá bom”; hay “ Thần
chết là một tay không thích đùa, hắn ta lẩn trong ruột những quả bom và bom
có thể nổ bất cứ lúc nào”, “máu từ cánh tay Nho túa ra” (Những ngôi sao xa
xôi); Ngay cả cô gái mở đường trong bài thơ “Khoảng trời - hố bom” cũng đã
phải “hứng lấy đường bom” để cứu con đường và cho đoàn xe kịp giờ ra trận.
Nói đến đây, khiến mỗi chúng ta không thể không liên tưởng tới hình ảnh của
mười nữ thanh niên xung phong ở ngã ba Đồng Lộc lịch sử, cùng lúc hy sinh
dưới làn bom đạn tàn bạo của kẻ thù. Sự hi sinh của họ không chỉ là biểu tượng
cho những con người anh hùng mà còn là minh chứng cho sự tàn khốc của chiến
tranh.
Qua con đường Trường Sơn, ta hãy đến với đồng bào miền Nam yêu quý
– nơi thành đồng của Tổ quốc, để một lần nữa thấu hiểu những gian nguy của
những người con đang phải sống và chiến đấu trong vùng địch – nơi tiền tiêu
của Tổ quốc, trong đó có thế hệ trẻ. Đến với tác phẩm “Những đứa con trong
gia đình” (Nguyễn Thi) ta bắt gặp Chiến, Việt là hai nhân vật chính, hai đứa con,
hai người chiến sĩ trẻ của quê hương Bến Tre anh hùng. Khi lớn lên hai chị em
đã sớm sống trong cảnh cha mẹ hi sinh, ngôi nhà cũ đã nhường để làm trường
học, bàn thờ má phải gửi sang nhà khác,…Rồi khi vào chiến trường, Việt lại
phải đối mặt giữa sự sống và cái chết. Trong một cuộc giao tranh quyết liệt giữa
đơn vị của Việt và một chiến đoàn Mĩ, Việt lạc đơn vị giữa rừng đầy xác giặc,
chân tay tê dại, nhức nhối, khắp người rỉ máu, miệng tê cứng không la lên được,
“bóng đêm vắng lặng và lạnh lẽo bao tròn lấy Việt” trong cánh rừng cao su vừa
trải qua cảnh đọ lê dữ dội kia, thỉnh thoảng có bị phá vỡ thì cái phá vỡ nó lại là
tiếng “trực thăng phành phạch bay từng bầy trên đầu”, “tiếng xe bọc thép ào
ào chạy qua hướng trước mặt”,...
Ở hậu phương, cuộc sống lao động dựng xây đất nước, người thanh niên trẻ
không phải đối mặt với sự khốc liệt, dữ dội của bom đạn, nhưng họ cũng phải đương
đầu với những hoàn cảnh làm việc khắc nghiệt, tính kỷ luật cao mà nếu không có
bản lĩnh không thể vượt qua. Trong tác phẩm “Lặng lẽ Sa Pa”, anh thanh niên làm
công tác khí tượng kiêm vật lý địa cầu phải sống và làm việc trong hoàn cảnh như
thế. Anh làm một công việc đơn điệu, nhưng lại đòi hỏi sự cẩn thận, tinh thần trách
nhiệm cao: “cháu ở đây có nhiệm vụ đo gió, đo mưa, đo nắng (...) phục vụ sản xuất,
phục vụ chiến đấu”, “cháu lấy những con số mỗi ngày, báo về “nhà” bằng máy bộ
đàm bốn giờ, mười một giờ, bảy giờ tối, lại một giờ sáng”. Anh làm việc một mình
trong điều kiện thời tiết khắc nghiệt của Sa Pa “có mưa tuyết” “gió tuyết và lặng tim
ở bên ngoài như chỉ trực đợi mình ra là ào ào xô tới. Cái lặng im lúc đó mới thật dễ
sợ: nó như bị gió chặt ra từng khúc, mà gió thì như những nhát chổi lớn muốn quét
đi tất cả, ném mọi thứ lung tung”.
Như vậy, dù hoạt động trên mặt trận nào, bảo vệ hay xây dựng Tổ quốc; dù
ở miền Nam hay miền Bắc; dù là trai hay gái thì thế hệ trẻ cũng như toàn dân
tộc vẫn phải đương đầu với nhiều khó khăn, thử thách. Nhưng dường như, chính
11
những khó khăn thử thách ấy đã trở thành một trường đời tôi luyện cho họ
những phẩm chất cao đẹp của con người Việt Nam nói chung và thế hệ trẻ trong
thời kỳ mới nói riêng. Đó là: sự gan dạ, dũng cảm, đầy tinh thần trách nhiệm
trong công việc, coi thường hiểm nguy vượt qua gian khó, quyết tâm hoàn thành
nhiệm vụ.
Đúng vậy! Thời thế tạo anh hùng. Trong khó khăn, vất vả con người lại
càng can trường, dũng cảm. Anh lính lái xe trong thơ Phạm Tiến Duật mặc cho
gió, bụi, mưa những chiếc xe không kính trong “bom giật, bom rung” nhưng
người chiến sỹ không hề nản chí, không run sợ mà trái lại tự tin, bình tĩnh đến lạ
thường, anh vẫn “Ung dung buồng lái ta ngồi/ Nhìn đất, nhìn trời, nhìn
thằng...” Vẻ đẹp kiêu hùng được thoát ra từ tư thế ngồi ung dung đến cái nhìn
“thẳng”. Các từ láy “ung dung” cùng với nhịp thở nhanh, đều, dứt khoát 2/2/2
diễn tả vẻ đẹp thản nhiên, tự tin đến ngang tàng của người chiến sỹ trẻ. Đẹp hơn
nữa ở anh lính lái xe là thái độ, tinh thần, dũng cảm, bất chấp gian khổ để chiến
đấu và chiến thắng:
“Không có kính, ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa phì phèo châm điếu thuốc ...
Không có kính ừ thì ướt áo
Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời
Chưa cần thay, lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi”.
Vẻ đẹp được toát lên từ lời thơ giản dị, giàu chất lính, hình ảnh thơ mộc
mạc. Điệp ngữ “ừ thì”, “chưa cần” vang lên như một lời thách thức, chủ động
chấp nhận gian khổ.
Cũng như anh lính lái xe, ba nữ thanh niên trong “tổ trinh sát mặt đường”
làm việc trên tuyến đường Trường Sơn (Thao, Nho và Phương Định) là những
tấm gương về lòng dũng cảm và luôn vượt mọi khó khăm để làm tròn nhiệm vụ.
Theo lời kể của Phương Định (nhân vật chính trong tác phẩm “Những ngôi sao
xa xôi”): “Quen rồi. Một ngày chúng tôi phá bom đến năm lần. Ngày nào ít: ba
lần. Tôi có nghĩ đến cái chết. Nhưng một cái chết mờ nhạt, không cụ thể. Còn
cái chính: liệu mìn nổ, bom có nổ không? Không thì làm thì làm cách nào để
châm mìn lần thứ hai?”, hay “Có ở đâu như thế này không: đất bốc khói, không
khí bàng hoàng, máy bay đang ầm ì xa dần. Thần kinh căng như chão, tim đập
bất chấp cả nhịp điệu, chân chạy mà vẫn biết rằng khắp chung quanh có nhiều
quả bom chưa nổ...” Thế đấy, những lời kể chân thành, tự nhiên nhưng lại làm
nổi bật vẻ đẹp về sự dũng cảm, về ý thức trách nhiệm với công việc của những
nữ “trinh sát mặt đường” trên tuyến đường Trường Sơn. Sống và làm việc phục
vụ cuộc kháng chiến trong một môi trường mà cái chết luôn rình rập nhưng
những cô gái trẻ vẫn không hề nao núng, vẫn đặt nhiệm vụ lên hàng đầu, trong ý
thức của họ lúc ấy cái chết chỉ “mờ nhạt” còn cái chính là cố gắng làm sao để
hoàn thành nhiệm vụ. Chính ý thức ấy, môi trường ấy đã tạo nên một Phương
Định tự tin, bình tĩnh đến lì lợm trước những trái bom. Một lần nữa nhà thơ
Phạm Tiến Duật, bằng giọng điệu sôi nổi, trẻ trung (rất Phạm Tiến Duật) lại
12
tặng cho đời những vần thơ giàu chất sống về ý chí ngoan cường của người nữ
thanh niên ở đại đội làm đường trong bài thơ “Gửi em, cô thanh niên xung
phong”:
Cạnh giếng nước có bom từ trường
Em không rửa ngủ ngày chân lấm
Ngày em phá nhiều bom nổ chậm
Đêm nằm mơ nói mớ vang nhà.
Đúng là: “Anh hùng đâu cứ phải mày râu”. Các cô gái vóc dáng nhỏ nhắn
tưởng như chân yếu tay mềm ấy lại táo bạo và đầy bản lĩnh. Hành động nằm ngủ
thản nhiên giữa ban ngày, bên cạnh một giếng nước có bom từ trường của các cô
gái trong ý thơ, khiến chúng ta bàng hoàng, sửng sốt. Các cô gan dạ chẳng khác
nào một Út Tịch trong “Người mẹ cầm súng” của Nguyễn Thi, một chị Sứ trong
“Hòn đất” của Anh Đức. Giống như các nữ thanh niên xung phong ta vừa nói
tới, Nguyệt trong “Mảnh trăng cuối rừng” cũng là một cô gái dũng cảm. Sự
dũng cảm của cô thanh niên xung phong ấy không chỉ biểu hiện ở các chi tiết ta
vẫn thường quen thấy ở trong những tác phẩm lúc bấy giờ: dẫn đường, cứu xe,
lội ngầm, biến thân mình thành cọc tiêu sống để xe đi, mà còn thể hiện rất trữ
tình, mềm mại qua dáng ngồi thản nhiên trong xe giữa đoạn đường đầy nguy
hiểm, ở giọng nói bao giờ cũng bình tĩnh, rành rọt như đếm, hay cả ở ngay trong
câu văn tả cô gái lúc bị thương “ Nguyệt nhìn vết thương, cười”. Nụ cười từ ý
thức của một con người xem thường gian khó. Thật cao đẹp và đáng ngưỡng mộ
biết bao!
Chia tay những nữ thanh niên xung phong, ta trở lại tìm Việt trong
“Những đứa con trong gia đình” (Nguyễn Thi) xem anh đã làm gì trong bóng
đêm vắng lặng, trong tiếng tiếng trực thăng bay từng bầy trên đầu? Và đây là
Việt trong thời khắc nguy nan ấy: Việt vẫn cố bò đi và sẵn sàng chiến đấu bằng
khẩu súng của mình. Mười ngón tay không lên đạn được, Việt dùng răng giật cơ
bẩm, đưa một viên đạn lên nòng. Sang tới ngày thứ hai, Việt bắt đầu cảm thấy
nóng và đói, mắt bị thương nặng, đau khắp người, người thương binh đang lạc
đồng đội này phát hiện mình không thấy gì. Đường tìm về với đồng đội càng
khó khăn gấp bội. dù vậy, anh vẫn sãn sàng nổ súng với một ngón cái hơi nhúc
nhích.Trong hoàn cảnh hiểm nghèo, Việt không sợ chết mà chỉ sợ không còn
được gặp đồng đội, không còn được cầm súng. Khi về đêm, Việt cảm thấy kiệt
sức hoàn toàn, Việt lại nghĩ về đồng đội, nghe tiếng kèn xung trận của ta Việt lại
bò được một đoạn, bò về phía trận đánh, phía đồng đội và sự sống. Người con
miền Nam yêu quý ấy có một ý chí, một nghị lực mãnh liệt, phi thường. Gian
khó, hiểm nguy, ngay cả thần chết đang cận kề cũng không làm nhụt ý chí chiến
đấu, làm mất đi tình cảm tốt đẹp trong anh. Anh sứng đáng là một người con nơi
thành đồng Tổ quốc.
Về với mảnh đất Sa Pa yên bình vào những năm đầu của thập niên 70 thế kỉ
XX, ta hãy thử xem, anh thanh niên sống và làm việc trên đỉnh cao 2600m kia
có đủ dũng khí, nghị lực để vượt qua những gian khổ trong cuộc sống, trong lao
động để làm tròn trách nhiệm hay không? Hãy nghe anh tâm sự: “Hồi chưa vào
nghề, những đêm bầu trời đen kịt, nhìn kĩ mới thấy một ngôi sao xa, cháu nghĩ
ngay, ngôi sao kia lẻ loi một mình. bây giờ, làm nghề này, cháu không nghĩ như
13
vậy nữa. Vả, khi ta làm việc, ta với công việc là đôi, sao gọi là một mình được?
Huống chi, công việc của cháu gắn liền với công việc của bao anh em đồng chí
dưới kia. Công việc của cháu gian khổ thế đấy, chứ cất nó đi cháu buồn muốn
chết mất.” Những lời lẽ bộc bạch chân tình, cởi mở đã hé mở cho chúng ta biết
rằng với anh thanh niên đã vượt qua những khó khăn, khắc nghiệt trong cuộc
sống và công việc, anh không chỉ làm việc bằng tinh thần trách nhiệm mà còn
bằng tình yêu công việc đích thực, hiểu về ý nghĩa công việc mình đang làm.
Thực tế đã chứng minh, từng ngày, từng giờ sự buồn tẻ, lặng lẽ của Sa Pa, gió
tuyết của Sa Pa không thể ngăn được những giờ “ốp” của anh. Hơn nữa, với sự
lao động tận tụy, anh đã công sức của mình làm nên làm nên chiến công cho
cuộc kháng chiến: “nhờ có cháu góp phần phát hiện một đám mây khô mà ngày
ấy, tháng ấy, không quân ta hạ được bao nhiêu phản lực Mĩ trên cầu Hàm
Rồng”. Anh thanh niên vừa là biểu tượng đẹp đẽ của thế hệ trẻ Việt Nam nói
riêng, vừa là biểu tượng của những con người lao động Việt Nam cần mẫn, trách
nhiệm, lặng lẽ hi sinh, cống hiến sức mình cho Tổ quốc. Cùng với những thanh
niên đang trực tiếp tham gia vào cuộc kháng chiến, những con người như anh đã
góp phần “làm nên đất nước muôn đời”.
Có thể nói rằng, các tác phẩm văn học thời kì kháng chiến chống Mĩ đã
giúp ta thấm thía hơn về những gian khổ, hi sinh mà các thế hệ cha ông nói
chung và thế hệ trẻ nói riêng đã phải trải qua. Nhưng chính trong gian khổ ấy đã
tôi luyện cho con người Việt Nam những phẩm chất tốt đẹp, họ vốn đã kiên
cường, dũng cảm nay lại càng dũng cảm, kiên cường; họ vốn hiên ngang, bất
khuất nay lại càng bất khuất, hiên ngang; họ vốn anh hùng nay lại càng anh
hùng hơn; họ như những nhân vật sử thi, như “Thạch Sanh của thế kỉ hai mươi”.
Nhưng sức mạnh nào giúp họ vượt lên trên mọi khó khăn, gian khổ? Phải chăng
đó là lí tưởng cách mạng, là trách nhiệm công dân hay là sự yêu đời, niềm lạc
quan, tươi trẻ tràn đầy nhiệt huyết tuổi xuân? Có lẽ là tất cả!
c. Họ là những con người yêu đời, lạc quan, tươi trẻ.
Khuynh hướng sử thi thường gắn liền với cảm hứng lãng mạn. Văn học
kháng chiến chống Mĩ mang trọn vẹn đặc điểm ấy. Văn học Việt Nam trong giai
đoạn này đã phản ánh được một thực tế: những năm tháng chiến tranh ác liệt,
nhân dân ta dù khó khăn, hi sinh chồng chất nhưng vẫn tràn đầy lạc quan, vui
tươi, chung một niềm mơ ước hướng tới tương lai, tin tưởng vào tương lai tươi
sáng của dân tộc. Những nét đẹp ấy cũng hội tụ và sáng ngời trong lớp thế hệ trẻ
- lực lượng tiên phong của mọi thời đại. Nhưng trong mỗi một con người nét đẹp
ấy lại được thể hiện ở những góc độ khác nhau.
Niềm lạc quan, yêu đời của anh lính trong “Bài thơ về tiểu đội xe không
kính” được thể hiện mang vẻ đẹp rất “ngông”, rất “tếu” của một anh tài xế có
học thức, nhiệt tình và tin vào tương lai tươi sáng. Lái những chiếc xe “không
kính”, đối mặt với bom đạn, đối mặt với những khắc nghiệt về thiên nhiên ở
Trường Sơn, với nắng gió, mưa, bụi nơi mà Tố Hữu đã từng viết: “Trường Sơn
đông nắng tây mưa/ Ai chưa đến đó như chưa rõ mình”, vậy mà người lính trẻ
lại có một tâm thế thoải mái, ung dung đón nhận những thứ ấy.
Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Thấy con đường chạy thẳng vào tim
14
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái.
Điệp từ “nhìn” gợi ra sự nối tiếp liên tục của những hình ảnh trên đường
đi giống như một thước phim đang quay. Nghệ thuật nhân hóa, ẩn dụ và so sánh
đã góp phần làm cho hình ảnh thơ thêm sinh động. Tưởng rằng làm chủ những
chiếc xe không kính, người chiến sĩ trẻ chỉ thấy những khó khăn chồng chất khó
khăn. Nhưng không! Nó đã làm tăng những cảm giác mới mẻ mà chỉ có người
chiến sĩ khi ngồi trên những chiếc xe như thế mới có thể cảm nhận rõ ràng,
mãnh liệt. Hình ảnh “gió vào xoa mắt đắng”, “con đường chạy thẳng vào tim”
tạo ra ấn tượng độc đáo. Chiếc xe như đang trôi bồng bềnh trong thiên nhiên
hoang dã của núi rừng Trường Sơn hùng vĩ. Trong điều kiện khó khăn, người
lính tìm thấy niềm vui cho mình, tìm thấy những giây phút tuyệt vời, giây phút
hòa mình với thiên nhiên, cảm nhận thiên nhiên. Thiên nhiên: gió, sao, cánh chin
như ùa vào buồng lái, quấn lấy người lái xe. Chính trong hoàn cảnh đó, vẻ đẹp
của người lính được nâng lên ngang tầm vũ trụ. Chất thơ và vẻ đẹp lãng mạn
cũng toát lên từ đó. Và đây nữa, những câu thơ chân thực, rất tếu càng làm tăng
lên nét ngang tàng của người lính:
Không có kính, ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.
Một mái tóc xanh của chàng lính trẻ, qua những dặm đường Trường Sơn đã có
sự thay đổi “bụi phun trắng xóa như người già”. Một kiểu hút thuốc “phì phèo”
rất “lính”. Nụ cười thoải mái, yêu đời trên những khuôn mặt lấm khi đồng đội
gặp nhau. Một cái bắt tay “qua cửa kính vỡ rồi”. hình ảnh những người lính lái
xe bỗng bừng sáng lên vẻ đẹp lạc của niềm lạc quan, tình yêu, và niềm tin tưởng
trong cuộc sống: “Lại đi, lại đi trời xanh thêm”. “trời xanh thêm”, đó là màu
xanh của hi vọng, màu xanh của của niềm tin vào một tương lai đất nước thanh
bình, thống nhất.
Vẫn là niềm lạc quan, yêu đời, nhưng khác với Phạm Tiến Duật, tác giả Lê
Minh Khuê lại để cho những nhân vật của mình thể hiện vẻ đẹp đó một cách rất
duyên, rất nữ tính. Thao, Phương Định, Nho – ba nữ trinh sát mặt đường đều là
những cô gái trẻ trung, yêu cuộc sống và rất mộng mơ, nhưng mỗi người lại có
những nét rất riêng. Thao rất thích hát, thích làm duyên: “Áo lót của chị cái nào
cũng thêu chỉ màu. Chị hay tỉa nhỏ đôi lông mày của mình, tỉa nhỏ như cái tăm”.
Nho là cô em út trong ba chị em, cô mang vẻ đẹp “mát mẻ như một que kem
trắng”, thích ăn kẹo như một đứa trẻ, giàu mơ ước. Nổi bật nhất trong ba chị em
là phương Định. Vốn là một cô gái Hà Nội xinh đẹp, theo tiếng gọi của Tổ quốc,
cô lên đường làm nhiệm vụ. Sống trong hoàn cảnh khó khăn, gian khổ, khắc
nghiệt, từng ngày phải đối mặt với bom đạn, cái chết, nhưng Phương Định vẫn
giữ nguyên vẹn cho mình được những nét đẹp của một cô gái chốn Hà thành, có
cái gì đó kiêu kiêu nhưng lại khiến người ta thấy mến. Cô quan tâm, hãnh diện
với vẻ đẹp ngoại hình của mình bằng cách nói rất đáng yêu: “Nói một cách
khiêm tốn, tôi là một cô gái khá. Hai bím tóc dày tương đối mềm, cái cổ cao,
kiêu hãnh như đài hoa loa kèn. Còn mắt tôi thì các anh lái xe bảo: “Cô có cái
15
nhìn sao mà xa xăm!”, “Tôi thích ngắm mắt tôi trong gương”. “Tôi thích điệu”.
Phương Định hát hay và hay hát: “Tôi thích nhiều bài. Những bài hành khúc bộ
đội....Thích những dân ca quan họ mềm mại.Thích Ca-chiu-sa của Hồng quân
Liên Xô”. Chị hát hồn nhiên, vô tư tới mức chỉ thuộc một giai điệu nào đó là có
thể tạo ra lời bài hát; chị hát và nghĩ vẩn vơ ngay trước thềm cuộc chiến đấu ác
liệt, cái chết kề bên sự sống; chị cùng đồng đội hát ngay sau cuộc chiến khốc liệt
vừa đi qua. Sự căng thẳng thần kinh đến tột cùng và hình ảnh thần chết luôn
chập chờn trước mắt, bỗng chốc lại mờ nhạt chỉ để còn lại tiếng hát hồn nhiên,
vui tươi, vô tư, đầy lạc quan, yêu đời của tuổi trẻ. Quả thực nơi đây tiếng hát át
tiếng bom. Nói đến đây, chắc hẳn trong mỗi chúng ta sẽ lại muốn ngâm nga giai
điệu quen thuộc trong bài hát “Cô gái mở đường” của nhạc sĩ Xuân Giao: Đi
giữa trời khuya sao đêm lấp lánh, tiếng hát em vang động núi rừng. Phải chăng
em cô gái mở đường, không thấy mặt người chỉ nghe tiếng hát,... Ôi biết bao cô
gái đang ngày đêm mở đường, hỏi em bao nhiêu tuổi mà sức em phi thường...
Không chỉ có vậy, Phương Định còn là một cô gái có tâm hồn nhạy cảm, mộng
mơ. Ngay giữa chiến trường đầy bom đạn, cơn mưa đá đột ngột đã làm bung nở
ở cô những kỉ niệm thời thơ trẻ, khiến cô nhớ về Hà Nội, nơi có một thời hồn
nhiên, vô tư sống bên mẹ, nơi có căn phòng nhỏ gác hai ở một ngõ phố yên tĩnh
và thanh bình ở Hà Nội. Và giờ đây, trong những ngày căng thẳng ở chiến
trường, những kỷ niệm ấy vừa là niềm khao khát cuộc sống nơi Hà thành, vừa là
dòng suối mát trong, vừa là liều thuốc tinh thần động viên Phương Định có đủ
nghị lực vượt qua mọi gian lao, thử thách. Ta cũng bắt gặp hình ảnh cô thanh
niên xung phong tinh nghịch, hồn nhiên trong thơ Phạm Tiến Duật:
Em ở Thạch Kim sao lại lừa anh nói là “Thạch Nhọn”
Đêm ranh mãnh ngăn cái nhìn đưa đón
Em đóng cọc rào quanh hố bom
Cái miệng em ngoa cho bạn cười giòn.
hay
Đại đội thanh niên đi lấp hố bom
Áo em hình như trắng nhất.
(Gửi em, cô thanh nhiên xung phong)
Ta không khỏi bật cười khi đọc những dòng thơ ấy. Là con gái, cô nào
không thích điệu. Hoàn cảnh làm việc ban đêm giữa chiến trường nhưng các cô
vẫn tranh thủ cơ hội để diện áo trắng. Ý thơ vừa gợi lên cái khốc liệt của hoàn
cảnh khiến chúng ta cảm thấy xót xa, vừa tô đậm nét nữ tính đời thường của
người nữ thanh niên xung phong.
Trong tác phẩm “Lặng lẽ Sa Pa”, niềm lạc quan và vui sống của anh thanh
niên không thể một cách hồ hởi, tinh nghịch như của người lính lái xe, không
mộng mơ như những nữ thanh niên xung phong mà nó có cái gì đó rất nhẹ
nhàng, rất kín đáo, có sức lan tỏa và thấm sâu trong lòng người đọc.Có lẽ, ai đã
từng đọc truyện “Lặng lẽ Sa Pa” sẽ chẳng thể nào quên hình ảnh anh thanh niên
sống, làm việc một mình trên đỉnh Yên Sơn gió tuyết. Chỉ nghĩ tới điều đó thôi
khiến ta có thể liên tưởng tới một cuộc sống tẻ nhạt, nhàm chán. Nhưng gặp anh
rồi, chứng kiến cuộc sống của anh, ta mới hiểu ra điều đó là sai lầm. Anh sống
trong một căn nhà nhỏ với một chiếc giường con, một giá sách được sắp xếp gọn
16
gàng. Anh trồng hoa, nuôi gà, thích đọc sách...anh luôn chủ động quan tâm đến
mọi người, anh tìm thấy niềm vui trong công việc. Vậy, một người không lạc
quan, không thiết tha với cuộc sống, không yêu đời thì làm sao có được một
cuộc sống như vậy.
Tinh thần lạc quan và tình yêu cuộc sống góp phần tạo nên sức mạnh để con
người vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, để cuộc sống này càng trở nên ý nghĩa
hơn như nhà thơ Tố Hữu đã từng viết:
Lạ kì thay ta sống thật đây gian khổ đêm ngày
Mà cứ trưởng bay trong mơ ước.
hay:
Và ở đâu? Trên trái đất này?
Người vẫn ngọt ngào qua bao nỗi đắng cay.
Sống chết từng giây mưa bom bão đạn.
Lòng nóng bỏng căm thù vẫn mát tươi tình bạn.
d. Họ là những con người sống tình nghĩa, thủy chung.
Sống ân nghĩa, thủy chung, coi trọng tình cảm vốn là nét đẹp truyền thống
bao đời của dân tộc Việt Nam. Thế hệ trẻ Việt Nam thời chống Mĩ đã kế thừa và
phát huy được truyền thống tốt đẹp ấy. Văn học thời kì này cũng đã ghi lại sâu
sắc những tình cảm tốt đẹp của con người Việt Nam được gửi gắm qua tình cảm
của thế hệ trẻ. Những tình cảm ấy tiếp thêm sức mạnh cho thế hệ trẻ vững bước
trong công cuộc dựng xây và bảo vệ Tổ quốc.
Đặt trong hoàn cảnh đất nước có chiến tranh, cả dân tộc cùng hành quân
ra trận, tình đồng chí, đồng đội có lẽ luôn là thứ tình cảm lay động lòng người.
Tình đồng chí là thứ tình cảm thiêng liêng được hình thành, phát triển trong mối
quan hệ của những người cùng chung chí hướng, cùng chung nhiệm vụ. Tình
đồng chí trong thời kháng chiến chống Pháp đã được nhà thơ Chính Hữu thể
hiện sâu sắc trong bài thơ “Đồng chí”. Những người đồng chí, họ xuất thân từ
nông dân nghèo, từ những con người chân lấm tay bùn, từ nhiều vùng quê khác
nhau, “chẳng hẹn quen nhau”, nhưng vì tình yêu Tổ quốc họ có chung một chí
hướng mà hội tụ về đây trở thành đồng chí, đồng đội, đồng nhiệm vụ, đồng cam
cộng khổ, chia ngọt sẻ bùi, sống chết có nhau. Đến văn học kháng chiến chống
Mĩ, tình đồng chí vừa mang những biểu hiện vốn có của nó, vừa có sự phát triển
mang hơi thở của thời đại. Trong kháng chiến chống Mĩ, những người lính trẻ
hầu hết là những thanh niên có học thức, họ vừa từ giã mái trường theo tiếng gọi
non sông đi vào chiến trận, nên họ vẫn mang theo trong hành trang của mình sự
hồn nhiên, tinh nghịch, trẻ trung. Nên tình đồng đội cũng mang màu sắc ấy.
Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới
Bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi.
Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
lại đi, lại đi trời xanh thêm.
17
(Bài thơ về tiểu đội xe không kính)
Tình đồng đội của những người lính lái xe bắt nguồn từ những chiếc xe
trong bom rơi, họ những người lính lái xe Trường Sơn “thành tiểu đội” từ những
chiếc xe đã vượt qua bom rơi, đạn nổ, họ gắn bó với nhau trên những chặng
đường hành quân. Tình cảm của họ trao cho nhau là những cái bắt tay vội vàng
qua những cửa xe vỡ kính. Những cái bắt tay rất “lính” ấy nồng ấm tình bạn tình
người, tạo ra sự sống đang nở hoa trong sự hủy diệt của kẻ thù. Từ cái “nắm lấy
bàn tay” trong thơ Chính Hữu đến cái “bắt tay” trong thơ Phạm Tiến Duật thể
hiện một quá trình trưởng thành và hiện đại của quân đội ta trong chiến tranh
giải phóng dân tộc. Tình đồng chí của những người lính gắn bó, gần gũi như một
gia đình. Có thể nói rằng, tình đồng chí, đồng đội góp phần làm nên sức mạnh
của người lính để người lính “Lại đi, lại đi trời xanh thêm”. Đến với tác phẩm
“Những ngôi sao xa xôi”, tình đồng đội cũng được thể hiện sâu sắc. Sống trong
một cái hang ở chân cao điểm, hàng ngày đối mặt với sự tàn phá khốc liệt của
chiến tranh, công việc nặng nề, vất vả, nguy hiểm, Thao, Phương Định, Nho rất
yêu thương nhau; chia sẻ mọi niềm vui, nỗi buồn trong công việc và trong cuộc
sống. Khi Nho bị thương, Phương Định băng bó vết thương và chăm sóc Nho
chu đáo, tận tình (rửa và băng vết thương, pha sữa cho Nho), sẻ chia cùng Nho
niềm vui nho nhỏ khi thấy mưa đá ở Trường Sơn; chị Thao rất lo lắng cho Nho:
“Chị Thao luẩn quẩn bên ngoài, lúng túng như chẳng biết làm gì mà lại rất cần
được làm việc. Chị ấy sợ máu”, “Chị cứ đưa mắt nhìn Nho, lấy tay sửa cái cổ áo,
cái ve áo, và tóc nó”. Một tình cảm ấm áp như chị em ruột thịt. Tình cảm thật
đẹp, thật đáng quý, đáng trân trọng biết bao! Gặp lại nhân vật Việt trong “Những
đứa con trong gia đình” trong thời khắc nguy nan ta càng thấm thía hơn ý nghĩa
của tình đồng chí đồng đội đối với người lính trẻ. Trong lúc cận kề cái chết, một
trong những tình cảm luôn sống dậy trong anh chính là tình đồng chí. Nỗi sợ hãi
trong anh không phải là cái chết mà là sợ không được gặp đồng đội. Rồi từ tiếng
súng của đồng đội, anh đã tìm được đường về với sự sống.
Nhà thơ I-li-a Ê-ren-bua có viết: Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu quê
hương trở nên tình yêu Tổ quốc. Đúng vậy. Ta bắt gặp chân lí này khi đọc tác
phẩm “Những đứa con trong gia đình”. “Những đứa con trong gia đình” là sự
khẳng định, ngợi ca mối liên hệ bền chặt, thiêng liêng giữa các thế hệ trong gia
đình. Đó là tình cảm của con cái đối với cha mẹ. Hai chị em Chiến, Việt đã phải
chịu đựng những đau thương do chiến tranh mang lại: sớm mất cha, mẹ, đặc biệt
hai chị em phải tận mắt chứng kiến cảnh kẻ thù cướp đi sinh mạng của cha mẹ
mình. Từ tình yêu cha mẹ sâu sắc, hai “đứa con” sục sôi ý chí căm thù giặc, từ
mối thù của cha mẹ, đã lớn dần thành tình yêu Tổ quốc. Tiếp bước truyền thống
anh hùng của gia đình, hai chị em cùng tham gia vào cuộc kháng chiến, chiến
đấu ngoan cường, dũng cảm và lập được nhiều thành tích góp phần làm nên
thắng lợi cho cuộc kháng chiến. Điều khiến chúng ta xúc động hơn nữa ở Việt
và Chiến là sống trong hoàn cảnh mất cha mẹ, hai chị em luôn yêu thương, gần
gũi với nhau. Trong cảm nhận của người em tra (Việt), Chiến giống mẹ đến lạ
lùng. Chiến lo lắng cho em từng chút, đi đâu Chiến cũng xem chừng em, yêu
thương em. Với Việt, chị là tất cả. Việt “giấu chị như giấu của riêng mình” vì sợ
mất chị. Những tình cảm ấy vừa cao đẹp lại vừa gần gũi thân thương biết mấy.
18
Trong chiến tranh có những tình cảm sục sôi, hừng hực khí thế nhưng cũng có
nỗi nhớ nhung, xao xuyến, bồi hồi của những tâm hồn giàu tình cảm. Điều đó đã
làm nên chất trữ tình nhuần nhụy trong thơ ca. Xuân Quỳnh đã đưa ta trở lại tuổi
thơ với “Tiếng gà trưa”. Trên đường hành quân xa, nghe tiếng gà nhảy ổ, trong
tâm hồn anh lính xao động và những kỷ niệm tuổi thơ đã dội về. Tiếng gà đã làm
sống dậy những kỷ niệm tuổi thơ về “những con gà” mái vàng, mái mơ; những
trò nghịch ngợm, niềm vui trẻ thơ; và về người bà “chắt chiu”, tần tảo, lo lắng
và yêu thương cháu. Để từ đó người cháu thấm thía hơn về mục đích chiến đấu
của mình: Vì yêu Tổ quốc, yêu xóm làng, yêu bà, yêu kỉ niệm tuổi thơ. Và từ đó
tiếp thêm cho cháu sức mạnh để cầm chắc tay súng, chiến đấu. Bên cạnh tình
cảm gia đình, thế hệ trẻ hiện lên càng đẹp trong tình yêu lứa đôi. Ta gặp lại
Nguyệt trong “Mảnh trăng cuối rừng” để cảm nhận về “sợi chỉ xanh nhỏ bé, óng
ánh nhưng không thể đứt của tình yêu”. Trong truyện, có tới hai lần nhà văn để
cho người kể chuyện thay mình thốt lên: “Thật kì lạ! Qua bấy nhiêu năm sống
giữa bom đạn và tàn phá, mà người con gái vẫn giữ bên lòng hình ảnh của một
người con trai chưa hề gặp và chưa hứa hẹn một điều gì ư? Trong lòng cô ta cái
sợi chỉ xanh nhỏ bé và óng ánh, qua thời gian và bom đạn, vẫn không phai nhạt,
không hề đứt ư?”. Tình yêu của Nguyệt dành cho Lãm (một người yêu mới chỉ
được biết qua lời giới thiệu, chưa một lần gặp mặt) thuỷ chung và bất diệt giữa
mưa bom bão đạn của kẻ thù. Tình cảm thật đẹp và lãng mạn. Trở về “Lặng lẽ
Sa Pa” ta lại bắt gặp một nét tâm hồn trong sáng khác của anh thanh niên. Anh là
một chàng trai nhân hậu, nghĩa tình. Anh quan tâm đến mọi người xung quanh.
Anh hiểu công việc vất vả của ông kĩ sư vườn su hào, của anh kĩ sư nghiên cứu
sét. Anh biếu bác lái xe gói tam thất vì nghe tin vợ bác ốm. Anh đón khách (ông
họa sĩ già và cô gái) một cách niềm nở, chu đáo. Những hành động, cử chỉ của
anh mang vẻ đẹp thật nhân văn. Chính cách sống ân tình với mọi người như thế
đem lại cho anh niềm vui trong cuộc sống, khiến anh lạc quan, yêu đời hơn, có
thêm nghị lực để vượt qua khó khăn trong cuộc sống và trong công việc, để luôn
hoàn thành nhiệm vụ của mình, để từng ngày, từng giờ lặng lẽ, âm thầm cống
hiến cho đất nước.
Thế hệ trẻ Việt Nam thời kì kháng chiến chống Mĩ cứu nước mang những
nét đẹp của con người Việt Nam trong thời đại mới. Ở họ vừa có sự kế thừa,
phát huy vẻ đẹp truyền thống của cha ông, vừa hội tụ được những tinh hoa của
thời đại mới. Họ là biểu tượng cho con người Việt Nam, đất nước Việt Nam ở cả
một thời đại. Vốn mang vẻ đẹp chung của đất nước, của nhân dân nên họ cũng
dễ dàng tìm thấy ý nghĩa sự sống trong Tổ quốc, nhân dân, trong tương lai tươi
sáng, trong lẽ sống vĩnh hằng.
e. Họ luôn bất tử trong lòng Tổ quốc và nhân dân.
Thế hệ trẻ thời chống Mĩ, họ đã tìm thấy ý nghĩa sự sống trong Tổ quốc,
Nhân dân, trong tương lai tươi sáng, trong lẽ sống vĩnh cửu (Văn học cách mạng
có tính sử thi, cái đẹp trong văn học cách mạng gắn liền với ý niệm Tổ quốc
trường tồn). Mọi cá nhân hữu hạn sẽ bất tử trong Tổ quốc mình. Không phải
ngẫu nhiên văn học cách mạng viết nhiều về cái chết.
Em nằm dưới đất sâu
Như khoảng trời đã nằm yên trong đất
19
Đêm đêm tâm hồn em tỏa sáng
Những vì sao ngời chói lung linh.
(Khoảng trời – hố bom – Lâm Thị Mỹ Dạ)
Cô gái mở đường trở về với đất mẹ, tâm hồn cô là khoảng trời, vì sao, là
vầng dương “thao thức”, soi đường, dẫn lối cho những đoàn xe ra mặt trận. Cái
chết của cô đã hóa thành bất tử. Đến cái chết của người chiến sĩ vô danh trên
đường băng Tân Sơn Nhất cũng là để:
Tên anh đã thành tên đất nước,
Ôi anh giải phóng quân,
Từ dáng đứng của anh trên đường băng Tân Sơn Nhất
Tổ quốc bay lên bát ngát mùa xuân.
(Dáng đứng Việt Nam – Lê Anh Xuân)
Đất nước, Tổ quốc chính là cõi vĩnh hằng, bất diệt mà những người con có
thể hóa thân. Về với Đất nước là họ về với yên ổn trong vô tận nhân dân, bất
diệt, trong ân nghĩa thủy chung, trong sự sống muôn đời của nhân loại.
Các tác phẩm văn học Việt Nam thời kì kháng chiến chống Mĩ đã phản ánh
về con người Việt Nam nói chung, thế hệ trẻ Việt Nam nói riêng trong công
cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc một cách sinh động và cụ thể. Vẻ đẹp của họ
là kết tinh của lý tưởng cách mạng, của lòng yêu nước, ý chí dũng cảm, kiên
cường, tinh thần lạc quan, tấm lòng nhân hậu. Đó là vẻ đẹp của nhân dân, đất
nước Việt Nam trong mọi thời đại nói chung và được phát huy cao độ trong
công cuộc xây dựng, bảo vệ đất nước trong thời kì mới. Vẻ đẹp ấy khiến mỗi
chúng ta yêu quý, ngưỡng mộ và cảm phục.
IV. ỨNG DỤNG VÀO THỰC TIỄN BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI
Dạy bồi dưỡng học sinh giỏi cần chú ý đến phương pháp, kĩ năng, kiến thức
đặc biệt phát huy khả năng tư duy, tính sáng tạo và khả năng thẩm thấu văn
chương của học sinh.
1. Phương pháp chính dạy học sử dụng khi bồi dưỡng chuyên đề
- Phương pháp tìm tòi, nghiên cứu. Ở phương pháp này giáo viên hướng
dẫn học sinh theo các nội dung công việc sau:
+ Giáo viên báo trước tên chuyên đề sẽ bồi dưỡng cho học sinh
+ Hướng dẫn học sinh sưu tầm tư liệu: sưu tầm những tư liệu có liên quan
đến chuyên đề: lịch sử, đặc điểm văn học thời chống Mĩ, các tác phẩm văn học
thời chống Mĩ viết về hình ảnh thế hệ trẻ trong công cuộc xây dựng và bảo vệ
đất nước, các bài nghiên cứu văn học, phê bình, bình luận văn học có nội dung
liên quan,…
- Phương pháp nêu vấn đề:
+ Giáo viên nêu tên chuyên đề
+ Hướng dẫn học sinh đọc, tìm hiểu, nghiên cứu tư liệu phục vụ tốt cho
chuyên đề.
Học sinh tìm hiểu nội dung, yêu cầu của chuyên đề và chuẩn bị dàn ý đại
cương ở nhà.
20
- Phương pháp phân tích, bình giảng. Phương pháp này được thực hiện chủ
yếu trong việc phân tích, bình giảng dẫn chứng. Như phân tích, bình giảng về một
đoạn thơ, đoạn văn được dùng làm sáng tỏ cho các luận điểm, lí lẽ được nêu ra.
- Phương pháp tổng, phân, hợp. Phương pháp này sử dụng linh hoạt khi
hướng dẫn học sinh lập cấu trúc của bài hay trong diễn đạt đoạn văn, trình bày
luận điểm.
- Phương pháp đối chiếu so sánh:
+ So sánh đối chiếu giữa các tác phẩm cùng chủ đề, cùng thời gian nhưng
có các khía cạnh giống và khác nhau.
+ So sánh đối chiếu các tác phẩm văn học khác nhau về thời gian nhưng
cùng chủ đề.
2. Các kĩ năng rèn cho học sinh qua chuyên đề
- Kỹ năng đọc, hiểu, cảm thụ tác phẩm văn học
- Kỹ năng tạo lập văn bản theo đúng quy trình.
- Kỹ năng diễn đạt
- Kỹ năng tư duy sáng tạo,…
3. Ứng dụng chuyên đề để giải một số bài tập thi học sinh giỏi.
3.1. Bài tập 1:
“Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành Long và “Những ngôi sao xa xôi” của
Lê Minh Khuê đều là những truyện ngắn hay, đã khám phá, ca ngợi vẻ đẹp của
thế hệ trẻ Việt Nam trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Em hãy phân tích nhân vật anh thanh niên và nhân vật Phương Định trong
sự đối sánh để làm rõ những khám phá, sáng tạo riêng của mỗi tác phẩm trong
việc thể hiện chủ đề đó.
(Đề thi tuyển sinh vào lớp 10 THPT Chuyên Thái Bình, 2010 – 2011 (dành
cho khối chuyên Văn)
* Hướng dẫn:
Bước 1: Đọc kỹ đề, xác định:
+ Vấn đề nghị luận: Phân tích hai nhân vật là Phương Định và anh thanh
niên qua hai tác phẩm trong sự đối sánh để làm nổi bật lên vẻ đẹp của thế hệ trẻ
Việt Nam trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
+ Phương pháp lập luận: Phân tích, chứng minh, so sánh, đánh giá, tổng
hợp vấn đề.
+ Tư liệu: Chủ yếu dựa vào hai tác phẩm đã cho.
Bước 2: Xác lập ý:
Có nhiều cách lập ý song phải đảm bảo tính chặt chẽ, lôgic, sáng rõ vấn đề
và đạt được các ý cơ bản sau:
- Vẻ đẹp chung của hai tác phẩm và nhân vật (nêu khái quát)
- Vẻ đẹp riêng (phần trọng tâm):
21
+ Đời sống, công việc, ý thức trách nhiệm, nhân cách… của anh thanh niên.
+ Đời sống, công việc, ý thức trách nhiệm, tinh thần lạc quan, yêu đời, anh
dũng, quả cảm trong chiến đấu của nhân vật Phương Định.
- Nhận xét cách xây dựng nhân vật của mỗi tác phẩm:
+ Các nhân vật được đặt trong một hoàn cảnh khác nhau, người lao động
xây dựng đất nước, người chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Mỗi nhân vật được khám
phá ở vẻ đẹp riêng nhưng đều nhằm tập trung ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn, tinh thần
tuổi trẻ Việt Nam trong những năm đất nước lâm nguy.
+ Anh thanh niên được đặt trong tình huống gặp gỡ giữa các nhân vật, từ đó
nhân vật được soi chiếu dưới nhiều góc độ, làm nổi lên vẻ đẹp nhân vật.
+ Nhân vật Phương Định được lựa chọn vừa là nhân vật chính, vừa là nhân
vật kể chuyện (người chứng kiến sự việc và tự bộc lộ nội tâm, tâm trạng) khiến
câu chuyện trở nên chân thực, sống động, hấp dẫn. Ngôn ngữ trẻ trung phù hợp
với nhân vật kể chuyện. Phương Định mang vẻ đẹp tiêu biểu cho nữ thanh niên
xung phong thời chống Mĩ trên tuyến lửa Trường Sơn.
- Đánh giá chung:
+ Dù có những nét chung nhưng mỗi tác phẩm đều có những khám phá
sáng tạo riêng làm nên những tác phẩm văn học có sức sống lâu bền với thời
gian, những dấu son lịch sử không thể nào quên.
+ Nó không chỉ có tác dụng ngợi ca vẻ đẹp tuổi trẻ Việt Nam trong những
tháng năm oanh liệt mà còn động việ, thôi thúc tinh thần thanh niên hăng hái lao
động xây dựng đất nước và lên đường chiến đấu bảo vệ Tổ quốc.
Bước 3: Viết bài
Tham khảo đáp án sau:
a, Mở bài. Dẫn dắt và nếu vấn đề
- Văn học cách mạng giai đoạn 1965 – 1975 tập trung vào hai đề tài lớn
cây dựng chủ nghĩa xã hội ở Miền Bắc và chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, thống nhất
đất nước.
- Tiêu biểu cho hai đề tài đó là các truyện ngắn: Lặng lẽ Sa Pa của
Nguyễn Thành Long và Những ngôi sao xa xôi của Lê Minh Khuê. Mỗi tác
phẩm đều xây dựng được nhân vật tiêu biểu cho vẻ đẹp con người Việt Nam
trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đó là nhân vật anh thanh niên và
Phương Định. Họ là những con người hăng say, nhiệt tình trong lao động; dũng
cảm kiên cường, bất khuất trong chiến đấu; giàu lí tưởng, lạc quan, yêu đời,
nguyện hiến trọn tuổi thanh xuân cho non sông đất nước.
b, Thân bài. Triển khai các luận điểm đã xác định
b.1. Vẻ đẹp chung của hai tác phẩm và hai nhân vật
- Lặng lẽ Sa Pa của Nguyễn Thành Long và Những ngôi sao xa xôi của
Lê Minh Khuê cùng ra đời trong một giai đoạn lịch sử đấy cam go, quyết liệt
của dân tộc, các tác phẩm đều hướng vào phản ánh hiện thực ấy.
- Cùng có mục đích xây dựng những con người điển hình trong hoàn
cảnh điển hình, mang vẻ đẹp tiêu biểu của con người Việt Nam trong lao động
và chiến đấu, manh chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa anh hùnh của thời đại cách
mạng. Họ là những con người sống đẹp, giàu lí tưởng, nhiệt tình, hăng say lao
động sản xuất, xây dựng đất nước, không vụ lợi, toan tính ở bất cứ lĩnh vực công
22
tác nào. Đó là nét đặc sắc của văn học cách mạng nói chung và hai tác phẩm nói
riêng, tạo nên sự phong phú, đa dạng về bút pháp, phong cách của mỗi tác giả
thời kỳ này.
- Thời đại anh hùnh đã hun đúc nên những anh hùng, sẵn sàng xả thân vì
lí tưởng, vì sự sống còn của dân tộc. Nhân vật anh thanh niên trong Lặng lẽ Sa
Pa và cô thanh niên Phương Định trong Những ngôi sao xa xôi mang phẩm
chất chung của thanh niên thời đại. Song mỗi nhân vật một vẻ đẹp, mỗi người là
một tấm gương, một bông hoa trong vườn hoa muôn sắc rực rỡ của dân tộc.
b.2. Vẻ đẹp riêng của mỗi nhân vật
Mỗi nhân vật được đặt trong những hoàn cảnh thử thách khác nhau, nên
việc khám phá, phản ảnh của mỗi tác phẩm, mỗi nhân vật cũng khác nhau.
- Nhân vật anh thanh niên trong Lặng lẽ Sa Pa
+ Điều kiện làm việc: Một mình sống và làm việc trên đình Yên Sơn cao
2600m (thuộc Sa Pa – Lào Cai), quanh năm mây phủ cây phong, cô đơn, công
việc nhàm chán, đơn điệu…
+ Ý thức trách nhiệm: Công việc nhàm chán, đơn điểu những cũng rất
gian khổ, đòi hỏi sự tỉ mỉ, chính xác và có tinh thần trách nhiệm cao, anh thanh
niên đã làm rất tốt điều đó. Bởi anh xác định rõ lí tưởng sống, trách nhiệm đối
với quê hương, đất nước nên anh rất yêu công việc của mình, làm việc hăng say,
luôn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.
+ Nhân cách sống đẹp, mộc mạc, bình dị, hồn nhiên, yêu đời, yêu con
người, yêu cuộc sống:
+ Đối với anh em trong cùng ê kíp, hệ thống làm việc: anh khâm phục,
yêu mến.
+ Đối với bản thân: anh sống ngăn nắp, nền nếp, yêu đời (trồng hoa, nuôi
gà), tự giác học tập nâng cao trình độ, dân trí (đọc sách).
+ Đối với mọi người (bác lái xe, ông họa sĩ già, cô kĩ sư trẻ): anh tiếp đón
niềm nở, nồng hậu, hiếu khách (tặng quà).
+ Khiêm tốn, thật thà: thấy mình chưa xứng đáng được ca ngợi như các
bạn đồng nghiệp trên đỉnh Phan-xi-păng và dưới Sa Pa… thì thực lòng từ chối
và giới thiệu họ.
=> Nét nổi bật của anh: giàu lí tưởng, sống đẹp, nguyện dâng hiến tuổi trẻ
cho quê hương, đất nước, góp sức nhỏ bé của mình vào công cuộc xây dựng và
bảo vệ đất nước.
- Nhân vật Phương Định trong Những ngôi sao xa xôi
Nếu anh thanh niên tiêu biểu cho thanh niên miền Bắc tham gia cùng đất
nước xây dựng chủ nghĩa xã hội thì Phương Định lại tiêu biểu cho nữ thanh niên
miền Bắc tham gia vào tuyến lửa miền Nam đánh Mĩ, bảo vệ Tổ quốc.
+ Điều kiện sống và làm việc của Phương Định cũng như hàng ngàn,
hàng vạn nữ thanh niên thời chống Mĩ trên tuyến lửa Trường Sơn đầy cam go và
ác liệt. Phương Định cùng các chị em (đồng chí, đồng đội) của mình sống trên
một trọng điểm bắn phá hàng ngày của không quân Mĩ. Sự sống luôn kề bên cái
chết nhưng Phương Định và đồng đội của chị sống rất hồn nhiên, hiên ngang,
bất khuất.
+ Luôn đoàn kết, thương yêu đồng chí đồng đội.
23