Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

Bài học từ hỗ trợ lãi suất

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (185.22 KB, 12 trang )

Bài học từ hỗ trợ lãi suất
Mục tiêu chính sách: khoảng cách giữa thực tế và mong
muốn
Mỗi chính sách của Chính phủ đều có những mục tiêu tốt, nhưng
tiếc thay luôn có những khoảng cách giữa mục tiêu mong muốn
và thực tế đạt được.
Gói “kích cầu” thông qua hỗ trợ 4% lãi suất cũng không là ngoại
lệ. Bên cạnh một số kết quả tích cực đã đạt được thì còn nhiều
hệ quả mà có lẽ ngay khi thiết kế chính sách, người làm chính
sách cũng đã không thể lường trước hết được, gây tốn kém
nguồn lực cho xã hội.
Vấn đề thứ nhất: Ai được hưởng lợi 17.000 tỉ đồng?
Lẽ đương nhiên, đứng về phương diện mục tiêu chính sách, đó là
các doanh nghiệp vay vốn ngân hàng để sản xuất - kinh doanh.
Tuy nhiên, một số ý kiến đã cho rằng chính các ngân hàng cũng
hưởng lợi không ít từ chính sách này, liệu có đúng không? Trong
khi chính các quan chức Ngân hàng Nhà nước cũng khẳng định
rằng, các ngân hàng chỉ đóng vai trò cho vay theo mức lãi suất
thông thường, sau đó trừ đi 4% lãi suất được hỗ trợ để xác định
mức lãi suất thực trả của khách hàng.
Quan điểm này cũng giống như ai đó đã từng cho rằng thuế giá
trị gia tăng, một loại thuế gián thu, do người tiêu dùng chịu chứ
không phải là doanh nghiệp. Thoạt nghe, điều này có vẻ hợp lý
nhưng tiếc thay kinh tế học vi mô chỉ ra rằng vấn đề không phải
như vậy. Khoản thuế giá trị gia tăng phải được chia sẻ giữa
khách hàng và doanh nghiệp không phải cách này thì là cách
khác. Vấn đề trợ cấp cũng tương tự như vậy, có điều hãy xem nó
giống như một khoản thuế âm mà thôi.




Thực tế thì khoản hỗ trợ 17.000 tỉ đồng được phân bổ làm ba
phần, trong đó một phần đúng là các doanh nghiệp sản xuất kinh
doanh được nhận, một phần khác do chính các ngân hàng được
hưởng, và phần còn lại là mất mát vô ích (dead weight loss). Tỷ
phần lợi ích giữa doanh nghiệp và ngân hàng phụ thuộc vào độ
co dãn của cung và cầu quỹ cho vay theo lãi suất (xem hình a và
b).
Hình a cho thấy phần các doanh nghiệp được hưởng sẽ lớn hơn
phần ngân hàng được hưởng nếu độ co dãn theo lãi suất của cầu
quỹ cho vay kém hơn cung quỹ cho vay. Trong khi đó, hình b lại
cho thấy điều ngược lại khi cầu quỹ cho vay co dãn theo lãi suất
lớn hơn so với cung quỹ cho vay. Chưa có nghiên cứu định
lượng đáng tin cậy để ước lượng hệ số co dãn của cung và cầu
quỹ cho vay theo lãi suất ở Việt Nam.
Tuy nhiên, một số nghiên cứu thực nghiệm ở Mỹ về mô hình
cung cầu tiền tệ cho thấy hệ số co dãn của cầu tiền theo lãi suất
khoảng từ -0,15 đến -0,7 tùy theo lãi suất ngắn hạn hay dài hạn,
còn hệ số co dãn của cung tiền theo lãi suất khoảng từ 0,12-0,17
tùy theo phương pháp ước lượng (Teigen, 1965). Điều đáng lưu
ý là trong cả hai trường hợp đều gây ra những mất mát vô ích mà
cả doanh nghiệp và ngân hàng đều không nhận được.
Như vậy, mong muốn của Chính phủ là chuyển giao phần 17.000
tỉ đồng hỗ trợ cho các doanh nghiệp chứ không phải là ngân hàng
nhưng do tính chất co dãn của cung và cầu quỹ cho vay mà mục
tiêu này không thể đạt được hoàn toàn. Người vay vốn đúng là
được hưởng mức lãi suất (rD) thấp hơn mức lãi suất cân bằng
(r0) nhưng khoảng chênh lệch đó không phải là 4% như kỳ vọng,
trong khi đó ngân hàng sẽ nhận được mức lãi suất thực tế rS cao
hơn r0. Đặc biệt, một phần của khoản hỗ trợ sẽ bốc hơi mà
không ai được nhận cả.

Vấn đề thứ hai: Phân bổ vốn sai đối tượng

×