Tải bản đầy đủ (.pdf) (177 trang)

Kết cấu trong kịch của Samuel Beckett

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.95 MB, 177 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI

LÊ THÚY HẰNG

KẾT CẤU TRONG KỊCH CỦA SAMUEL BECKETT

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

Hà Nội - 2019


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI

LÊ THÚY HẰNG

KẾT CẤU TRONG KỊCH CỦA SAMUEL BECKETT

Chuyên ngành

: Văn học nƣớc ngoài

Mã số

: 9.22.02.42

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. ĐẶNG ANH ĐÀO



Hà Nội - 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Những kết quả nghiên cứu trong Luận án là trung
thực và chƣa từng đƣợc ai công bố trong bất cứ một công
trình nào khác.
Hà Nội, ngày

tháng

năm 2019

Tác giả luận án

Lê Thúy Hằng


LỜI CẢM ƠN
Trước tiên, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc tới
nhà khoa học PGS.TS. Đặng Anh Đào – người đã tận tình hướng dẫn,
chỉ bảo, động viên, giúp đỡ tôi trong quá trình nghiên cứu và thực
hiện đề tài.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn các thầy cô ở Bộ môn Văn học
nước ngoài, cùng các thầy cô trong Khoa Ngữ Văn, phòng Sau Đại
học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội đã tạo điều kiện tốt nhất cho tôi
trong suốt thời gian học tập tại trường. Tôi cũng xin gửi lời tri ân sâu
sắc tới các thầy cô ở Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn,

ĐHQGHN; Viện Văn học, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam
đã động viên và giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện luận án.
Ngoài ra, tôi cũng xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn đến Ban
Lãnh đạo và các đồng nghiệp tại Viện Việt Nam học và Khoa học phát
triển, Đại học Quốc gia Hà Nội, nơi tôi công tác.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời tri ân sâu sắc đến bố mẹ, gia đình, và
những người bạn đã luôn ủng hộ, động viên, giúp đỡ tôi trong quá
trình học tập và thực hiện Luận án.
Hà Nội, ngày

tháng

năm 2019

Tác giả luận án

Lê Thúy Hằng


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài .....................................................................................................1
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ..........................................................................2
3. Phạm vi và đối tƣợng nghiên cứu ...........................................................................3
4. Phƣơng pháp nghiên cứu.........................................................................................7
5. Đóng góp mới của luận án ......................................................................................7
6. Cấu trúc của luận án ................................................................................................8
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU .........................................9
1.1. Tình hình nghiên cứu kịch Samuel Beckett ở nƣớc ngoài ...................................9
1.2. Tình hình nghiên cứu kịch Samuel Beckett ở Việt Nam ...................................32

Tiểu kết chƣơng 1......................................................................................................41
CHƢƠNG 2: HỦY DIỆT THÀNH TỐ CỦA KẾT CẤU KỊCH TRUYỀN THỐNG .. 43
2.1. Hủy diệt nhân vật ...............................................................................................44
2.1.1. Xu hướng nhân vật tiêu biến ...........................................................................45
2.1.2. Phi nhân vật hóa .............................................................................................51
2.2. Hủy diệt lời thoại ..............................................................................................59
2.3. Mờ hóa cốt truyện ..............................................................................................65
2.3.1. Thủ tiêu xung đột, kịch tính .............................................................................65
2.3.2. Hành động “dậm chân tại chỗ” ......................................................................69
Tiểu kết chƣơng 2......................................................................................................73
CHƢƠNG 3: KẾT CẤU TRÙNG LẶP VÀ TUẦN HOÀN ................................75
3.1. Kết đôi nhân vật .................................................................................................75
3.1.1. Kết đôi nhân vật dựa trên sự tương đồng .......................................................75
3.1.2. Kết đôi nhân vật dựa trên sự khác biệt ...........................................................80
3.2. Cốt truyện tuần hoàn ..........................................................................................83
3.2.1. Với vở kịch chia hồi.........................................................................................83
3.2.2. Với vở kịch không chia hồi ..............................................................................96
3.3. Không gian và thời gian không thay đổi ..........................................................103
Tiểu kết chƣơng 3....................................................................................................108


CHƢƠNG 4: KẾT CẤU PHÂN MẢNH .............................................................110
4.1. Nhân vật - những mảnh ghép rời rạc................................................................110
4.1.1. Nhân vật với nhân vật: những mảnh vỡ ........................................................110
4.1.2 Nhân vật với chính mình: sự tách rời bản thể................................................116
4.2. Cốt truyện phân mảnh ......................................................................................124
4.2.1. Cốt truyện ghép bởi những mảnh ngẫu nhiên ...............................................124
4.2.2. Cốt truyện phân mảnh rời rạc .......................................................................132
4.3. Không gian cắt mảnh .......................................................................................136
4.3.1. Cắt mảnh thành nhiều không gian đối nghịch ..............................................136

4.3.2. Cắt mảnh không gian thực - ảo .....................................................................140
Tiểu kết chƣơng 4....................................................................................................146
KẾT LUẬN ............................................................................................................147
TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................................152
PHỤ LỤC


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Samuel Beckett (1906-1989) là nhà văn, nhà viết kịch Ireland, sáng tác
bằng cả tiếng Anh và tiếng Pháp. Năm 1969, ông đoạt giải Nobel văn học. Giải
thƣởng danh giá này đánh dấu thành công lớn trong sự nghiệp của nhà văn. Năm
2006, tại Hội nghị kỷ niệm 100 năm ngày sinh của ông, Chủ tịch Hiệp hội Ngôn
ngữ hiện đại Marijorie Perloff đã phát biểu nhƣ sau: ―Năm nay đánh dấu một trăm
năm ngày sinh Samuel Beckett và lễ kỷ niệm trên toàn thế giới đã đƣợc tổ chức nhƣ
một điều kỳ diệu. Từ Buenos Aires đến Tokyo, từ Rio de Janeiro tới Sofia, từ Nam
Phi đến New Zealand, từ Đại học Bang Florida, Tallahassee tới Đại học Reading, từ
Nhà hát Barbican ở London đến Trung tâm Pompidou ở Paris, từ Hamburg và
Kassel và Zurich tới Aix-en-Provence và Lille, từ St. Pertersburg tới Madrid đến
Tel Aviv, và tất nhiên đáng chú ý nhất ở Dublin, năm 2006 là năm của Beckett. Ai
thực sự là một nghệ sỹ toàn cầu hơn Beckett?‖ [87; 3]. Nhận định của Marijorie Perloff
đã cho chúng ta thấy vị trí quan trọng của Samuel Beckett trên văn đàn thế giới.
Trong sự nghiệp văn chƣơng, Samuel Beckett để lại một khối lƣợng tác phẩm
khá đồ sộ ở nhiều thể loại: phê bình văn học, truyện ngắn, tiểu thuyết, thơ và kịch. Mặc
dù vậy, ―Gần nhƣ chắc chắn rằng Beckett vẫn đƣợc biết đến nhiều hơn với tƣ cách là
một nhà viết kịch‖ (Rónán McDonald) [117; 4]. Vở kịch đầu tiên Trong khi chờ Godot
ngay khi đƣợc công diễn ngày 05.01.1953 tại nhà hát Babylone ở Paris đã làm rạng
danh tên tuổi của Samuel Beckett. Những vở kịch của ông theo khuynh hƣớng sân

khấu mới, nhƣ Martin Esslin gọi là Kịch phi lý (The Theatre of the Absurd), ở đó, các
yếu tố cơ bản của kết cấu đều ít nhiều thay đổi so với kịch truyền thống.
1.2. Kết cấu là một phƣơng tiện cơ bản của sáng tác nghệ thuật, ―là toàn bộ tổ
chức tác phẩm trong tính độc đáo, sinh động, gợi cảm của nó. Cách tổ chức của thể
loại, bố cục chung của một thể văn, nguyên tắc của một luật thơ cụ thể và cả mô
hình tƣ duy của một tác giả cố nhiên là rất quan trọng, nhƣng kết cấu tác phẩm
trong phần sâu sắc nhất của nó không phải là sự liên kết theo những công thức, biện
pháp sẵn có, mà là liên kết theo sự phát hiện đời sống và suy nghĩ của nhà văn, tạo


2

thành một hệ thống liên kết tạo ra hiệu quả tƣ tƣởng - thẩm mỹ. Hiểu nhƣ vậy, mọi
phƣơng diện tổ chức tác phẩm, từ nhỏ nhất nhƣ ví von, ẩn dụ, mỉa mai, câu, đoạn
cho đến tổ chức trần thuật, hệ thống hình tƣợng, thể loại, cốt truyện… đều thuộc
phạm vi kết cấu. Chúng kết hợp nhau để tạo ra tính hình tƣợng và chiều sâu nội
dung của tác phẩm‖ (Theo Từ điển thuật ngữ văn học) [29; 296]. Đối với Samuel
Beckett, trong quá trình sáng tác, ông rất coi trọng kết cấu. Samuel Beckett từng
nói: ―Tìm ra cấu trúc thích hợp với sự hỗn độn, đó là nhiệm vụ của ngƣời nghệ sỹ‖.
Vì thế, việc nghiên cứu kết cấu trong kịch Samuel Beckett là một con đƣờng triển
vọng để giải mã tác phẩm của ông. Bởi lẽ, đây là một tác giả tuy không mới ở Việt
Nam nhƣng còn tƣơng đối ―lạ‖ và ―khó hiểu‖ đối với độc giả. Tìm hiểu kết cấu
trong kịch của ông chính là tìm hiểu giá trị nội dung và nghệ thuật mà nhà văn dụng
công sáng tạo. Điều đó sẽ đóng góp một phần nhỏ trong việc nghiên cứu Samuel
Beckett ở trong nƣớc.
1.3. Ở Việt Nam, Samuel Beckett là một tác giả đƣợc nghiên cứu và giảng dạy
trong các trƣờng đại học (phần Samuel Beckett đƣợc nhà nghiên cứu Đặng Anh Đào
viết trong Giáo trình Văn học phương Tây và Lịch sử văn học Pháp xuất bản từ năm
1992). Những năm gần đây, đã có một số công trình nghiên cứu nhƣ Lời thoại trong
kịch của Samuel Beckett (2012), Samuel Beckett và sự cách tân kịch Pháp thế kỷ XX

(2016) của Nguyễn Thùy Linh. Tính đến nay, chƣa có công trình nào về kết cấu
trong kịch của Samuel Beckett.
Từ những lý do trên, chúng tôi lựa chọn nghiên cứu đề tài “Kết cấu trong kịch
của Samuel Beckett”.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Lựa chọn đề tài này, luận án đặt ra những mục đích cơ bản sau đây:
- Tổng quan về tình hình nghiên cứu kịch Samuel Beckett từ tài liệu trong
nƣớc và nƣớc ngoài, từ đó kế thừa, phát triển những kết quả đã có để tìm ra nét đặc
trƣng trong kết cấu kịch của nhà văn.


3

- Chỉ rõ thành tố của kết cấu kịch mà Samuel Beckett hủy diệt, tập trung phân tích
hai kiểu kết cấu trong kịch Samuel Beckett ở các phƣơng diện cụ thể: lời thoại, nhân
vật, cốt truyện, không gian và thời gian. Dựa trên cơ sở đó, tác giả luận án tìm ra những
nét đổi mới, sáng tạo của tác giả so với kịch truyền thống và với các nhà viết kịch phi
lý khác. Đồng thời, thông qua nghiên cứu kết cấu, ngƣời viết làm nổi bật chiều sâu nội
dung tƣ tƣởng kịch, cũng nhƣ quan niệm của tác giả về con ngƣời và cuộc đời.
- Nhận diện những đóng góp của Samuel Beckett trong sáng tạo nghệ thuật
nhằm tôn vinh giá trị của nhà văn với nỗ lực mang lại trải nghiệm sân khấu mới mẻ
đối với ngƣời đọc, ngƣời xem vốn đã quen tƣ duy của kịch truyền thống.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Đối với các tài liệu nƣớc ngoài, phân chia thành các hƣớng nghiên cứu nhƣ
phê bình tiểu sử, văn học so sánh, phê bình tiếp nhận và thi pháp học để tìm ra
những khuynh hƣớng nghiên cứu về kịch Samuel Beckett trên thế giới. Trong các
tài liệu nghiên cứu ở Việt Nam, chỉ ra các nhà nghiên cứu tiêu biểu qua các bài viết,
công trình liên quan đến đề tài nghiên cứu.
- Phân tích các thành tố của kết cấu kịch (nhân vật, lời thoại, cốt truyện, không

gian, thời gian…) mà Samuel Beckett hủy diệt khác với kết cấu kịch truyền thống.
- Đi sâu nghiên cứu hai kiểu kết cấu chính mà Samuel Beckett thƣờng sử dụng
trong kịch. Với mỗi kiểu kết cấu, chúng tôi tìm hiểu sự biểu hiện của các thành tố trong
kết cấu kịch để tìm ra đặc trƣng của kiểu kết cấu kịch Samuel Beckett.
3. Phạm vi và đối tƣợng nghiên cứu
3.1. Phạm vi nghiên cứu
3.1.1. Văn bản
Kịch là một loại hình nghệ thuật sân khấu, tổng hợp nhiều công cụ, kỹ năng
biểu hiện (ánh sáng, âm nhạc…) nhƣng giới hạn của đề tài luận án sẽ chỉ dựa trên
biểu hiện ở văn bản mà không bàn đến yếu tố biểu diễn trên sân khấu.
Luận án tìm hiểu 32 vở kịch của Samuel Beckett in trong cuốn Samuel
Beckett - The Complete Dramatic Works, do NXB Faber and Faber Limited ấn
hành năm 1986. Các vở kịch đó là:


4

- Waiting for Godot (Trong khi chờ Godot): chúng tôi tham khảo bản dịch của
Vũ Đình Phòng in trong Tạp chí Văn học nước ngoài, số 3, năm 1997, tr. 6-84.
- Endgame (Tàn cuộc)
- Happy Days (Những ngày tươi đẹp)
- All That Fall (Tất cả những người ngã xuống)
- Act Without Words I (Động tác không lời I): chúng tôi tham khảo bản dịch
của Hoàng Ngọc Biên với tên Màn kịch không lời I, theo tienve.org
- Act Without Words II (Động tác không lời II): tham khảo bản dịch của Hoàng
Ngọc Biên với tên Màn kịch không lời II, theo tienve.org
- Krapp’s Last Tape (Cuộn băng cuối cùng của Krapp)
- Rough for Theatre I (Đoạn kịch nháp I): tham khảo bản dịch của Hoàng
Ngọc Biên, theo tienve.org
- Rough for Theatre II (Đoạn kịch nháp II)

- Embers (Tro tàn)
- Rough for Radio I (Phác thảo kịch truyền thanh I): tham khảo bản dịch của
Hoàng Ngọc Biên, theo tienve.org
- Rough for Radio II (Phác thảo kịch truyền thanh II)
- Words and Music

(Lời và Nhạc)

- Cascando (tiếng Tây Ban Nha: Gõ cửa, tiếng Bồ Đào Nha: Xếp tầng, trong
luận án chúng tôi để nguyên tên của vở kịch)
- Play (Hài kịch)
- Film

(Phim)

- The Old Tune (Giai điệu cũ)
- Come and go (Đến và đi)
- Eh Joe (Này Joe)
- Breath (Thở): tham khảo bản dịch của Hoàng Ngọc Tuấn, theo tienve.org


5

- Not I (Không phải tôi)
- That Time (Lúc đó)
- Footfalls (Bước chân): tham khảo bản dịch của Hoàng Ngọc Biên, theo
tienve.org
- Ghost Trio (Ba con ma)
- … but the clouds… (… nhưng những đám mây…)
- A Piece of Monologue


(Độc thoại): tham khảo bản dịch của Nguyễn

Đăng Thƣờng, theo tienve.org
- Rockaby (Bài hát ru): tham khảo bản dịch của Nguyễn Đăng Thƣờng, theo
tienve.org
- Ohio Impromptu (Khúc ứng tác Ohio)
- Quad (Từ này không có nghĩa trong tiếng Anh, chúng tôi để nguyên tên)
- Catastrophe (Đại họa): tham khảo bản dịch của Hoàng Ngọc Tuấn, theo
tienve.org
- Nacht und Traüme (Đêm và Giấc mơ)
- What Where (Cái gì, ở đâu): tham khảo bản dịch của Nguyễn Đăng Thƣờng
với tên dịch Nao nào, theo tienve.org.
Tuy nhiên, mức độ tìm hiểu ở mỗi văn bản khác nhau, tƣơng ứng với nội dung
nghiên cứu của luận án.
3.1.2. Thuật ngữ
Luận án nghiên cứu kết cấu trong kịch của Samuel Beckett, do đó, thuật ngữ
đƣợc ngƣời viết cần giới thuyết là kết cấu (structure).
Structure (tiếng Anh) dịch sang tiếng Việt có hai từ là cấu trúc và kết cấu.
Trong Từ điển thuật ngữ văn học, cấu trúc của tác phẩm đƣợc định nghĩa là ―tổ
chức nội tại, mối quan hệ qua lại của các yếu tố của tác phẩm mà sự biến đổi một
yếu tố nào trong đó sẽ kéo theo sự biến đổi của các yếu tố khác. Từ xƣa ngƣời ta đã
biết đến cấu trúc của tác phẩm văn học, nhƣng chỉ hiểu ở khía cạnh hài hòa, đối
xứng. Nghiên cứu văn học từ những năm 20 thế kỷ này hiểu cấu trúc của tác phẩm
văn học là kết cấu, cấu tạo và mối quan hệ qua lại của nhân vật với các hình tƣợng


6

khác, quan hệ giữa các lớp tƣ tƣởng chủ đề và lớp tạo hình, tổ chức lời văn. ― [29;

42]. Do có sự tƣơng đồng về thuật ngữ cấu trúc của tác phẩm và kết cấu nên chúng
tôi lựa chọn thuật ngữ kết cấu để nghiên cứu mối quan hệ giữa các thành tố kiến tạo
nên tác phẩm với tƣ cách một chỉnh thể nghệ thuật.
Trong cuốn Literary Terms and Criticism (Những thuật ngữ văn học và phê
bình) của John Peek và Martin Coyle, thuật ngữ Kết cấu (structure) đƣợc định
nghĩa nhƣ sau: ―Kết cấu của một văn bản là toàn bộ hình dạng/sự sắp xếp (shape) và
mô hình (pattern) của nó. Đôi khi, điều này ám chỉ hình thức (form), của văn bản,
mặc dù nói đúng ra, hình thức (form) là thuật ngữ bao gồm nhiều hơn mọi khía cạnh
của kỹ thuật tác phẩm‖ [126; 159]. Tác giả cuốn sách còn viết: ―Cả hài kịch và bi
kịch có kết cấu quy ƣớc của nó - hài kịch kết thúc bằng đám cƣới, bi kịch với cái
chết của anh hùng/nhân vật chính - và tất cả những vở kịch đều theo dạng thức
chuẩn của sự trình bày, sự phức tạp và cách giải quyết vấn đề‖ [126; 160].
Trong cuốn A Glossarry of Litarary Terms (Abrams M. H.), tác giả phân biệt
sự khác nhau giữa Form (Hình thức) và Structure (Kết cấu) nhƣ sau: ―Hình thức
(form) của một tác phẩm văn học (theo thuật ngữ Hi Lạp) là động lực, công việc
cụ thể, hoặc sức mạnh cảm xúc mà thành phần cấu tạo đƣợc thiết kế để tác động
những chức năng nhƣ là sự sắp xếp chủ yếu của nó. Hình thức chủ yếu này điều
khiển và tổng hợp các bộ phận thành kết cấu (structure) của một tác phẩm - đó là
sự trình tự, tầm quan trọng và nó làm cho tất cả vấn đề và các phần của sự vật hợp
thành - vào trong toàn bộ tính đẹp và hiệu quả của một kiểu xác định‖ [68; 102].
Từ định nghĩa trên, ta thấy kết cấu (structure) là một khái niệm quan trọng thể
hiện mối liên hệ giữa các yếu tố bên ngoài và bên trong tác phẩm. Mọi yếu tố cấu
thành tác phẩm trong tính chỉnh thể trọn vẹn của nó đều chịu sự chi phối của kết cấu.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của luận án là kết cấu trong kịch của Samuel Beckett.
Trong phạm vi đề tài, chúng tôi chỉ tìm hiểu các thành tố sau của kết cấu: lời
thoại, nhân vật, cốt truyện, không gian, thời gian. Với từng nội dung cụ thể, chúng
tôi sẽ lựa chọn những thành tố nổi bật để làm đối tƣợng nghiên cứu.



7

4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Xuất phát từ mục đích, phạm vi, đối tƣợng nghiên cứu, luận án sử dụng
phƣơng pháp tiếp cận chủ yếu là thi pháp học cấu trúc trên nền tảng lý thuyết văn
học hậu hiện đại. ―Mục tiêu số một của thi pháp học cấu trúc là tìm ra mô hình cấu
trúc của văn bản, từ đó tìm cách để giải mã văn bản‖ [58; 40] và ―Mục tiêu thứ hai
của trƣờng phái này – chủ nghĩa cấu trúc theo quan điểm R. Jakobson, LTH – là
nghiên cứu hình thái cấu trúc hữu hạn bề ngoài của mô hình để giải mã các tác
phẩm vô cùng đa dạng. Ở đây là đi tìm mối quan hệ giữa chỉnh thể và bộ phận
(quan hệ các bộ phận), quan hệ thời gian, không gian, hoạt động tâm lý (dòng ý
thức, hƣớng tâm hoặc li tâm…) [58; 41]. Chúng tôi sử dụng phƣơng pháp tiếp cận
này để tìm hiểu về kết cấu trong kịch của Samuel Beckett, mối quan hệ giữa các
thành tố tạo thành kết cấu trong kịch của nhà văn này.
Bên cạnh đó còn có các phƣơng pháp và thao tác sau:
- Nghiên cứu so sánh: so sánh các vở kịch của Beckett với nhau và với các vở
kịch của các tác giả đồng đại, lịch đại để thấy đƣợc sự tƣơng đồng, khác biệt, theo
đó, chỉ ra nét đặc trƣng trong kết cấu kịch của tác giả này.
- Phân tích - tổng hợp: phân tích văn bản và các thành tố của kết cấu trong tác
phẩm để thấy đƣợc dụng ý nghệ thuật của Samuel Beckett, qua đó, tổng hợp, khái quát
vấn đề nhằm nhận diện những nỗ lực đổi mới nghệ thuật của nhà văn.
- Phương pháp lịch sử - xã hội: đặt tác giả và văn bản trong mối quan hệ với
thời đại mang tính lịch sử cụ thể để lý giải hình tƣợng nghệ thuật.
5. Đóng góp mới của luận án
5.1. Luận án là công trình đầu tiên ở Việt Nam nghiên cứu hệ thống về kết cấu
trong kịch của Samuel Beckett dựa trên văn bản bằng tiếng Anh. Luận án tìm hiểu
về một số thành tố của kết cấu kịch đƣợc tác giả sáng tạo, đó là quá trình hủy diệt
lời, nhân vật, cốt truyện. Đồng thời, tác giả luận án cũng đi sâu nghiên cứu hai kiểu
kết cấu thƣờng đƣợc Samuel Beckett sử dụng là kết cấu trùng lặp, tuần hoàn và kết
cấu phân mảnh. Những kiểu kết cấu này chứa đựng tƣ tƣởng, quan điểm của nhà

văn về con ngƣời và thế giới. Từ đó, tác giả luận án khẳng định giá trị nội dung và


8

nghệ thuật những vở kịch của Samuel Beckett cũng nhƣ nỗ lực cách tân, đổi mới
sân khấu của nhà văn này.
5.2. Về phƣơng diện lý luận, nghiên cứu kết cấu kịch Samuel Beckett, luận án
góp phần giải mã một hiện tƣợng văn học độc đáo của thế kỷ XX, đồng thời tôn vinh
giá trị sáng tạo nghệ thuật của tác giả từng đoạt giải Nobel văn học này.
5.3. Về phƣơng diện thực tiễn, luận án là công trình đi sâu khai thác vấn đề kết
cấu trong kịch Samuel Beckett, từ đó có thể tạo cơ sở cho việc giảng dạy chuyên đề
về Samuel Beckett nói riêng và về thi pháp kịch hiện đại nói chung.
6. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, nội dung của
luận án gồm 04 chƣơng nhƣ sau:
Chƣơng 1: Tổng quan vấn đề nghiên cứu
Chƣơng 2: Hủy diệt thành tố của kết cấu kịch truyền thống
Chƣơng 3: Kết cấu trùng lặp và tuần hoàn
Chƣơng 4: Kết cấu phân mảnh


9

Chương 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Trong chƣơng này, dựa trên những tài liệu thu thập đƣợc, chúng tôi tìm hiểu
tình hình nghiên cứu kịch Samuel Beckett ở nƣớc ngoài và trong nƣớc theo trình tự
thời gian, ở một số phƣơng diện cụ thể nhƣ phê bình tiểu sử, tiếp nhận, nghiên cứu
văn học so sánh và thi pháp học.

1.1. Tình hình nghiên cứu kịch Samuel Beckett ở nƣớc ngoài
Thế giới đã có hàng nghìn các công trình lớn nhỏ nghiên cứu về kịch của
Samuel Beckett nói riêng và sự nghiệp văn học của ông nói chung. Do giới hạn
trình độ của ngƣời thực hiện đề tài, luận án chỉ tiếp cận một số công trình tiêu biểu
về Samuel Beckett bằng tiếng Anh (từ những năm 1950 đến nay).
Thứ nhất, về phương diện phê bình tiểu sử, kịch Samuel Beckett đƣợc nghiên
cứu từ rất sớm, đặc biệt phải kể đến từ sau thành công của vở Trong khi chờ Godot
đƣợc biểu diễn lần đầu tiên tại Nhà hát Babylone ở Pháp (1953). Các nhà phê bình
quan tâm nhiều vấn đề về Samuel Beckett cũng nhƣ tác phẩm của ông, từ tiểu sử,
con ngƣời, sự nghiệp sáng tác đến các góc cạnh của đời sống nghệ thuật. Có thể kể
ra một số tác giả tiêu biểu nghiên cứu về Samuel Beckett nhƣ: Martin Esslin, Hugh
Kenner, Rónán McDonald, Sarah West, Linda Lin…
Israel Shenker là nhà báo ngƣời Mỹ của tờ New York Time (Thời báo New
York), ông đã xuất bản bài phỏng vấn quan trọng đầu tiên về Beckett (ngày
05/5/1956, Phần II, tập 1, số 3). Trong bài viết này, ông cho rằng: ―Beckett không
muốn đƣa ra lời giải thích. Ông khẳng định rằng cho đến lúc này ông chƣa bao giờ
đƣợc phỏng vấn, và nhắc đến điều đó với những ngƣời muốn biết quan điểm về các
tác phẩm ông đã xuất bản. Gần nhƣ gặp Beckett cũng khó không kém gặp Godot,
ngƣời không bao giờ xuất hiện trong vở kịch, mặc dù mọi ngƣời đều chờ đợi ông.
Địa chỉ ở Paris của Beckett đƣợc giữ bí mật và không nhiều hơn chục ngƣời biết vị
trí nhà riêng của ông ở nông thôn‖ [100; 160]. Khi ―Beckett đƣợc hỏi: Tại sao ông
chọn viết kịch sau khi sáng tác tiểu thuyết? Ông trả lời: Tôi không chọn viết kịch, nó
chỉ xảy ra như vốn dĩ là thế [100; 163]. Nói về dụng ý xây dựng cấu trúc kịch, Israel


10

Shenker viết: ―Các nhà phê bình cho rằng cấu trúc và thông điệp của Godot để cho
tác giả tự do dừng bút bất cứ lúc nào. Samuel Beckett không đồng ý: Một hồi quá
ngắn và ba hồi thì quá dài‖ [100; 163]. Samuel Beckett vốn rất hiếm khi trả lời

phỏng vấn, hay trực tiếp phát biểu điều gì về nghệ thuật. Vì thế, bài phỏng vấn của
Israel Shenker đã phần nào gợi mở cho chúng ta về quan niệm của Samuel Beckett
cũng nhƣ sự cân nhắc kỹ lƣỡng của ông khi xây dựng kết cấu kịch.
Samuel Beckett là ngƣời gốc Ireland, năm 1937, ông định cƣ ở Pháp. Giai
đoạn đầu, các sáng tác của ông viết bằng tiếng Anh và sau đó, khi mang đến các nhà
xuất bản, ông chuyển hẳn sang viết bằng tiếng Pháp. Các vở kịch của Samuel
Beckett đa số đƣợc ông viết bằng tiếng Pháp trƣớc rồi tự ông chuyển dịch sang các
sáng tác bằng tiếng Anh.
Trong cuốn A Reader’s Guide to Samuel Beckett (Hướng dẫn bạn đọc về
Samuel Beckett) (1973), nhận định về việc Samuel Beckett sáng tác bằng cả hai thứ
tiếng, Hugh Kenner đã viết nhƣ sau: ―Có nhiều cuốn sách và vở kịch trong sự
nghiệp của ông ấy. Beckett chắc chắn bận rộn kể từ năm 1945, một nhận định hiển
nhiên khi chúng ta phản ánh rằng thói quen của nhà văn viết mọi thứ hai lần, cả
bằng tiếng Pháp và tiếng Anh, chúng đều xuất sắc nhƣ nhau, rằng ông ấy là một nhà
văn chăm chỉ - bởi việc rút gọn văn bản từ nhiều bản phác thảo và số lƣợng các từ
đã in có thể nén lại thành một tác phẩm. Hầu nhƣ chúng ta có thể nói rằng - dù đây
là sự cƣờng điệu có chủ đích - ông ấy không có tác phẩm nhỏ nào, mỗi một công
trình đều quan trọng nhƣ nhau, mặc dù thực sự có vài tác phẩm rất ngắn gọn. Mỗi
tác phẩm đều là sự khởi đầu mới, với các nhân vật mới đƣợc nhà văn suy nghĩ sâu
sắc trong một thế giới mới. Và trong khi một vài tác phẩm thành công hơn, quan
trọng hơn nhƣng không có tác phẩm nào bị coi nhẹ‖ [110; 11]. Nhận xét của Hugh
Kenner đã khẳng định chất lƣợng những vở kịch của Beckett khi sáng tác bằng cả
hai thứ tiếng. Điều đó chứng tỏ tài năng trong việc sử dụng ngôn ngữ của tác
giả này.
Năm 2005, trở lại với vấn đề sáng tác bằng song ngữ của Samuel Beckett,
Julien F. Carrière với nghiên cứu Samuel Beckett and Bilingualism: How the return
to English influences the later writing style and gender roles of “All that fall” and


11


“Happy Days” (Samuel Beckett và Song ngữ: Trở lại việc tiếng Anh ảnh hưởng như
thế nào tới vai trò thể loại và phong cách viết sau này của “Tất cả những người ngã
xuống” và “Những ngày tươi đẹp”), đã cho rằng: ―Nghiên cứu trọn vẹn về Beckett
- ở phƣơng diện sử dụng thông thạo cả hai ngôn ngữ - chắc hẳn phải đƣa vào tất cả
bản kê khai về ngôn ngữ mà ông đã nói và thành thạo. Rất nhiều công trình phê
bình dày công nghiên cứu mối quan hệ của Beckett với ngôn ngữ ông sử dụng:
tiếng Pháp, tiếng Ý và tiếng Đức ở mức độ nào đó. Rõ ràng, các nhà phê bình có xu
hƣớng cho rằng tiếng Pháp ảnh hƣởng đến văn phong và mỹ học của Beckett, cũng
nhƣ với tiếng Ý, lần theo dấu vết, và với tiếng Đức khi xem xét các vở kịch mà ông
đã hiểu rõ bằng tiếng Đức. Và tuy nhiên, rất nhiều nhà phê bình cũng công nhận
nhƣ vậy về mối quan hệ của ông với tiếng Anh. Mối quan hệ phức tạp của Beckett
với tiếng Anh cung cấp một ý tƣởng vô giá để xuất phát nghiên cứu các tác phẩm
độc lập, cũng nhƣ giúp ích tạo cơ sở để hiểu rõ sự thay đổi về ngôn ngữ đã diễn ra
trong tiến trình sự nghiệp của ông. Mối quan hệ của Beckett với tiếng mẹ đẻ là một
yếu tố cần thiết trong việc nghiên cứu hiện nay‖ [88; 4]. Nhận định của Julien F.
Carrière cũng cho ta thấy tầm quan trọng khi cần phải nghiên cứu các vở kịch của Samuel
Beckett viết bằng tiếng Anh, bên cạnh những ngôn ngữ khác mà nhà văn sử dụng.
Một công trình tƣơng đối khái quát về cuộc đời Samuel Beckett, bối cảnh thời
đại và văn hóa - xã hội, đời sống phê bình văn học cũng nhƣ phân tích một số tác
phẩm tiêu biểu của ông phải kể đến cuốn The Cambridge Introduction to Samuel
Beckett (Giới thiệu Samuel Beckett của Trường Đại học Cambridge) (2006) của tác
giả Rónán McDonald. Trong phần viết về con ngƣời Samuel Beckett, Rónán
McDonald cho rằng: ―Ngƣời đàn ông trẻ với một chút tài năng về hạnh phúc, tuy
thích sự giáo dục đầy yêu thƣơng, lại không thể tìm thấy nguyên nhân của sự khổ
cực trong giới hạn thời gian cụ thể. Vì thế, ông ấy nhận ra những nguyên nhân của
đau khổ dễ dàng hơn trong cái nhìn bi quan về thế giới hay sự tồn tại của chính nó.
Bởi lẽ căn nguyên của đau khổ không phải từ xã hội hay chính trị, do đó, cả hai yếu
tố này đều không giải quyết đƣợc đau khổ‖ [117; 9].
Năm 2008, Sarah West với công trình Say it: The performative voice in the

Dramatic Works of Samuel Beckett (Nói về điều này: Giọng điệu biểu diễn trong


12

các vở kịch của Samuel Beckett) đã có hƣớng nghiên cứu mới khi tập trung vào
giọng điệu trong kịch Samuel Beckett. Từ phƣơng diện tiểu sử của tác giả, ngƣời
viết cho rằng: ―Beckett bắt đầu sự nghiệp của mình vào năm 1929, nhƣng mặc dù
bắt đầu rất sớm, phải mất gần 20 năm trôi qua trƣớc khi ông hợp nhất giọng điệu
nghệ thuật trong một nguyên thể của kịch và văn xuôi. Một trong những lý do của
sự chậm trễ này là do chiến tranh. Sau khi định cƣ ở Paris vào năm 1937, Beckett
ban đầu làm việc cho Nhóm Kháng chiến của Pháp trƣớc khi chạy trốn tới
Roussillon, nơi ông ẩn giấu đến năm 1945. Một lý do nữa giải thích tại sao Beckett
dành nhiều thời gian viết tiểu thuyết và kịch, những thứ khiến ông nổi tiếng là bởi
ảnh hƣởng của James Joyce‖ [144; 19]. Và ở một đoạn khác: ―Trong kịch của ông,
ngoại trừ Không phải tôi, Beckett dƣờng nhƣ ít quan tâm hơn đến việc thiết lập bản
sắc thực sự của giọng nói, đóng vai trò trung tâm thay vì điều giọng nói muốn nói,
và có lẽ quan trọng hơn là giọng nói muốn nhƣ thế nào hoặc là bị ép buộc để nói về
điều đó‖ [144; 36].
Nhà phê bình Lidan Lin đã viết bài Samuel Beckett’s Encounter with the East,
(Cuộc gặp gỡ của Samuel Beckett với phương Đông) đăng trên tạp chí English
Studies (Nghiên cứu tiếng Anh), tập 91, số 6, tháng 10/2010, trang 623-642. Tác giả
nhận định: ―Giống nhƣ văn chƣơng của mọi tác gia vĩ đại, văn phong Beckett cũng
chịu ảnh hƣởng bởi sự đa dạng của văn học và văn hóa truyền thống, Ai-len, Pháp
và Đức, cũng nhƣ sự đa dạng của hệ thống tín ngƣỡng tôn giáo và triết học, chủ
nghĩa hiện sinh, chủ nghĩa cực hạn, chủ nghĩa thần bí Thiên Chúa giáo, chủ nghĩa
hiện đại và chủ nghĩa hậu hiện đại‖ [113; 623]. Theo nghiên cứu này, Lidan Lin đã
chứng minh sự ảnh hƣởng của Samuel Beckett từ Phật giáo và Hin-đu giáo, từ
Arthur Schopenhauer đến Đạo Lão - Trung Quốc.
Năm 2011, Charles A. Carpenter dày công thống kê các công trình đã xuất bản

trên thế giới về Samuel Beckett bằng tiếng Anh, tiếng Pháp và tiếng Đức trong cuốn
The Dramatic Works of Samuel Beckett (A Selective Bibliographi of Publications
About his Plays and their Conceptual Foundations) (Các tác phẩm kịch của Samuel
Beckett (Tuyển thư mục các ấn bản về kịch của ông và Cơ sở Khái niệm của các ấn
bản đó) [87]. Với hơn 500 trang, công trình đƣợc chia thành các phần: các ấn bản


13

tập trung vào tiểu sử, cuộc đời Samuel Beckett, các trang website nói về Samuel
Beckett, các ấn bản tập trung vào kịch Beckett, các công trình về từng vở kịch riêng
lẻ… Đơn cử chỉ nói riêng về vở kịch Trong khi chờ Godot từ trang 382 đến trang
453 đã có ƣớc khoảng 1080 ấn phẩm. Những con số này cho ta thấy rõ kịch của
Samuel Beckett đƣợc các nhà phê bình trên thế giới rất quan tâm.
Emilie Morin, giảng viên trƣờng Đại học York, với bài Samuel Beckett, the
wordless song and the pitfalls of memorialisation (Samuel Beckett, bài hát không lời
và những cái bẫy của ký ức) đăng trên Irish Studies Review (Tạp chí Nghiên cứu Ailen), tập 19, số 2, năm 2011, đã cho rằng: ―Trong trƣờng hợp này, việc tự dịch tác
phẩm của mình đã mở ra những khả năng mới để miêu tả sự ngẫu nhiên của suy nghĩ
và hành động, một viễn cảnh về tác phẩm song ngữ của Beckett đã chứng minh: quả
thực, lối đọc so sánh việc đọc đã chỉ ra vai trò thực hiện của việc tự dịch tác phẩm
nhƣ là sự tái tạo văn bản, và đổi lại sự tái tạo văn bản nhƣ là phƣơng tiện nói lên
những quan tâm về bản chất của văn hóa và ký ức‖ [118; 185]. Và ở đoạn khác: ―Mặc
dù, vấn đề trí nhớ không chính xác là trung tâm của bốn tiểu thuyết và có chung mạch
lạc, nhƣng một vài phƣơng diện về lịch sử xuất bản các tác phẩm kể trên hé mở ra sự
lƣỡng lự của Beckett về tầm quan trọng, đáng lẽ cần công nhận về việc đã hình dung
ra những cản trở ở cấp độ cấu trúc ngôn ngữ và phép ẩn dụ‖ [118; 193].
Nhƣ vậy, ở phƣơng diện phê bình tiểu sử, các nhà nghiên cứu đã đi sâu khám
phá các góc cạnh trong đời sống riêng tƣ cũng nhƣ tính cách con ngƣời của Samuel
Beckett. Là một con ngƣời trầm tƣ, không thích thể hiện, Samuel Beckett ít khi phát
biểu về mình cũng nhƣ về tác phẩm của ông. Nhƣng có một điều không thể phủ

nhận đƣợc là sự quan tâm đặc biệt của Samuel Beckett đối với việc xây dựng kết
cấu trong kịch cũng nhƣ khả năng sử dụng ngôn ngữ tài tình của nhà văn khi sáng
tác kịch bằng cả hai ngôn ngữ, tiếng Pháp và tiếng Anh.
Thứ hai là về phương diện tiếp nhận, tác giả luận án tiếp cận một vài công
trình nghiên cứu về mối quan hệ giữa độc giả và kịch Samuel Beckett.
Khẳng định tầm ảnh hƣởng của Samuel Beckett đối với sân khấu nói chung và
giới nghệ sỹ nói riêng, năm 2009, Mark Nixon và Matthew Feldman đồng biên tập,
xuất bản cuốn The International Reception of Samuel Beckett (Sự tiếp nhận mang


14

tính quốc tế về Samuel Beckett), trong đó, có bài Samuel Beckett’s Reception in
Australia and New Zealand (Sự tiếp nhận Samuel Beckett ở Australia và New
Zealand) của Russel Smith và Chris Ackerley. Tác giả đã nhận xét: ―Ngƣời ta cho
rằng qua các tác phẩm của Beckett, không nghi ngờ gì nữa, ông nổi tiếng hầu nhƣ
khắp nơi, ở Australia cũng nhƣ bất kỳ nơi nào‖ [122; 109]. Nhà nghiên cứu còn
viết: ―Thật khó để đo đƣợc quy mô ảnh hƣởng của Beckett đối với sân khấu
Australia. Một mặt, đó là sự ảnh hƣởng lan tỏa khắp nơi mà Godot tiếp tục đƣợc
ứng dụng, ở đó, tiềm năng cho sân khấu hiện đại đƣợc mở rộng chƣa từng có. Mặt
khác, văn phong của Beckett có một không hai và hiếm nhà viết kịch nào cố gắng
nhận diện đƣợc bất cứ điều gì đặc trƣng của Beckett, mặc dù họ có lẽ nhận thức
đƣợc di sản của Beckett nhƣ là một ảnh hƣởng‖ [122; 118].
Năm 2011, Lidan Lin cùng với Helong Zhang có bài The Chinese Response to
Samuel Beckett (1906-89) (Sự tiếp nhận của người Trung Quốc với Samuel Becket
(1906-89)) đăng trên Irish Studies Review (Tạp chí Nghiên cứu Ai-len), tập 19, số 4.
Trong bài này, tác giả đã đƣa ra nhận định: ―Để bắt đầu thảo luận về sự tiếp nhận
Beckett trên lục địa Trung Quốc, có hai điểm cần công bố. Thứ nhất, tác phẩm của
Beckett không đƣợc giới thiệu ở Trung Quốc cho đến giữa những năm 1960, mặc
dù tác phẩm của ông đƣợc xuất bản cuối những năm 1920 và đầu những năm 1930.

Thứ hai, Beckett đƣợc giới thiệu lần đầu tiên là nhà viết kịch, mặc dù ông bắt đầu là
một nhà viết tiểu thuyết, và hơn nữa, quan trọng hơn, là một điển hình tiêu cực của
nhà viết kịch phƣơng Tây suy đồi bị phản đối kịch liệt và bị phủ nhận‖ [114; 414].
Tác giả đã đi đến kết luận: ―Nhƣ trên đã chỉ ra, sự tiếp nhận Beckett ở Trung
Quốc không chỉ bị trì hoãn rất lâu mà còn đi qua nhiều giai đoạn khác nhau, từ sự bác
bỏ ở giai đoạn đầu tới dần dần hiểu và chấp nhận của giới học thuật Trung Quốc nói
chung. Một điều thú vị là khi chúng ta chú ý điểm tƣơng quan giữa sự tiếp nhận
Beckett ở Trung Quốc và trong một vài quốc gia châu Á nhƣ Nhật Bản, nơi mà Beckett
cũng nổi tiếng hơn cả với tƣ cách là nhà viết kịch. Mặc dù, ông đƣợc nói đến một cách
vắn tắt ở Nhật vào đầu những năm 1930 thông qua việc xuất bản Proust và các tác
phẩm văn xuôi khác nhƣng ông ấy không đƣợc nghiên cứu công phu, cho đến khi
ngƣời Nhật đầu tiên dịch Trong khi chờ Godot xuất bản năm 1956, sớm hơn 10 năm so


15

với bản dịch của ngƣời Trung Quốc. Về bản dịch, ngƣời Nhật dƣờng nhƣ dịch tốt hơn
so với ngƣời Trung Quốc, nơi mà hầu hết tác phẩm bằng tiếng Anh của Beckett (hiện
tại) vẫn không đƣợc dịch, và do đó, khó hiểu với độc giả nếu không đọc hiểu đƣợc
tiếng Anh. Ở Nhật, mặt khác, vở kịch của Beckett đã đƣợc dịch và xuất bản trong Kịch
toàn tập của Beckett vào năm 1967, và Murphy, Châm chọc nhiều hơn đấm đá (More
Pricks than Kicks) đƣợc dịch năm 1978‖ [114; 421]. Bài viết của tác giả đã khái quát
lịch sử tiếp nhận Samuel Beckett cũng nhƣ kịch của ông ở đất nƣớc rộng lớn nhƣ
Trung Quốc và so sánh với Nhật Bản. Quá trình tiếp nhận này, xét về mặt nào đó, có sự
tƣơng đồng với Việt Nam, khi mà tác phẩm đầu tiên của nhà văn này đƣợc Hoàng
Ngọc Biên dịch vào những năm 1960 và đăng trên một tờ báo ở Sài Gòn.
Cũng nghiên cứu về sự tiếp nhận kịch Samuel Beckett ở phạm vi của một
quốc gia, năm 2013, trong bài The Reception of Samuel Beckett in Croatia during
the 1950s (Sự tiếp nhận Samuel Beckett ở Croatia trong suốt những năm 1950)
đăng trong Scando-Slavica (Tạp chí Khoa học bao gồm ngôn ngữ Slave và Bắc Âu),

tập 59, số 2, trang 207-218, Mirna Sindiěié Sabljo đã ghi nhận: ―Tác phẩm của
Samuel Beckett đã cuốn hút sự chú ý của ngƣời Croatia từ sớm, sau buổi công diễn
đầu tiên của vở Trong khi chờ Godot ở Paris năm 1953. Đạo diễn sân khấu lừng
danh ngƣời Croatia, Marko Fotez đã đến Paris năm 1954, và sau khi trở về, ông đã
công bố bài viết về bức tranh sân khấu Paris trên một tờ nhật san‖ [134; 210]. Tác
giả cũng đánh giá: ―Tuy nhiên, bên cạnh những giới thiệu cung cấp thông tin mang
tính khẳng định, một số bài phê bình có tính chất phủ định cũng đƣợc xuất bản
trong suốt những năm 1950 và 1960. Cách đánh giá về tác phẩm Beckett của các
nhà phê bình gần nhƣ đƣợc dẫn đƣờng bởi sự thăng thiên của ý thức hệ. Phê bình
Marxist, với một số các nhà phê bình Croatia trong số đó, nhìn chung, có xu
hƣớng đánh giá tác phẩm của Beckett nhƣ là minh họa của sự suy tàn trong xã
hội tƣ bản phƣơng Tây đƣơng thời‖ [134; 211].
Qua những nghiên cứu trên, ta thấy thời gian đón nhận tác phẩm của Samuel
Beckett tùy thuộc vào nhiều yếu tố: văn hóa, chính trị, xã hội… Ở giai đoạn đầu
(những năm 50 - 60 của thế kỷ XX), có nhiều ý kiến trái ngƣợc nhau về giá trị của
kịch Samuel Beckett, thậm chí một số nơi xem tác phẩm của Beckett tiêu biểu cho


16

chủ nghĩa hƣ vô, tiêu cực, bi quan. Nhƣng ở giai đoạn sau, các nhà phê bình ở nhiều
quốc gia khác nhau đã thống nhất trong sự phê bình, tiếp nhận, đánh giá và đề cao
những sáng tạo, đóng góp nghệ thuật của Samuel Beckett trong nỗ lực đổi mới sân
khấu. Thêm vào đó, sự tiếp nhận tác phẩm của Samuel Beckett diễn ra không đồng
đều về mức độ. Nếu nhƣ ở các nƣớc phƣơng Tây, kịch Samuel Beckett đƣợc đông
đảo ngƣời đọc/xem biết thì ở phƣơng Đông, tác phẩm của ông nói chung và kịch nói
riêng dƣờng nhƣ đƣợc tiếp nhận muộn hơn.
Thứ ba, về phƣơng diện nghiên cứu so sánh, có hai khuynh hƣớng: so sánh
các tác phẩm của Beckett với nhau và so sánh tác phẩm của Beckett với các nhà văn
khác. Ở khuynh hƣớng thứ nhất, có một số bài viết tiêu biểu của các tác giả nhƣ:

Michael Y. Bennet, Abhinaba Chatterjee, Marzich Keshavarz.
Năm 2012, với bài The Response to the Offstage Presence in Beckett's “Act
Without Words I” and “Act Without Words II” (Hồi đáp về Sự Hiện diện ngoài sân
khấu trong “Động tác không lời I” và “Động tác không lời II” của Beckett) đăng
trên ANQ: A Quarterly Journal of Short Articles, Notes and Reviews (Tạp chí hằng
quý các Bài báo ngắn, những Ghi chú và các bài Phê bình), tập 25, số 1, Michael
Y. Bennett đã nhận định về các nhân vật trong hai vở kịch của Beckett. Tác giả viết:
―Tuy nhiên, Beckett không quan tâm có hay không tồn tại sự hiện hữu ở ngoài sân
khấu. Điều quan trọng với Beckett là các nhân vật phản ứng lại với sự hiện hữu nhƣ
thế nào. Tôi biện minh rằng hai vở kịch ngắn này biểu lộ hai phản ứng khác nhau để
chống lại tác nhân kích thích và/hay lực đẩy: sự hiện hữu ở ngoài sân khấu có ảnh
hƣởng xấu hay tốt. Trong Động tác không lời I, nhân vật phản ứng lại thách thức và
chống lại của những ngƣời theo thuyết hiện sinh Camus với sự hiện hữu ngoài sân
khấu có ảnh hƣởng xấu. Trong Động tác không lời II, nhân vật cảm thấy hài lòng
khi đƣợc là chính họ, khi đƣơng đầu với sự hiện diện ngoài sân khấu có ảnh hƣởng
tốt. Lối đọc này quan trọng bởi vì không nhƣ kiểu nhìn thế giới ảm đạm của
Beckett, xem xét về việc phản ứng lại thế giới xấu hay tốt tập trung vào sức mạnh
của con ngƣời và ý thức không ngừng của Beckett vào ý-chí-để-sống‖ [146; 16].
Những so sánh của Michael Y. Bennett là gợi ý tốt cho chúng tôi trong quá trình
đọc - hiểu kịch của Samuel Beckett.


17

Năm 2012, Micheal Y. Bennett lại tiếp cận từ phƣơng diện so sánh kịch với
tác phẩm văn xuôi trƣớc đó của Beckett. Trong bài The Cartesian Beckett: The
mind - body split in Murphy and Happy Days (Beckett với tư tưởng của Descartes:
Tinh thần - thể xác chia tách trong “Murphy” và “Những ngày tươi đẹp”), in trong
A Quarterly Journal of Short Articles, Notes, and Reviews (Tạp chí hằng quý các
Bài báo ngắn, những Ghi chú và Phê bình), tập 25, số 2, tác giả nhận xét: ―Kết thúc

tiểu thuyết Murphy của Samuel Beckett (1938), đƣa ra giả thuyết rằng Murphy có
ba phần riêng biệt (thể xác, tri thức và linh hồn). Ba phần này không hợp nhất trong
Murphy. Thay vì thế, tôi cho rằng Beckett mƣờng tƣợng sự phân chia rõ ràng theo
thuyết của Descartes giữa tri thức và thể xác (và tâm hồn, với vấn đề này, cũng
vậy). (…) Những năm sau đó, vào năm 1961, trong vở kịch Những ngày tươi đẹp,
Beckett đã trở lại ý tƣởng này về sự chia cắt giữa tri thức và thể xác. Khi Winnie,
trong hồi II, đang bị chôn vùi trong đống cát đến cổ, bà thực sự không thể làm gì
được nữa. Cơ thể bà trở nên bất động và không thể làm gì đƣợc - trong tình trạng
nhƣ thế mà cứ kéo dài sự tồn tại hiện sinh - điều này có thể giả định rằng theo chủ
nghĩa hiện sinh, Winnie nên ngừng sống. Tuy nhiên, có thể Winnie hiểu rằng, lý lẽ
đƣợc biểu thị chính nó qua ngôn từ, trở thành những phƣơng tiện cho sự sống còn.
Sự cần thiết của lời nói (Nhưng tôi cần phải nói nữa) và sự cần thiết của lý lẽ là căn
cứ của kịch Beckett‖ [145; 118]. Chúng tôi đồng tình với quan điểm của tác giả ở
bài viết này, khi cho rằng lời lẽ chính là yếu tố quan trọng đối với nhân vật của
Samuel Beckett. Nhận định của ngƣời viết còn cho chúng tôi thấy đƣợc sự tiếp nối
trong tƣ tƣởng của Beckett từ văn xuôi chuyển hóa vào kịch. Điều này làm sáng tỏ
một số vấn đề về đặc trƣng kết cấu của kịch Samuel Beckett mà chúng tôi sẽ triển
khai ở phần sau.
Năm 2012, Marzieh Keshavarz giảng viên Khoa ngôn ngữ nƣớc ngoài, Đại
học Shiraz, Iran, đã nghiên cứu xu hƣớng hậu hiện đại trong hai vở kịch của Beckett
với bài Beckett’s Metatheatrical Philosophi: A postmodern Tendency Regarding
“Waiting for Godot” and “Endgame” (Triết lý siêu kịch của Beckett: Xu hướng hậu
hiện đại liên quan đến “Trong khi chờ Godot” và “Tàn cuộc”) đăng trên tạp chí
Mediterranean Journal of Social Sciences (Tạp chí Địa Trung Hải về Khoa học Xã


18

hội), tập 3. Tác giả nhận định: ―Trên thực tế, Beckett đã từ bỏ những quy ƣớc thông
thƣờng để chỉ ra sự phi lý và thiếu ý nghĩa trong cuộc sống hiện đại. Để đạt đƣợc

mục tiêu này, ông ấy thay thế những vở kịch theo quy ƣớc thông thƣờng của một
thế giới có tính logic bởi một thế giới mảnh vỡ đầy những ngôn từ vô nghĩa đƣợc
nói ra bởi các nhân vật, để chứng thực bầu không khí nhƣ giấc mơ của sự phi lý bao
quanh toàn bộ vở kịch. Cách tân của ông bao gồm tất cả các yếu tố thông thƣờng
của sân khấu, bao gồm cốt truyện, sự mô tả tính cách nhân vật, ngôn ngữ và thời
gian. Việc lạ hóa những khái niệm quen thuộc này thiết lập cơ sở của tính siêu-kịch
để có thể trình diễn những hành động buộc chúng ta phải nhận thức trạng thái xa lạ
vây quanh toàn bộ vở kịch [108; 137].
Abhinaba Chatterjee với hƣớng đi khác khi tìm hiểu hai vở kịch của Samuel
Beckett dƣới ảnh hƣởng tính phi lý theo quan điểm Camus trong bài Camus's
Absurdity in Beckett's Plays: “Waiting for Godot” and “Krapp's Last Tape”(Tính
phi lý của Camus trong những vở kịch của Beckett: “Trong khi chờ Godot” và
“Cuộn băng cuối cùng của Krapp”) đăng trên tạp chí Lapis Lazuli-An International
Literary Journal (Lapis Lazuli - Tạp chí Văn chương Quốc tế) tập 3, số 2, năm
2013, đã cho rằng: ―Đồng thời, quan điểm của Camus và Nietzsche giả định rằng
khái niệm về Chúa không thể có ý nghĩa trong một thế giới ở đó sự phi lý bao
quanh; niềm tin vào Chúa đòi hỏi sự phục tùng tƣ tƣởng cho rằng có một cách hợp
lý hóa sự tồn tại. Chủ nghĩa phi lý bác bỏ tƣ tƣởng này và bởi vì khái niệm Chúa
không thể hòa hoãn với Phi lý, tôn giáo không còn chỗ đứng trong xã hội nữa. Xã
hội không có Chúa gần đây đã đƣợc định nghĩa bởi những phẩm chất phi lý, đƣợc
phổ biến qua các tác phẩm của Samuel Beckett‖ [89; 198].
Và ở một đoạn khác: ―Mặc dù khán giả đã quen thuộc với kiểu sân khấu mang
tính hiện đại và đã có các kiểu thức thử nghiệm trƣớc khi vở kịch Trong khi chờ
Godot của Beckett xuất hiện năm 1953, đây vẫn là vở kịch có phạm vi ảnh hƣởng
sâu sắc và rộng lớn nhất. Trƣớc vở kịch này, khán giả có thể mong đợi một vở kịch
hoàn hảo loại kịch - hệt nhƣ - cuộc đời, các nhân vật có tâm lý y nhƣ thật, hội thoại
hài hƣớc, và diễn xuất khéo léo, những cốt truyện có quan hệ nhân - quả với phần
mở đầu thắt nút ngắn gọn, phần giữa và phần kết thúc tƣơng tự các vở kịch của GB



19

Shaw và Ibsen. Tuy nhiên, Trong khi chờ Godot phá vỡ những sự mong đợi này ở
mọi phƣơng diện. Vòng tròn của vở kịch hoàn toàn không theo quy luật thông
thƣờng. Sự phát triển cốt truyện theo lối truyền thống nguyên nhân/ hiệu quả bị bỏ
rơi trong vở kịch này. Động thái trong vở kịch mang tính vòng tròn và đối xứng.
Hồi hai tƣơng tự nhƣ hồi một. Không có gì xảy ra ngoại trừ cái cây có vài cái lá
biểu thị sự trôi đi siêu thực của thời gian‖ [89; 199]. Với bài viết này, tác giả đã chỉ
ra đặc điểm cốt truyện của vở kịch nổi tiếng nhất của Samuel Beckett.
Năm 2014, Iain Bailey đề xuất tiếp cận Samuel Beckett thông qua các khái
niệm sự hiểu biết và liên văn bản trong bài viết Like a Sweat of Things’:
Familiarity, Intertextuality, and Beckett's Bibles (Tựa bài toán khó của những vấn
đề: Sự quen thuộc, Liên văn bản, và Những kinh thánh của Beckett) in trong Textual
Practice (Thực hành văn bản) tập 28, số 1. Ông viết: ―Sự quen thuộc truyền bá hai
quan điểm về thực tiễn phê bình trong nghiên cứu Beckett. Ở trƣờng hợp thứ nhất,
đó là tài liệu lƣu trữ khả dĩ tạo ra sự quen thuộc có thể giải thích đƣợc theo kinh
nghiệm và cũng tùy thuộc vào tiêu chuẩn của độ chính xác - tùy thuộc vào vấn đề.
Trong trƣờng hợp thứ hai, sự quen thuộc là thứ tồn tại trong những khoảng trống
nằm giữa sự đánh dấu lƣu trữ. Sự quen thuộc đƣợc nắm bắt giữa hai vị trí của tính
có thể chứng minh đƣợc và tính không thể chứng minh đƣợc, là một khái niệm
không dễ để phân tích. Đồng thời, dƣờng nhƣ nó miêu tả điều gì đó hƣớng thẳng
đến mối quan hệ của tác giả và bạn đọc với văn bản, vốn có thể đƣợc chứng minh
theo cách này hay cách khác, và trong những sự phát triển - nhƣng chỉ tùy thuộc vào
một vấn đề. Nhƣ tôi sẽ tranh luận trong bài báo này, sự quen thuộc là một vấn đề
gây tranh cãi trong lý thuyết liên văn bản, cũng liên quan đến những hàm ý khi vận
dụng vào việc đọc tác phẩm của Beckett‖ [74; 143].
Bên cạnh khuynh hƣớng thứ nhất, so sánh giữa các tác phẩm của Samuel
Beckett, còn có khuynh hƣớng thứ hai là so sánh giữa tác phẩm của Samuel Beckett
với tác phẩm của các nhà văn khác (đồng đại hoặc lịch đại).
Martin Esslin là nhà phê bình nổi tiếng khi ông khai sinh thuật ngữ Theatre of

the Absurd (Kịch phi lý). Trong bài The Theatre of the Absurd (Kịch phi lý) in trong
tờ The Tulane Drama Review (Tạp chí Kịch vùng Tulane) tập 4, số 4, 5/1960, ông


×