MỞ ĐẦU
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Hòa nhịp vào xu thế phát triển chung của thế giới, ngành giáo dục nước ta
đang ngày một đổi mới mạnh mẽ trên các lĩnh vực để có thể đào tạo những con
người toàn diện phục vụ cho sự phát triển khoa học – kĩ thuật và công nghệ.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo
dục và đào tạo nêu rõ: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp nhận và học
theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo, và vận dụng kiến
thức, kĩ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ
máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để
người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kĩ năng, phát triển năng lực. Chuyển
từ học chủ yếu trên lớp sang hình thức học tập đa dạng, chú ý các hoạt động xã
hội, ngoại khóa , nghiên cứu khoa học”. Một trong những trọng tâm của chương
trình đổi mới giáo dục là tập trung đổi mới phương pháp dạy học theo hướng
phát huy tính tích cực, tự lực, chủ động của người học; tăng cường sử dụng tối
ưu các phương tiện dạy học. Trong nhiều năm gần đây, việc đổi mới phương
pháp để nâng cao hiệu quả dạy học nói chung, dạy học hóa học nói riêng đã
được quan tâm, đầu tư đáng kể.
Hóa học là môn khoa học vừa lí thuyết vừa thực nghiệm, trong đó có nhiều
khái niệm khó và trừu tượng. Cho nên, một trong những định hướng đổi mới dạy
học hóa học là: khai thác đặc thù môn hóa học, tạo ra các hình thức hoạt động đa
dạng, phong phú cho học sinh trong tiết học. Cụ thể là tăng cường sử dụng thí
nghiệm hóa học, các phương tiện trực quan, phương tiện kĩ thuật hiện đại trong
dạy học hóa học. Có thể nói việc sử dụng thí nghiệm trong dạy học hóa học là
việc làm hết sức cần thiết để nâng cao hiệu quả bài lên lớp và phát huy tính tích
cực học tập của học sinh. Thí nghiệm hóa học có vai trò rất quan trọng vì chúng
không chỉ là phương tiện, công cụ lao động của hoạt động dạy học mà thông qua
đó giúp cho quá trình khám phá, lĩnh hội tri thức khoa học của học sinh trở nên
sinh động và hiệu quả hơn. Hiện nay, để thực hiện đổi mới dạy học hóa học ở
trường THPT có hiệu quả thì việc sử dụng các phương tiện dạy học, đặc biệt thí
nghiệm, là một yêu cầu bắt buộc.
1
Tuy nhiên, qua tìm hiểu thực tế ở các trường THPT, đặc biệt là các trường
ở khu vực nông thôn, phần lớn giáo viên chưa có thói quen sử dụng phương tiện
dạy học, tình trạng “dạy chay, học chay” vẫn còn tồn tại, học sinh quen với lối
học thụ động nên hiệu quả dạy học chưa cao. Hơn nữa, cách thức sử dụng thí
nghiệm hóa học cũng chưa có nhiều đổi mới, chủ yếu để minh họa cho kiến thức
chứ chưa khai thác theo hướng dạy học tích cực để kích thích tư duy, phát triển
khả năng tìm tòi, sáng tạo cho học sinh. Vì vậy, cần phải đổi mới cách thức sử
dụng thí nghiệm theo hướng tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh nhằm
khai thác có hiệu quả những lợi ích to lớn của thí nghiệm trong dạy học hóa học.
Xuất phát từ những lí do trên đây, chúng tôi nhận thấy rằng, cần phải tăng cường
sử dụng thí nghiệm trong dạy học hóa học và đổi mới cách thức sử dụng thí
nghiệm một cách có hiệu quả, nhằm phát huy cao độ tính tích cực học tập của
học sinh. Chính vì vậy, tôi đã chọn đề tài: “Phát huy tính tích cực của học sinh
qua việc sử dụng thí nghiệm hóa học 10 ” với mong muốn góp phần vào việc
nâng cao chất lượng dạy học theo yêu cầu hiện nay.
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu cách thức sử dụng thí nghiệm để tổ chức hoạt động học tập tích
cực cho học sinh qua việc thiết kế các hoạt động dạy học có sử dụng thí nghiệm
hóa học kết hợp với các phương pháp dạy học hiện đại để nâng cao tính tích cực
học tập của học sinh.
III. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU:
Trong giảng dạy tôi thực hiện trên hai nhóm đối tượng học sinh:
- Nhóm 1: Nhóm học sinh đối chứng: lớp 10A 2 giảng dạy theo tiến hành
dạy học bình thường: việc ôn tập, luyện tập chủ yếu bài tập lấy trong sách giáo
khoa
- Nhóm 2: Nhóm học sinh thực nghiệm: Lớp 10A3 , tôi tiến hành thực hiện
các học bài mới, tiết ôn tập, luyện tập có sử dụng các thí nghiệm .
IV. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
- Tôi tiến hành nghiên cứu trong phạm vi kiến thức 2 chương: chương
halogen và chương oxi – lưu huỳnh thuộc chương trình hóa học lớp 10 nâng cao
NỘI DUNG
A. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
I. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu
2
Hiện nay, vấn đề phát huy tính tích cực là một trong các phương hướng đổi
mới giáo dục và được thực hiện ở tất cả các bậc học, các môn học nhằm đào tạo
ra thế hệ trẻ mới năng động, sáng tạo, có khả năng tự học, tự đánh giá, biết cách
cộng tác với mọi người. Các loại phương tiện dạy học ngày càng phong phú, đa
dạng và được sử dụng nhiều vào quá trình dạy học, góp phần phát huy tính tích
cực của học sinh. Đối với môn hóa học, thí nghiệm được xem là phương tiện
dạy học quan trọng nhất. Tuy nhiên, việc sử dụng thí nghiệm hóa học để phát
huy tính tích cực của học sinh chưa có nhiều công trình nghiên cứu.
II. Cấu trúc và đặc điểm về kiến thức chương trình chương nhóm halogen
và chương oxi-lưu huỳnh lớp 10 nâng cao.
1. Cấu trúc chương trình
- Chương nhóm halogen: Tổng tiết học là 15 tiết trong đó có 9 tiết bài mới,
4 tiết luyện tập, ôn tập và 2 tiết thực hành
- Chương oxi-lưu huỳnh: Tổng số tiết học là 15 tiết trong đó có 10 tiết bài
mới, 3 tiết luyện tập, ôn tập và 2 tiết thực hành
Như vậy theo cấu trúc chương trình thì 2 chương mà tôi nghiên cứu chiếm
1/3 chương trình học của lớp 10 nâng cao. Mặt khác, số tiết bài mới, luyện tập,
ôn tập và thực hành cũng chiếm một lượng đáng kể nên có nhiều điều kiện để
cung cấp cho HS các thí nghiệm nhằm giúp HS lĩnh hội kiến thức và rèn kĩ
năng thực hành, đồng thời tăng tính sinh động, hứng thú, tích cực trong việc học
tập môn Hóa cho HS.
2. Đặc điểm về kiến thức
- Các kiến thức trong các chương này thuộc kiến thức về chất và các
nguyên tố hóa học, được học sau khi nghiên cứu lí thuyết chủ đạo về nguyên tử,
cấu tạo nguyên tử và liên kết hóa học
- Mục tiêu của các chương này là HS vận dụng lý thuyết chủ đạo đã được
học ở kì I để dự đoán tính chất sau đó dùng thí nghiệm để nghiên cứu tính chất,
rút ra tính chất hóa học của các chất. Phương trình hóa học để kiểm nghiệm lại
lý thuyết. Như vậy việc HS được làm các thí nghiệm thực hành là rất quan trọng,
song song với thực hành là làm các bài tập dưới dạng hình vẽ mô phỏng thí
nghiệm
III. Quan điểm dạy và học tích cực
3
Sự đổi mới quá trình dạy học hóa học theo hướng dạy học tích cực. Sự áp
dụng dạy học tích cực trong bộ môn hóa học được dựa trên cơ sở các quan niệm
về tích cực hóa hoạt động HS, lấy HS làm trung tâm và được thực hiện với sự
đổi mới đồng bộ mục tiêu, nội dung giáo dục, hoạt động của GV và HS, phương
pháp dạy học và hình thức tổ chức dạy học.
a) Sử dụng thí nghiệm theo phương pháp nghiên cứu
Sử dụng thí nghiệm theo phương pháp nghiên cứu, người giáo viên cần
hướng dẫn học sinh các hoạt động như sau:
Học sinh hiểu và nắm vững vẫn đề cần nghiên cứu; cho học sinh nêu các
giả thuyết, dự đoán trên cơ sở lí thuyết đã biết; lập kế hoạch giải ứng với từng
giả thuyết.
Chuẩn bị hóa chất dụng cụ, thiết bị để làm thí nghiệm xác nhận giải thuyết,
quan sát trạng thái các chất trước khi làm thí nghiệm; xác nhận giải thuyết đúng
thông qua kết quả thí nghiệm; giải thích hiện tượng, viết các phương trình hóa
học và rút ra kết luận.
Sử dụng thí nghiệm biểu diễn theo phương pháp nghiên cứu sẽ làm tăng
tính tích cực nhận thức, hứng thú học tập và bồi dưỡng năng lực tự học cho học
sinh.
b) Dùng thí nghiệm để kiểm nghiệm
Qui trình thí nghiệm hóa học để kiểm chứng kiến thức: Giáo viên nêu mục
đích thí nghiệm và yêu cầu học sinh thực hiện, quan sát trạng thái, màu sắc.
Sau đó, dự đoán phản ứng có xảy ra không, lý do; quan sát mô tả hiện
tượng, giải thích hiện tượng; viết phương trình hóa học.
Giáo viên hoặc học sinh làm thí nghiệm kiểm chứng trong đó yêu cầu học
sinh nêu hiện tượng thí nghiệm.
Cuối cùng, giáo viên chỉnh sửa kết luận, nhận xét, bổ sung kiến thức cho
học sinh.
c) Dùng thí nghiệm để đối chứng
Để hình thành khái niệm hóa học giúp học sinh rút ra kết luận một cách đầy
đủ, chính xác hơn về một qui tắc, tính chất của một chất, cần sử dụng thí nghiệm
ở dạng đối chứng.
Trong quá trình sử dụng thí nghiệm đối chứng ở một mức độ tích cực, giáo
viên cần tổ chức, điều khiển hoạt động của học sinh để các em được hoạt động
như người nghiên cứu.
4
d) Dùng thí nghiệm tạo tình huống có vấn đề
Quy trình của phương pháp nêu và giải quyết vấn đề thường được sử dụng là:
Đặt vấn đề, giới thiệu thí nghiệm; tổ chức cho học sinh tái hiện lại kiến
thức cũ có liên quan; học sinh dự đoán thí nghiệm xảy ra, những thí nghiệm để
kiểm tra những dự đoán đó.
e) Sử dụng thí nghiệm trong bài luyện tập
Sử dụng thí nghiệm biểu diễn trong giờ luyện tập, ôn tập không phải lặp lại
những thí nghiệm đã biểu diễn mà có thể dùng các thí nghiệm mới, có những
dấu hiệu chung của thí nghiệm đã làm, nhưng có dấu hiệu mới để củng cố, chỉnh
lí, khắc sâu kiến thức, khắc phục suy luận sai lầm.
Nhận thấy khi giảng dạy một lớp không sử dụng thí nghiệm theo hướng
dạy học tích cực hiệu quả tiếp thu của học sinh bị hạn chế, một lớp sử dụng thí
nghiệm theo hướng dạy học tích cực hiệu quả tiếp thu của học sinh tích cực, học
sinh tiếp thu bài tốt, dễ hiểu và đặc biệt kiến thức ghi nhớ tốt hơn
IV. Một số lưu ý
Trong quá trình sử dụng các phương pháp trên, việc dạy học đem lại hiệu
quả khá cao, học sinh hứng thú say mê học tập. Tuy nhiên, để phương pháp này
đạt hiểu quả cao, cần đạt chuẩn về phụ tá thí nghiệm qua bằng cấp và kỹ năng
làm việc; các hóa chất, dụng cụ thí nghiệm cần bổ sung kịp thời theo từng tháng,
học kỳ và trong năm học
Hàng tháng phụ tá thí nghiệm báo cáo các tiết dạy, số lượng và chất lượng
giảng dạy thí nghiệm của từng giáo viên bộ môn Hóa để tổ trưởng bộ môn Hóa
học trong cuộc họp tổ chuyên môn có ý kiến đánh giá.
Phòng chuẩn bị thí nghiệm và phòng thí nghiệm cần đạt chuẩn, trong
phòng thí nghiệm cần lắp đặt đầy đủ hạng mục công nghệ thông tin, máy
chiếu… các thiết bị tủ hốt, hệ thống nước, vệ sinh…
V. Thực trạng của việc sử dụng thí nghiệm biểu diễn trong giảng dạy môn
Hóa học trong trường phổ thông hiện nay.
1. Thực trạng về chương trình
Về hệ thống câu hỏi mô tả hiện tượng thí nghiệm, bài tập thực nghiệm
trong sách giáo khoa còn rất ít, đặc biệt bài tập bằng hình vẽ mô phỏng chỉ xuất
hiện trong một số ít bài thực hành.
2. Thực trạng về giáo viên
5
Các thí nghiệm thực hành thường được các giáo viên ít để ý, coi trọng,
thậm chí có những giáo viên không sử dụng bao giờ.
3. Thực trạng về học sinh
Đối với học sinh các em được làm thí nghiệm ít vì nhiều lí do ( do giáo
viên ngại tổ chức tiết thực hành, hoặc do thiếu hóa chất dụng cụ hoặc do thiếu
an toàn…) cho nên khi tiến hành thí nghiệm học sinh thường lúng túng như:
không biết tên các dụng cụ, không biết cách để lắp dụng cụ để tiến hành khi cho
sẵn các dụng cụ vì thế khi có điều kiện làm thực hành các em thường mắc lỗi.
Từ những thực trạng trên tôi thấy việc xây dựng và sử dụng hệ thống thí
nghiệm biểu diễn giúp học sinh thông hiểu kiến thức lí thuyết mà còn làm cho
học sinh có hứng thú học tập, rèn luyện kĩ năng thao tác thực hành, khi thực
hành các em không bị lúng túng.
6
B. XÂY DỰNG HỆ THỐNG THÍ NGHIỆM THEO BÀI DẠY
I. THÍ NGHIỆM BIỂU DIỄN:
* Thí nghiệm 1: Thí nghiệm về Cl2 tác dụng với kim loại Na (hoặc với Cu, Fe)
( Bài Clo . Lớp 10)
Với thí nghiệm này, giáo viên có thể tiến hành thực hiện theo phương pháp
minh hoạ hay phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp minh hoạ:
Giáo viên thông báo cho học sinh biết:
Na nóng chảy cháy trong khí Cl2 với ngọn lửa sáng chói tạo thành NaCl.
Tiếp theo, giáo viên yêu cầu học sinh viết phương trình phản ứng, cân bằng, xác
định số oxihoá, cuối cùng giáo viên tiến hành thực hiện thí nghiệm biểu diễn
theo phương pháp minh hoạ cho những điều mà giáo viên vừa thông báo.
Sau khi hoàn thành thí nghiệm, học sinh sẽ thấy những điều giáo viên mô tả
được khẳng định về mặt thực nghiệm. Hay nói cách khác, giáo viên đã minh hoạ
cho các kiến thức đã đưa ra bằng thí nghiệm(thí nghiệm minh hoạ)
- Phương pháp nghiên cứu:
Giáo viên đặt vấn đề:
Cl2 có tác dụng được với kim loại như Na( hoặc với Cu, Fe) hay không?
Trước khi tiến hành thực hiện thí nghiệm biểu diễn, giáo viên yêu cầu học
sinh tập trung quan sát hiện tượng xảy ra, sau đó giáo viên biểu diễn thí nghiệm
theo phương pháp nghiên cứu.
Kết thúc thí nghiệm, giáo viên yêu cầu học sinh trả lời các câu hỏi sau:
+ Nêu mục đích của thí nghiệm?
+ Hiện tượng quan sát được?
+ Viết phương trình phản ứng. Giải thích?
+ Rút ra kết luận về tính chất hoá học của Cl 2 khi tác dụng với kim loại
Na( hoặc với Cu, Fe)?
Qua đó ta thấy rằng, với cùng một nội dung thí nghiệm mà giáo viên có thể
tiến hành biểu diễn thí nghiệm theo hai phương pháp khác nhau. Nhưng rõ ràng
với phương pháp nghiên cứu học sinh được tham gia vào hoạt động học tập
nhiều hơn ( trả lời nhiều câu hỏi và trên cơ sở đó rút ra được kiến thức cần lĩnh
hội) chủ động hơn và đặc biệt là phát huy được tính tích cực của học sinh.
Còn đối với thí nghiệm biểu diễn tiến hành thực hiện bằng phương pháp
minh hoạ thì học sinh ít được tham gia vào hoạt động học tập và các hoạt động
học tập đó mang tính thụ động, áp đặt, ít phát huy đựợc tính tích cực, không
7
tạo được yếu tố bất ngờ và sự hứng thú cho học sinh mà trong học tập tích
cực thì những yếu tố này lại rất cần thiết. Vì trước khi được quan sát thí
nghiệm do giáo viên làm, học sinh đã được thông báo hiện tượng xảy ra cũng
như sản phẩm tạo thành sau phản ứng.Vì vậy, thí nghiệm ở đây chỉ mang tính
chất minh hoạ cho những kiến thức đã được thông báo.
Ở thí nghiệm Cl2 tác dụng với kim loại Na như đã nêu trên, giáo viên có thể
biểu diễn thí nghiệm theo phương pháp minh hoạ mặc dù phương pháp này còn
nhiều hạn chế so với phương pháp nghiên cứu. Tuy nhiên, để phát huy được tính
tích cực ở học sinh thì trong thực tế giảng dạy giáo viên cần sử dụng phương
pháp nghiên cứu.
Có những thí nghiệm giáo viên phải biết lựa chọn, sử dụng phương pháp
tiến hành thí nghiệm phù hợp mới đảm bảo đúng được mục tiêu về kiến thức, về
mặt khoa học thực nghiệm, khoa học bộ môn.
* Thí nghiệm 2: Thí nghiệm về tính tan của khí hiđro clorua.
(Bài Hiđroclorua- Axit Clohidric. Lớp 10)
Khi nghiên cứu độ tan của khí hiđro clorua trong nước, ta tiến hành thực
hiện thí nghiệm biểu diễn bằng phương pháp nghiên cứu. Dùng phương pháp
nghiên cứu giáo viên chỉ cần đặt vấn đề ngắn gọn như dưới đây để hướng sự
tập trung cao nhất của học sinh vào quan sát thí nghiệm:
Khí hiđro clorua có tan trong nước không, mức độ tan của khí hiđro clorua
như thế nào? Để trả lời câu hỏi này tôi và các em cùng nhau nghiên cứu thí
nghiệm về độ tan của khí hiđro clorua trong nước.
Sau khi đặt vấn đề như trên, giáo viên tiến hành biểu diễn thí nghiệm theo
phương pháp nghiên cứu.
Kết thúc thí nghiệm, giáo viên yêu cầu học sinh trả lời những câu hỏi như ở
phần phương pháp minh hoạ.
Từ thí nghiệm về độ tan của khí hiđro clorua được biểu diễn bằng hai
phương pháp khác nhau, ta dễ dàng thấy ở phương pháp nghiên cứu sẽ phát huy
được tính tích cực, chủ động của học sinh hơn. Mặt khác, yếu tố bất ngờ để gây
nên sự hào hứng trong học tập là rất tốt, vì học sinh phải tự mình nghiên cứu thí
nghiệm do giáo viên biểu diễn trên cơ sở các hoạt động học tập như :
Quan sát, trả lời câu hỏi, từ đó rút ra được kiến thức cần lĩnh hội: Khí
hiđro là khí tan rất nhiều trong nước.
8
Với phương pháp minh hoạ thì tính tích cực, chủ động ở học sinh bị mất đi
rất nhiều đặc biệt là yếu tố bất ngờ không còn nữa, học sinh có thể không quan
sát thí nghiệm nhưng vẫn có thể trả lời được câu hỏi do giáo viên đặt ra. Vì phần
lớn hiện tượng xảy ra trong thí nghiệm và nội dung câu trả lời đã được giáo viên
thông báo trước khi tiến hành làm thí nghiệm.
* Thí nghiệm 3: Thí nghiệm Fe tác dụng với dung dịch axit HCl
(Bài Hiđroclorua- Axit Clohidric)
Phương pháp nghiên cứu:
Fe, Cu có tan được trong dung dịch axit HCl loãng không? GV chia lớp
làm 4 nhóm và cho HS tiến hành thí nghiệm
- Đầu tiên rửa và chà thật kĩ lá sắt, đồng cho sáng bóng để lộ lớp kim loại
- Cho lá Cu vào ống nghiệm 1, Fe vào ống.
- Nghiêng ống nghiệm 1 góc nhỏ, dùng ống nhỏ giọt lấy axit rồi đặt đầu
ống nhỏ giọt vào sát miệng ống nghiệm cho axit chảy từ từ xuống kim loại.
Sau đó, yêu cầu HS
+ Quan sát hiện tượng
+ Giải thích hiện tượng
+ Rút ra kết luận
HS sẻ có hứng thú, tò mò khi tiến hành thí nghiệm. Và quan sát, rút ra được
kiến thức cần thiết.
* Thí nghiệm 4: Thí nghiệm: TRÀ CHANH BỊ YỂM BÙA
(Bài “Luyện tập: Nhóm halogen” lớp 10)
a) Mục đích - Nhấn mạnh tính chất của iot và cách nhận biết. - Gây hứng
thú, kích thích sự tò mò, tìm hiểu cách giải thích hiện tượng.
b) Mô tả hiện tượng Khi rót nước trà chanh vào 4 cốc đá, sau đó khuấy đều.
Lạ thay, nước trà chanh trong mỗi cốc có màu không giống nhau chút nào. Phải
chăng chai trà chanh này đã bị yểm bùa?
c) Cách tiến hành - Hòa tan tinh thể iot và natri iotua vào trong nước để có
màu nâu nhạt giống nước trà chanh.
- Lấy 4 cốc thủy tinh và lần lượt cho vào từng cốc các chất sau:
+ Cốc 1: tinh thể Na2S2O3 ;
+ Cốc 2: tinh bột;
+ Cốc 3: dd AgNO3 ;
+ Cốc 4: không có gì.
- Rót trà chanh vào từng cốc và lắc đều.
- Trong các cốc, nước trà chanh sẽ biến thành những màu khác nhau:
+ Cốc 1: không màu;
9
+ Cốc 2: xanh đen;
+ Cốc 3: vàng nhạt;
+ Cốc 4: nâu nhạt.
- Các em hãy chú ý đến màu sắc của chai trà chanh và những chiếc cốc,
Sau đó liên hệ màu sắc của các chiếc cốc với nhau, xem chúng có “họ hàng”
không nhé? Sau khi giúp học sinh giải thích các hiện tượng trên.
Giáo viên kết luận: - Chúng ta cần cẩn thận với những thức ăn, đồ uống
không rõ nguồn gốc và cũng nên kiểm tra kĩ đồ đựng (li, chén, đĩa) có dính bẩn
không nhé! Còn thầy/cô sẽ uống chai nước này (cầm chai nước suối lên). Đây là
nước thầy/cô nấu và đổ vào đây, sáng nay.
d) Giải thích Trong các cốc có sự thay đổi màu là do:
+ Cốc 1: iot đã tham gia phản ứng: 2 Na2S2O3 + I2 → Na3S4O6 + 2 NaI
+ Cốc 2: iot tạo màu với hồ tinh bột.
+ Cốc 3: màu vàng nhạt của kết tủa AgI tạo thành từ phản ứng:
AgNO3 + NaI → AgI ↓ + NaNO3
+ Cốc 4: không có phản ứng xảy ra.
e) Những điều cần chú ý và kinh nghiệm để thí nghiệm thành công
- Để iot có thể hòa tan được nhiều trong nước, nên cho hòa tan một ít tinh
thể NaI trước rồi mới hòa tan từ từ iot để được màu trà chanh như ý.
- Có thể thay NaI bằng KI.
- Đựng dung dịch “trà chanh” vừa pha vào vỏ chai có sẵn trên thị trường để
tăng yếu tố bất ngờ, thú vị.
* Thí nghiệm 5: Thí nghiệm TÌM HIỂU, KIỂM TRA CHẤT LƯỢNG
THUỐC IOT
(Bài “Luyện tập: Nhóm halogen”, lớp 10)
a) Mục đích:
- Giúp học sinh tự tìm hiểu, khám phá về hóa học và thiết kế thí nghiệm
dựa trên kiến thức mà các em vốn có.
- Để học sinh tự tìm hiểu về thực tế thông qua những kiến thức đã học.
- Dùng thí nghiệm này để dạy trong bài “Flo – Brom – Iot” hay bài “Luyện
tập: Nhóm halogen” – lớp 10.
b) Các bước thực hiện
- Bước 1: Chia nhóm học sinh, hoặc giao nhiệm vụ cho các em về nhà làm.
- Bước 2: Đưa đề tài: “Em hãy tìm hiểu công dụng và thiết kế phương pháp
kiểm tra chất lượng thuốc iot hiện đang dùng”, với tiêu chí: đơn giản, dễ làm,
không nguy hiểm.
- Bước 3: Định thời gian suy nghĩ, lên kế hoạch và học sinh trình bày trước
lớp về ý tưởng của cá nhân, nhóm trong buổi học sau.
10
c) Dự kiến phân tích
- Tìm hiểu công dụng của thuốc dựa trên hướng dẫn, chỉ định và lưu ý của
nhà sản xuất.
- Thuốc iot có nhiều tác dụng trong việc sát trùng, đặc biệt là trị vết thương,
do đó cần thật cẩn thận trước khi dùng. Nên kiểm tra chất lượng thuốc trước.
- Kiểm tra bằng cách dựa trên tính chất đặc trưng của iot là tác dụng với hồ
tinh bột tạo thành hợp chất màu xanh đen.
d) Gợi ý cách tiến hành
- Cho hồ tinh bột vào chén nhỏ. Hồ tinh bột có thể là cơm, cháo, khoai…
(nhưng nên chọn loại màu trắng để dễ so sánh, phân biệt).
- Nhỏ vài giọt thuốc iot vào hồ tinh bột. Quan sát hiện tượng.
- Nếu hồ tinh bột chuyển sang xanh đen, chứng tỏ trong thuốc có nhiều iot.
Còn nếu hồ tinh bột chuyển sang xanh nhạt hoặc không có màu xanh thì chứng
tỏ iot có ít hoặc không có.
e) Những điều cần chú ý
- Cho học sinh trình bày, chia sẻ ý kiến về công dụng của thuốc iot mà các
em biết với cả lớp và cùng bổ sung, trao đổi.
- Lưu ý phân biệt màu sắc iot lúc trước và sau khi nhỏ vào hồ tinh bột.
* Thí nghiệm 6: Thí nghiệm: Oxi tác dụng với Fe
(Bài “Oxi ”, lớp 10)
- Để nghiên cứu Oxi có tính chất hóa học gì, GV biểu diễn thí nghiệm:
Cuộn dây sắt thành hình lò xo một đầu quấn vào miếng gỗ nhỏ để làm mồi.
Đốt cháy đầu gỗ rồi cho vào bình đựng khí Oxi.
- GVyêu cầu HS quan sát hiện tượng thí nghiệm xảy ra. Dự đoán sản phẩm,
mô tả thí nghiệm.
+ HS: Dây sắt cháy có những tia nổ nhỏ và tạo ra Fe3O4 hình cầu rơi xuống.
HS viết PTPƯ và xác định được tính oxi hóa của Oxi. Học sinh dựa vào
sản phẩm có thể xác định số Oxi hóa của Oxi trong hợp chất là -2 từ đó rút ra
Oxi thể hiện tính Oxi hóa.
- Thí nghiệm sẽ cho thấy được tính chất hóa học của Oxi là tính oxi hóa
mạnh và học sinh sẽ khắc sâu được hình ảnh thí nghiệm thu được đồng thời học
sinh nhận thấy được tầm quan trọng của Oxi trong cuộc sống.
11
* Thí nghiệm 7: Thí nghiệm: SO SÁNH TÍNH CHẤT CỦA OXI VÀ OZON
(Bài “Ozon và hyđropeoxit”, lớp 10)
Gv đặt vấn đề: O2 và O3 đều có tính oxi hóa, vậy tính oxi hóa của Oxi mạnh
hay yếu hơn ozon? Cho HS tiến hành thí nghiệm:
Hai ống nghiệm đều đựng dung dịch KI, dẫn khí Oxi đi qua dung dịch thứ
nhất, khí ozon qua dung dịch thứ hai. Yêu cầu HS quan sát hiện tượng, rút ra
nhận xét và dự đoán sản phẩm phản ứng. Có thể nhận ra các sản phẩm bằng
cách nào?
Học sinh thí nghiệm và rút ra:
- Khí O2 qua dung dịch KI không có hiện tượng gì.
- Khí O3 qua dung dịch KI không màu xuất hiện màu nâu I2.
- 2KI + O3 + H2O 2KOH + O2 + I2
Nhận xét: O3 có tính oxi hóa mạnh hơn O2.
- Dùng quỳ tím hoặc Phenolphthalein để nhận biết KOH.
- Dùng hồ tinh bột để nhận biết I2.
- Dùng mẫu than hồng để nhận biết khí O2.
•Kiến thức cũ: cách nhận biết KOH, O2, I2.
•Kiến thức mới: Oxi không phản ứng với KI, Ozon phản ứng với KI. Ozon
có tính oxi hóa mạnh hơn Oxi.
* Thí nghiệm 8: Thí nghiệm điều chế SO2 và SO2 tác dụng với dung dịch
Brom
( Bài SO2 - lớp 10)
Tính chất hóa học đặc trưng của SO 2 là tính khử và tính oxit ,vì vậy thí
nghiệm cần làm nổi bật là tính oxi hóa của SO 2 thông qua phản ứng làm mất
màu dung dịch Br2 và phản ứng điều chế SO2 trong phòng thí nghiệm.
- GV đưa ra một số hóa chất có khả năng điều chế SO 2 trong đó có Na2
SO3 tinh thể khi tác dụng với dung dịch axit sunfuric.
- GV hướng dẫn học sinh cách lắpcác dụng cụ hóa học như trong hìn thí
nghiệm mô tả.
+ HS tiến hành làm thí nghiệm, quan sát hiện tượng: màu nước Br2 ….
Giải thích hiện tượng và rút ra kết luận. Viết PTPƯ, xác định số oxi hóa của
các nguyên tố có thay đổi.
Dung dịch Br2 nhạt dần và mất màu. Như vậy phản ứng có xảy ra và khẳng
định tính chất khử của SO2
Như vậy bằng phương pháp nghiên cứu đối với thí nghiệm này học sinh có
thể hình thành cho mình những kiến thức có liên quan đến bài học.Thông qua
12
đó, học sinh hiểu được tính chất hóa học đặc trưng của SO 2 là vừa có tính khử
vừa có tính oxi hóa.
Việc tự mình làm thí nghiệm và kiểm chứng thí nghiệm giúp các em có ý
thức hơn trong việc sử dụng hóa chất ,nắm được tác hại và giải quyết các vấn đề
trong cuộc sống.
* Thí nghiệm 9: Thí nghiệm cho Cu tác dụng với axit H2SO4 đặc.
(Bài: Axit sunfuric- lớp 10)
- Gv làm TN Cu + H2SO4 loãng .Yêu cầu HS quan sát và rút ra nhận xét.
HS: Khi cho Cu vào trong dd axit H2SO4 loãng không có hiện tượng gì vì
Cu đứng sau H trong dãy điện hoá nên không tác dụng được với axit H 2SO4
loãng.
- Hướng dẫn cho HS tiến hành thí nghiệm theo nhóm: nhỏ axit H 2SO4 đặc
vào ống nghiệm chứa Cu.
Lắp bộ dung cụ gồm 3 ống nghiệm: ống nghiệm 1 có nhánh đựng Cu, có
nắp đậy bằng ống hút có sẳn axit H 2SO4 đặc, nhánh dẫn khí qua ống nghiệm 2
có nhánh đựng dung dịch brom loãng, nhánh dẫn khí qua ống nghiệm 3 đựng
NaOH đặc.
- Yêu cầu HS quan sát và cho biết:
1. Hiện tượng xảy ra.
2. Giải thích hiện tượng.
3. Rút ra kết luận
4. Viết các phương trình phản ứng. Xác định số oxi hoá của các chất trong ptp
+ HS: Khi cho Cu vào trong dd axit H2SO4 đặc,đun nóng dd chuyển sang
màu xanh lam đó là dd CuSO 4 và có sủi bọt khí làm mất màu dung dịch Br 2 là
khí SO2.
+ HS viết phương trình phản ứng xác định số oxi hoá của các chất trong
ptpư, cân bằng phản ứng.
Từ đó HS rút ra kết luận: axit H2SO4 đặc có tính oxi hóa mạnh.
II. THU THẬP VÀ PHÂN TÍCH KẾT QUẢ
1. Kết quả khảo sát mức độ hứng thú
Tôi đã tiến hành khảo sát mức độ hứng thú của 39 học sinh lớp thực
nghiệm lớp 10..... Kết qủa thu được như sau:
Tiêu chuẩn đánh giá
Rất hứng thú
Hứng thú
Bình thường
Số học sinh
23
11
3
Tỉ lệ (%)
58,97
28,21
7,70
13
Không hứng thú
2
5,12
Từ bảng kết qủa trên ta thấy phần lớn học sinh hứng thú với phương pháp
dạy học có sử dụng thí nghiệm. Phương pháp này giúp các em dễ tiếp thu hơn
những kiến thức mới và khác sâu nội dung bài học cần lĩnh hội. Chỉ có một vài
học sinh không hứng thú (rơi vào những em học yếu)
2. Kết quả phân tích định lượng:
Tôi đã thực hiện khảo sát chất lượng của lớp đối chúng và lớp thực nghiệm
để chứng minh tính hiệu qủa của đề tài
Bảng 1. Thống kê chất lượng kiểm tra 45 phút chương halogen
ĐỐI
TỔNG
TƯỢN
SỐ
G
TN
39
ĐC
40
GIỎI
(9-10đ)
SL
%
11 28,21
7 17,50
KHÁ
(7-8đ)
SL
%
23
58,97
15
37,50
TB
(5-6đ)
SL
%
5 12,82
14 35,00
YẾU,KÉM
(dưới 5 đ)
SL
%
0
0
4
10,00
Bảng 2: Thống kê chất lượng kiểm tra 45 phút chương Oxi –lưu huỳnh
ĐỐI
TỔNG
TƯỢN
SỐ
G
TN
39
ĐC
40
GIỎI
(9-10đ)
SL
%
14 35,90
10 25,00
KHÁ
(7-8đ)
SL
%
16
41,03
13
32,50
TB
(5-6đ)
SL
%
7 17,95
12 30,00
YẾU,KÉM
(dưới 5đ)
SL
%
2
5,12
5
12,50
Nhận xét:
- Qua bảng kết qủa cho thấy ở hai bài kiểm tra tỉ lệ điểm khá giỏi ở lớp
thực nghiệm đều cao hơn lớp đối chứng. Trong khí đó tỉ lệ điểm yếu kém ở lớp
đối chứng lại chiếm nhiều. Như vậy, việc áp dụng phương pháp dạy học có thí
nghiệm biểu diễn đã góp phần nâng cao hiệu quả giảng dạy, đặc biệt là tăng
hứng thú tập cho học sinh trong tình hình các em chịu nhiều áp lực thi cử.
14
C. KẾT LUẬN
I. Kết luận
Trong quá trình sử dụng phương pháp giảng dạy có thí nghiệm nghiên cứu,
tôi nhận thấy học sinh rất hào hứng, vì nó gắn liền giữa lí thuyết với thực hành
thí nghiệm, giúp các em tiếp cận gần hơn với các thao tác làm thí nghiệm như:
quan sát, mô tả, lắp đặt sơ đồ thiết bị để tiến hành làm thí nghiệm... phương
pháp này là một bước trực tiếp cho học sinh đi từ chứng minh bằng thực hành
thí nghiệm đến lí thuyết được lĩnh hội . Trên cơ sở này học sinh sẽ tự định
hướng và đề ra các bước tiến hành làm một thí nghiệm. Phương pháp dạy học
này có thể sử dụng trong hầu hết các tiết học như: dạy bài mới, ôn tập – luyện
tập, thực hành.
Ngoài ra có thể dùng để kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh qua
hệ thống câu hỏi mô tả, sơ đồ thí nghiệm.
Tóm lại:
Thông qua thực tiễn nghiên cứu trước khi sử dụng các thí nghiệm có liên
quan nhận thức về bài học của các em tương đối thấp ,hầu hết không nắm vững
bài cũng như các tính chất thông thường của hóa chất, chính vì lẽ đó làm cho
học sinh trở nên không thich bộ môn và trở nên thụ động với bài giảng ,hầu hết
các em không tham gia phát biểu mà chỉ chờ giáo viên giảng và ghi chép.
Khi áp dụng các phương pháp thí nghiệm theo hướng tích cực tôi nhận thấy
có những thay đổi như sau :
- Về mặt kiến thức học sinh đã nắm vững các kiến thức bài học. Về căn bản
,hiểu và nhớ được tính chất hóa học của bài học, và có thể tự mình giải thích các
tính chất hóa học có liên quan và giải thích được những tính chất và hiện tượng
có liên quan trong cuộc sống.
- Về mặt ý thức học tập học sinh đã có chiều hướng tích cực và năng động
trong việc phát biểu hứng thú trong việc cùng giáo viên xây dựng bài học và
thích thú khi được tựu mình làm thí nghiệm. Các em đã tự tin hơn trong việc thể
hiện bản lĩnh của mình và dần hình thành những đức tính cần có của một người
nghiên cứu. Giúp học sinh rèn luyện kỹ năng thực hành thí nghiệm, nâng cao
15
chất lượng kiến thức của học sinh. Góp phần nâng cao chất lượng dạy học hóa
học ở trường trung học phổ thông.
- Tuy nhiên vẫn còn có em vẫn chưa làm quen được cách học mới này và
vẫn còn nhiều lúng túng khi học tập. Vì khoảng thời gian rất ngắn nên vẫn chưa
tìm ra được hướng giải quyết cụ thể.
II. Khuyến nghị
+ Trong giảng dạy, giáo viên không ngừng bồi dưỡng nâng cao trình độ
chuyên môn nghiệp vụ. Giáo viên nên sử dụng giảng dạy thí nghiệm theo hướng
nghiên cứu, hạn chế hướng minh họa.
+ Để phát triển phương pháp này cho các chương khác của các lớp 10 và
lớp 11, 12 thuộc chương trình sách giáo khoa mới, cần cung cấp trang thiết bị
một cách đầy đủ cho giáo viên và học sinh như: dụng cụ thí nghiệm, hóa chất,
máy tính, máy đo pH, máy lọc li tâm... để giáo viên và học sinh tiếp xúc với nền
khoa học kĩ thuật và với thực tiễn. Nhằm nâng cao chất lượng dạy và học môn
hóa học ở trường trung học phổ thông.
+ Giáo viên phải khéo léo lựa chọn và áp dụng các phương pháp dạy học
sao cho phù hợp với từng bài, từng phần. Giáo viên đánh giá kết quả học tập của
HS bằng câu hỏi trắc nghiệm khách quan, tự luận, bài tập dạng hình vẽ mô
phỏng thí nghiệm…
Với thời gian nghiên cứu hạn hẹp, trình độ kinh nghiệm còn ít, đề tài này
chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sai sót. Tôi rất mong sự chỉ dẫn, những
nhận xét đóng góp quí báu của các thầy cô giáo và các bạn đồng nghiệp nhằm
hoàn thiện và bổ sung vào đề tài nghiên cứu.
16
TÀI LIỆU THAM KHẢO
+ Sách giáo khoa và sách giáo viên lớp 10 nâng cao
+ Tài liệu “ Hướng dẫn thí nghiệm hóa học 10” của PGS.TS. Trần Quốc
Đắc, NXB Giáo dục 2007.
+ Tài liệu “Thí nghiệm hóa học ở trường phổ thông” của PGS.TS Nguyễn
Thị Sửu, Hoàng Văn Côi, NXB Khoa học và kỹ thuật 2008.
17
MỤC LỤC
------------------
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC CỦA HỌC SINH
QUA VIỆC SỬ DỤNG THÍ NGHIẾM HÓA HỌC 10
Lĩnh vực : Hóa học
Tên tác giả :
GV môn
: Hóa học