BỘ TÀI CHÍNH
TRƯỜNG BỒI DƯỠNG CÁN BỘ TÀI CHÍNH
TIỂU LUẬN TÌNH HUỐNG
“THỰC HIỆN CÔNG TÁC CHI TRẢ CHẾ ĐỘ BẢO HIỂM XÃ HỘI
QUA HỆ THỐNG BƯU ĐIỆN TẠI MỘT BỆNH VIỆN HẠNG 2”
Họ tên học viên: Trịnh Thị Ngọc Bích
Chức vụ: Kế toán
Đơn vị công tác: Trung tâm Y tế huyện Mộ Đức
Quảng Ngãi - 2019
BỘ TÀI CHÍNH
TRƯỜNG BỒI DƯỠNG CÁN BỘ TÀI CHÍNH
CHƯƠNG TRÌNH BỒI DƯỠNG NGẠCH KẾ TOÁN
VIÊN Lớp: Bồi dưỡng ngạch Kế toán viên; Tổ chức tại:
Tỉnh Quảng Ngãi. Từ ngày 03 tháng 06 năm 2019 đến ngày
12 tháng 09 năm 2019
TIỂU LUẬN TÌNH HUỐNG
Tiểu luận:
THỰC HIỆN CÔNG TÁC CHI TRẢ CHẾ ĐỘ BẢO HIỂM XÃ HỘI QUA
HỆ THỐNG BƯU ĐIỆN TẠI MỘT BỆNH VIỆN HẠNG 2
Họ tên học viên: Trịnh Thị Ngọc Bích
Chức vụ: Kế toán
Đơn vị công tác: Trung tâm Y tế huyện Mộ Đức
Quảng Ngãi, Tháng 08/2019
1
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU..........................................................................................................1
PHẦN NỘI DUNG...................................................................................................3
PHẦN 1: MÔ TẢ TÌNH HUỐNG.....................................................................3
PHẦN 2: PHÂN TÍCH TÌNH HUỐNG............................................................ 5
2.1. Cơ sở lý luận............................................................................................5
2.2. Phân tích tình huống................................................................................5
PHẦN 3: ĐỀ XUẤT PHƯƠNG ÁN GIẢI QUYẾT TÌNH HUỐNG..............12
3.1. Mục tiêu giải quyết tình huống..............................................................12
3.2. Xây dựng, phân tích và lựa chọn phương án giải quyết tình huống......12
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ............................................................................... 17
TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................................................22
2
LỜI NÓI ĐẦU
Với chuyên môn được đào tạo là một kế toán, nay bản thân đã được cơ
quan cử đi tham gia Lớp bồi dưỡng ngạch kế toán viên do Trường Bồi dưỡng
cán bộ tài chính tổ chức tại Quảng Ngãi, bản thân đã được bổ sung những kiến
thức về công tác kế toán cũng như kiến thức về quản lý hành chính tại các cơ
quan nhà nước. Tuy thời gian học không dài, nhưng với sự biên soạn nội dung,
chương trình ngắn gọn, đầy đủ và sự nhiệt tình của các Thầy, Cô của Trường Bồi
dưỡng cán bộ tài chính đã truyền đạt những kiến thức cơ bản cho toàn thể học
viên lớp học là những viên chức nhà nước làm việc tại tỉnh Quảng Ngãi. Bản
thân tôi luôn cố gắng, đã nỗ lực học tập để nâng cao năng lực trong lĩnh lực
chuyên môn với mục đích là mong muốn vận dụng những kiến thức và kinh
nghiệm đã được học đưa vào thực tiễn công tác được phân công.
Trải qua thời gian 3 tháng học tập, nghiên cứu tại trường, được sự tận tình
giảng dạy của các thầy, cô giáo Trường Bồi dưỡng cán bộ tài chính đã giúp em
tiếp thu được những kiến thức cơ bản về kế toán viên chính, và học được nhiều
kiến thức trong cách ứng xử, giao tiếp để phục vụ cho công tác đạt hiệu quả cao
hơn. Hiện nay, Bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế là hai chính sách xã hội quan
trọng, trụ cột của hệ thống an sinh xã hội ở nước ta. Góp phần thực hiện tiến bộ
và công bằng xã hội, bảo đảm ổn định xã hội và phát triển kinh tế. Luôn nhận
được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước nhằm đảm bảo và ổn định cuộc sống
khi người lao động không may bị ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề
nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết của người lao động nói chung và đội ngũ cán
bộ công chức, viên chức nhà nước nói riêng. Trong năm 2018, số người tham gia
bảo hiểm xã hội trong cả nước đã đạt trên 14,7 triệu người, chiếm khoảng 30,4%
lực lượng lao động trong độ tuổi; số người tham gia bảo hiểm thất nghiệp đạt
trên 12,6 triệu người, chiếm khoảng 26,2% lực lượng lao động trong độ tuổi.
Đặc biệt, tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế tiếp tục có sự tăng trưởng và đã đạt độ bao
1
phủ 88,5% dân số với trên 83,5 triệu người tham gia bảo hiểm y tế, vượt 3,3% so
với chỉ tiêu Thủ tướng Chính phủ giao. Việc chi trả chế độ bảo hiểm xã hội nói
chung thực hiện tương đối tốt, nhưng vẫn còn không ít địa phương thực hiện
việc chi trả còn nhiều bất cập như: chi trả chậm hoặc lạm dụng tiền chế độ của
các đối tượng thụ hưởng bảo hiểm xã hội, làm ảnh hưởng đến lòng tin của đối
tượng.
Hệ thống chế độ chính sách Bảo hiểm Xã hội ngày càng được quan tâm xây
dựng và ổn định, đảm bảo an sinh xã hội. Trong đó có chế độ chi trả bảo hiểm xã
hội thường xuyên hiện nay còn nhiều vấn đề cần được quan tâm, do vậy em
chọn tình huống: “Thực hiện công tác chi trả chế độ bảo hiểm xã hội qua hệ
thống Bưu điện tại một bệnh viện hạng 2” để làm tiểu luận hoàn thành khóa
học.
Vì thời gian nghiên cứu không nhiều và kiến thức của bản thân còn nhiều
hạn chế nhất định, do vậy, nội dung trình bày không sao tránh khỏi những sai
sót, kính mong nhận được sự thông cảm và góp ý của quý thầy giáo, cô giáo
Trường Bồi dưỡng cán bộ tài chính. Em xin chân thành cảm ơn!
2
PHẦN NỘI DUNG
PHẦN 1: MÔ TẢ TÌNH HUỐNG
Tháng 10 năm 2018, tại xã Đức Chánh thuộc huyện Mộ Đức của tỉnh
Quảng Ngãi. Ngày 12 đến ngày 15 tháng 10 năm 2018, cơ quan bảo hiểm xã hội
huyện liên tiếp nhận được nhiều đơn thư của một số cán bộ hưu trí của xã trên
phản ánh vấn đề chi trả lương hưu và trợ cấp bảo hiểm xã hội thường xuyên cho
đối tượng hưởng bảo hiểm xã hội trong tháng 3 năm 2018 của cán bộ làm nhiệm
vụ chi trả tiền cho đối hưởng chế độ bảo hiểm xã hội thường xuyên có dấu hiệu
không bình thường, nội dung phản ánh như sau:
- Trả chậm lương hưu
- Chưa nhận được tiền quà tết
- Xin thêm tiền bồi dưỡng
- Lợi dụng chiếm đoạt tiền khi đối tượng đã chết, không báo cắt giảm.
Sau khi nhận được đơn thư phản ánh của mốt số cán bộ hưu trí thuộc xã nói
trên, ban giám đốc cơ quan bảo hiểm xã hội huyện đã xin ý kiến chỉ đạo của bảo
hiểm xã hội tỉnh Quảng Ngãi, lãnh đạo Uỷ ban nhân dân huyện thành lập đoàn
kiểm tra công tác chi trả ngay trong ngày 16 tháng 10 năm 2018.
Qua kiểm tra đoàn đã nhận thấy các nội dung phản ánh của cán bộ hưu trí
là có thật, cụ thể như sau:
- Theo lịch chi trả thường xuyên đã được ấn định là buổi chiều ngày 06
hàng tháng, trả tại trụ sở UBND xã. Nhưng cán bộ làm nhiệm vụ hợp đồng chi
trả đã không trả vào ngày này mà tự ý chuyển sang ngày 10/10/2018 mới thông
báo cho các đối tượng đến nhận tiền.
- Tiền quà tết 300.000 đồng có 2 người chưa nhận kịp trong thời gian trước
tết theo quy định sẽ được nhận vào tháng lương kề sau đó nhưng ở đây cán bộ
3
không chi.
- Vòi vĩnh cán bộ hưu trí từ 50.000 đồng đến 100.000 đồng với lý do chi
phí xăng xe đi lại nhận tiền chi trả.
- Kiểm tra tình hình thực tế có 1 số ý kiến phản ánh là ông Y được hưởng
chế độ hưu trí đã chết ngày 04 tháng 10 năm 2018, gia đình ông Y vẫn được
nhận tiền lương hưu của ông hết tháng 10/2018 nhưng cán bộ làm nhiệm vụ chi
trả không trả tiền cho gia đình và báo với gia đình là đã cắt chế độ. Mặc dù trong
bảng lương tháng 3 đã được bảo hiểm xã hội tỉnh duyệt. Trường hợp này theo
quy định đối tượng vẫn được hưởng lương tháng 10/2018, sau đó làm thủ tục
báo cho cơ quan bảo hiểm xã hội cắt hưởng từ tháng 11/2018 và hướng dẫn làm
thủ tục hưởng chế độ tiền mai táng phí và tiền tuất (nếu có). Cán bộ này đã tự ý
ký nhận tên ông Y và thanh quyết toán với cơ quan bảo hiểm xã hội huyện đến
hết tháng 10 năm 2018.
4
PHẦN 2: PHÂN TÍCH TÌNH HUỐNG
2.1. Cơ sở lý luận
- Căn cứ để xử lý tình huống nêu trên:
+ Luật số 58/2014/QH13 ngày 20 tháng 11 năm 2014 của Quốc hội
Khóa XIII về việc ban hành Luật Bảo hiểm xã hội
+ Quyết định Số 828/QĐ-BHXH ngày 27 tháng 5 năm 2016 của Bảo
hiểm xã hội Việt Nam về việc ban hành quy định quản lý chi trả các chế độ bảo
hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp
+ Luật số 10/2012/QH13 ngày 18 tháng 6 năm 2012 của Quốc hội Khóa
XIII về việc ban hành Luật Bảo hiểm xã hội về việc ban hành Bộ luật lao động
2.2. Phân tích tình huống
2.2.1. Nguyên nhân:
Huyện có 15 xã, 2 thị trấn các đối tượng hưởng chế độ thường xuyên như:
Hưu trí, mất sức, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, tử tuất, trợ cấp theo Quyết
định 91; trợ cấp mất sức theo Quyết định số 613; khoảng 2668 người. số tiền chi
trả hàng tháng hơn 7.000.000.000.000 đồng. Tất cả 15 xã, 2 thị trấn đều có cán
bộ hưu trí, để thực hiện chi trả các chế độ thường xuyên, cơ quan bảo hiểm xã
hội huyện đã ký hợp đồng với UBND các xã làm đại lý chi trả, vì thế UBND xã
đã phân công cho cán bộ làm công tác thương binh xã hội đảm nhận việc chi trả
các chế độ trong đó có chế độ bảo hiểm xã hội (với mức lệ phí mà bảo hiểm xã
hội chi trả cho đại lý làm công tác chi trả của xã là: 200.000 - 250.000 đồng mỗi
tháng tùy thuộc số lượng đối tượng nhiều hay ít). Hàng tháng vào ngày 04 - 05
cán bộ làm công tác chi trả xã, thị trấn đến cơ quan bảo hiểm xã hội huyện tạm
ứng tiền về chi trả cho các đối tượng theo danh sách được cơ quan bảo hiểm xã
hội tỉnh phê duyệt, chậm nhất sau 5 ngày kể từ ngày tạm ứng tiền, đại lý chi trả
các xã phải thanh toán với cơ quan bảo hiểm xã hội huyện. Do số tiền chi trả lớn
5
nên đã xảy ra các trường hợp lạm dụng như tình huống đã nêu trên, từ đó rút ra
được các nguyên nhân sau:
Cán bộ làm nhiệm vụ hợp đồng chi trả tiền đã không duy trì được chi trả
theo lịch của bảo hiểm xã hội hàng tháng, do có 1 số ít đối tượng tuổi cao, sức
yếu có nhu cầu chi trả tiền tận nhà đã làm nảy sinh tư tưởng vòi vĩnh tiền xăng
xe, trong khi đó các đối tượng bình thường khác thì muốn được đến địa điểm để
nhận tiền, găp nhau hàn huyên tâm sự, có xã đã thành lập được hội hưu trí để
hoạt động vui, khỏe, có ích.
UBND xã chưa quan tâm, thiếu sự kiểm tra, giám sát, hơn nữa cán bộ làm
hợp đồng chi trả còn phải thực hiện nhiệm vụ chuyên môn. Lãnh đạo UBND xã
sẽ không quản lý được các đối tượng thụ hưởng bảo hiểm xã hội tại địa phương
mình.
Về phía cơ quan bảo hiểm xã hội huyện chưa thường xuyên kiểm tra,
giám sát, đối chiếu chữ ký của người nhận tiền để phát hiện sai sót và uốn nén
kịp thời.
Cán bộ trực tiếp làm công tác chi trả của xã chưa thật sự gương mẫu, đạo
đức và ý thức trách nhiệm phục vụ nhân dân chưa cao.
2.2.2. Hậu quả:
- Tình huống xảy ra mang lại hậu quả tuy không lớn về mặt kinh tế nhưng
dẫn đến hậu quả rất nặng nề về lòng tin của các đối tượng thụ hưởng chế độ bảo
hiểm xã hội đối với cơ quan, chính quyền và những người đang thực thi chính
sách tốt đẹp của Đảng và Nhà nước đề ra.
Trong lúc Đảng, Nhà nước ta đang kêu gọi, tinh thần đoàn kết tương thân,
tương ái, lá lành đùm lá rách giữa các tầng lớp dân cư, nhằm xây dựng một xã
hội công bằng dân chủ văn minh, thực hiện phong trào đền ơn đáp nghĩa, quan
tâm chăm sóc gia đình chính sách… thì những việc làm của cán bộ làm công tác
thương binh xã hội chi trả chế độ bảo hiểm xã hội của xã Đức Chánh đi ngược
6
lại lợi ích của cộng đồng.
- Tình huống đã được mô tả trong mục 1 của tiểu luận cần được giải quyết
là: xác định mức độ đúng sai, mức độ vi phạm, nguyên nhân chủ quan, khách
quan của vụ việc.Tìm ra một giải pháp tốt nhất để thực hiện chi trả đúng và đủ
cho các đối tượng thụ hưởng chế độ chính sách bảo hiểm xã hội của xã Đức
Chánh, huyện Mộ Đức.
- Dựa trên cơ sở pháp lý là Bộ luật lao động (đã được sửa đổi, bổ sung năm
2002, 2006), điều 140 quy định: “Nhà nước quy định chính sách về bảo hiểm xã
hội nhằm từng bước mở rộng và nâng cao việc bảo đảm vật chất, chăm sóc,
phục hồi sức khỏe, góp phần ổn định đời sống cho người lao động và gia đình
trong các trường hợp người lao động ốm đau, thai sản, hết tuổi lao động, chết, bị
tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, hoặc gặp rủi ro trong cuộc
sống”.
- Luật Bảo hiểm xã hội được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam khóa 13 ban hành ngày 20 tháng 11 năm 2014, có hiệu lực thi hành
ngày 01/01/2016 đã quy định Các chế độ bảo hiểm xã hội đó là:
1. Bảo hiểm xã hội bắt buộc có các chế độ sau đây:
a) Ốm đau;
b) Thai sản;
c) Tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp;
d) Hưu trí;
đ) Tử tuất.
2. Bảo hiểm xã hội tự nguyện có các chế độ sau đây:
a) Hưu trí;
b) Tử tuất.
7
3. Bảo hiểm hưu trí bổ sung do Chính phủ quy định.
Tại khoản 3, điều 18 của luật bảo hiểm xã hội quy định quyền của người
lao động: “Nhận lương hưu và trợ cấp bảo hiểm xã hội đầy đủ, kịp thời”.
Để trả lương hưu và trợ cấp bảo hiểm xã hội đúng, đủ và kịp thời cho các
đối tượng thì trách nhiệm thuộc về cơ quan, tổ chức bảo hiểm xã hội, vấn đề này
được quy định tại điều 20 của luật bảo hiểm xã hội, tại điểm 3 có quy định tổ
chức bảo hiểm xã hội có trách nhiệm: “tiếp nhận hồ sơ, giải quyết chế độ bảo
hiểm xã hội; thực hiện việc trả lương hưu, trợ cấp Bảo hiểm xã hội đầy đủ, thuận
tiện và đúng thời hạn:
Trong tình huống nêu trên, cơ quan bảo hiểm xã hội huyện hợp đồng với xã
làm đại lý chi trả đã để xảy ra việc chi trả không đúng, không đủ, không kịp thời
phải chăng không đúng với quan điểm văn bản quy định? Để lý giải điều này ta
tiếp tục xem xét các quy phạm pháp luật có liên quan.
- Tại quyết định số 828/QĐ-BHXH ngày 27/5/2016 của Tổng giám đốc
Bảo hiểm xã hội Việt Nam quy định về việc thực hiện quản lý, chi trả các chế độ
bảo hiểm xã hội bắt buộc như sau:
1. Bảo hiểm xã hội tỉnh, bảo hiểm xã hội huyện, bảo hiểm xã hội khối quốc
phòng, an ninh là cơ quan tổ chức thực hiện chi trả các chế độ bảo hiểm xã hội
cho người lao động, người hưởng lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội hàng
tháng và thân nhân của họ theo quy định.
2. Các tổ chức, cá nhân thực hiện chi trả đảm bảo đúng nguyên tắc; quản lý
chặt chẽ tình hình biến động tăng, giảm người hưởng và số tiền chi trả; chấp
hành đúng chế độ kế toán, báo cáo thống kê; thực hiện thanh quyết toán và quản
lý lưu giữ chứng từ kế toán theo quy định; cung cấp đầy đủ hồ sơ, chứng từ chi
trả chế độ bảo hiểm xã hội khi có yêu cầu kiểm tra của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền; thực hiện thu hồi số tiền người hưởng đã lĩnh sai chế độ khi phát
8
hiện chi sai hoặc khi có kết luận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
3. bảo hiểm xã hội cấp trên có trách nhiệm hướng dẫn, kiểm tra, giám sát
quá trình thực hiện chi trả và quản lý người hưởng của cơ quan bảo hiểm xã hội
cấp dưới, ĐDCT, người sử dụng lao động theo quy định.
Căn cứ luật bảo hiểm xã hội ; nghị định của chính phủ; thông tư hướng dẫn
của bộ lao động thương binh - xã hội của bảo hiểm xã hội việt nam, chúng ta
khẳng định được rằng: quyền của người hưởng chế độ bảo hiểm xã hội thường
xuyên là: phải được nhận tiền tại nơi cư trú thuận tiện nhất; được nhận tiền đầy
đủ và kịp thời. Cơ quan bảo hiểm xã hội huyện là người chịu trách nhiệm chi trả
nhưng có quyền lựa chọn các hình thức chi trả cho phù hợp, có thể là trả trực
tiếp, thông qua đại lý xã, hoặc thông qua một đại diện chi trả của xã, hoặc trả
qua tài khoản ATM của hệ thống ngân hàng. Như vậy, việc cơ quan bảo hiểm xã
hội huyện hợp đồng với UBND xã để chi trả các chế độ bảo hiểm xã hội thường
xuyên là đúng với quy định của pháp luật.
Căn cứ hợp đồng về việc quản lý chi trả lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội
của cơ quan bảo hiểm xã hội huyện đã ký kết với UBND xã do ông Nguyễn Hữu
C, Phó chủ tịch UBND xã làm đại diện, cán bộ trực tiếp chi trả là ông Lưu Hòa
H.Trong điều khoản của hợp đồng có quy định rõ trách nhiệm của đại lý chi trả
và người trực tiếp chi trả, cụ thể tại điều 2 của hợp đồng có quy định nhiệm vụ
của người trực tiếp chi trả tại xã như sau:
- Thực hiện chi trả toàn bộ số tiền lương hưu, trợ cấp hàng tháng cho người
được hưởng chế độ bảo hiểm xã hội trên địa bàn xã theo danh sách do cơ quan
bảo hiểm xã hội huyện giao, đảm bảo đầy đủ, kịp thời, đúng quy định tránh tình
trạng trả chậm, chiếm dụng vốn gây ảnh hưởng đến quyền lợi thiết thực của
những người được hưởng chế độ.
- Hàng tháng sau 5 ngày kể từ ngày nhận tiền của cơ quan bảo hiểm xã hội
huyện a phải lập báo cáo theo quy định, thanh quyết toán và nộp toàn bộ số tiền
chưa chi trả (đối tượng chưa nhận) về cho cơ quan bảo hiểm xã hội huyện.
9
- Lập danh sách báo cáo với cơ quan bảo hiểm xã hội huyện để cắt giảm
khi đối tượng chết…
Với những nội dung quy định rõ trách nhiệm được ghi trong hợp đồng,
chúng ta thấy rằng trách nhiệm của cơ quan bảo hiểm xã hội huyện A, UBND xã
Đức Chánh và cán bộ trực tiếp chi trả đều có những vấn đề cần phải nghiên cứu
phân tích:
+ Về đại diện chi trả: Giả chữ ký của đối tượng để nhận tiền, không chi tiền
quà tết của đối tượng mà hướng dẫn vòng vo, có ý muốn chiếm dụng. Không
báo cáo cắt giảm khi đối tượng đã chết mà lợi dụng để chiếm đoạt tiền là vi
phạm Pháp luật, vi phạm những quy định trong hợp đồng đã ký kết. Để kịp thời
cho việc quyết toán theo đúng thời gian quy định, cán bộ chi trả phải làm động
tác ký khống trước rồi chi trả sau.
Trong hợp đồng có quy định, sau 5 ngày kể từ ngày nhận tiền tại cơ quan
bảo hiểm xã hội nếu chưa chi trả thì phải nộp số tiền đó về cơ quan bảo hiểm xã
hội huyện. vấn đề đặt ra ở đây là: nếu các đại diện nộp số tiền chưa chi trả của
những đối tượng thụ hưởng chế độ bảo hiểm xã hội (vì lý do nào đó mà các đối
tượng chưa nhận) về cho cơ quan bảo hiểm xã hội huyện, thì sau đó ai sẻ trả? trả
vào thời gian nào để đảm bảo được quyền lợi cho đối tượng thụ hưởng chế độ
bảo hiểm xã hội như luật đã quy định.
Đại diện chi trả vòi vĩnh tiền xăng xe của các đối tượng hưu trí là có thực,
nguyên nhân sâu xa là do đạo đức, ý thức phục vụ nhân dân của đội ngũ cán bộ
làm công tác chi trả xã còn quá yếu, không nhận thức được đối tượng mình đang
phục vụ là đối tượng chính sách đang được Đảng và Nhà nước ta rất mực quan
tâm, vì họ là những người đi trước có thời gian cống hiến, đóng góp công sức rất
nhiều cho đất nước, vì vậy chúng ta, những người thuộc thế hệ đi sau phải có
trách nhiệm trân trọng và phục vụ tận tình, chu đáo.
Tại điểm d của Quyết định số 828/QĐ-BHXH ngày 27 tháng 5 năm 2016
của bảo hiểm xã hội việt nam có quy định trách nhiệm của đại diện chi trả xã
10
như sau: “ngoài lệ phí do cơ quan bảo hiểm xã hội chi trả theo hợp đồng đã ký,
không được hưởng thêm bất kỳ một khoản lệ phí nào của đối tượng hưởng”.
Nhưng nội dung này không được quy định trong hợp đồng, vì thế đại diện chi
trả của xã có cơ sở để vòi vĩnh.
+ Về phía cơ quan bảo hiểm xã hội huyện:
Cơ bản đã thực hiện được những cam kết đã ghi trong hợp đồng, đảm bảo
danh sách chi trả đầy đủ, rõ ràng, chính xác. Tiền mặt cung ứng kịp thời, đúng
thời gian chi trả. Lệ phí chi trả cho các đại lý thực hiện đầy đủ, kịp thời. Tuy
nhiên, việc kiểm tra, giám sát tính pháp lý của chứng từ chưa thường xuyên,
chưa có kế hoạch chủ động kiểm tra, kiểm sóat việc thực hiện chi trả của các đại
lý theo định kỳ.
Nội dung hợp đồng ký kết chi trả với các đại lý chi trả trực tiếp (UBND các
xã, thị trấn) chưa phản ánh hết trách nhiệm của đại lý chi trả theo quy định tại
quyết định số 828/QĐ-BHXH của bảo hiểm xã hội Việt Nam.
Chưa thường xuyên tổ chức tập huấn nghiệp vụ cho các đại lý chi trả, tạo
cho các đại lý chi trả có tâm lý ỷ lại, làm theo đường mòn, không nhận thấy
được những sai sót của mình trong quá trình chi trả, để từ đó uốn nén sửa chữa
kịp thời.
+ Đối với UBND xã:
Chưa quan tâm sâu sát đến hợp đồng đã ký kết với cơ quan bảo hiểm xã
hội, điều hành chuyên môn mang tính giao khoán cho cán bộ trực tiếp chi trả,
thiếu sự kiểm tra đôn đốc, không tổ chức các điểm chi trả tập trung, không kiểm
tra lịch chi trả cho các đối tượng thụ hưởng chế độ bảo hiểm xã hội theo từng địa
bàn thôn, buôn tại địa phương mình, từ đó dẫn đến quy trình làm việc của cán bộ
trực tiếp chi trả thiếu tính khoa học, không có sự quan tâm đúng mức, kịp thời
đến quyền lợi cho các đối tượng thụ hưởng chính sách bảo hiểm xã hội như luật
định.
11
PHẦN 3: ĐỀ XUẤT PHƯƠNG ÁN GIẢI QUYẾT TÌNH HUỐNG
3.1. Mục tiêu giải quyết tình huống
- Việc xử lý tình huống nêu trên nhằm đạt các mục tiêu sau:
+ Đưa ra các giải pháp nhằm đảm bảm cho các đối tượng được hưởng
đầy đủ các chế độ theo qui định của luật bảo hiểm xã hội, bảo vệ lợi ích chính
đáng cho người lao động;
+ Đảm bảo chi trả đúng, đủ, kịp thời tiền lương hưu và trợ cấp cho các
đối tượng thụ hưởng chế độ bảo hiểm xã hội,tạo lòng tin và mối quan hệ giữa cơ
quan quản lý và người thụ hưởng chính sách bảo hiểm xã hội;
+ Làm rõ những thiếu sót bất cập trong công tác quản lý nhà nước về
công tác chi trả chế độ Bảo hiểm xã hội ở cấp huyện, nhằm tăng cường hiệu lực
của luật Bảo hiểm xã hội, tăng cường kỷ cương phép nước, tăng cường pháp chế
xã hội chủ nghĩa, đảm bảo tính công bằng trong xã hội.
3.2. Xây dựng, phân tích và lựa chọn phương án giải quyết tình huống
3.2.1. Cơ sở giải quyết tình huống:
Qua phân tích tình huống xảy ra ở xã Đức Chánh thuộc huyện, những vấn
đề tiêu cực đã được điều tra làm rõ, xác định được khuyết điểm của từng đối
tượng. Nhưng để công tác chi trả lương hưu và các chế độ bảo hiểm xã hội thực
hiện theo đúng luật bảo hiểm xã hội và các văn bản dưới luật quy định, cũng cố
lòng tin đối với các đối tượng thụ hưởng chế độ bảo hiểm xã hội, và phục vụ chi
trả ngày càng tốt hơn trên địa bàn huyện A, chúng ta cần phải xây dựng được
phương án chi trả tốt nhất, tối ưu nhất.
3.2.2. Phân tích, lựa chọn phương án giải quyết:
* Phương án 1:
Tiếp tục duy trì hợp đồng đã ký kết và cán bộ làm nhiệm vụ chi trả chế độ
bảo hiểm xã hội vẫn thực hiện chi trả bình thường.
12
Mục tiêu của phương án là để ổn định công tác chi trả, bảo đảm quyền lợi
cho các đối tượng thụ hưởng chế độ bảo hiểm xã hội trên địa bàn xã.
- Ưu điểm:
Cán bộ làm nhiệm vụ chi trả trực tiếp là người địa phương, nên thông thạo
địa bàn, nắm bắt tương đối rõ ràng các thông tin cá nhân và gia đình của các đối
tượng thụ hưởng chế độ bảo hiểm xã hội. Vì những cán bộ này đã có trãi qua
công tác chi trả với thời gian tương đối dài, nên có nhiều kinh nghiệm trong
công tác.
Là cán bộ công chức trong định biên của xã nên dễ quản lý, là cán bộ trẻ,
khỏe, năng động trong công tác, nên rất thuận tiện trong việc đi lại thanh toán
với bảo hiểm xã hội huyện.
- Nhược điểm:
Tâm tư luôn có những day dứt với khuyết điểm đã mắc phải, mặc cảm với
công việc đang làm, ngại tiếp xúc với các đối tượng thụ hưởng.
Cán bộ xã phải làm kiêm nhiệm, nên khối lượng công việc tương đối
nhiều, thời gian phục vụ bị chồng chéo, vì vậy kết quả hoàn thành công việc có
phần hạn chế, nhất là trong lĩnh vực thông tin báo cáo với cơ quan bảo hiểm xã
hội huyện. cơ quan bảo hiểm xã hội huyện không nắm bắt được kịp thời các
thông tin cá nhân của đối tượng thụ hưởng chế độ bảo hiểm xã hội, dẫn đến việc
cắt giảm các chế độ bị chậm trễ, không đúng quy định, từ đó dễ xảy ra trường
hợp bị chiếm dụng.
Không đảm bảo an toàn trong khi vận chuyển tiền trên đường từ huyện về
xã, cũng như trong thời gian chi trả tại địa bàn xã, dễ nảy sinh trường hợp chiếm
dụng tiền để làm việc khác.
* Phương án 2:
Tiếp tục duy trì hợp đồng chi trả đối với Ủy ban nhân dân xã nhưng đề
13
nghị UBND xã chọn người chi trả là cán bộ hưu trí làm đại diện chi trả.
Mục tiêu của phương án là để thực hiện chi trả đúng, đủ, kịp thời, tránh
được dư luận không tốt đối với người chi trả.
- Ưu điểm:
Giải quyết được những nghi ngờ của dư luận xã hội, cũng cố lại lòng tin
cho các đối tượng thụ hưởng chế độ bảo hiểm xã hội.
Có sự đổi mới về nhân sự là cán bộ hưu trí ở địa phương, nên thông thạo
địa bàn, hiểu rõ tâm tư nguyện vọng của các đối tượng.
Tạo được mối quan hệ gần hơn giữa cơ quan quản lý và đối tượng thụ
hưởng chế độ bảo hiểm xã hội.
Là cán bộ hưu trí mẫu mực nên tinh thần trách nhiệm cao, đảm bảo thời
gian chi trả theo hợp đồng.
- Nhược điểm:
Số lượng tiền hàng tháng thường lớn, đối tượng lúng túng trong việc kiểm
đếm tiền sẽ gây nhầm lẫn, sai sót, mất mát trong khi chi trả.
Đa số các đối tượng hưởng chế độ hưu trí tuổi đời đã cao, phương tiện đi
lại khó khăn, đối tượng thường nằm rãi rác ở tất cả các thôn buôn. Xã ở xa cơ
quan bảo hiểm xã hội nên việc đi lại để nhận tiền và thanh toán sẽ gặp rất nhiều
khó khăn.
Do cán bộ trực tiếp chi trả không phải người trong biên chế của UBND xã,
nên việc quản lý, kiểm tra đôn đốc sẽ gặp nhiều hạn chế, từ đó dễ nảy sinh tư
tưởng ỷ lại, sai sót không được chấn chỉnh kịp thời.
* Phương án 3:
Thực hiện chi trả chế độ bảo hiểm xã hội qua hệ thống bưu điện.
Mục tiêu của phương án là đảm bảo chi trả đúng, đủ, kịp thời tiền lương
14
hưu và trợ cấp cho các đối tượng thụ hưởng chế độ bảo hiểm xã hội, đảm bảo an
toàn.
- Ưu điểm:
Nhân viên ngành bưu điện linh động thực hiện việc chi trả tại nhà, với 1
số đối tượng già yếu, người có công và người bị bệnh nặng không thể trực tiếp
đến địa điểm nhận tiền.
Đối tượng hưởng chế độ có thể tiếp cận, tham khảo thêm hoặc tham gia
được các hình thức gửi tiết kiệm ngay tại chỗ do ngành bưu điện đảm nhận. Thủ
tục đơn giản, đa số được đông đảo đối tượng hài lòng.
- Nhược điểm:
Do lĩnh vực chế độ chính sách về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế chưa
được các nhân viên thực hiện chi trả nắm bắt kịp thời nên khó trong việc giải
đáp thắc mắc cho các đối tượng.
Khó khăn cho cơ quan bảo hiểm xã hội huyện trong việc quản lý được đối
tượng do chết, bị tai nạn, hoặc di chuyển đi nơi khác…
Tạo sự xa cách giữa đối tượng thụ hưởng chế độ bảo hiểm xã hội với cơ
quan quản lý.
3.2.3. Lựa chọn phương án giải quyết tình huống:
Qua nhận xét đánh giá ưu điểm và nhược điểm của 3 phương án nêu trên,
chúng ta dễ dàng nhận thấy phương án 3 là phương án mang lại hiệu quả quản
lý tốt nhất, phù hợp với điều kiện hoàn cảnh một huyện miền núi như huyện A,
phương án thực hiện đảm bảo được các yêu cầu trong công tác chi trả chế độ
chính sách bảo hiểm xã hội do nhà nước quy định. Thực hiện phương án này sẽ
giúp cho cán bộ công chức ngành bảo hiểm xã hội chuyên tâm hơn ở nhiệm vụ
chuyên môn của ngành. Phối hợp tốt với ngành bưu điện Việt Nam tổ chức, phục
vụ tốt công tác chi trả, có nhiều hình thức chi trả được đông đảo nhân dân
15
nhiệt tình ủng hộ, đặc biệt là đối tượng hưu trí. Sự đồng thuận của chính quyền
địa phương, mở ra nhiều hướng phát triển mới trong công tác thực hiện bảo
hiểm xã hội, góp phần thực hiện mục tiêu là đến năm 2020 sẽ có 50% lực lượng
lao động tham gia bảo hiểm xã hội.
Phương án này hoàn toàn có khả năng thực hiện tốt vì các điều kiện về
nguồn lực được cơ quan quản lý phân công, phân nhiệm cán bộ công chức đảm
nhận công việc rõ ràng. Các phương tiện, điều kiện làm việc được ngành bưu
điện Việt Nam quan tâm đúng mức nên trong quá trình thực thi nhiệm vụ chi trả
sẽ rất thuận lợi, nhanh chóng và đạt hiệu quả cao. Qua nhận xét đánh giá ưu
điểm và nhược điểm của 3 phương án nêu trên, chúng ta dễ dàng nhận thấy
phương án 3 là phương án mang lại hiệu quả quản lý tốt nhất, phù hợp với điều
kiện hoàn cảnh một huyện miền núi như huyện A, phương án thực hiện đảm bảo
được các yêu cầu trong công tác chi trả chế độ chính sách bảo hiểm xã hội do
nhà nước quy định. Thực hiện phương án này sẽ giúp cho cán bộ công chức
ngành bảo hiểm xã hội chuyên tâm hơn ở nhiệm vụ chuyên môn của ngành. phối
hợp tốt với ngành bưu điện việt nam tổ chức, phục vụ tốt công tác chi trả, có
nhiều hình thức chi trả được đông đảo nhân dân nhiệt tình ủng hộ, đặc biệt là đối
tượng hưu trí. Sự đồng thuận của chính quyền địa phương, mở ra nhiều hướng
phát triển mới trong công tác thực hiện bảo hiểm xã hội, góp phần thực hiện mục
tiêu là đến năm 2020 sẽ có 50% lực lượng lao động tham gia bảo hiểm xã hội.
Phương án này hoàn toàn có khả năng thực hiện tốt vì các điều kiện về
nguồn lực được cơ quan quản lý phân công, phân nhiệm cán bộ công chức đảm
nhận công việc rõ ràng. Các phương tiện, điều kiện làm việc được ngành bưu
điện Việt Nam quan tâm đúng mức nên trong quá trình thực thi nhiệm vụ chi trả
sẽ rất thuận lợi, nhanh chóng và đạt hiệu quả cao.
16
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Những tình huống xảy ra trong quá trình chi trả chế độ chính sách bảo hiểm
xã hội thường xuyên xã Đức Chánh huyện, cho chúng ta thấy được công tác
quản lý, chi trả chế độ bảo hiểm xã hội cho các đối tượng thụ hưởng chính sách
có tầm quan trọng rất lớn, mang ý nghĩa phục vụ nhiệm vụ chính trị tại địa
phương. do vậy đòi hỏi nhân lực phục vụ phải có tâm, đức phục vụ tận tình, chu
đáo, phải thực thi theo đúng quy định của luật bảo hiểm xã hội và các văn bản
dưới luật, nhằm đảm bảo cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho các đối tượng chính
sách.
Để thực hiện được mục tiêu trên, chúng ta cần quan tâm đến một số giải
pháp sau:
Cơ quan Bảo hiểm xã hội huyện cần phối hợp chặt chẽ với Uỷ ban nhân
dân xã có trường hợp tiêu cực xảy ra, nhanh chóng đề ra kế hoạch kiểm tra, xác
minh làm rõ sự việc và có kết luận cụ thể, tiến hành thu hồi lại những khoản tiền
đã bị cán bộ xã chiếm dụng, những khoản tiền thu sai quy định của đối tượng
thụ hưởng chính sách bảo hiểm xã hội trả lại cho đối tượng, có hình thức xử lý
kỷ luật cán bộ công chức cấp xã đúng quy định của luật.
Cơ quan bảo hiểm xã hội huyện tiến hành họp rút kinh nghiệm, có kế hoạch
khảo sát tình hình thực hiện nhiệm vụ chi trả. Tham mưu cho cấp trên sớm xây
dựng phương án chi trả và tiến hành thực thi phương án chi trả đã chọn.
Để thực hiện phương án chi trả qua hệ thống bưu điện thì cần tập trung
thực hiện các giải pháp sau đây:
- Xây dựng kế hoạch kiểm tra thường xuyên công tác chi trả hàng tháng.
- Tăng cường tập huấn nghiệp vụ chuyên môn cho cán bộ làm nhiệm vụ
chi trả, nhằm trang bị cho các cán bộ này vốn kiến thức, để họ có thể giải thích
17
và hướng dẫn cho gia đình các đối tượng khi làm hồ sơ hưởng các chế độ, di
chuyển nơi nhận chế độ được kịp thời.
- Phối hợp với Uỷ ban nhân dân xã tạo điều kiện cho ngành bưu điện thực
hiện chi trả tốt. Bố trí các địa điểm chi trả thuận lợi về điều kiện vật chất, trang
thiết bị, nước uống, ghế ngồi cho đối tượng. Thông báo kịp thời các vấn đề có
liên quan đến sự thay đổi của chế độ chính sách (Như điều chỉnh tiền lương, tiền
quà tết…) hoặc thay đổi ngày giờ chi trả khi cần thiết cho các đối tượng biết và
thực hiện.
Qua nghiên cứu đề tài tình huống đã làm sáng tỏ thêm những yêu cầu về
công tác Quản lý Nhà nước đối với lĩnh vực Bảo hiểm xã hội. Bảo hiểm xã hội
là một chính sách lớn của Đảng và Nhà nước ta, thực hiện đảm bảo ổn định đời
sống cho hàng triệu lao động khi họ đã hết tuổi lao động, đó là nhu cầu, là nguồn
sống chính, là công sức mà người lao động đã đóng góp trong suốt thời gian dài.
Vì vậy họ phải được quyền hưởng và được phục vụ một cách tốt nhất.
Công tác bảo hiểm xã hội và cán bộ làm công tác thực hiện chính sách là
một bộ phận quan trọng trong hệ thống chính sách xã hội của Đảng và Nhà
nước, nó tác động rất lớn vào sự nghiệp ổn định và phát triển kinh tế xã hội của
đất nước. Đây là lĩnh vực hết sức nhạy cảm, liên quan đến cuộc sống của rất
nhiều người và thu hút sự quan tâm của xã hội, vì thế quá trình nghiên cứu, xây
dựng các mối quan hệ và quản lý cần phải tuân thủ theo những nguyên tắt cơ
bản đã được rút ra từ thực tiễn, những nguyên tắt đó là những quan điểm, tư
tưởng chỉ đạo trong việc hoạch định, kiểm tra và thực hiện các chính sách. Để
thực hiện những giải pháp và đưa công tác Quản lý Nhà nước vào lĩnh vực này
càng có hiệu quả. Từ sự tận tâm, tận lực của cán bộ, công chức, viên chức ngành
bảo hiểm xã hội trong những năm qua đã được đánh giá cao thì cần nâng cao ý
thức, trách nhiệm phục vụ nhân dân hơn nữa. Vì hạnh phúc của nhân dân và sự
phồn vinh của đất nước.
18
Kiến nghị
+ Đối với cơ quan bảo hiểm xã hội huyện:
- Xây dựng lịch kiểm tra các xã, thị trấn trên địa bàn phải luân phiên tất cả
cán bộ trong cơ quan, không nên ấn định địa bàn nhằm tạo thói quen trong lúc
xử lý nhiều trường hợp chi trả của bưu điện còn cả nể.
- Khi được sự phân công của ban giám đốc về việc đi kiểm tra chi trả, cán
bộ đó phải lập được biên bản làm việc của ngày kiểm tra đó và chốt được số liệu
đối tượng chậm nhận,nhận thay.
+ Đối với cơ quan Bảo hiểm xã hội tỉnh Quảng Ngãi
- Hỗ trợ thêm kinh phí cho cấp huyện về thực hiện đi kiểm tra công tác
chi trả.
- Quy định chặt chẽ khi chuyển giao công tác chi trả cho ngành bưu điện
về việc để cho đối tượng nhận thay thời gian dài (quá 6 tháng) từ đó không phát
hiện được đối tượng đã chết. Khó khăn cho cơ quan bảo hiểm xã hội trong việc
giải quyết chế độ tử tuất, truy thu lại số tiền đã chi sai.
+ Đối với Nhà nước và Bảo hiểm xã hội Việt Nam:
Cần tổng kết đánh giá, rút kinh nghiệm mô hình thực hiện chi trả chế độ
cho các đối tượng thụ hưởng chính sách bảo hiểm xã hội, trên cơ sở đó kịp thời
ban hành các chính sách hợp lý nhằm nâng cao hiệu quả quản lý và điều hành
công tác chi trả chế độ chính sách bảo hiểm xã hội và công tác giám sát việc
tăng, giảm các đối tượng thụ hưởng.
Hiện tại và trong tương lai số lượng đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội
bắt buộc và tự nguyện ngày càng cao, đối tượng thụ hưởng chế độ chính sách
bảo hiểm xã hội thường xuyên với số lượng ngày càng lớn, do đó đòi hỏi khối
lượng, chất lượng công việc phục vụ chi trả cho các đối tượng của các cơ quan
bảo hiểm xã hội ở địa phương cần phải được nâng lên một bước để đáp ứng với
19
yêu cầu nhiệm vụ được giao cho ngành bảo hiểm xã hội trong thời kỳ mới, vì
thế mà nhu cầu trang bị cơ sở vật chất làm việc cho ngành bảo hiểm xã hội cũng
cần phải được nâng cao hơn và rất cần có sự quan tâm đầu tư của Nhà nước và
ngành cấp trên.
Công tác bảo hiểm xã hội và cán bộ làm công tác thực hiện chính sách là
một bộ phận quan trọng trong hệ thống chính sách xã hội của Đảng và Nhà
nước, nó tác động rất lớn vào sự nghiệp ổn định và phát triển kinh tế xã hội của
đất nước. Đây là lĩnh vực hết sức nhạy cảm, liên quan đến cuộc sống của rất
nhiều người và thu hút sự quan tâm của xã hội, vì thế quá trình nghiên cứu, xây
dựng các mối quan hệ và quản lý cần phải tuân thủ theo những nguyên tắt cơ
bản đã được rút ra từ thực tiễn, những nguyên tắt đó là những quan điểm, tư
tưởng chỉ đạo trong việc hoạch định, kiểm tra và thực hiện các chính sách. Để
thực hiện những giải pháp và đưa công tác Quản lý Nhà nước vào lĩnh vực này
càng có hiệu quả. Từ sự tận tâm, tận lực của cán bộ, công chức, viên chức ngành
bảo hiểm xã hội trong những năm qua đã được đánh giá cao thì cần nâng cao ý
thức, trách nhiệm phục vụ nhân dân hơn nữa. Vì hạnh phúc của nhân dân và sự
phồn vinh của đất nước.
Qua thời gian được bồi dưỡng kiến thức Lớp bồi dưỡng ngạch kế toán
viên chính do các thầy giáo, cô giáo Trường Bồi dưỡng cán bộ tài chính giảng
dạy, đã tận tình truyền đạt, bản thân em đã tiếp thu được những kiến thức cơ bản
rất bổ ích, để từ đó vận dụng vào thực tiễn công việc đang làm, góp phần hoàn
thành tốt nhiệm vụ được giao trong thời gian đến.
Muốn đạt được mục tiêu “Dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh” thì việc đào tạo cán bộ công chức là việc làm vô cùng quan trọng,
mỗi cán bộ công chức, viên chức dù có năng lực đến đâu cũng không thể hiểu
biết toàn diện. Do vậy, mỗi cán bộ đảng viên phải ra sức học tập, không ngừng
tu dưỡng, rèn luyện đạo đức tác phong để trở thành người cán bộ có đầy đủ năng
lực, phẩm chất góp phần phục vụ đất nước, phục vụ nhân dân.
Một lần nữa, Em xin chân thành cảm ơn quý thầy cô giáo Trường Bồi
dưỡng cán bộ tài chính đã truyền đạt kiến thức và tạo điều kiện giúp đỡ em
20
hoàn thành nhiệm vụ học tập trong thời gian qua. Xin kính chúc quý thầy, cô
giáo nhiều sức khoẻ, hạnh phúc và thành đạt.
21
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Thông tư 107/2017/TT-BTC ngày 10/10/2017 của Bộ Tài chính hướng
dẫn chế độ kế toán hành chính sự nghiệp.
- Luật Ngân sách nhà nước ngày 25/06/2015 của Quốc hội nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
- Nghị định số 163/2016/NĐ –CP ngày 21/12/2016 của Chính phủ quy
định chi tiết và hướng dẫn thi hành luật NSNN
- Thông tư số 342/2016/TT-BTC ngày 30/12/2016 của Bộ Tài chính
Hướng dẫn thực hiện Nghị đinh số 163/2016/NĐ –CP ngày 21/12/2016 của
Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật ngân sách Nhà nước
- Thông tư 132/2017/TT-BTC ngày 15/12/2017 của Bộ Tài chính quy
định về tổ chức thực hiện ngân sách nhà nước năm 2018.
- Thông tư 119/2018/TT-BTC ngày 05/12/2018 của Bộ Tài chính quy
định về tổ chức thực hiện ngân sách nhà nước năm 2019.
- Thông tư 161/TT-BTC ngày 02/10/2012 và Thông tư 39/2016/TT-BTC
ngày 01/03/2016 sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư 161/TT-BTC ngày
02/10/2012 của Bộ Tài chính về chế độ kiểm soát chi NSNN qua Kho bạc Nhà
nước.
22