1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Giãn phế quản (GPQ) là tình trạng tăng khẩu kính phế quản liên tục,
vĩnh viễn không hồi phục của một hoặc nhiều phế quản có đường kính trên
2mm. GPQ được chia thành: GPQ hình túi, GPQ hình trụ và GPQ hình tràng
hạt. Bệnh gây ra do sự phá hủy tổ chức của thành phế quản [1].
GPQ là bệnh khá thường gặp trong lâm sàng, đặc biệt tại các nước đang
và kém phát triển với tỉ lệ mới mắc và chết hàng năm còn ở mức cao [2].
Tại Việt Nam, theo thống kê của Bệnh viện Phổi trung ương, từ năm
1981 đến 1987, tần suất GPQ chiếm 13,6% số bệnh nhân nhập viện điều trị
nội khoa hô hấp và tỉ lệ bệnh nhân GPQ điều trị bằng phẫu thuật trong thập kỉ
80 chiếm 10,2% phẫu thuật hô hấp [3],[4]. Hiện nay GPQ chiếm 6% của các
bệnh phổi, nam nhiều hơn nữ.[5]
Theo Carolin và CS, trong giai đoạn bùng phát của bệnh, chất lượng
cuộc sống của bệnh nhân bị sụt giảm nghiêm trọng, khi bệnh ổn định, chất
lượng cuộc sống của bệnh nhân GPQ tuy có cải thiện hơn nhưng vẫn bị ảnh
hưởng bởi các triệu chứng ho, khạc đờm nhiều, khó thở mạn tính và hạn chế
hoạt động thể lực [6].
Việc điều trị bệnh GPQ trong giai đoạn bùng phát cần dùng nhiều biện
pháp trong đó có phương pháp phục hồi chức năng hô hấp bằng cách ho khạc
đờm, vỗ rung lồng ngực kết hợp dẫn lưu theo tư thế. Đây là phương pháp đơn
giản có kết quả tốt và bệnh nhân cần làm hàng ngày ngay cả khi không có bội
nhiễm phế quản [1].
Ở Việt Nam cũng đã có nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu về phục hồi
chức năng hô hấp đối với sức khỏe nói chung và với các bệnh hô hấp nói riêng.
Tuy nhiên việc áp dụng mới chỉ dừng ở mức tập thở để phục hồi chức năng hô
hấp cho bệnh nhân. Trong khi đó phục hồi chức năng hô hấp gồm nhiều thao tác
2
cơ học bên ngoài, chẳng hạn như vỗ và rung lồng ngực, dẫn lưu tư thế, kết hợp
với các bài tập thở hoành, thở chúm môi và ho hữu hiệu. Đây là kỹ thuật được sử
dụng để đào thải chất tiết lỏng trong phổi và đường thở ra ngoài [7]. Điều này
đặc biệt hữu ích cho bệnh nhân bị xuất tiết nhiều, ứ đọng các chất tiết, bệnh nhân
không có khả năng ho khạc để tống hết ra được hay ho khạc không hiệu quả do
đờm dãi ở quá sâu, giống như các bệnh nhân bị bệnh GPQ. Vì vậy chúng tôi tiến
hành nghiên cứu đề tài này nhằm 2 mục tiêu:
1.
Nhận xét kết quả một số phương pháp phục hồi chức năng hô
hấp ở bệnh nhân bệnh giãn phế quản điều trị tại Trung tâm hô
hấp Bệnh viện Bạch mai trên các chỉ số: mức độ khó thở, nhịp
tim, khí máu, khả năng vận động và chức năng thông khí.
2.
Nhận xét kết quả một số phương pháp phục hồi chức năng hô
hấp lên chất lượng cuộc sống- sức khỏe của bệnh nhân bệnh
giãn phế quản điều trị tại Trung tâm hô hấp Bệnh viện Bạch mai.
3
Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Đại cương
1.1.1. Sơ lược lịch sử
Bệnh GPQ được Cayol thông báo vào năm 1808, sau đó được Laennec
mô tả đầu tiên từ năm 1819 với các đặc điểm lâm sàng ho, khạc nhiều đờm,
ho khạc máu đỏ tươi.[8]
Trước đây chẩn đoán GPQ dựa vào chụp phế quản có cản quang, kỹ
thuật này được Forestier L.S thực hiện từ năm 1922. Hiện nay phương pháp
được ưa dùng nhất là chụp cắt lớp vi tính độ phân giải cao với lớp mỏng 1mm
giúp cho phát hiện bệnh một cách chắc chắn.
1.1.2. Định nghĩa
Bệnh GPQ được định nghĩa dựa trên hình thái học và bệnh lý học bao
hàm tình trạng giãn bất thường cố định, không hồi phục của đường thở. Có
nhiều định nghĩa khác nhau tùy từng tác giả.
Theo Ngô Quý Châu GPQ là giãn không hồi phục một phần của cây phế
quản, có thể giãn ở phế quản lớn trong khi phế quản nhỏ vẫn bình thường
hoặc giãn ở phế quản nhỏ trong khi phế quản lớn vẫn bình thường.[5]
1.1.3. Nguyên nhân GPQ
Có nhiều nguyên nhân gây GPQ. Theo các tác giả Cole P.J (1984) [9],
O’regan AW, Berman J.S (2004) [10], Roditi G.H, Weir J. (1994) [11], nguyên
nhân GPQ được chia thành những nhóm sau:
1.1.3.1. Dị tật bẩm sinh ở cấu trúc phế quản
- Hội chứng Kartagener được mô tả lần đầu tiên năm 1993: GPQ lan tỏa
kèm viêm xoang và đảo ngược phủ tạng. Cơ chế GPQ là do rối loạn hoạt
động của nhung mao phế quản, bệnh có tính chất gia đình.
4
- Hội chứng Mounier - Kuhn: thường gặp ở nam giới tuổi 30 – 40. GPQ
kèm theo phì đại khí quản và viêm xoang sàn, xoang má, thường có viêm mũi
mủ, polyp mũi. Bệnh do khuyết tật cấu trúc tổ chức liên kết thành khí phế quản.
- Hội chứng Williams - Campbell: thường gặp ở trẻ nhỏ do khuyết tật
hoặc không có sụn phế quản, gây GPQ.
1.1.3.2. Do viêm hoại tử ở thành phế quản
GPQ sau nhiễm khuẩn phổi như lao, viêm phổi do vi khuẩn, virus sởi, ho
gà, do dịch dạ dày hoặc máu bị hít vào phổi, hít phải khói hơi độc, do nhiễm
khuẩn phế quản tái diễn
1.1.3.3. Do bệnh xơ hóa kén
GPQ gặp trong 50% các trường hợp xơ hóa kén, thường gặp nhất ở Châu
Âu và Bắc Mỹ. GPQ thường xuất hiện vào giai đoạn muộn của bệnh xơ hóa kén.
1.1.3.4. Do phế quản lớn bị tắc nghẽn
Lao hạch phế quản, hoặc dị vật rơi vào phế quản ở trẻ em, u phế quản hoặc
sẹo xơ gây chít hẹp phế quản sau khi phế quản bị dập vỡ lớn do chấn thương
lồng ngực. Dưới chỗ chít hẹp áp lực nội phế quản tăng lên và dịch tiết phế quản
ứ đọng gây nên nhiễm khuẩn mạn tính tại chỗ rồi phát triển thành GPQ.
1.1.3.5. Do tổn thương xơ hoặc u hạt co kéo thành phế quản
Trong lao xơ phổi, lao xơ hang, áp xe phổi mạn tính, bệnh phế nang viêm
xơ hóa. GPQ sau lao có thể phát triển theo hai cơ chế sau: (1) Do nhu mô phổi bị
phá hủy và xơ hóa dẫn đến co kéo và GPQ không hồi phục. (2) Chít hẹp phế
quản do xơ sẹo sau lao nội phế quản cục bộ. Phần lớn tổn thương lao là ở các
phân thùy đỉnh và phân thùy sau của thùy trên nên các triệu chứng thường nghèo
nàn. Ho ra máu là triệu chứng hay gặp ở thể GPQ này.
1.1.3.6. Rối loạn thanh lọc nhầy nhung mao
GPQ có thể phát triển trong:
- Hội chứng rối loạn vận động nhung mao.
5
- Rối loạn vận động nhung mao thứ phát trong bệnh hen phế quản.
Các trường hợp này vi khuẩn phát triển ở đường hô hấp dưới.
1.1.3.7. Rối loạn cơ chế bảo vệ phổi
Suy giảm miễn dịch bẩm sinh hoặc mắc phải như giảm gamma globulin
máu, giảm chọn lọc IgA, IgM, IgG, do dùng thuốc gây độc tế bào, nhiễm
HIV/AIDS, đa u tủy xương, bệnh bạch cầu mạn tính.
1.1.3.8. Do đáp ứng miễn dịch quá mức ở trong bệnh aspergillus phổi phế
quản dị ứng.
Đây là phản ứng miễn dịch bán chậm với sự lắng đọng kháng thể kết tủa
(IgM, IgG) ở thành phế quản, mà hậu quả của phản ứng miễn dịch typ III này
(theo Gell – Coombs) là phát triển GPQ. Đáp ứng miễn dịch quá mức cũng có
thể xảy ra sau ghép phổi.
1.1.3.9. Giãn phế quản vô căn
GPQ vô văn có thể do rối loạn thanh lọc phổi phế quản nhưng bị bỏ qua.
Thường gặp ở thùy dưới phổi ở người lớn.
Tóm lại, trong các nguyên nhân kể trên thì nhiễm khuẩn được coi là
căn nguyên quan trọng gây GPQ.
1.1.4. Cơ chế bệnh sinh của GPQ
GPQ có thể bẩm sinh do yếu tố di truyền nhưng cũng có thể do yếu tố
mắc phải. Ba cơ chế quan trọng nhất là nhiễm khuẩn, tắc nghẽn phế quản và
xơ hóa quanh phế quản. Bình thường, hệ thống thanh lọc nhầy của lông
chuyển ở thanh – khí – phế quản có chức năng loại bỏ các vi khuẩn thâm
nhập, bảo vệ bộ máy hô hấp khỏi bị nhiễm khuẩn. Khi hệ thống này bị tổn
thương hoặc bị khuyết tật sẽ dẫn đến tình trạng vi khuẩn dễ kết dính vào biểu
mô, gây viêm thành phế quản, dần dần làm phế quản bị phá hủy và bị giãn ra.
[9],[12].
6
Các nghiên cứu thực nghiệm cho thấy: tắc nghẽn và nhiễm trùng sau chỗ
tắc nghẽn là hai yếu tố có trước cho sự hình thành GPQ. Thành phế quản bị
tổn thương do ảnh hưởng trực tiếp của vi khuẩn và do viêm mãn tính. Hai quá
trình này tạo thành vòng xoắn bệnh lý đưa đến tổn thương hệ thống thanh lọc
nhầy của nhung mao, tổn thương thành phế quản không hồi phục và hậu quả
là giãn phế quản [13],[14].
Các nhà hô hấp học trong đó có Cole P.J đều thừa nhận có vòng xoắn
bệnh lý ở bệnh nhân GPQ theo sơ đồ sau:
Vi khuẩn cư trú lại lâu ở hệ
thống xoang và PQ
Vi khuẩn xâm nhập
Sự tác động môi trường
Cơ chế thanh lọc nhung
mao bị khuyết tật
Tổn thương tổ chức
Tổn thương PQ dần dần
Sự phát triển của vi
khuẩn tiết ngoại độc tố
có thể ức chế vận động
của nhung mao và gây
tổn thương biểu mô
PQ
Khuẩn lạc phát triển
Viêm mạn tính
7
Sơ đồ 1.1: “Vòng xoắn bệnh lý” theo Cole.P.J
* Đường vào: những tác nhân gây viêm phổi có thể theo đường vào sau đây:
- Hít phải vi khuẩn ở môi trường bên ngoài, trong không khí.
- Hít phải vi khuẩn từ các ổ nhiễm khuẩn của đường đường hô hấp trên.
- Vi khuẩn theo đường máu từ các ổ nhiễm khuẩn xa.
- Nhiễm khuẩn do đường tiếp cận của phổi.
1.1.5. Vị trí – tổn thương giải phẫu bệnh lý
Khí quản chia thành 2 nhánh: phế quản gốc phải, phế quản gốc trái, sau
đó tiếp tục phân chia nhỏ dần. Sự phân chia phế quản từ 8 đến 23 lần tùy theo
từng vùng của phổi. Trung bình có 16 hệ phế quản. Thành phế quản được
nâng đỡ bởi các vòng sụn ở phía trước và 2 bên cùng với một giải cơ trơn
nằm ngang ở phía sau tạo nên hình móng ngựa. Trong lòng phế quản được
phủ bởi lớp niêm mạc có tế bào lông chuyển [14].
Vị trí hay gặp của GPQ là phế quản thế hệ 3 đến thế hệ 8.
Vi thể:
Lớp liên bào phế quản có xen lẫn những đám tế bào loạn sản kiểu tế bào
Malpighi, niêm mạc phế quản bị loét, viêm nhiễm quanh tuyến phế quản –
vách phế quản bị dầy lên hoặc rất mỏng, phía trong chứa những nang hợp bởi
các tân cầu xung quanh các sợi cơ, sợi chun bị thoái hóa Whitewell gọi là giãn
phế quản nang, đôi khi nang này đứng một mình không có sợi cơ, sợi chun và
tuyến giống như giãn phế nang hơi. Trường hợp giãn phế quản do viêm phế
quản: phế quản bị tắc do chất tiết và phù nề, tuyến phế quản, lớp sụn bị tổn
thương gây lỗ rò giữa phế quản này với phế quản khác. Nhu mô phổi bị xẹp
8
hoặc phế nang bị giãn, trong nhu mô phổi có những hang chứa đầy mủ, lòng
phế quản chứa nhiều chất tiết và mủ.
Tuần hoàn phổi bị rối loạn, động mạch phế quản phình ra có nhiều chỗ
nối với động mạch phổi, hoặc nối với tĩnh mạch phế quản tạo nên Shunt trái –
phải hoặc trái – trái. Do áp lực cao của hệ thống đại tuần hoàn (động mạch
phế quản) làm vỡ những chỗ nối là cơ chế ho ra máu trong bệnh GPQ [5].
1.1.6. Phân loại GPQ
Do tính chất tổn thương trong bệnh GPQ nên có nhiều cách phân loại
khác nhau thùy từng tác giả. Theo Ngô Quý Châu [5] có thể phân loại GPQ
theo các cách sau.
1.1.6.1. Phân loại theo triệu chứng lâm sàng
- GPQ thể ướt: Bệnh nhân khạc đờm nhiều, đôi khi đờm như mủ, thường
gặp GPQ thùy dưới.
- GPQ thể khô: Bệnh nhân không khạc đờm chỉ ho ra máu nhiều lần và
kéo dài thường gặp GPQ thùy trên.
1.1.6.2. Phân loại theo giải phẫu bệnh
- GPQ hình túi, hình kén: các phế quản tăng dần đường kính về phần
ngoại vi, với hình giống quả bóng. Số lần phân chia phế quản tối đa là 5. Ở
một số trường hợp hiếm, một GPQ tại chỗ có thể bị lấp đầy bằng mủ chắc,
dẫn đến hình thành một nang nhầy. Tổn thương thường ở phế quản thế hệ 4
hoặc xa hơn.
- GPQ hình ống: đường viền ngoài các phế quản đều đặn và đường kính
của các phế quản xa không tăng lên nhiều, lòng của chúng thường có xu
hướng kết thúc đột ngột và không nhỏ lại. Các phế quản nhỏ hơn và tiểu phế
quản bị lấp đầy mủ đặc.
- GPQ hình tràng hạt: ở nhóm này số lần phân chia phế quản giảm nhiều
hơn so với nhóm GPQ hình ống, có những nơi co hẹp tại chỗ làm cho đường
9
viền ngoài phế quản không đều giống như hình tràng hạt hay các tĩnh mạch bị
giãn. Các phế quản ngoại vi cũng bị tắc nhiều hơn ở nhóm GPQ hình ống, số
lần phân chia trung bình phế quản thấy được qua chụp phế quản là 4, đại thể
là 6,5 và vi thể là 8 lần.
1.1.6.3. Phân loại theo tính chất
- GPQ thứ phát hay mắc phải: GPQ xảy ra sau một bệnh của phế quản, phổi.
- GPQ tiên phát hay bẩm sinh: Bệnh xảy ra từ khi còn bào thai.
1.1.6.4. Phân loại theo vị trí tổn thương
- GPQ lan tỏa: GPQ nhiều thùy ở cả hai bên phổi, bệnh xảy ra từ lúc trẻ,
thể này nặng, nhanh bị suy hô hấp và không phẫu thuật được.
- GPQ thể cục bộ: GPQ ở 1-2 phân thùy ở một bên phổi. Thể này có thể
phẫu thuật được.
1.1.6.5. Phân loại theo nguyên nhân:
* GPQ do tắc phế quản:
- Tắc phế quản do dị vật
- Tắc phế quản do u trong lòng phế quản
- Tắc phế quản do sẹo cũ của các chấn thương, viêm nhiễm
* GPQ do viêm, hoại tử thành khí quản:
- Tắc phế quản do lao: thường gặp trong lao, xơ phổi, hay gặp GPQ ở
sàn hang lao.
- GPQ sau viêm không đặc hiệu: như viêm phổi do vi khuẩn, virút, do
sặc dịch dạ dày hoặc hít phải dịch máu xuống phổi.
- GPQ xảy ra ở bệnh nhân xơ hóa kém: gặp trong 50% các trường hợp
xơ hóa kén, thường gặp nhất ở Châu Âu và Bắc Mỹ, nhưng hiếm gặp ở Việt
Nam. GPQ thường xuất hiện vào giai đoạn muộn của bệnh xơ hóa kén.
- GPQ do xơ hoặc u hạt co kéo thành phế quản: lao xơ hang, áp xe phổi
mãn tính.
10
- GPQ và các bệnh phổi khác: áp xe phối, kén hơi phổi bội nhiễm, nhiễm
khuẩn phổi sau mổ.
- GPQ tiên phát:
+ Hội chứng Mounier Kuhn
+ Hội chứng Kartagener
+ Hội chứng William – Campbell.
Người ta còn cho rằng GPQ bẩm sinh là do viêm nhiễm vách phế quản
từ khi còn là bào thai do loạn sản bẩm sinh.
- Không rõ nguyên nhân: GPQ vô căn có thể do rối loạn thanh lọc phổi
phế quản, nhưng bị bỏ qua, thường gặp ở người lớn, ở thùy dưới.
1.2. Chẩn đoán GPQ
1.2.1. Triệu chứng lâm sàng.
1.2.1.1. Triệu chứng toàn thân.
- Sút cân, thiếu máu, mệt
- Suy hô hấp chỉ xảy ra ở những bệnh nhân có tổn thương GPQ lan tỏa
rộng 2 bên phổi.
- Ngón tay dùi trống (gặp 1/3 số trường hợp).[15]
- Các triệu chứng kèm theo: GPQ thường kèm theo các bệnh đường hô
hấp trên như viêm mũi xuất tiết, viêm mũi sau (75%), viêm xoang mủ (gặp
30-40%).
- Một vài triệu chứng ít gặp là: viêm mạch có ban xuất huyết ở ngoài da,
dấu hiệu móng tay vỏ hến.
Nói chung triệu chứng toàn thân phụ thuộc vào mức độ nguyên nhân và
biến chứng của bệnh.
1.2.1.2. Triệu chứng cơ năng
Dù GPQ tiên phát hay thứ phát đều có triệu chứng cơ năng như sau:
11
- Khạc đờm: thường gặp, khạc đờm từ 500-1000ml/24 giờ, đờm mủ, có
khi hôi thối do vi khuẩn hiếm khi, có thể đờm bị tắc không ra được.
Khi để lắng đờm có 3 lớp: lớp trên là bọt, lớp giữa là nhầy mủ, lớp dưới
là mủ đục. Bệnh nhân sốt cao kéo dài, những đợt cấp thường có sốt và khạc
đờm nhiều.
- Ho ra máu: thường ho ra máu thể trung bình, tái phát nhiều lần, kéo dài
trong nhiều năm, có khi không khạc đờm mà chỉ khạc ra máu, đó là trường
hợp GPQ khô, hay gặp ở thùy trên của phổi. Do áp lực động mạch phế quản
cao làm vỡ mối nối động mạch phế quản – động mạch phổi (Shunt trái, phải)
đó là cơ chế ho ra máu, cũng có khi do loét niêm mạc phế quản. Cần lấy đờm
tìm vi khuẩn và nhất là phải tìm AFB nhiều lần.
- Khó thở: biểu hiện của suy hô hấp, có thể tím.
- Đau ngực: là dấu hiệu sớm của nhiễm khuẩn phổi ở vùng GPQ.
1.2.1.3. Triệu chứng thực thể
- Khám phổi có thể không thấy gì hoặc nghe thấy ran ẩm, ran phế quản ở
những vùng có tổn thương, có khi nghe thấy tiếng thổi hang (thổi hang giả) có
khi khám thấy hội chứng đông đặc co rút khi có xẹp phổi.
- Khám đường hô hấp trên: có thể thấy viêm mũi họng mạn tính, viêm
xoang mạn tính (60-80%).
- Móng tay khum, ngón dùi trống.
1.2.2. Cận lâm sàng
* X- quang phổi chuẩn:
7% bệnh nhân GPQ có X-quang phổi bình thường.
Các hình ảnh X-quang thường gặp là:
- Thành phế quản tạo thành các đường song song.
- Thể tích của thùy phổi có GPQ nhỏ lại.
- Có thể thấy hình ảnh viêm phổi tái diễn nhiều lần tại vùng GPQ.
12
- Hình ảnh giống ngón tay đi găng.
* Chụp cắt lớp vi tính độ phân giải cao:
Đây là kỹ thuật hiện đại có thể phát hiện chính xác GPQ.
Các dấu hiệu:
+ Đường kính trong của phế quản lớn hơn động mạch đi kèm.
+ Các phế quản không nhỏ dần được quy định là khi 1 phế quản trên một
đoạn dài 2cm có đường kính tương tự phế quản đã phân chia ra phế quản đó.
+ Thấy phế quản ở cách thành ngực dưới 1cm.
+ Thấy phế quản đi sát vào màng phổi trung thất.
+ Thành phế quản dày.
* Thăm dò chức năng hô hấp:
Một số trường hợp chức năng hô hấp không có gì biến đổi.
Một số trường hợp có thể biểu hiện rối loạn thông khí tắc nghẽn:
- Chỉ số Tifeneau giảm
- Thể tích thở ra tối đa trong giây đầu tiên (FEV1) giảm.
- Dung tích sống (VC) bình thường.
- Dung tích toàn phổi (TLC) bình thường.
Hoặc một số trường hợp có rối loạn thông khí hỗn hợp:
- TLC giảm.
- Chỉ số Tifeneau giảm.
Khi có biểu hiện suy hô hấp nhất là giai đoạn nặng thấy PaO2 giảm,
PaCO2 tăng trong máu.
* Soi phế quản:
Có thể thấy tình trạng niêm mạc phế quản bị viêm, xuất tiết, phế quản bị
gấp khúc, bị chít hẹp, giúp xác định vị trí chảy máu, và hút dịch phế quản tìm
vi khuẩn.
* Các xét nghiệm khác:
13
- Các xét nghiệm đờm tìm vi khuẩn, nấm, làm kháng sinh đồ, cần xét
nghiệm nhiều lần để loại trừ lao.
- Khám tai mũi họng: chụp phim xoang để phát hiện hội chứng xoang –
phế quản.
- Làm điện tâm đồ để phát hiện tâm phế mạn.
* Chẩn đoán xác định bệnh GPQ:
Dựa vào chụp cắt lớp vi tính ngực lớp mỏng độ phân giải cao, hoặc
chụp phế quản cản quang (trước kia).
1.3. Tổng quan về phục hồi chức năng hô hấp trong bệnh GPQ.
Phục hồi chức năng hô hấp bao gồm các thao tác cơ học bên ngoài như:
phương pháp vỗ, rung, dẫn lưu đờm theo tư thế, ho có kiểm soát, thở chúm
môi, thở hoành và đi bộ thể dục.
1.3.1. Vỗ, rung, dẫn lưu tư thế.
Vỗ, rung và dẫn lưu tư thế là phương pháp điều trị nhằm giải phóng đờm
dịch ra khỏi phổi nhờ chủ động tác động một lực cơ học và các kỹ thuật trị
liệu hô hấp, giúp cho bệnh nhân có thể ho khạc và đờm được dẫn lưu theo các
tư thế khác nhau, ở những trường hợp đờm được tiết ra quá nhiều.
Phương pháp này giúp cho đường thở thông thoáng, không khí ra vào phổi
nhiều hơn, góp phần tích cực vào việc phục hồi chức năng bộ máy hô hấp.
1.3.1.1. Chỉ định
* Mục đích phòng bệnh: Nhằm đề phòng tích tụ các chất tiết đờm dãi
- Bệnh nhân đang thở máy (với điều kiện tình trạng bệnh nhân tương đối
ổn định và có thể chịu đựng được phương pháp điều trị và người thực hiện có
kinh nghiệm) vì những bệnh nhân này có nguy cơ bị viêm phổi và xẹp phổi
do ứ đọng.
- Bệnh nhân phải nằm điều trị tại giường lâu ngày, hạn chế hô hấp, ứ
đọng đờm dãi nhiều không khạc được, đặc biệt là ở người già và những bệnh
14
nhân có nguy cơ lớn như bệnh phổi phế quản mạn tính, những bệnh nhân bất
động sau mổ hoặc bệnh nhân có vết thương ở ngực, bụng….
- Bệnh nhân có tăng tiết đờm dãi như: giãn phế quản, xơ phổi.
- Ở những bệnh nhân có hạn chế hô hấp do đau, hoặc suy kiệt hoặc phải
bất động vì vậy giảm thông khí và khó khạc đờm.
- Ở những bệnh nhân giảm phản xạ ho khạc, rối loạn ý thức do ngộ độc
thuốc, u thân não, hôn mê.
* Mục đích điều trị: Nhằm tống thải các dịch, đờm bị ứ ra khỏi phổi.
- Bệnh nhân có xẹp phổi do ứ chất tiết đờm dãi.
- Bệnh nhân có áp xe phổi (chú ý dẫn lưu cả các vùng cận ổ áp xe có
nguy cơ bị nhiễm mủ do áp xe gây nên).
- Bệnh nhân viêm phổi, ứ đọng đờm dịch sau phẫu thuật.
- Bệnh nhân trong tình trạng ngộ độc thuốc, u thân não, hôn mê.
* Lưu ý: Không vỗ, rung quá mạnh gây đau cho bệnh nhân.
Các trường hợp có bệnh lý xường sườn, chấn thương ngực.
Người bệnh già yếu, ho ra máu.
Thận trọng với người bệnh có tăng huyết áp và bệnh tim mạch.
Không thực hiện khi người bệnh đang khó thở hoặc bị trào ngược dạ dày
thực quản.
1.3.1.2. Phương pháp
* Chuẩn bị bệnh nhân
Làm loãng đờm: Đờm thường nhầy quánh, dính. Làm loãng đờm có
vai trò quan trọng tạo điều kiện cho việc thải đờm được thuận lợi hơn. Đờm
được làm loãng nhờ các biện pháp sau:
- Khí dung cho bệnh nhân với 5 - 10ml natricloua 0,9% hoặc natriclorua
10%. Bên cạnh việc làm ẩm đờm trực tiếp, thành phần muối trong dịch khí
15
dung làm tăng áp lực thẩm thấu của đờm, do vậy tạo điều kiện hút dịch từ khí
thở và niêm mạc đường thở do vậy đờm được làm loãng tốt.
- Tăng cường uống nước hoặc truyền dịch cho bệnh nhân.
- Ngoài các biện pháp nêu trên, có thể dùng một số các thuốc làm loãng
đờm như: N. acetylcystein, carbocystein, bromhexin, ambrosol. Các thuốc
này làm gãy cầu nối disulfid glycoprotein của chất nhầy do vậy làm giảm độ
quánh của đờm.
Xác định vị trí của tắc nghẽn đờm: Trước vỗ rung và dẫn lưu tư thế, bệnh
nhân cần được khám lâm sàng tỷ mỉ, kết hợp với phim chụp X quang phổi hoặc
phim chụp cắt lớp vi tính để xác định chính xác tư thế cần thiết cho việc vỗ rung
dẫn lưu tư thế với nguyên tắc là vùng định dẫn lưu sẽ ở vị trí trên cao.
* Kỹ thuật vỗ lồng ngực
- Bệnh nhân được nằm hoặc ngồi ở tư thế đã chọn tuỳ thuộc vào vị trí
tổn thương. Bệnh nhân phải thư giãn hoặc chùng cơ khi vỗ.
- Kỹ thuật viên đứng hoặc ngồi ở tư thế thuận tiện. Bàn tay của kỹ thuật
viên chụm vào, các ngón tay khép vào, khi vỗ sẽ tạo ra một đệm không khí
giữa tay và lồng ngực.
- Vai, khuỷu tai, cổ tay kỹ thuật viên ở trạng thái thoải mái, dễ dàng và
mềm mại, không lên gân. Bàn tay luôn ở tư thế chụm lại.
- Hai tay vỗ nhịp nhàng và di chuyển trên thành ngực của bệnh nhân với
lực đều nhau. Yếu tố thư giãn trên người bệnh là do nhịp điệu và tốc độ khi vỗ.
- Tốc độ vừa phải, từ nhẹ rồi mạnh dần lên để bệnh nhân thích nghi được
với can thiệp, đến mức độ bệnh nhân chấp nhận được và có cảm giác dễ chịu.
- Không nhất thiết phải vỗ mạnh quá, kỹ thuật có hiệu quả khi vỗ chụm
bàn tay chứ không phải vỗ càng mạnh càng có hiệu quả. Không nên gây đau
và khó chịu cho người bệnh.
16
- Kỹ thuật viên không nhất thiết phải đứng ở một chỗ cố định để gõ
trong suốt thời gian điều trị. Bàn tay di chuyển gõ lên trên, xuống dưới hay
xung quanh theo kiểu vòng tròn.
- Một khi đã bắt đầu gõ thì nên liên tục gõ trong khoảng 3 – 5 phút. Nếu
người điều trị không gõ được đúng nhịp điệu do mỏi hoặc người bệnh bắt đầu
ho lúc đó sẽ chuyển sang rung lồng ngực.
* Kỹ thuật rung lồng ngực
- Làm xen kẽ với vỗ lồng ngực.
- Rung lồng ngực chỉ được làm ở thì thở ra. Vì vậy yêu cầu bệnh nhân
hít sâu, hai tay kỹ thuật viên đặt chồng lên nhau trên thành ngực tổn thương,
cổ tay, khuỷu tay phải luôn luôn thẳng.bắt đầu rung nhẹ vào cuối của thì hít
vào vào suốt cả thì thở ra. Nếu nhịp thở nhanh có thể rung cách một nhịp thở
một lần.
- Kỹ thuật rung được thực hiện bằng cách căng các cơ toàn bộ từ khớp
vai trở xuống của bàn tay của kỹ thuật viên.
- Thời gian thưc hiện kỹ thuật từ 3 – 5 phút.
Ghi chú:
- Mỗi lần vỗ, rung cần kéo dài khoảng 15 – 30 phút thuỳ thuộc vào tình
trạng của từng bệnh nhân. Mỗi ngày làm 2 - 3 lần (sáng, chiều, tối) .Nếu xuất
hiện có đỏ da và bệnh nhân kêu khó chịu thì nên xem lại cách làm.
- Nếu bệnh nhân gầy thì lót mảnh vải mỏng trên lưng trước khi vỗ.
* Dẫn lưu tư thế
- Bệnh nhân được đặt ở tư thế có thể ho khạc đờm, dịch ở trong phổi ra khỏi
phổi bằng đường khí phế quản được thuận lợi nhất. Đặt ở một tư thế phải duy trì ít
nhất từ 5 – 10 phút, nếu bị ứ đọng nhiều thì có thể để lâu hơn 20 - 30 phút.
17
- Trước khi dẫn lưu tư thế người bệnh được hướng dẫn ho hữu hiệu, tập
thở để phối hợp thực hiện. Các kỹ thuật vỗ, rung lồng ngực sẽ được thực hiện
trên người bệnh trong tư thế dẫn lưu thích hợp đó.
- Sau khi điều trị người bệnh trở lại tư thế cũ hoặc ngồi dậy từ từ.
- Các chất dịch không tống ra ngay trong và sau dẫn lưu mà thường phải
sau 30 – 60 phút, nên nhắc người bệnh chú ý ho khạc đúng quy định.
- Một số tư thế dẫn lưu:
Các tư thế dẫn lưu:
Tư thế 1: Thuỳ trên thẳng, rốn phổi trên
Bệnh nhân ngồi thẳng người và hơi nghiêng về phía sau, sau đó hơi
nghiêng về phía trước, rồi sang hai bên, tuỳ theo vùng cần lưu thông.
Tư thế 2: Các thuỳ bên phải và bên trái thẳng, rốn phổi ở phía trước
Bệnh nhân nằm ngửa.
Tư thế 3: Thuỳ trên thẳng, rốn phổi ở phía sau
Bệnh nhân nằm nghiêng về bên trái, nửa thân bên trái nằm nghiêng về phía
trước tạo một góc 450. Đặt một cái gối đỡ khuỷu tay trái và dưới ngực trái.
Tư thế 4: Thuỳ trên trái, rốn phổi ở phía sau.
Bệnh nhân nằm nghiêng về bên phải, nửa người bên trái ngả về phía
trước tạo một góc 450. Đặt một cái gối đỡ khuỷu tay phải và dưới ngực phải.
Tư thế 5: Các thuỳ trên phải và trái, rốn phổi ở phía sau.
Bệnh nhân nằm sấp, dưới cổ chân để một cái gối giúp cho cơ thể thư giãn
Tư thế 6: Thuỳ trên bên trái, phần dưới, các rốn phổi ở phía trên và phía dưới.
Bệnh nhân nằm ngửa, hơi nghiêng về bên phải tạo một góc 45 0. Lưng
được đệm một chiếc gối đặt giữa trải ra từ phía dưới vai trái tới hông trái. Đầu
giường phía chân được nâng cao 12cm.
18
Tư thế 7: Thuỳ giữa bên phải, rốn phổi, trung thất
Bệnh nhân nằm ngửa, hơi nghiêng về bên trái tạo một góc 45 0. Lưng
được đệm một chiếc gối đặt giữa trải ra từ phía dưới vai phải tới hông phải.
Đầu giường phía chân được nâng cao 12cm.
Tư thế 8: Thuỳ dưới phải, rốn phổi ở giữa và phía dưới.
Bệnh nhân nằm ngửa, đầu giường phía đặt chân được nâng cao khoảng 18cm.
Tư thế 9: Thuỳ phải, rốn phổi phía trước
Bệnh nhân nằm ngửa, thân hơi nghiêng về bên trái. Đầu giường phía đặt
chân được nâng cao khoảng 18cm.
Tư thế 10: Thuỳ dưới phải, rốn phổi phía dưới bên cạnh
Bệnh nhân nằm nghiêng bên trái. Một chiếc gối đặt dưới xương sườn trái
và xương hông. Lưng được đệm một chiếc gối đặt giữa trải ra từ dưới vai trái
tới hông trái. Đầu giường phía đặt chân được nâng cao khoảng 18cm.
Tư thế 11: Các thuỳ dưới bên phải và bên trái, rốn phổi ở phía dưới và
đằng sau. ở tư thế này có thể sử dụng 3 phương pháp. Nhưng dù phương pháp
nào thì góc và ngực bệnh nhân tạo với phương nằm ngang cũng là góc 450.
Bệnh nhân nằm sấp, đầu giường phía đặt chân được kê cao lên 25cm.
Có thể dùng một cái khung nghiêng kiểu như ghế ngựa dùng để cưa.
Các chân khung được đóng nghiêng 45 0 so với sàn, sau đó phủ một tấm
thảm lên khung.
Bệnh nhân nằm sấp ở mép giường hoặc bàn, sao cho thân trên dốc với
sàn nhà một góc 450. Thân trên và đầu tựa vào một cái ghế hoặc tựa lên sàn
nhà thông qua cẳng tay tì vào một cái gối.
Tư thế 12: Thuỳ dưới trái, rốn phổi ở dưới và bên cạnh
Bệnh nhân nằm nghiêng về bên phải, một chiếc gối kê dưới xương sườn cuối
và xương hông phải. Đầu giường nơi đặt chân được kê cao lên khoảng 18cm.
Tư thế 13: Thuỳ dưới trái, rốn phổi ở dưới, ở giữa và ở phía trước.
19
Bệnh nhân nằm ngửa, thân mình hơi nghiêng về bên phải. Đầu giường
phía đặt chân được kê cao lên chừng18cm.
1.3.2. Ho có kiểm soát
Ho thông thường: là một phản xạ bảo vệ của cơ thể nhằm tống những vật
“lạ” ra ngoài. Khi các phế quản bám đầy đờm nhớt, gây phản xạ muốn ho.
Cơn ho xảy đến do các kích thích ở cổ họng nhưng luồng khí không đủ để đẩy
đờm di chuyển.
Để thay thế những cơn ho thông thường dễ gây mệt, gây khó thở cần
hướng dẫn bệnh nhân sử dụng kỹ thuật ho có kiểm soát giúp người bệnh khạc
được đờm ra một cách dễ dàng, làm sạch đường thở, tăng thông khí và giảm
khó thở, tránh viêm nhiễm ứ đọng.
* Chỉ định
Mục đích của ho có kiểm soát không phải để tránh ho mà lợi dụng động
tác ho để làm sạch đường thở.
- Bệnh nhân nằm lâu, COPD, sau cơn hen phế quản, viêm phổi đã ổn định.
- Bệnh nhân có biểu hiện trào ngược vào đường thở, các trường hợp rối
loạn nuốt, sặc nước và thức ăn.
- Bệnh nhân phải còn tỉnh táo, không quá khó thở, đủ sức để thực hiện
động tác ho.
* Kỹ thuật ho có kiểm soát
Thời gian tập khoảng 5 phút hoặc lâu hơn tùy tình trạng bệnh nhân, có
thể tập vài lần mỗi ngày, chuẩn bị bô để bệnh nhân khạc nhổ khi ho.
Bệnh nhân ngồi trên giường hoặc ghế thư giãn, thoải mái.
Bước 1: Hít vào chậm và thật sâu.
Bước 2: Nín thở trong vài giây (khoảng 2 giây).
Bước 3: Ho mạnh ra liên tiếp 2 lần, lần đầu để long đờm, lần sau để đẩy đờm
ra ngoài.
Bước 4: Hít vào chậm và nhẹ nhàng. Thở ra chúm môi lại để hơi thở ra chậm
khi thấy thoải mái thì bắt đầu lặp lại động tác ho, có thể lặp lại 1 hoặc 2 lần.
20
Yêu cầu : hít vào thật sâu, càng sâu càng tốt, cố gắng nín được hơi sau đó
mới ho mạnh ra.
Lưu ý: - Khạc đờm vào lọ để xét nghiệm hoặc khăn giấy bỏ vào thùng
rác tránh lây nhiễm.
- Khi có cảm giác muốn ho, đừng cố gắng nín ho mà nên thực hiện kỹ
thuật ho có kiểm soát để giúp tống đờm ra ngoài.
- Tuỳ lực ho và sự thành thạo kỹ thuật của mỗi người, có khi phải lặp lại
vài lần mới đẩy được đờm ra ngoài.
1.3.3. Các bài tập thở
Từ thời Hypocrat, người ta đã biết đến tác dụng của tập thở trong điều trị
các bệnh mạn tính đường hô hấp. Cho đến ngày nay đã có nhiều nghiên cứu
về ứng dụng tập thở phục hồi chức năng hô hấp, và có nhiều biện pháp tập
thở. Ở Việt Nam có: Phạm Quốc Khánh (1987), Trần Thị Dung (1995) đã áp
dụng tập thở để phục hồi chức năng cho bệnh nhân dày dính màng phổi… [7],
[16],[17].
Trong phạm vi nghiên cứu này chúng tôi chỉ xin đề cập đến tập thở chúm
môi và thở hoành. Mục đích để khắc phục sự ứ khí trong phổi và hướng dẫn
các biện pháp để đối phó với tình trạng khó thở.
1.3.3.1. Chỉ định
- Bệnh nhân sau phẫu thuật, sau chấn thương, thở tăng nhưng lưu thông khí
kém ở những bệnh nhân tắc nghẽn hô hấp mạn tính, thở không hiệu quả trong
các hoạt động hàng ngày cũng như lúc luyện tập, xẹp phổi hoặc thùy phổi.
1.3.3.2. Phương pháp
* Bài tập thở chúm môi
21
- Khí bị nhốt trong phổi làm cho người bệnh khó thở; đẩy được lượng
khí cặn ứ đọng trong phổi ra ngoài mới có thể hít được không khí trong lành.
- Thở chúm môi là phương pháp giúp cho đường thở không bị xẹp lại khi
thở ra nên khí thoát ra ngoài dễ dàng hơn.
Kỹ thuật thở chúm môi
Giải thích cho bệnh nhân. Tư thế ngồi thoải mái. Thả lỏng cổ và vai.
Bước 1: Hít vào chậm tối đa qua mũi.
Bước 2: Môi chúm lại như đang huýt sáo, ngưng thở trong khoảng 3 giây.
Bước 3: Thở ra bằng miệng chậm sao cho thời gian thở ra gấp đôi thời
gian hít vào.
Lưu ý:
- Nên lặp lại động tác thở chúm môi nhiều lần cho đến khi hết khó thở.
- Tập đi tập lại nhiều lần sao cho thật nhuần nhuyễn và trở thành thói quen.
Nên dùng kỹ thuật thở chúm môi bất cứ lúc nào cảm thấy khó thở, như
khi leo cầu thang, tắm rửa, tập thể dục…
* Bài tập thở hoành
- Do tình trạng ứ khí trong phổi nên lồng ngực bị căng phồng làm hạn
chế hoạt động của cơ hoành.
- Cơ hoành là cơ hô hấp chính, nếu hoạt động kém sẽ làm thông khí ở
phổi kém và các cơ hô hấp phụ phải tăng cường hoạt động.
- Tập thở cơ hoành sẽ giúp tăng cường hiệu quả của động tác hô hấp và
tiết kiệm năng lượng.
* Kỹ thuật thở hoành
Ngồi ở tư thế thoải mái. Thả lỏng cổ và vai.
Đặt 1 bàn tay lên bụng và đặt bàn tay còn lại lên ngực.
22
Hít vào chậm qua mũi sao cho bàn tay trên bụng có cảm giác bụng
phình lên. Lồng ngực không di chuyển.
Hóp bụng lại và thở ra chậm qua miệng với thời gian thở ra gấp đôi
thời gian hít vào và bàn tay trên bụng có cảm giác bụng lõm xuống.
Lưu ý:
- Nên tập thở cơ hoành nhiều lần trong ngày cho đến khi trở thành thói quen.
- Sau khi đã nhuần nhuyễn kỹ thuật thở cơ hoành ở tư thế nằm hoặc
ngồi, nên tập thở cơ hoành khi đứng, khi đi bộ và cả khi làm việc nhà.
1.3.4. Đi bộ
Bắt đầu bằng đi bộ một thời gian ngắn trên mặt phẳng mỗi ngày, có thể
dùng oxy nếu cần thiết. Khi có cảm giác khó thở phải dừng lại ngay.
Khuyên bệnh nhân đi theo tốc độ của riêng, phù hợp với gắng sức của
bệnh nhân.
Trong khi đi bách bộ cần kết hợp với bài tập thở hoành, khi hít vào
bụng giãn nở to, khi thở ra bụng xẹp lại.
Lưu ý: -Tránh những động tác thừa không cần thiết, tránh mang những
vật nặng. Kéo dài khoảng cách đi bộ của mình theo nỗ lực tập luyện hµng
ngày của bệnh nhân. Dần dần bệnh nhân sẽ thấy hài lòng vì khả năng gắng
sức đã được cải thiện.
Đặt mục tiêu hợp lý để đạt được, không nên cố gắng mọi cách để đạt
được mục tiêu đó.
1.4. Tổng quan về chất lượng cuộc sống liên quan đến sức khỏe
Năm 1948 tổ chức y tế Thế giới (WHO) lần đầu tiên đã đưa ra định nghĩa
về sức khoẻ: “Sức khoẻ là sự sảng khoái hoàn toàn về thể chất, tinh thần và xã
hội, chứ không phải chỉ là không có bệnh hay tật”. Trong thực tế nhiều người
có tật nguyền nhưng lại sống rất hạnh phúc trong khi có những người khoẻ
mạnh lại trở thành tác nhân gây nguy hại cho xã hội. Do vậy sức khoẻ là một
23
yếu tố rất quan trọng của CLCS. Ngày nay, trong đời sống xã hội, chất lượng
cuộc sống cũng bắt đầu được quan tâm. Điều này được thể hiện trong nghị
quyết VIII của Đại hội Đảng Việt Nam: “Chất lượng cuộc sống được xem như
là mục đích phấn đấu của mọi hoạt động kinh tế xã hội” [18].
Khái niệm Chất lượng cuộc sống đã ra đời khá lâu, nhưng vẫn chưa có
sự thống nhất trong định nghĩa. Hiện tại, có nhiều định nghĩa khác nhau về
chất lượng cuộc sống:
Định nghĩa của Tổ chức y tế thế giới cho rằng: “Chất lượng cuộc sống” là
sự nhận thức của một cá nhân về tình trạng hiện tại của người đó, theo những
chuẩn mực về văn hoá và sự thẩm định giá trị của xã hội mà người đó đang
sống. Những nhận thức này gắn liền với mục tiêu, kỳ vọng và những mối
quan tâm, lo lắng của người đó [19],[20],[21].
Theo Trung tâm nâng cao sức khoẻ của Canada [22]: “Chất lượng
cuộc sống được xem như mức độ bằng lòng của một người về những khả
năng quan trọng của người đó”.
Theo Từ điển văn hoá gia đình [18]: Chất lượng cuộc sống được xem là
“mức sống”.
Theo Nagpal: “Chất lượng cuộc sống” được xem như một phức hợp đo
lường thể chất, tinh thần và xã hội. Đó là nhận thức tốt nhất của mỗi cá nhân và
sự thoả mãn, sự tự hài lòng trong những lĩnh vực như sức khoẻ, hôn nhân, gia
đình, nghề nghiệp, tài chính, cơ hội học tập, sự quan trọng của bản thân, nhận
thức về nguồn gốc và độ tin cậy của người đó với những người khác.
Còn theo Oleson M [23]: Chất lượng cuộc sống là mức độ hài lòng, thoả
mãn của con người trong những lĩnh vực mà họ cho là quan trọng nhất trong
cuộc sống. Đây là một khái niệm rộng và bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố như:
Tình trạng kinh tế, chỗ ở, việc làm, tôn giáo, chính sách trợ cấp xã hội và tình
24
trạng sức khoẻ... Tuỳ theo lĩnh vực nào của cuộc sống được xem là quan trọng
nhất và mức độ hài lòng, thoả mãn của một người với lĩnh vực đó sẽ quyết định
chất lượng cuộc sống của họ. Vì vậy, khi một người không hài lòng về một lĩnh
vực không được họ xem là quan trọng thì chất lượng cuộc sống của người đó
gần như không bị ảnh hưởng.
Mặc dù khái niệm về chất lượng cuộc sống còn rất trừu tượng, nhưng qua
một số định nghĩa vừa nêu, có thể thấy rằng chất lượng cuộc sống là một khái
niệm chủ quan, theo từng cá nhân và môi trường sống của họ. Đó là cách sống,
cách cảm nhận, đánh giá cuộc sống hay nói cách khác, định cho cuộc sống
một giá trị nào đó. Nhìn chung, chất lượng cuộc sống là một tình trạng tinh
thần hơn là sức khoẻ thể chất đơn thuần, phản ánh sự thoải mái, sảng khoái và
những phản ứng chủ quan đối với sức khoẻ, phản ánh mối quan hệ gia đình,
hoạt động xã hội, nghề nghiệp, đời sống tinh thần, sự sáng tạo, niềm hy vọng,
sự thành đạt.
“Chất lượng cuộc sống” là một khái niệm rộng và liên quan đến rất nhiều
lĩnh vực. Do đó, khi xem xét trên khía cạnh chăm sóc sức khoẻ, người ta
thường có khuynh hướng giới hạn những ghi nhận về chất lượng cuộc sống
trên các khía cạnh thể chất, tinh thần và xã hội. Chính vì thế, các nhà y học
thấy cần phải tách riêng khái niệm chất lượng cuộc sống liên quan sức khoẻ,
bởi vì không thể bao quát hết mọi vấn đề của định nghĩa chất lượng cuộc sống
vào những nghiên cứu sức khoẻ. Mặt khác, đo lường chất lượng cuộc sống sẽ
có nhiều ý nghĩa hơn khi gắn liền với sức khoẻ và bệnh tật. Từ đó thuật ngữ
“Chất lượng cuộc sống liên quan sức khoẻ” (CLCS-SK) đã ra đời. CLCS-SK
bao gồm nhiều lĩnh vực liên quan đến những đánh giá khách quan lẫn chủ
quan về tình trạng sức khoẻ do bệnh tật, chấn thương hay một chế độ điều trị
tạo ra. CLCS-SK đề cập đến những lĩnh vực của chất lượng cuộc sống có ảnh
hưởng hoặc bị ảnh hưởng bởi sức khoẻ. Mục đích điều trị ngày càng mở rộng
25
(nhất là đối với các bệnh mãn tính), ngoài việc kéo dài thời gian sống, còn
gồm cả việc giảm triệu chứng và cải thiện CLCS-SK. Vậy những lĩnh vực nào
cần được xem xét khi khảo sát CLCS-SK?
Qua nhiều y văn, CLCS-SK là một cấu trúc có nhiều lĩnh vực. Với nền
tảng của định nghĩa sức khoẻ của Tổ chức y tế thế giới thì các lĩnh vực của
CLCS-SK được quan tâm là: Thể chất, tinh thần, xã hội [24]. Mỗi lĩnh vực
được xem xét trên nhiều khía cạnh; Các khía cạnh của lĩnh vực tinh thần: suy
nghĩ tích cực, suy nghĩ tiêu cực và hành vi. Các khía cạnh của lĩnh vực xã hội:
công việc, địa vị, và quan hệ cá nhân [25].
Các lĩnh vực của chất lượng cuộc sống
CLSC - CK (X, Y)
ThÊp
Thể chất
Triệu chứng cơ năng tàn tật
Cao
Tình trạng sức khoẻ (Y)
Suy nghĩ tích cực
Suy nghĩ tiêu cực hành vi
Tinh thần
Xã hôị
Công việc địa vị
Quan hệ cá nhân
Thấp
Cảm nhận chủ quan (X)
Cao
Với những khái niệm có tính chất trừu tượng và tổng quát của CLCS-SK
nên việc tiếp cận CLCS-SK khảo sát và lượng giá không phải dễ dàng. Vì vậy
một yêu cầu được đặt ra là tìm những biện pháp cụ thể, khoa học và có độ tin
cậy cao để đo lường CLCS-SK. Từ những năm 60, trong y văn thế giới đã từng
có nhiều thang đo ghi nhận các chỉ số về các lĩnh vực của CLCS-SK. Các thang
đo về CLCS-SK ngày càng được nghiên cứu và phát triển. Tuy nhiên, có thể do