Tải bản đầy đủ (.pdf) (126 trang)

Vai trò của Viện kiểm sát đối với việc bảo đảm quyền con người trong việc áp dụng biện pháp bắt, giữ người trong trường hợp khẩn cấp, tạm giữ, tạm giam (Trên cơ sở số liệu thực tế tại địa bàn tỉnh Quảng Ninh)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.34 MB, 126 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

ĐỖ THỊ THÙY GIANG

VAI TRÒ CỦA VIỆN KIỂM SÁT ĐỐI VỚI VIỆC BẢO ĐẢM
QUYỀN CON NGƢỜI TRONG VIỆC ÁP DỤNG BIỆN PHÁP BẮT,
GIỮ NGƢỜI TRONG TRƢỜNG HỢP KHẨN CẤP,
TẠM GIỮ, TẠM GIAM
(Trên cơ sở số liệu thực tế tại địa bàn tỉnh Quảng Ninh)

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI – 2018


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

ĐỖ THỊ THÙY GIANG

VAI TRÒ CỦA VIỆN KIỂM SÁT ĐỐI VỚI VIỆC BẢO ĐẢM
QUYỀN CON NGƢỜI TRONG VIỆC ÁP DỤNG BIỆN PHÁP BẮT,
GIỮ NGƢỜI TRONG TRƢỜNG HỢP KHẨN CẤP,
TẠM GIỮ, TẠM GIAM
(Trên cơ sở số liệu thực tế tại địa bàn tỉnh Quảng Ninh)
Chuyên ngành: Hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 8380101.03

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC


Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Văn Tuân

HÀ NỘI - 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán
tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia
Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƢỜI CAM ĐOAN

Đỗ Thị Thùy Giang


Mục lục
MỞ ĐẦU .................................................................................................................................................. 6
1. Tính cấp thiết của đề tài.................................................................................................................... 6
2. Tình hình nghiên cứu ........................................................................................................................ 9
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................................................. 11
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .................................................................................................. 12
4.1. Đối tượng nghiên cứu .............................................................................................................. 12
4.2. Phạm vi nghiên cứu ................................................................................................................. 12
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu ............................................................................. 12

5.1. Cơ sở lý luận............................................................................................................................ 12
5.2. Phương pháp nghiên cứu......................................................................................................... 13
6. Những đóng góp mới của luận văn ................................................................................................. 13
7. Kết cấu của luận văn....................................................................................................................... 14
Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA VIỆN KIỂM SÁT ĐỐI VỚI VIỆC
BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI TRONG VIỆC ÁP DỤNG BIỆN PHÁP BẮT, GIỮ NGƯỜI
TRONG TRƯỜNG HỢP KHẨN CẤP, TẠM GIỮ, TẠM GIAM .................................................. 15
1.1. Vai trò của Viện kiểm sát trong trường hợp áp dụng các biện pháp bắt, giữ người trong trường
hợp khẩn cấp, tạm giữ, tạm giam nhằm bảo đảm quyền con người ............................................. 15
1.1.1.Khái niệm, nội dung bảo đảm quyền con người .................................................................... 15
1.1.2. Khái niệm, nội dung các biện pháp ngăn chặn: giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt,
tạm giữ, tạm giam .................................................................................................................... 20
-

Nội dung quy định của pháp luật về biện pháp tạm giữ........................................................... 26

1.1.3. Khái niệm, nội dung vai trò của Viện kiểm sát trong trường hợp áp dụng các biện pháp
ngăn chặn: giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt, tạm giữ, tạm giam nhằm bảo đảm
quyền con người ....................................................................................................................... 32
1.2. Khái quát pháp luật tố tụng hình sự của Việt Nam trước năm 2015 về chức năng của Viện kiểm
sát trong trường hợp áp dụng các biện pháp ngăn chặn: giữ người trong trường hợp khẩn cấp,
bắt, tạm giữ, tạm giam nhằm bảo đảm quyền con người ............................................................. 38
1.2.1. Giai đoạn từ năm 1960 đến trước khi có Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988 ....................... 38
1.2.2. Giai đoạn từ năm 1988 đến trước khi có Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 ....................... 40
1.2.3. Trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 .............................................................................. 42


1.3. Pháp luật tố tụng hình sự của một số nước trên thế giới về chức năng của Viện kiểm sát trong
trường hợp áp dụng các biện pháp ngăn chặn:giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt, tạm
giữ, tạm giam nhằm bảo đảm quyền con người ........................................................................... 44

Chương 2. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ VAI TRÒ CỦA VIỆN KIỂM
SÁT ĐỐI VỚI VIỆC ĐẢM BẢO QUYỀN CON NGƯỜI TRONG VIỆC ÁP DỤNG BIỆN PHÁP
BẮT, GIỮ NGƯỜI TRONG TRƯỜNG HỢP KHẨN CẤP, TẠM GIỮ, TẠM GIAM VÀ THỰC
TIỄN THI HÀNH TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NINH ........................................................... 51
2.1. Quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về vai trò của Viện kiểm sát trong trường hợp
áp dụng các biện pháp ngăn chặn: giữ người trong trườn hợp khẩn cấp, bắt, tạm giữ, tạm giam
nhằm bảo đảm quyền con người .................................................................................................. 51
2.1.1. Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về chức năng của Viện kiểm sát trong
trường hợp áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt ......................................................................... 51
2.1.2. Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về chức năng của Viện kiểm sát trong
trường hợp áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ .................................................................. 53
2.1.3. Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về chức năng của Viện kiểm sát trong
trường hợp áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt bị can, bị cáo để tạm giam, tạm giam............. 57
2.2. Thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật về vai trò của Viện kiểm sát trong trường hợp áp dụng
các biện pháp ngăn chặn: giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt, tạm giữ, tạm giam nhằm bảo
đảm quyền con người trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh ................................................................... 61
2.2.1. Những kết quả đạt được ....................................................................................................... 61
2.2.2. Những hạn chế, tồn tại ......................................................................................................... 67
2.2.3 .Những nguyên nhân của hạn chế, tồn tại ............................................................................. 76
Chương 3. GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ THI HÀNH QUY ĐỊNH CỦA PHÁP
LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ CHỨC NĂNG CỦA VIỆN KIỂM SÁT ĐỐI VỚI VIỆC ĐẢM
BẢO QUYỀN CON NGƯỜI TRONG VIỆC ÁP DỤNG BIỆN PHÁP BẮT, GIỮ NGƯỜI TRONG
TRƯỜNG HỢP KHẨN CẤP, TẠM GIỮ, TẠM GIAM 3.1. Giải pháp về pháp luật ..................... 88
3.1. Giải pháp tổ chức, triển khai và thực hiện nghiêm túc đường lối, chính sách của Đảng, pháp
luật của Nhà nước và các quy định, chỉ thị của Viện trưởng Viện kiểm sát tối cao .................... 88
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật ................................................................................................... 90
3.3. Các giải pháp khác....................................................................................................................... 98
3.3.1. Đổi mới hệ thống các cơ quan, tổ chức tham gia hoạt động bắt, tạm giữ, tạm giam theo luật
Tố tụng hình sự Việt Nam, tăng cường mối quan hệ phối hợp giữa Viện kiểm sát nhân dân với
Cơ quan điều tra, Tòa án và trách nhiệm thực hiện các yêu cầu, kháng nghị, kiến nghị của

Viện kiểm sát nhân dân ............................................................................................................ 98
3.3.2. Nâng cao trình độ chuyên môn, kiến thức pháp lý và phẩm chất đạp đức cho những cán bộ
có thẩm quyền trong việc giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt, tạm giữ, tạm giam .... 100
3.3.3. Đẩy mạnh hoạt động kiểm tra, giám sát trong việc giữ người tong trường hợp khẩn cấp,
bắt, tạm giữ, tạm giam ........................................................................................................... 101


3.3.4. Giải pháp liên quan đến cơ sở vật chất .............................................................................. 103
3.3.5. Tăng cường công tác quản lý chỉ đạo điều hành và trách nhiệm của cán bộ, KSV trong việc
áp dụng các biện pháp ngăn chặn giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt, tạm giữ, tạm
giam........................................................................................................................................ 104
3.3.6. Tăng cường phối hợp giữa các đơn vị, các cấp trong Ngành Kiểm sát và giữa ngành Kiểm
sát với các cơ quan hữu quan ................................................................................................ 106
KẾT LUẬN .......................................................................................................................................... 109


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLHS

Bộ luật hình sự

TTHS

Tố tụng hình sự

QCN

Quyền con người

VKS


Viện kiểm sát

VKSND

Viện kiểm sát nhân dân

BPNC

Biện pháp ngăn chặn

THTT

Tiến hành tố tụng

THQCT

Thực hành quyền công tố


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quyền con người là giá trị phổ quát và nguyện vọng của nhân loại. Hiện
nay đa số các quốc gia trên thế giới đều nỗ lực ghi nhận và bảo đảm thực thi
quyền con người. Việt Nam chúng ta trong bối cảnh hội nhập quốc tế, xây
dựng Nhà nước pháp quyền, cải cách tư pháp, triển khai Hiến pháp 2013 vào
cuộc sống và giữ vai trò thành viên của Hội đồng Nhân quyền Liên hiệp quốc
nhiệm kỳ 2014 – 2016 nên vấn đề bảo vệ và thúc đẩy quyền con người được
Đảng và Nhà nước quan tâm hơn bao giờ hết. Trong văn kiện Đại hộ XI của
Đảng tiếp tục đặt ra nhiệm vụ: “Xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững

mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, quyền con người”. Tiếp đó là
văn kiện Đại hội XI của Đảng tiếp tục đặt ra nhiệm vụ: “Đẩy mạnh xây dựng
nhà nước pháp quyền XHCN, trong đó đẩy mạnh việc thực hiện chiến lược
cải cách tư pháp đến năm 2020, xây dựng hệ thống tư pháp trong sạch, vững
mạnh, bảo vệ công lý, tôn trọng và bảo vệ quyền con người”1. Bắt, tạm giữ,
tạm giam luôn là vấn đề nhạy cảm trong đời sống chính trị, xã hội của mỗi
quốc gia. Vì đây là các biện pháp ngăn chặn ảnh hưởng trực tiếp đến các
quyền cơ bản của con người, trong đó có quyền tự do về thân thể, bảo hộ tính
mạng, sức khỏe, tôn trọng danh dự, nhân phẩm của con người, là những
quyền đã được pháp luật quốc tế, pháp luật quốc gia tôn trọng và bảo vệ. Mục
đích của việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn bắt, giữ người trong trường
hợp khẩn cấp, tạm giữ, tạm giam là: Không để người phạm tội tiếp tục thực
hiện tội phạm, ngăn chặn không cho thực hiện tội phạm mới; không để cho
người phạm tội có điều kiện xóa bỏ dấu vết tội phạm, tiêu hủy chứng cứ,
thông cung; bảo đảm sự có mặt của người bị tình nghi, bị can, bị cáo, người bị
kết án khi có yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng. Do vậy, việc áp dụng

1

. Nguyễn Ngọc Chí (2007), Luật tố tụng hình sự Việt Nam với việc bảo vệ quyền con người, Đề tài nghiên
cứu khoa học nhóm B, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

6


biện pháp ngăn chặn phải bảo đảm các điều kiện, quy trình chặt chẽ, đúng
pháp luật. Chỉ thị số 53- CT/TW ngày 21/3/2000 của trung ương Đảng cộng
sản Việt Nam về một số công vệc cấp bách của các cơ quan tư pháp cần thực
hiện trong năm 2000 đã nêu rõ: “Tăng cường trách nhiệm của Viện kiểm sát
nhân dân đối với công tác kiểm sát việc bắt, giam giữ. Việc bắt, giam giữ phải

được xem xét phê chuẩn đối với từng trường hợp, từng đối tượng cụ thể. Đối
với trường hợp bắt giam cũng được hoặc không bắt giam cũng được thì không
bắt giam. Sai sót trong việc bắt, giam, giữ ở địa phương nào thì trước hết Viện
kiểm sát nhân dân ở địa phương đó chịu trách nhiệm”2. Quan điểm chỉ đạo rõ
ràng là đối với trường hợp bắt giam cũng được hoặc không bắt giam cũng
được thì không bắt giam. Sai sót trong việc bắt, giam, giữ ở địa phương nào
thì trước hết Viện kiểm sát nhân dân ở địa phương đó chịu trách nhiệm. Nghị
Quyết 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ
trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới cũng chỉ rõ: “… Tăng cường
công tác kiểm sát việc bắt, giam, giữ bảo đảm đúng pháp luật; những trường
hợp chưa cần bắt, tạm giữ, tạm giam thì kiên quyết không phê chuẩn lệnh bắt,
tạm giữ, tạm giam; phát hiện và xử lý kịp thời các trường hợp oan sai trong
bắt, giữ. Viện kiểm sát các cấp chịu trách nhiệm về những oan, sai trong việc
bắt, tạm giữ, tạm giam thuộc phạm vi thẩm quyền phê chuẩn của mình…”3.
Hiến pháp năm 2013 (Điều 20) 4ghi nhận “Mọingười có quyền bất khả xâm
phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân
phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối
xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân
phẩm.Không ai bị bắt nếu không có quyết định của Toà án nhân dân, quyết
định hoặc phê chuẩn của VKSND, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc
bắt, giam, giữ người do luật định”.Bộ luật Tố tụng Hình sự (BLTTHS) năm
2015 đã bổ sung các nguyên tắc, quy định nhằm bảo đảm tốt hơn quyền con
2

. Chỉ thị số 53- CT/TW ngày 21/3/2000 của trung ương Đảng cộng sản Việt Nam về một số công vệc cấp
bách của các cơ quan tư pháp cần thực hiện trong năm 2000
3
. Nghị Quyết 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp
trong thời gian tới
4

. Hiến pháp năm 2013 (Điều 20)

7


người, quyền công dân. Bộ luật Hình sự (BLHS) năm 2015, sửa đổi bổ sung
năm 2017 cũng quy định các hành vi, như: Lợi dụng chức vụ, quyền hạn
giam, giữ người trái pháp luật hoặc tha trái pháp luật người bị bắt, người đang
bị tạm giữ, tạm giam, người đang chấp hành án phạt tù là tội phạm.Từ các
quy định của pháp luật, cho thấy Đảng, Nhà nước và nhân dân đã giao cho
VKSND trách nhiệm phải bảo đảm việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn
đúng quy định pháp luật; các quyền công dân, quyền con người phải được bảo
hộ.
Các cơ quan tiến hành tố tụng thường sử dụng các biện pháp ngăn chặn
như một phương thức hiệu quả để bảo vệ các quyền con người, quyền và lợi
ích hợp pháp của công dân. Tuy nhiên, khi áp dụng các biện pháp này cũng
rất dễ xâm hại đến quyền con người của những người yếu thế trong xã hội,
bao gồm người bị bắt, bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, bị tạm giữ, tạm
giam. Qua quan sát và hoạt động thực tiễn tác giả thấy rằng các hành vi xâm
phạm đến quyền con người trong hoạt động bắt, giữ người trong trường hợp
khẩn cấp, tạm giữ, tạm giam thường biểu hiện dưới các dạng: áp dụng tùy
tiện, lạm dụng, lợi dụng các quy định của pháp luật TTHS về việc bắt, giữ
người trong trường hợp khẩn cấp, tạm giữ, tạm giam. Các hành vi này không
những xâm phạm trực tiếp quyền cơ bản thiết thân nhất của con người là
quyền tự do thân thể, quyền bảo hộ tính mạng, sức khỏe, tôn trọng danh dự,
nhân phẩm mà còn làm giảm uy tín của CQĐT, cơ quan tiến hành tố tụng
khác, gây bất bình trong dư luận xã hội. Những sai sót, hạn chế nêu trên
không thể không nhắc tới hạn chế về chất lượng công tác thực hành quyền
công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong việc áp dụng các biện pháp ngăn
chặn bắt,giữ người trong trường hợp khẩn cấp, tạm giữ, tạm giam của Viện

kiểm sát, đảm bảo cho việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn phát huy được
tác dụng trong ngăn ngừa tội phạm và đảm bảo các hoạt động tố tụng về điều
tra, truy tố, xét xử, thi hành án được tiến hành thuận lợi, nhanh chóng, giải
quyết dứt điểm các vụ án, không để xảy ra oan sai. Thực hiện tốt công tác
thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp sẽ phản ánh đích thực
8


về vị trí, vai trò của cơ quan Viện Kiểm sát trong bộ máy Nhà nước và trong
hoạt động tố tụng hình sự Việt Nam.. Chính vì vậy, đây cũng chính là lý do
mà tác giả chọn đề tài “Vai trò của Viện kiểm sát đối với việc bảo đảm quyền
con người trong việc áp dụng biện pháp bắt, giữ người trong trường hợp
khẩn cấp, tạm giữ, tạm giam (Trên cơ sở số liệu thực tế tại địa bàn tỉnh
Quảng Ninh)” để thực hiện nghiên cứu viết luận văn thạc sĩ nhằm mục đích
đưa ra các kiến giải khoa học và kiến giải lập pháp góp phần hoàn thiện các
quy định tương ứng của pháp luật TTHS nước ta.
2. Tình hình nghiên cứu
Tại Việt Nam, những nghiên cứu về chức năng của Viện kiểm sát trong
trường hợp áp dụng các biện pháp ngăn chặn: bắt, giữ người trong trường hợp
khẩn cấp, tạm giữ, tạm giam nhằm bảo vệ quyền con ngườicòn khá khiêm
tốn. Các nghiên cứu đã thực hiện chủ yếu tiếp cận pháp luật quyền con người
nói chung hoặc là vấn đề bảo đảm quyền con người trong pháp luật hình sự,
pháp luật TTHS, chứ chưa đặc biệt tập trung vào chức năng của Viện kiểm sát
trong tường hợp áp dụng các biện pháp ngăn chặn: bắt, giữ người trong
trường hợp khẩn cấp, tạm giữ, tạm giam nhằm bảo đảm quyền con người.
Có thể nêu tên một số công trình nghiên cứu đáng chú ý như: GS.TSKH.
Lê Cảm, TS. Nguyễn Ngọc Chí, Bảo vệ quyền con người bằng pháp luật hình
sự, TTHS trong giai đoạn xây dựng nhà nước pháp quyền Việt 3 Nam, Đề tài
cấp Đại học Quốc gia, mã số QL 04.03, năm 2006; Khoa luật – ĐHQGHN,
Giáo trình Lý luận và pháp luật về Quyền con người, NXB Chính trị quốc gia,

2009; Khoa luật – ĐHQGHN, Luật nhân quyền quốc tế, NXB Lao động Xã
hội, 2011; PGS. TS. Nguyễn Ngọc Chí (chủ biên), Giáo trình Luật TTHS Việt
Nam – Quyền con người và bảo đảm quyền con người trong TTHS, tr. 33 –
56, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2013. Các công trình nghiên cứu nói trên
chỉ mới nghiên cứu về quyền con người nói chung hoặc quyền con người
trong pháp luật hình sự và TTHS dưới góc độ lý luận khoa học, chưa có điều
kiện nghiên cứu sâu về thực tiễn áp dụng pháp luật bảo đảm quyền con người
9


trong hoạt động bắt người, tạm giữ, tạm giam. Ngoài ra, còn có một số bài
báo viết về bảo đảm quyền con người trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam như:
Nguyễn Tiến Đạt, Bảo đảm quyền con người trong việc bắt, tạm giữ, tạm
giam, đăng trên tạp chí KHPL số 3(34)/2006; Phan Trường Sơn, Những vấn
đề đặt ra đối với VKSND trong việc quyết định phê chuẩn hoặc không phê
chuẩn các quyết định áp dụng các biện pháp tố tụng có tính chất hạn chế
quyền con người, quyền công dân trước yêu cầu mới của Hiến pháp, website
, 2014. Các bài báo này chỉ đề cập đến việc vi phạm
quyền con người trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam từ nguyên nhân chủ quan
là nhân tố con người trong hoạt động áp dụng pháp luật. Mà chưa chỉ rõ được
những hạn chế của các quy định pháp luật về vấn đề này.
Các đề tài đề cập đến vai trò của VKSND trong việc bảo đảm quyền con
người cũng đã được đề cập nhưng ở mức độ hạn chế, đặc biệt là các đề tài có
liên quan trực tiếp đến chức năng của VKS trong trường hợp áp dụng biện
pháp bắt, tạm giữ, tạm giam nhằm bảo đảm quyền con người: - Phạm Mạnh
Hùng, Bảo vệ quyền con người qua hoạt động thực hành quyền công tố và
kiểm sát tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự của Viện kiểm sát, Tạp chí
kiểm sát số 21, năm 2011; Ngô Diệu Hiền, luận văn thạc sĩ luật học tại Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2013), "Đảm bảo pháp lý về quyền con
người trong hoạt động tư pháp của Viện Kiểm sát nhân dân Việt Nam hiện

nay”; Lê Ngọc Duy, VKSND là một trong những thiết chế kiểm soát quyền
lực nhà nước, tạp chí Khoa học kiểm sát, số 03/2015; Nguyễn Thị Phương
Nga, luận văn thạc sĩ luật học tại Khoa Luật – Đại học Quốc Gia Hà Nội
(2014), VKSND với vai trò bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự Việt
Nam; Ths. Bùi Thị Nhàn, bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự,
báo cáo tại Hội thảo quốc tế Đảm bảo quyền con người trong tố tụng hình sự
Australia – Kinh nghiệm đối với việc hoàn thiện Bộ luật Tố tụng hình sự Việt
Nam, do VKSNDTC và Chương trình hợp tác kỹ thuật về quyền con người
Việt Nam – Australia phối hợp tổ chức vào ngày 07/10/2014, tại Hà Nội.
10


Như vậy, đã có một số công trình đề cập đến các vấn đề có liên quan đến
chức năng của Viện kiểm sát trong trường hợp áp dụng các biện pháp ngăn
chặn bắt, tạm giữ, tạm giam nhằm bảo vệ quyền con người. Tuy nhiên, chưa
có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện, hệ thống và đồng bộ về vấn
đề luận văn nghiên cứu. Do vậy, việc nghiên cứu đề tài: “Vai trò của Viện
kiểm sát đối với việc bảo đảm quyền con người trong việc áp dụng biện pháp
bắt, giữ người trong trường hợp khẩn cấp, tạm giữ, tạm giam (Trên cơ sở số
liệu thực tế tại địa bàn tỉnh Quảng Ninh)” là cần thiết về cả lí luận và thực
tiễn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu toàn diện, có hệ thống về quyền con người, các
biện pháp ngăn chặn:giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt, tạm giữ, tạm
giam và chức năng của Viện kiểm sát đối vớiviệc áp dụng biện pháp giữ
người trong trường hợp khẩn cấp, bắt, tạm giữ, tạm giam trong Luật tố tụng
hình sự Việt Nam nhằm bảo đảm quyền con người. Từ đó làm sáng tỏ những
cơ sở pháp lý của hoạt động áp dụng các biện pháp ngăn chặn trên nhằm bảo
đảm cho các cơ quan bảo vệ pháp luật áp dụng các biện pháp ngăn chặn được
đúng pháp luật. Trên cơ sở đó làm sáng tỏ vị trí, vai trò, trách nhiệm, quyền

hạn của Viện kiểm sát và kiểm sát viên trong việc áp dụng các biện pháp ngăn
chặn: giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt, tạm giữ, tạm giam nhằm bảo
đảm quyền con người. - Về nhiệm vụ: luận văn có các nhiệm vụ phân tích cơ
sở lý luận và thực tiễn về quyền con người, công tác áp dụng các biện pháp
giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt, tạm giữ, tạm giam trong Luật tố
tụng hình sự Việt Nam; phân tích vai trò và trách nhiệm của Viện kiểm sát
nhân dân trong quá trình áp dụng các biện pháp ngăn chặn: giữ người trong
trường hợp khẩn cấp, bắt, tạm giữ, tạm giam trong Luật tố tụng hình sự Việt
Nam (trên cơ sở số liệu từ VKS tỉnh Quảng Ninh); và đề xuất những giải pháp
nhằm nâng cao vai trò và trách nhiệm của Viện kiểm sát tỉnh Quảng Ninh
trong việc áp dụng các biện pháp ngăn nêu trên nhằm bảo đảm quyền
11


conngười. Trên cơ sở phân tích những quy định của Bộ luật tố tụng hình sự,
Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, các văn bản pháp luật khác và thực tiễn
công tác áp dụng các biện pháp giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt, tạm
giữ, tạm giam trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh. Đề tài sẽ nêu ra những điểm hợp
lý, những thuận lợi và khó khăn khi áp dụng các biện pháp giữ người trong
trường hợp khẩn cấp, bắt, tạm giữ, tạm giam cũng như vai trò của Viện Kiểm
sát trong lĩnh vực này. Từ đó đưa ra một số đề xuất kiến nghị để đảm bảo và
nâng cao hiệu quả vai trò của Viện kiểm sát đối với việc bảo đảm quyền con
người trong việc áp dụng biện pháp bắt, giữ người trong trường hợp khẩn
cấp, tạm giữ, tạm giam.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứulàm rõvai trò của Viện kiểm sát trong việc
bảo đảm quyền con người, các cơ chế, quá trình tố tụng và các quy định của
pháp luật Quốc tế, pháp luật tố tụng hình sự hiện hành trong mối tương quan
đến việc bảo đảmquyền con người. Nghiên cứu thực tiễn áp dụng các biện

pháp ngăn chặn: bắt, giữ người trong trường hợp khẩn cấp, tạm giữ, tạm giam
của Viện kiểm sát nhằm bảo đảm quyền con người.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Vai trò của Viện kiểm sát trong việc bảo đảm quyền con người khi áp
dụng các biện pháp ngăn chặn: bắt, giữ người trong trường hợp khẩn cấp, tạm
giữ, tạm giam có nhiều nội dung khác nhau. Việc nghiên cứu cũng được tiến
hành đối với các quy định của pháp luật trong đó có Hiến pháp, BLTTHS,
Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dânvà các văn bản có liên quan. Đối với thực
tiễn áp dụng, luận văn tổng hợp và đánh giá số liệuviện dẫn từ năm 2014 đến
năm 2018 tại địa bàn tỉnh Quảng Ninh.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận của luận văn là dựa trên quan điểm của Đảng và Nhà nước
về quyền con người trong bối cảnh chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, coi
12


quyền con người là giá trị và nguyện vọng chung của nhân loại, thể hiện trong
chính sách nhất quán tôn trọng, bảo đảm quyền con người và chủ trương tăng
cường đóng góp và thúc đẩy hợp tác quốc tế trên lĩnh vực này. Ngoài ra, tác
giả cũng tham khảo quá trình tiến bộ và xu hướng mở rộng các quyền con
người của cộng đồng quốc tế, cũng như tham khỏa các luận điểm khoa học
trong các công trình nghiên cứu của các học giả hình sự học trong nước, văn
bản pháp luật TTHS của Nhà nước ta.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu: Gồm phương pháp so
sánh, phân tích, thống kê, tổng hợp kết hợp với phương pháp phân tích thực
tiễn áp dụng pháp luật về bắt, giữ người trong trường hợp khẩn cấp, tạm giữ,
tạm giam thông qua một số vụ án cụ thể để tổng hợp các tri thức khoa học và
luận chứng các vấn đề tương ứng để nghiên cứu.

6. Những đóng góp mới của luận văn
Đây là công trình nghiên cứu khoa học ở cấp độ thạc sĩ tiếp cận có tính
hệ thống, toàn diện và tương đối sâu sắc về các quy định của pháp luật về vai
tròcủa Viện kiểm sát trong trường hợp áp dụng các biện pháp giữ người trong
trường hợp khẩn cấp, bắt, tạm giữ, tạm giam nhằm bảo đảm quyền con người,
đề tài có những đống góp mới sau:
+ Luận văn làm rõ được khái niệm quyền con người và bảo đảm quyền
con người, từ đó làm sáng tỏ vấn đề quyền con người trong TTHS và bảo đảm
quyền con người trong TTHS;
+ Phân tích các quy định về biện pháp ngăn chặn: giữ người trong
trường hợp khẩn cấp, bắt, tạm giữ, tạm giam, quyền của người bị bắt, người
bị tạm giữ, tạm giam và làm rõ cơ chế bảo đảm quyền của các chủ thể đó;
+ Khái quát nội dung vai trò của Viện kiểm sát trong trường hợp áp
dụng các biện pháp ngăn chặn: bắt, giữ người trong trường hợp khẩn cấp, tạm
giữ, tạm giam nhằm bảo đảm quyền con người.
+ Đánh giá toàn diện và đầy đủ về thực vai trò của Viện kiểm sát đối
với việc bảo đảm quyền con người trong việc áp dụng biện pháp bắt, giữ
13


người trong trường hợp khẩn cấp, tạm giữ, tạm giam: về góc độ quy định
pháp luật, về thực tiễn thi hành tại địa bàn tỉnh Quảng Ninh.
+ Từ thực trạng đưa ra các kiến nghị đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả
vai trò của Viện kiểm sát đối với việc bảo đảm quyền con người trong việc áp
dụng biện pháp bắt, giữ người trong trường hợp khẩn cấp, tạm giữ, tạm giam.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương.
Chương 1. Một số vấn đề lý luận về vai trò của Viện kiểm sát đối với
việc bảo đảm quyền con người trong việc áp dụng biện pháp bắt, giữ người

trong trường hợp khẩn cấp, tạm giữ, tạm giam
Chương 2: Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về vai trò của Viện
kiểm sát đối với việc bảo đảm quyền con người trong việc áp dụng biện pháp
bắt, giữ người trong trường hợp khẩn cấp, tạm giữ, tạm giam và thực tiễn thi
hành trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh
Chương 3: Giải pháp nhằm nâng cao vai trò của Viện kiểm sát đối với
việc bảo đảm quyền con người trong việc áp dụng biện pháp bắt, giữ người
trong trường hợp khẩn cấp, tạm giữ, tạm giam.

14


Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA VIỆN
KIỂM SÁT ĐỐI VỚI VIỆC BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI TRONG
VIỆC ÁP DỤNG BIỆN PHÁP BẮT, GIỮ NGƯỜI TRONG TRƯỜNG HỢP
KHẨN CẤP, TẠM GIỮ, TẠM GIAM
1.1. Vai trò của Viện kiểm sát trong trường hợp áp dụng các biện pháp
bắt, giữ người trong trường hợp khẩn cấp, tạm giữ, tạm giam nhằm bảo đảm
quyền con người
1.1.1.Khái niệm, nội dung bảo đảmquyền con người
Quyền con người là một phạm trù đa diện, có thể được tiếp cận dưới
nhiều góc độ, phương diện khác nhau như đạo đức, tôn giáo, lịch sử - xã hội,
triết học, chính trị, pháp lý…Trong lịch sử tư tưởng nhân loại, có nhiều học
thuyết, trường phái có quan điểm khác nhau về QCN. Xuất phát từ nguồn gốc
của QCN, có hai trường phái điển hình nhất là học thuyết về quyền tự nhiên
(học thuyết pháp luật tự nhiên) và học thuyết về quyền pháp lý (học thuyết
pháp luật thực định – chủ nghĩa thực chứng). Theo học thuyết pháp luật tự
nhiên,QCN là những gì bẩm sinh, vốn có mà mọi cá nhân sinh ra đều được
hưởng chỉ đơn giản họ là thành viên của gia đình nhân loại. Ở một nghĩa khác
thì quyền con người cũng là những giá trị vốn có, chỉ tồn tại ở loài người và

bình đẳng với mọi người, mỗi cá nhân đều là chủ thể của quyền5. Ở cấp độ
quốc tế, quyền con người với tư cách là quyền tự nhiên, vốn có được ghi nhận
trong Tuyên ngôn toàn thế giới về QCN, 1948, tại đoạn 1, Lời nói đầu ghi
nhận: “…thừa nhận phẩm giá vốn có, các quyền bình đẳng và không thể tách
rời của mọi thành viên trong gia đình nhân loại…”; cũng tại Điều 1 đã khẳng
định: “Tất cả mọi người sinh ra đều được tự do và bình đẳng về nhân phẩm và
các quyền. Mọi con người đều được tạo hoá ban cho lý trí và lương tâm, và
cần phải đối xử với nhau bằng tình anh em”. Ở cấp độ quốc gia, Tuyên ngôn
Độc lập của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ (1776) ghi nhận: “…Mọi người sinh ra
đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa ban cho họ những quyền không ai có thể
5

Võ Khánh Vinh (chủ biên), Quyền con người Tiếp cận đa ngành và liên ngànhkhoa học xã hội, Nxb Khoa

học xã hội, 2009, tr.18.

15


xâm phạm được, trong đó có quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh
phúc…”.Sau này được tái khẳng định trong bản bản Tuyên ngôn nhân quyền
và dân quyền của cách mạng tư sản Pháp, 1789 và bản Tuyên ngôn Độc lập
của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, 1945.
Trên những quan điểm quyền tự nhiên, có thể thấy rằng, QCN xét về
nguồn gốc tự nhiên là thuộc tính tự nhiên, vốn có của mỗi con người, không
phải do Nhà nước hay bất cứ ai ban phát cho. Tuy nhiên, trong thực tế, các
QCN đó chỉ có thể trở thành quyền con người một cách đích thực, đầy đủ khi
nó được bảo đảm thực hiện trên thực tế và không bị tước đoạt. Muốn thực
hiện được điều đó, quyền con người phải được bảo vệ bằng pháp luật, bằng
một chế độ pháp quyền.

Xét một cách toàn diện các quan điểm đã nêu trên về hai trường phái
học thuyết pháp luật tự nhiên và học thuyết pháp luật thực định, thật khó để
phân định, kết luận đúng sai về hai học thuyết trên. Tuy nhiên, một số nội
dung tiến bộ của cả hai học thuyết đều cần được tiếp thu ở những mức độ nhất
định trong những khái niệm, định nghĩa được đưa ra về quyền con người, đó
là sự thống nhất biện chứng giữa “quyền tự nhiên” và “quyền pháp lý”. Hay
nói một cách khác, quyền con người là sự tổng hợp hai thuộc tính tự nhiên và
tính pháp lý. Theo đó, thông qua pháp luật, các giá trị của QCNvới tư cách là
quyền tự nhiên mới trở thành quyền được xác định và được bảo đảm thực
hiện trong thực tiễn6.
Tại Việt Nam, một số định nghĩa về QCN do một số chuyên gia, cơ
quan nghiên cứu từng nêu ra cũng không hoàn toàn giống nhau, nhưng xét
chung, có thể hiểu: “QCN là những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có của con
người được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận
pháp lý quốc tế”.7Như vậy, khái niệm về QCN đưa ra ở Việt Nam vừa mang
6

Xem: TS. Nguyễn Thị Kim Ngân, Mối quan hệ giữa quyền con người và quyền cơ bản của công dân ở
nước CHXHCN Việt Nam tại Hội thảo Hiến pháp với vấn đề bảo vệ quyền con người và quyền cơ bản của
công dân – Kin nghiệm của Việt Nam và CHLB Đức, Hà Nội, 2012, tr.2
7
Nguyễn Đăng Dung - Vũ Công Giao - Lã Khánh Tùng (đồng chủ biên), Giáo trình Lý luận và pháp luật về
Quyền con người, NXB đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2009, tr.38.

16


tính tự nhiên và những giá trị phổ biến chung của cộng đồng nhân loại, đồng
thời vừa mang tính pháp lý và tính đặc thù cho một xã hội có sự khác biệt về
truyền thống, lịch sử, văn hóa, kinh tế, chính trị.Từ đó, có thể khẳng định dù

hình thành từ lâu nhưng các tư tưởng chân chính về quyền con người đều dựa
trên cơ sở của các nguyên tắc: dân chủ, tự do, công bằng, bình đẳng, thừa
nhận giá trị con người8. Trong Nhà nước pháp quyền, các quyền con người
được pháp luật bảo đảm thực hiện và được bảo vệ không bị xâm phạm. Ghi
nhận và bảo đảm quyền con người trên thực tế là thể hiện của một Nhà nước
nhân bản, tiến bộ, dân chủ, văn minh.
Các quyền con người trở thành đối tượng bảo vệ trong việc ghi nhận
về pháp lý, trong hoạt động thi hành pháp luật và xử lý vi phạm pháp luật của
Nhà nước trong các lĩnh vực khác nhau.Theo tôi,bảo đảm hay bảo vệ quyền
con người nói chung có thể hiểu là tổng hợp các yếu tố, điều kiện, chính sách,
pháp luật mà Nhà nước sử dụng nhằm đảm bảo cho các quyền con người
được ghi nhận, tôn trọngvà thực hiện trong mọi hòan cảnh, mọi lĩnh vực. Bảo
đảm quyền con người trong tư pháp hình sự là một trong những hợp phần có
tính chất đặc thù của bảo đảm quyền con người nói chung, bởi đây là lĩnh vực
trực tiếp ảnh hưởng tới các quyền cơ bản của con người (quyền sống, quyền
tự do thân thể, quyền sở hữu về tài sản...vv). Trong phạm vi của luận văn này,
tôi khai thác việc bảo đảm quyền con người dưới góc độ lĩnh vực tư pháp
hình sự. Ở mức độ khái quát nhất bảo đảm quyền con người trong tư pháp
hình sự là tổng hợp những yếu tố, điều kiện để quyền con người được ghi
nhận, thực thi trong quá trình tội phạm hóa, hình sự hóa và phi tội phạm hóa,
phi hình sự hóa, cũng như trong quá trình tố tụng giải quyết vụ án, quá trình
thi hành bản án quyết định của tòa án nhằm tôn trọng, bảo vệ phẩm giá con
người trong mọi hoàn cảnh.
Thực hiện tốt bảo đảm quyền con người trong tư pháp hình sự là đóng
góp tích cực có hiệu quả trong việc bảo đảm quyền con người nói chung.Bảo

8

Võ Khánh Vinh (Chủ biên), Quyền con người, Nxb khoa học xã hội, Hà Nội, 2011, tr.30


17


đảm quyền con người trong tư pháp hình sự là chức năng của nhà nước với cơ
chế phù hợp trong điều kiện kinh tế - xã hội, pháp lý của mình. Do đặc điểm
của hoạt động tư pháp hình sự là chức năng của nhà nước hướng tới sự kết
hợp địa vị pháp lý và địa vị thực tế của người bị cáo buộc phạm tội, người bị
bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người phải chấp hành án và những người tham
gia tố tụng khác. Nói cách khác, các qui phạm pháp luật về quyền con người
chỉ trở thành hiện thực khi có những bảo đảm ràng buộc của Nhà nước. Với ý
nghĩa đó thì bảo đảm quyền con người trong tư pháp hình sự là thước đo, là
biểu hiện tự do xã hội, trách nhiệm và tính tích cực công dân. Tự thân các tiền
đề kinh tế, chính trị, xã hội chưa phải là cơ sở để thực hiện quyền và tự do của
con người trong tư pháp hình sự mà chúng chỉ trở thành những bảo đảm
quyền con người thông qua hình thức pháp lý và những nỗ lực tổ chức của
Nhà nước trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Bảo đảm quyền con người trong tư pháp hình sự có vai trò quan trọng
trong việc biến những nỗ lực, những ý tưởng tiến bộ của nhân loại ở các điều
luật trở thành hiện thực trong thực tiễn giải quyết vụ án hình sự. Nói cách
khác, bản thân các quy phạm pháp luật về quyền con người trong lĩnh vực tư
pháp hình sự đã là một thành tố quan trọng trong việc bảo đảm quyền con
người nhưng chỉ dừng lại ở đó quyền con người sẽ không có trong thực tế và
những quy phạm pháp luật sẽ trở thành vô nghĩa. Vì vậy, hình thành cơ chế
bảo đảm quyền con người trong tư pháp hình sự là đòi hỏi khách quan mang
tính chất quyết định àm nhà nước pháp quyền nào cũng cần quan tâm. Bảo
đảm quyền con người trong tư pháp hình sự mang tính chất đặc thù xuất phát
từ những đặc điểm do nó là một lĩnh vực hoạt động thưc hiện quyền lực nhà
nước mà ở đó việc hạn chế các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân là
không thể tránh khỏi và các quyền và lợi ích đó có thể xâm phạm một cách
nghiêm trọng bởi những người đại diện cho công quyền. Nội dung của việc

bảo đảm, bảo vệ quyền con người trong lĩnh vực tư pháp hình sự được thể
hiện trên những bình diện sau đây:
18


- Thứ nhất, việc hình sự hóa quy định tội phạm và hình phạt đã tước bỏ
hoặc hạn chế quyền con người của người phạm tội do họ đã thực hiện hành vi
phạm tội xâm hại đến quyền và lợi ích con người. Hình sự hóa là việc biến
một hành vi vốn không bị pháp luật xử lý hoặc chỉ bị xử lý bằng một chế tài
khác nhẹ hơn thành một hành vi có tính tội phạm và bị pháp luật xử lý bằng
loại chế tài hình sự. việc hình sự hóa cần được cân nhắc kỹ lưỡng, để vừa đảm
bảo được yêu cầu của công tác đấu tranh phòng chống tội phạm, phù hợp với
các điều kiện, hoàn cảnh kinh tế chính trị, văn hóa của đất nước; vừa phải
đảm bảo hạn chế tới mức thấp nhất việc xâm phạm đến quyền và lợi ích của
cong người. Hay nói cách khác việc đưa một hành vi vốn không bị coi là tội
phạm thành một hành vi phạm tội, phải cân nhắc đến tính chất nguy hiểm của
hành vi đó, cân nhắc đến việc bảo đảm các quyền con người nói chung bị xâm
phạm bởi hành vi phạm tội đó với việc hạn chế quyền con người của người
phạm tội. để bảo bảo lợi ích hài hòa và tối đa nhất.
- Thứ hai,đảm bảo quyền con người trong quá trình tiến hành tố
tụng.Trong hoạt động TTHS là lĩnh vực mà ở đó nhu cầu áp dụng những biện
pháp cưỡng chế Nhà nước có tính phổ biến khách quan và hệ quả của chúng
là sự hạn chế các quyền, tự do hiến định của công dân. Những hạn chế đó là
cần thiết để đấu tranh chống tội phạm nhưng lại ảnh hưởng tiêu cực đến
quyền của người bị cáo buộc phạm tội. Ở đây có sự xung đột giữa hai lợi ích
đều cần được bảo vệ là lợi ích chung của Nhà nước, của xã hội và lợi ích
riêng của cá nhân, những chủ thể tham gia vào hoạt động TTHS. Những biện
pháp cưỡng chế bảo vệ xã hội chống lại các hành vi tội phạm, đến lượt mình
có thể trở thành mối đe dọa thực tế với quyền con người nếu như vi phạm các
quy định của luật về điều kiện, trình tự, thủ tục và căn cứ áp dụng. Giá trị xã

hội của hai nhóm lợi ích này là như nhau. Vì vậy, nhiệm vụ đấu tranh, xử lý
tội phạm bảo vệ và khôi phục quyền con ngươi, lợi ích hợp pháp của cá nhân
và xã hội là cần thiết nhưng đồng thời phải đảm bảo quyền con người của
người bị cáo buộc phạm tội trong quá trình tố tụng cũng là sự tất yếu của yêu
cầu bảo đảm quyền con người trong nhà nước pháp quyền.
19


- Thứ ba, việc đảm bảo sự tranh tụng công khai, minh bạch giữa bên
buộc tội và bên bị buộc tội. Đòi hỏi khách quan cũng như dấu ấn lịch sử của
nền tư pháp ở các Nhà nước tập quyền luôn ẩn chứa sự hạn chế công khai kết
quả hoạt động điều tra, hạn chế tranh tụng, hạn chế sự bình đẳng về quyền và
nghĩa vụ tố tụng giữa bên buộc tội mà đại diện là các cơ quan, nguời có thẩm
quyền tiến hành tố tụng với bên bị buộc phạm tội là người bị tạm giữ, bị can,
bị cáo, người chấp hành án. Trong điều kiện như vậy nhu cầu mở rộng hơn
nữa quyền con người và bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo là khách quan và được nhìn nhận như là giải pháp hạn chế những
sai lầm và vi phạm pháp luật trong hoạt động tố tụng của các cơ quan có thẩm
quyền tiến hành tố tụng.
- Thứ tư, việc đảm bảo hoạt động của Cơ quan tiến hành tố tụng, người
tiến hành tố tụng phải tuân thủ đúng quy định của pháp luật, được kiểm sát và
thực hiện chặt chẽ. Hoạt động của Cơ quan điều tra trong giai đoạn điều tra có
mối liên hệ chặt chẽ mật thiết với hoạt động trinh sát, hoạt động mang tính
nghiệp vụ có tính bí mật cao nên khả năng, khó kiểm soát của các nhánh
quyền lực khác và kiểm soát xã hội. Bản thân cơ quan trinh sát có thể tham
gia vào hoạt động tố tụng với tư cách là cơ quan điều tra trong những trường
hợp do luật định (ví dụ như các trường hợp quy định Bộ luật tố tụng hình sự
và Luật tổ chức điều tra hình sự 2015). Sự nhầm lẫn thay thế lẫn nhau của hai
hoạt động này trong quá trình giải quyết vụ án hình sự có thể dẫn đến những
tác động tiêu cực trong xác định sự thật khách quan của vụ án, đến quyền con

người của những người tham gia tố tụng mà trước hết là của người bị tạm giữ,
bị can, bị cáo, người chấp hành án.
1.1.2. Khái niệm, nội dung các biện pháp ngăn chặn: giữ người trong
trường hợp khẩn cấp, bắt,tạm giữ, tạm giam
BPNC là biện pháp do cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng
áp dụng đối với người bị nghi là thực hiện tội phạm, bị can, bị cáo nhằm ngăn
chặn việc người đó bỏ trốn, tiêu hủy chứng cứ, gây khó khăn cho hoạt động
20


điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hoặc sẽ tiếp tục phạm tội9.Theo quy định
của BLTTHS, có mười một BPNC đó là: giữ người trong trường hợp khẩn
cấp, bắt người phạm tội quả tang; bắt người đang bị truy nã; bắt bị can, bị cáo
để tạm giam; tạm giữ; tạm giam; bảo lĩnh; đặt tiền để bảo đảm; cấm đi khỏi
nơi cư trú; tạm hoãn xuất cảnh.
Mục đích của việc áp dụng BPNC là nhằm ngăn chặn tội phạm, ngăn
chặn người bị buộc tội sẽ tiếp tục phạm tội, bỏ trốn, tiêu hủy chứng cứ hoặc
gây khó khăn cho hoạt động điều tra, truy tố xét xử hoặc thi hành án. Ngoài ra
việc quy định chặt chẽ về việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn nói chung,
đặc biệt là các biện pháp ngăn chặn giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt,
tạm giữ, tạm giam còn tạo cơ sở pháp lý vững chắc nhằm đảm bảo sự tôn
trọng các quyền cơ bản của công dân được Hiến pháp và pháp luật ghi nhận.
Đảm bảo không một công dân nào bị tạm giữ, tạm giam trái pháp luật, khi áp
dụng biện pháp tạm giam không đúng pháp luật quy định, công dân có quyền
khiếu nại đến các chủ thể có thẩm quyền và yêu cầu bồi thường thiệt hại theo
luật bồi thường trách nhiệm Nhà nước.Mặt khác việc áp dụng biện pháp ngăn
chặn tạm giữ, tạm giam thể hiện tính ưu việt của nhà nước ta. Đó là biện pháp
bảo đảm cho mọi công dân được sống trong xã hội mà quyền và lợi ích hợp
pháp của họ được tôn trọng và bảo vệ, tránh được sự tấn công, xâm hại từ
phía các đối tượng nhất định, bảo đảm cho mọi công dân yên tâm sinh sống,

học tập, làm việc tham gia vào công tác đấu tranh phòng chống tội phạm đạt
hiệu quả cao nhất.
- Nội dung biện pháp ngăn chặn giữ người trong trường hợp khẩn cấp
Giữ người trong trường hợp khẩn cấp là một trong những biện pháp
ngăn chặn được quy định chi tiết tại Điều 110 BLTTHS năm 2015 và thay thế
cho biện pháp "Bắt người trong trường hợp khẩn cấp" quy định tại Điều 81
BLTTHS năm 2003. Sự sửa đổi này một mặt nhằm bảo đảm phù hợp với tinh
9

. TS. Phạm Mạnh Hùng (2016), Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt Nam, 2016, NXB Chính trị quốc gia

sự thật, tr196;

21


thần của Hiến pháp năm 2013 “Không ai bị bắt nếu không có quyết định của
Tòa án, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát” (BLTTHS năm 2003
quy định khi có căn cứ bắt khẩn cấp, các cơ quan có thẩm quyền được phép
bắt trước, sau đó mới đề nghị Viện kiểm sát phê chuẩn lệnh bắt). Mặt khác
cũng nhằm khắc phục những bất cập, hạn chế sau hơn 10 năm thi hành các
quy định liên quan đến bắt, giữ người trong trường hợp khẩn cấp của
BLTTHS năm 2003.
+ Về căn cứ áp dụng:
Khoản 1 Điều 110 BLTTHS năm 2015 quy định ba trường hợp các cơ
quan có thẩm quyền được phép áp dụng biện pháp "Giữ người trong trường
hợp khẩn cấp", bao gồm: Có đủ căn cứ để xác định người đó đang chuẩn bị
thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng;
Người cùng thực hiện tội phạm hoặc bị hại hoặc người có mặt tại nơi xảy ra
tội phạm chính mắt nhìn thấy và xác nhận đúng là người đã thực hiện tội

phạm mà xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn; Có dấu vết của tội
phạm ở người hoặc tại chỗ ở hoặc nơi làm việc hoặc trên phương tiện của
người bị nghi thực hiện tội phạm và xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người
đó trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ.
Như vậy, về cơ bản, BLTTHS năm 2015 vẫn tiếp tục kế thừa các quy
định về căn cứ áp dụng biện pháp "Bắt người trong trường hợp khẩn cấp".
Đồng thời, xuất phát từ thực tiễn đấu tranh và phòng chống tội phạm,
BLTTHS năm 2015 cũng bổ sung thêm sự xác nhận của "người cùng thực
hiện tội phạm", phát hiện dấu vết tội phạm tại "nơi làm việc hoặc trên phương
tiện của người bị nghi thực hiện tội phạm" là những căn cứ để áp dụng biện
pháp ngăn chặn này.
Bên cạnh đó, nhằm khắc phục quy định mang tính chất định tính, chưa
cụ thể về căn cứ bắt khẩn cấp trong trường hợp một người đang chuẩn bị thực
hiện tội phạm rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng tại BL TTHS năm
2003 "Khi có căn cứ để cho rằng…", điểm a khoản 1 Điều 110 BLTTHS năm
2015 đã quy định khi giữ người trong trường hợp khẩn cấp phải bảo đảm "Có
22


đủ căn cứ để xác định người đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm
trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng". Như vậy, trong trường hợp này
khi muốn giữ người trong trường hợp khẩn cấp thì cơ quan tiến hành tố tụng
phải thu thập được đầy đủ căn cứ để xác định người đó có các hành vi đang
chuẩn bị thực hiện tội phạm và điều quan trọng là đó có phải là tội phạm rất
nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng được quy định tại Điều 14
của Bộ luật hình sự năm 2015 hay không.
+ Về chủ thể có thẩm quyền áp dụng
Ngoài chủ thể có thẩm quyền áp dụng là Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng
Cơ quan điều tra các cấp; Người chỉ huy tàu bay, tàu biển khi tàu bay, tàu
biển đã rời khỏi sân bay, bến cảng - là những nhóm chủ thể đã được quy định

tại BLTTHS năm 2003 thì BLTTHS năm 2015 cũng bổ sung thêm những chủ
thể sau cũng có thẩm quyền áp dụng biện pháp ngăn chặn này, bao gồm: Thủ
trưởng đơn vị độc lập cấp trung đoàn và tương đương, Đồn trưởng Đồn biên
phòng, Chỉ huy trưởng Biên phòng Cửa khẩu cảng, Chỉ huy trưởng Bộ đô ̣i
biên phòng tỉnh, thành phố trực truộc trung ương, Cục trưởng Cục trinh sát
biên phòng Bộ đội biên phòng, Cục trưởng Cục phòng, chống ma túy và tội
phạm Bộ đội biên phòng, Đoàn trưởng Đoàn đặc nhiệm phòng, chống ma túy
và tội phạm Bộ đội biên phòng; Tư lệnh vùng lực lượng Cảnh sát biển, Cục
trưởng Cục Nghiệp vụ và pháp luật lực lượng Cảnh sát biể n , Đoàn trưởng
Đoàn đặc nhiệm phòng, chống tội phạm ma túy lực lượng Cảnh sát biển; Chi
cục trưởng Chi cục Kiểm ngư vùng.
+ Về trình tự, thủ tục áp dụng
BLTTHS năm 2015 quy định rất chặt chẽ về trình tự, thủ tục giữ người
trong trường hợp khẩn cấp. Theo đó, để giữ người trong trường hợp khẩn cấp
cần có Lệnh giữ người. Khoản 3 Điều 110 BLTTHS năm 2015 quy định
"Lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp phải ghi rõ họ tên, địa chỉ của
người bị giữ, lý do, căn cứ giữ người quy định tại khoản 1 Điều này và các
nội dung quy định tại khoản 2 Điều 132 của Bộ luật này" và "Viê ̣c thi hành
23


×