LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng vào nền kinh
tế thế giới đã làm nổi bật hơn những tồn tại, thách thức và rủi ro mà các NHTM Việt
Nam cần tập trung giải quyết trong tương lai gần.
Tồn tại cơ bản của các NHTM Việt Nam là năng lực cạnh tranh yếu và rất dễ bị
tổn thương từ những biến động hay những cú sốc bất lợi ở trong nước hoặc ngoài
nước. Do năng lực tài chính yếu, trình độ và kinh nghiệm quản lý còn hạn chế (quản
trị ngân hàng, quản trị kinh doanh và quản lý rủi ro, trình độ công nghệ ngân hàng,
mức độ áp dụng công nghệ thông tin trong hoạt động ngân hàng và tính chuyên nghiệp
trong hoạt động ngân hàng chưa cao.
Những thách thức mà các NHTM Việt Nam phải vượt qua là: sức ép cạnh tranh
gia tăng do việc nới lỏng, dỡ bỏ những hạn chế đối với các ngân hàng nước ngoài
trong việc tiếp cận, gia nhập thị trường; sức ép ngày càng tăng từ phía các cổ đông về
kỳ vọng tăng trưởng tài sản có, lợi nhuận, cổ tức…
Các quy định của NHNN về đảm bảo an toàn hoạt động ngày càng cao và sát hơn
với các chuẩn mực và thông lệ quốc tế; nhu cầu của khách hàng về dịch vụ ngân hàng
ngày càng đa dạng, yêu cầu về tiện ích, chất lượng dịch vụ ngày càng cao và với chi
phí hợp lý.
Sự thiếu hụt nguồn nhân lực có kỹ năng và kinh nghiệm, môi trường hoạt động
ngân hàng thay đổi nhanh và còn chứa đựng các yếu tố khó dự báo, đo lường.
Chấp nhận rủi ro là trung tâm của hoạt động ngân hàng. Các ngân hàng cần phải
đánh giá các cơ hội kinh doanh dựa trên mối quan hệ rủi ro – lợi ích nhằm tìm ra
những cơ hội có lợi ích xứng đáng với mức rủi ro chấp nhận.
Trong số các loại rủi ro ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh ngân hàng thì rủi ro
hoạt động là loại rủi ro bao trùm, và trong đó không thể không nói đến rủi ro về tỷ giá.
Đây là loại rủi ro do không kịp thời ban hành các quyết định hoặc có không đầy đủ các
1
quy trình hoạt động phòng chống rủi ro tỷ giá và các thủ tục tác nghiệp, do thiếu cán
bộ có đủ trình độ, kinh nghiệm, đạo đức.
Với mong muốn nâng đẩy mạnh hoạt động quản lý rủi ro tỷ giá tại VPBank, tác
giả chọn đề tài “Quản lý rủi ro tỷ giá VPBank – chi nhánh Đông Anh.”
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Tập trung nghiên cứu thực trạng hoạt động quản lý rủi ro
tỷ giá trên các phương diện như: cơ cấu tổ chức, các chính sách, nhân lực, công nghệ,
quy trình tác nghiệp… từ đó thấy những tồn tại bất cập và tìm ra giải pháp khắc phục
những thiếu sót đó.
Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn của rủi ro tỷ giá, quản
lý rủi ro tỷ giá và nghiên cứu thực trạng công tác quản lý rủi ro tỷ giá tại VPBank – chi
nhánh Đông Anh trong khoảng thời gian từ 2008 – 2010.
3. Phương pháp nghiên cứu
Chuyên đề sử dụng phương pháp phân tích tổng hợp, phân tích so sánh để giải
quyết các vấn đề.
4. Kết cấu của đề tài
Ngoài các phần như: lời mở đầu, lời giới thiệu, lời cam kết, mục lục, danh mục
tài liệu tham khảo… thì nội dung chính của chuyên đề được gồm 3 chương:
Chương 1: Giới thiệu khái quát về VPBank.
Chương 2: Thực trạng công tác quản lý rủi ro tỷ giá tại VPBank – Chi nhánh
Đông Anh.
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý rủi ro tỷ giá VPBank – Chi nhánh
Đông Anh.
2
CHƯƠNG 1
GIỚI THIỆU VỀ VPBANK
1.1 Tổng quan về VPBank
1.1.1 Sự hình thành và phát triển của VPBank
Ngân hàng Thương mại Cổ phần các Doanh nghiệp Ngoài quốc doanh Việt Nam
(VPBANK) được thành lập theo Giấy phép hoạt động số 0042/NH-GP của Thống đốc
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cấp ngày 12 tháng 8 năm 1993 với thời gian hoạt động 99
năm. Ngân hàng bắt đầu hoạt động từ ngày 04 tháng 9 năm 1993 theo Giấy phép thành
lập số 1535/QĐ-UB ngày 04 tháng 09 năm 1993.
Các chức năng hoạt động chủ yếu của VPBank bao gồm: Huy động vốn ngắn hạn,
trung hạn và dài hạn, từ các tổ chức kinh tế và dân cư; Cho vay vốn ngắn hạn, trung hạn
và dài hạn đối với các tổ chức kinh tế và dân cư từ khả năng nguồn vốn của ngân hàng;
Kinh doanh ngoại hối; chiết khấu thương phiếu, trái phiếu và các chứng từ có giá khác;
Cung cấp các dịch vụ giao dịch giữa các khách hàng và các dịch vụ ngân hàng khác theo
quy định của NHNN Việt Nam.
Vốn điều lệ ban đầu khi mới thành lập là 20 tỷ VND. Sau đó, do nhu cầu phát triển,
theo thời gian VPBank đã nhiều lần tăng vốn điều lệ. Đến tháng 8/2006, vốn điều lệ của
VPBank đạt 500 tỷ đồng. Tháng 9/2006, VPBank nhận được chấp thuận của NHNN cho
phép bán 10% vốn cổ phần cho cổ đông chiến lược nước ngoài là Ngân hàng OCBC - một
Ngân hàng lớn nhất Singapore, theo đó vốn điều lệ sẽ được nâng lên trên 750 tỷ đồng.
Tiếp theo, đến cuối năm 2006, vốn điều lệ của VPBank sẽ tăng lên trên 1.000 tỷ đồng. Và
hiện nay vốn điều lệ của VPBank đã tăng lên 1.500 tỷ đồng vào tháng 7/2007.
Trong suốt quá trình hình thành và phát triển, VPBank luôn chú ý đến việc mở rộng
quy mô, tăng cường mạng lưới hoạt động tại các thành phố lớn. Cuối năm 1993, Thống
đốc NHNN chấp thuận cho VPBank mở Chi nhánh tại thành phố Hồ Chí Minh. Tháng
3
11/1994, VPBank được phép mở thêm Chi nhánh Hải Phòng và tháng 7/1995, được mở
thêm Chi nhánh Đà Nẵng. Trong năm 2004, NHNN đã có văn bản chấp thuận cho
VPBank được mở thêm 3 Chi nhánh mới đó là Chi nhánh Hà Nội trên cơ sở tách bộ phận
trực tiếp kinh doanh trên địa bàn Hà Nội ra khỏi Hội sở; Chi nhánh Huế; Chi nhánh Sài
Gòn. Trong năm 2005, VPBank tiếp tục được Ngân hàng Nhà nước chấp thuận cho mở
thêm một số Chi nhánh nữa đó là Chi nhánh Cần Thơ; Chi nhánh Quảng Ninh; Chi nhánh
Vĩnh Phúc; Chi nhánh Thanh Xuân; Chi nhánh Thăng Long; Chi nhánh Tân Phú; Chi
nhánh Cầu Giấy; Chi nhánh Bắc Giang. Cũng trong năm 2005, NHNN đã chấp thuận cho
VPBank được nâng cấp một số phòng giao dịch thành chi nhánh đó là Phòng Giao dịch
Cát Linh, Phòng giao dịch Trần Hưng Đạo, Phòng giao dịch Giảng Võ, Phòng giao dịch
Hai Bà Trưng, Phòng Giao dịch Chương Dương. Trong năm 2006, VPBank tiếp tục được
NHNN cho mở thêm Phòng giao dịch Hồ Gươm (đặt tại Hội sở chính của Ngân hàng) và
Phòng giao dịch Vĩ Dạ, phòng giao dịch Đông Ba (trực thuộc Chi nhánh Huế), Phòng
giao dịch Bách Khoa, phòng Giao dịch Tràng An (trực thuộc Chi nhánh Hà Nội), Phòng
giao dịch Tân Bình (trực thuộc Chi Nhánh Sài Gòn), Phòng Giao dịch Khánh Hội (trực
thuộc Chi nhánh Hồ Chí Minh), phòng giao dịch Cẩm Phả (trực thuộc CN Quảng Ninh),
phòng giao dịch Phạm văn Đồng (trực thuộc CN Thăng Long), phòng giao dịch Hưng Lợi
(trực thộc CN Cần Thơ). Bên cạnh việc mở rộng mạng lưới giao dịch trên đây, trong năm
2006, VPBank cũng đã mở thêm hai Công ty trực thuộc đó là Công ty Quản lý nợ và khai
thác tài sản; Công ty Chứng Khoán.
VPBank đã có tổng số 131 Chi nhánh và Phòng giao dịch trên toàn quốc:
- Tại Hà Nội: 1 Trụ sở chính, 44 chi nhánh và phòng giao dịch
- Các tỉnh, thành phố khác thuộc miền Bắc (Bắc Ninh, Bắc Giang, Vĩnh Phúc, Thái
Nguyên, Phú Thọ, Hải Dương, Hải Phòng, Quảng Ninh, Nam Định, Hòa Bình, Thái
Bình): 26 Chi nhánh và Phòng giao dịch.
- Khu vực miền Trung (Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị,
Huế, Đà Nẵng, Bình Định, Bình Thuận): 26 Chi nhánh và Phòng giao dịch.
4
- Khu vực miền Nam (TP Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Long An, Cần Thơ, Đồng Tháp,
Vĩnh Long, An Giang, Kiên Giang): 35 Chi nhánh và Phòng giao dịch.
550 đại lý chi trả của Trung tâm chuyển tiền nhanh VPBank - Western Union (tính
đến 31/08/2009)
Ngày 10/9/1993, khi VPBank chính thức mở cửa giao dịch tại 18B Lê Thánh Tông,
số lượng CBNV chỉ có vỏn vẹn 18 người. Cùng với việc phát triển và mở rộng quy mô
hoạt động, số lượng nhân sự của VPBank cũng tăng lên tương ứng.
Đến hết 31/12/2009, tổng số nhân viên nghiệp vụ toàn hệ thống VPBank là: 2.506
CBNV, hơn 92% trong số đó có độ tuổi dưới 40, khoảng 80% CBNV có trình độ đại học
và trên đại học.
Nhận thức được chất lượng đội ngũ nhân viên chính là sức mạnh của ngân hàng.
Chính vì vậy, những năm vừa qua VPBank luôn quan tâm nâng cao chất lượng công tác
quản trị nhân sự. VPBank thường xuyên tổ chức các khoá đào tạo trong và ngoài nước
nhằm nâng cao trình độ nghiệp vụ cho nhân viên.
Đại hội cổ đông năm 2005 được tổ chức vào cuối tháng 3/2006, một lần nữa,
VPBank khẳng định kiên trì thực hiện chiến lược ngân hàng bán lẻ. Phấn đấu trong một
vài năm tới trở thành ngân hàng bán lẻ hàng đầu khu vực phía Bắc và nằm trong nhóm 5
Ngân hàng dẫn đầu các Ngân hàng TMCP trong cả nước.
1.2 Khái quát tình hình hoạt động kinh doanh của VPBank
Trong những năm vừa qua, VPBank đã rất nỗ lực để nâng cao vị trí mình trong hệ
thống các Ngân hàng TMCP, cụ thể VPbank đã đạt được một số thành tựu sau:
1.2.1 Về huy động vốn của VPBank
Quy mô huy động vốn của VPBank tăng trưởng cao và ổn định, tương ứng với tốc
độ tăng tài sản có.
Trong giai đoạn 2005 – 2007, đặc biệt giai đoạn từ đầu năm 2008 đến nay, thị
trường tiền tệ có nhiều biến động về lãi suất trong nước và trên thị trường quốc tế, tình
5
hình lạm phát, cạnh tranh về huy động vốn giữa các Tổ chức tín dụng trong nước gây
ảnh hưởng đến công tác huy động vốn của các Ngân hàng. Trước các biến động về giá
huy động trên thị trường, VPBank đã chủ động áp dụng những chính sách lãi suất linh
hoạt trên cơ sở cung – cầu vốn thị trường, tích cực cải thiện chênh lệch giữa lãi suất
cho vay – huy động và chênh lệch lãi suất giữa các chi nhánh. Các biện pháp chủ động
và linh hoạt trong điều chỉnh lãi suất đối với cá nhân, doanh nghiệp về cả VND và
ngoại tệ đã góp phần giảm thiểu tác động thị trường đối với việc huy động vốn, nâng
cao hệ số sử dụng vốn, chất lượng quản trị vốn sau cùng là hiệu quả kinh doanh của
ngân hàng.
Để đạt được những thành tựu trên, có một nguyên nhân chủ yếu là VPBank đã
không ngừng nâng cao vốn chủ sở hữu, tăng tổng tài sản một cách mạnh mẽ.
Bảng 1.1 Bảng tổng kết về quy mô của VPBank từ năm 2004 - 2009.
Đơn vị: Tỷ đồng
Chỉ tiêu
Tổng tài sản
Vốn chủ sở hữu
LN trước thuế
Dư nợ tín dụng
20
20
04
05
4,1
2006
2007
2008
2009
6,0
10,1
18,1
20,3
27,9
49
90
59
37
34
98
19
39
1
2,26
2,27
2,51
9
1
756
0
0
3
60
76
157
314
318
382
1,8
3,0
5,03
13,3
13,6
15,6
64
14
1
24
09
79
(Nguồn: Phòng Nghiên Cứu Phát Triển VPBank)
Qua những con số ở bảng 1.1, ta thấy, từ năm 2004 đến năm 2009 quy mô tài sản tăng
lên 674%, trong đó có sự tăng lên tương xứng của Vốn chủ sở hữu. Điều này tạo ra những lợi thế
6
trong cạnh tranh của VPBank với các NHTM khác như về chi phí, uy tín… Chính vì vậy, dư nợ tín
dụng cũng tăng lên mạnh mẽ, đã làm cho lợi nhuận trước thuế tăng từ 43 tỷ đồng năm 2003 lên 382
tỷ đồng năm 2009. Lợi nhuận của ngân hàng không ngừng thay đổi và chứng tỏ một quy mô sử
dụng vốn và quản lý vốn ngày càng hiệu quả.
VPBank liên tục đạt những kết quả hoạt động kinh doanh đáng khích lệ. Tổng lợi
nhuận trước thuế và sau dự phòng rủi ro của toàn hệ thống VPBank tăng 382 tỷ đồng
so với năm 2008.
Lợi nhuận sau thuế/Vốn điều lệ bình quân (ROE) là: 11.93% ; Lợi nhuận sau
thuế/Tổng tài sản bình quân (ROA) là: 0.9%.
Sự phân tích trên đã chứng tỏ VPBank là một ngân hàng đang vươn lên mạnh mẽ
và năng động, tích cực hội nhập và khẳng định thương hiệu của mình trên thị trường
ngân hàng.
1.2.2 Hoạt động tín dụng của VPBank
Tổng dư nợ tín dụng của VPBank đến cuối tháng 5/2009 là 13.665 tỷ đồng, tăng
gần 600 tỷ đồng so với cuối tháng trước, tăng 5% so với cuối năm 2008 và giảm 12%
so với cùng kỳ năm ngoái. Trong đó cho vay bằng VNĐ đạt 13.383 tỷ đồng chiếm 98%
tổng dư nợ. Đến cuối tháng 5/2009 VPBank mới đạt 18,6% kế hoạch tăng trưởng dư nợ
tín dụng cả năm 2009.
Thực hiện chủ trương kích cầu của chính phủ, VPBank đã tích cực triển khai cho
vay hỗ trợ lãi suất, đến cuối tháng 5/09 dư nợ các khoản hỗ trợ lãi suất của VPBank đạt
gần 1.000 tỷ đồng.
Về chất lượng tín dụng: Nợ xấu toàn hàng đến cuối tháng 5/2009 là 366 tỷ đồng
(chiếm 2,68% tổng dư nợ), giảm 75 tỷ đồng so với cuối năm trước (giảm 0,7% về tỷ
lệ). Nợ cần chú ý đến cuối tháng 5/2009 là 240 tỷ đồng (chiếm 1,76% tổng dư nợ),
giảm 256 tỷ đồng so với cuối năm trước.
1.2.3 Hoạt động kinh doanh vốn giao dịch liên ngân hàng
7
Tổng nguồn vốn huy động trên thị trường liên ngân hàng (thị trường 2) đến cuối
tháng 5/2009 là 1.118 tỷ đồng – giảm 240 tỷ đồng so với cuối năm trước. Nguyên nhân
nguồn vốn thị trường 2 giảm là do trong 5 tháng đầu năm nguồn vốn huy động từ dân
cư (thị trường 1 của VPBank tăng khá mạnh (tăng 1.570 tỷ đồng), trong khi dư nợ tín
dụng 2 tháng đầu năm giảm, chỉ tăng trở lại từ tháng 3/2009 nên mức tăng dư nợ thấp
hơn nhiều (dư nợ chỉ tăng 692 tỷ đồng) so với tăng nguồn vốn, nguồn vốn của VPBank
tạm thời dư thừa nên VPBank đã chủ động điều chỉnh giảm nguồn vốn huy động trên
thị trường 2.
Tổng tiền gửi có kỳ hạn, cho vay liên ngân hàng và đầu tư trái phiếu các loại đến
cuối tháng 5 là 3.958 tỷ đồng – tăng 1.175 tỷ đồng so với cuối năm trước. Trong đó
riêng tiền gửi có kỳ hạn và cho vay liên ngân hàng là 1.930 tỷ đồng – tăng 569 tỷ đồng
so với cuối năm trước. Số dư đầu tư trái phiếu Chính phủ và trái phiếu khác là 2.028 tỷ
đồng – tăng 606 tỷ đồng so với cuối năm trước.
Trong 5 tháng đầu năm, tỷ giá ngoại tệ trên thị trường đặc biệt là USD cũng có
nhiều biến động, nguồn ngoại tệ mua bán khan hiếm, tuy nhiên ngân hàng vẫn luôn cố
gắng khai thác các nguồn ngoại tệ trên thị trường liên ngân hàng để đáp ứng đủ nhu
cầu ngoại tệ của các khách hàng xuất nhập khẩu tại VPBank.
1.2.4 Hoạt động của các công ty con trực thuộc VPBank
VPBank có 2 công ty trực thuộc (sở hữu 100% vốn) là AMC và Công ty chứng
khoán.
- Công ty Quản lý tài sản VPBank (AMC) tiếp tục triển khai các dự án bất động
sản hiện tại (Fideco, Bình Tân – Sakico 362 Phố Huế, Dự án Hòa Bình – Đầm Sen...),
phối hợp với các chi nhánh VPBank triển khai các văn phòng trụ sở, thẩm tra hồ sơ
thiết kế, hồ sơ thanh quyết toán XDCB tại các Chi nhánh, đơn vị trực thuộc...
- Công ty Chứng khoán VPBank, với sự hồi phục dần của thị trường chứng khoán,
giao dịch của thị trường trong tháng 5/2009 đã diễn ra sôi động với xu hướng tăng
điểm mạnh mẽ, hoạt động của công ty trong tháng 5/2009 cũng diễn ra hết sức sôi
8
động. Trong tháng số lượng tài khoản mở mới đạt 146 tài khoản, lũy kế đạt 4.880 tài
khoản. Tổng giá trị giao dịch chứng khoán niêm yết toàn công ty đạt 530 tỷ đồng, phí
môi giới thu được đạt gần 1,3 tỷ đồng. Tuy tình hình thị trường phục hồi và tăng điểm
thời gian gần đây, song định hướng và chỉ đạo đầu tư của các cấp lãnh đạo Công ty
Chứng khoán là không tham gia đầu tư, tập trung vào phân tích tình hình thị trường
cũng như các công ty niêm yết để có bước chuẩn bị thích hợp về sau, đồng thời xử lý
và cơ cấu lại danh mục hiện tại.
Tổng thu nhập thuần của công ty 5 tháng trong năm 2009 đạt 16,6 tỷ đồng, tổng
chi phí hoạt động là 18,4 tỷ đồng.
1.2.5 Các sản phẩm dịch vụ của VPBank
1.2.5.1 Hoạt động thanh toán quốc tế của VPBank
Hệ thống thanh toán được thiết kế để chuyển tiền từ TCTD này sang TCTD khác
một cách nhanh chóng và hiệu quả, dù là chuyển tiền trong nước hay chuyển ra nước
ngoài. Tuy là Ngân hàng Nhà nước vận hành hệ thống thanh toán trong nước, các
TCTD cũng phải thiết lập và duy trì một môi trường kiểm soát thích hợp đối với phần
của mỗi ngân hàng tham gia trong hệ thống để đảm bảo rằng việc thanh toán được thực
hiện không có sai sót, kịp thời, sử dụng toàn bộ số tiền thu được, đồng thời đảm bảo
rằng mỗi khoản thanh toán đều phải có đủ chứng từ, đúng các bước và được phê duyệt.
Những nguyên tắc này cũng được áp dụng cho các hệ thống thanh toán quốc tế như
SWIFT. Vì khối lượng giao dịch và số tiền chuyển qua hệ thống thanh toán của NHNN
và SWIFT hàng ngày là rất lớn và hầu hết các giao dịch đều được hoàn thành, nên
VPBank luôn có biện pháp kiểm soát hoạt động chặt chẽ.
Trong những năm qua, kim ngạch xuất nhập khẩu cả nước liên tục tăng trưởng
với tốc độ cao đã tạo thuận lợi cho hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu của VPBank.
9
Bảng 1.2 Hoạt động thanh toán quốc tế của VPBank giai đoạn 2007 – 2008
Đơn vị : Triệu USD
Nội dung
Thanh toán nhờ thu NK
2007
Lượng GD
2008
Giá trị
Lượng GD
Giá trị
182
5
600
14,8
2.957
150
8.783
190
Thông báo L/C xuất
124
6,8
188
14
Thanh toán L/C xuất
94
2
170
8.6
Thanh toán nhờ thu XK
2
1,4
20
0.39
Mở L/C nhập khẩu
948
64
1806
126
4.307
229,2
11.567
353,79
Chuyển tiền TTR
Tổng cộng
(Nguồn: Trung tâm thanh toán VPBank)
Trước đây theo mô hình thanh toán phân tán thì chỉ cho phép xử lý TTQT ở một số Chi
nhánh cấp I. Các Chi nhánh khác và Phòng giao dịch không có cán bộ thao tác kỹ thuật TTQT
cũng không có phần mềm để tự thực hiện giao dịch TTQT tại đơn vị mình. Hiện nay, theo mô
hình tập trung, mô hình này cho phép Hội sở có thể kết nối online để quản lý và xử lý trực
tuyến các giao dịch TTQT trên màn hình của tất cả các Chi nhánh và Phòng Giao dịch của
VPBank. Điều này phù hợp với xu thế chung của Ngân hàng hiện đại, cho phép bán sản phẩm
rộng khắp trên toàn hệ thống, chuyên môn hóa nghiệp vụ thanh toán. Tốc độ tăng trưởng trong
hoạt động thanh toán quốc tế của VPBank luôn đạt ở mức cao và ổn định là nhờ sự đóng góp
của mạng SWIFT. Trung bình khoảng 6.000 điện SWIFT/tháng.
10
1.2.5.2 Hoạt động kinh doanh thẻ của VPBank
Trong những năm qua, dịch vụ phát hành và thanh toán thẻ của VPBank đã phát
triển với tốc độ rất nhanh. Hoạt động này đã thực sự trở thành một dịch vụ của ngân
hàng hiện đại mang tính nền tảng, là mũi nhọn cho chiến lược phát triển dịch vụ ngân
hàng bán lẻ, mở ra một hướng cho việc huy động vốn, cũng như cấp tín dụng.
Sau khi chính thức phát hành thẻ ghi nợ nội địa mang tên Autolink vào cuối năm
2006. VPBank đã ký hợp đồng với Diebold mua 1.000 máy ATM và triển khai ký kết
thuê địa điểm lắp đặt ATM tại Hà Nội, Hồ Chí Minh và các tỉnh thành có sự hiện diện
của VPBank. Đến nay, đã có 170 máy ATM của VPBank được lắp đặt và đi vào hoạt
động. Đến 31/12/2007, số lượng thẻ Autolink phát hành là gần 17,000 thẻ. Số lượng
thẻ Platinum là 752 thẻ, trong đó có 508 thẻ Tín dụng. Tháng 7/2007, VPBank đã hoàn
thành việc kết nối với hệ thống ATM của Vietcombank. Tính đến tháng 9/2009,
VPBank đã phát hành được 60.000 thẻ Autolink và 5.000 thẻ Platinum.
1.2.5.3 Các dịch vụ khác của VPBank
Bên cạnh những dịch vụ kể trên, VPBank cũng thể hiện mình trên các lĩnh vực
khác như: Dịch vụ kiều hối và séc du lịch, dịch vụ “gửi và giữ tài sản”, “giữ két sắt”,
“nhờ thu tự động”…
Trên đây là những thành công vượt bậc mà VPBank đã đạt được. Mọi CBNV,
thành viên của VPBank đang tràn đầy niềm tin để vượt qua những khó khăn trước mắt,
quyết tâm hoàn thành những mục tiêu mà hội đồng cổ đông đã đề ra.
1.3 Kế hoạch tăng vốn của VPBank
Ngoài các mục tiêu đề ra ở trên VPBank còn có kế hoạch dài hạn cho quá trình
tăng vốn của mình. Ngày 16/3/2010, VPBank đã tổ chức Đại hội cổ đông năm 2010.
Theo đó, cổ đông VPBank đã thống nhất phương án tăng vốn điều lệ VPBank từ
2117 tỷ đồng lên 4000 tỷ đồng. Việc tăng vốn trong năm 2010 được thực hiện làm 2
đợt, dự kiến chậm nhất vào ngày 31/12/2010. Cụ thể:
+ Đợt 1, tăng vốn điều lệ thêm 339 tỷ đồng từ 2117 tỷ đồng lên 2456 tỷ đồng.
VPBank thực hiện sử dụng 229 tỷ đồng từ nguồn thặng dư năm 2009 chưa phân phối
11
dưới hình thức phát hành thêm 33,9 triệu cổ phần dành cho các cổ đông hiện hữu tại
thời điểm chốt danh sách cổ đông.
Tỷ lệ phân phối là 16,01%, trong đó tỷ lệ chia cổ tức bằng cổ phiếu là 6% và tỷ lệ
chia cổ phiếu thưởng là 10,01%. Giá phát hành cổ phần cho đối tượng tham gia tăng
vốn điều lệ từ nguồn lợi nhuận dùng chia cổ tức bằng cổ phiếu và nguồn quỹ thặng dư,
quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ cho cổ đông bằng mệnh giá.
Hội đồng quản trị Ngân hàng dự kiến thời gian thực hiện xong việc tăng vốn đợt
1 sẽ trong tháng 4/2010.
+ Đợt 2, VPBank thực hiện tăng vốn điều lệ thêm 1543 tỷ đồng từ 2456 tỷ đồng
lên 4000 tỷ đồng.
Việc tăng vốn này thông qua việc phát hành thêm 154 triệu cổ phần cho cổ đông
hiện hữu tại thời điểm chốt danh sách chào bán cổ phần. Tỷ lệ phân phối là 62,83%.
Theo VPBank, số vốn tăng thêm được sử dụng vào bổ sung nguồn vốn hoạt động
(1451,8 tỷ đồng); đầu tư vào công nghệ là 140,2 tỷ đồng; đầu tư vào tài sản 290,4 tỷ
đồng.
Trong đó việc đầu tư tài sản là để mua đất và xây dựng trụ sở. Trong thời gian tới
mua VPBank dự kiến mua đất và xây dựng trung tâm dữ liệu theo đúng tiêu chuẩn quy
định của NHNN khoảng 58 tỷ đồng. Xây dựng trự sở chính chi nhánh Cần Thơ khoảng
14,5 tỷ đồng. Xây dựng trụ sở chính tại chi nhánh Hải Phòng, Huế khoảng 58 tỷ đồng.
Mua đất và xây dựng trụ sở tại một số địa phương khác khoảng 159,9 tỷ đồng.
Khoản 1451 tỷ đồng để đầu tư vào cổ phiếu, chứng từ có giá có khả năng thanh
khoản cao, vay trung và dài hạn... với tỷ suất lợi nhuận kỳ vọng khoảng 12-15%/năm.
Tăng vốn lên 12 nghìn tỷ đồng vào 2014
Ngoài ra thì trong kì họp cổ đông cũng thông qua các chỉ tiêu cần đạt được trong
năm 2010.
12
Bảng 1.3 Chỉ tiêu của VPBank trong năm 2010
Đơn vị: Tỷ đồng
Chỉ tiêu
2009
Tăng trưởng
2010
2010/2009
Tổng tài sản
27,998
40,000
68%
Tổng dư nợ
15,679
23,000
47%
Tổng huy động
24,995
40,000
60%
382
650
70%
253
487.5
93%
Lợi nhuận trước thuế
Lợi nhuận sau thuế
(Nguồn: Báo cáo tài chính VPBank 2009)
Qua bảng trên chúng ta thấy năm 2010, VPBank đặt kế hoạch lợi nhuận trước
thuế là 650 tỷ đồng, tương đương tăng 70% so với năm 2009.
Kế hoạch cho giai đoạn 2010 – 2014, cũng dự kiến tăng trưởng vốn điều lệ lên
12 nghìn tỷ đồng, tương đương tăng 467% so với 31/12/2009. Lợi nhuận trước thuế
hợp nhất năm 2014 dự kiến tăng lên 2800 tỷ đồng được mục tiêu của ban lãnh đạo
Ngân hàng TMCP Các Doanh nghiệp Ngoài quốc doanh Việt là rất lớn. Đây là mục
tiêu rất lớn và kế hoạch này cũng là một thách thức mà ban lãnh đạo và toàn thể cán bộ
Ngân hàng TMCP Các Doanh nghiệp Ngoài quốc doanh Việt Nam cần phải quyết tâm
để thực hiện trong năm nay, và trong việc thực hiện kế hoạch dài hạn của mình.
Trên đây chúng ta đã đi qua sơ lược về lịch sử hình thành, tình hình hoạt động,
kinh doanh của VPBank. Phần sau của chuyên đề xin được đề cập về thực trạng công
tác quản lý rủi ro tỷ giá tại VPBank – chi nhánh Đông Anh.
13
CHƯƠNG 2
CÔNG TÁC QUẢN LÝ RỦI RO TẠI VPBANK - CHI NHÁNH
ĐÔNG ANH
2.1 Giới thiệu sơ lược về ngành Ngân hàng
2.1.1 Định nghĩa ngân hàng thương mại
Đầu tiên ngân hàng thương mại là một loại ngân hàng trung gian. Ở mỗi nước có
một cách định nghĩa riêng về ngân hàng thương mại. Ví dụ: Ở Mỹ: ngân hàng thương
mại là một công ty kinh doanh chuyên cung cấp các dịch vụ tài chính và họat động
trong ngành dịch vị tài chính. Ở Pháp: ngân hàng thương mại là những xí nghiệp hay
cơ sở nào thường xuyên nhận tiền của công chúng dưới hình thức kí thác hay hình
thức khác các số tiền mà họ dùng cho chính họ vào nghiệp vụ chiết khấu, tín dụng hay
dịch vụ tài chính. Ở Ấn Độ: ngân hàng thương mại là cơ sở nhận các khoản kí thác để
cho vay hay tài trợ và đầu tư. Ở Thổ Nhĩ Kì: ngân hàng thương mại là hội trách nhiệm
hữu hạn thiết lập nhằm mục đích nhận tiền kí thác và thực hiện các nghiệp vụ hối đoái,
nghiệp vụ công hối phiếu, chiết khấu và những hình thức vay mượn khác…
Ở Việt Nam Pháp lệnh ngân hàng ngày 23-5-1990 của hội đồng Nhà nước Việt Nam
xác định: Ngân hàng thương mại là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà họat động chủ yếu và
thường xuyên là nhận tiền kí gửi từ khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số
tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán.
2.1.2 Các hoạt động chủ yếu của ngân hàng thương mại
2.1.2.1 Hoạt động huy động vốn của NHTM
Ngân hàng thương mại được huy động vốn dưới các hình thức sau:
- Nhận tiền gửi của tổ chức, cá nhân và các tổ chức tín dụng khác dưới hình thức
tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn và các loại tiền gửi khác;
14
- Phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu và các giáy tờ có giá khác để huy động vốn
của tổ chức, cá nhân trong nước và ngoài nước;
- Vay vốn của các tổ chức tín dụng khác hoạt động tại Việt Nam,các tổ chức nước ngoài;
- Vay vốn ngắn hạn của ngân hàng nhà nước;
- Các hình thức huy động vốn khác theo quy định của Ngân hàng Nhà nước;
2.1.2.2 Hoạt động tín dụng của NHTM
Ngân hàng thương mại được cấp tín dụng cho tổ chức, cá nhân dưới các hình thức cho
vay, chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá khác, bảo lãnh, cho thuê tài chính và các
hình thức khác theo quy định của Ngân hàng Nhà nước.Trong các hoạt động cấp tín dụng,
cho vay là hoạt động quan trọng và chiếm tỷ trọng lớn nhất.
A, Cho vay
Ngân hàng thương mại được cho các tổ chức, cá nhân vay vốn dưới hình thức sau:
- Cho vay ngắn hạn nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và
đời sống.
- Cho vay trung hạn và dài hạn để thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất, kinh
doanh, dịch vụ và đời sống.
B, Bảo lãnh
NHTM được bảo lãnh vay, bảo lãnh thanh toán, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh
đấu thầu và các hình thức bảo lãnh ngân hàng khác bằng uy tín và bằng khả năng tài chính của
mình đối với người nhận bảo lãnh. Mức bảo lãnh đối với một khách hàng và tổng mức bảo
lãnh của một ngân hàng thương mại không được vượt quá tỷ lệ so với vốn tự có của NHTM
C, Chiết khấu
Ngân hàng thương mại được chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn
khác đối với tổ chức, cá nhân và có thể tái chiết khấu các thương phiếu và các giấy tờ có
giá ngắn hạn khác đối với các tổ chức tín dụng khác.
15
C, Cho thuê tài chính
Ngân hàng thương mại được hoạt động cho thuê tài chính nhưng phải thành lập công
ty cho thuê tài chính riêng. Việc thành lập, tổ chức và hoạt động của công ty cho thuê tài
chính thực hiện theo Nghị định của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của công ty cho
thuê tài chính.
2.1.2.3 Hoạt động dịch vụ thanh toán và ngân quỹ
Để thực hiện được các dịch vụ thanh toán giữa các doanh nghiệp thông qua ngân
hàng, ngân hàng thương mại được mở tài khỏan cho khách hàng trong và ngoài nước.
Để thực hiện thanh toán giữa các ngân hàng với nhau thông qua Ngân hàng Nhà nước,
ngân hàng thương mại phải mở tài khỏan tiền gửi tại Ngân hàng Nhà nước nơi ngân
hàng thương mại đặt trụ sở chính và duy trì tại đó số dư tiền gửi dự trữ bắt buộc theo
quy định. Ngoài ra, chi nhánh của ngân hàng thương mại được mở tài khỏan tiền gửi
tại chi nhánh Ngân hàng Nhà nước tỉnh, thành phố nơi đặt trụ sở của chi nhánh. Hoạt
động dịch vụ thanh tóan và ngân quỹ của ngân hàng thương mại bao gồm các hoạt
động sau:
- Cung cấp các phương tiện thanh toán;
- Thực hiện các dịch vụ thanh toán trong nước cho khách hàng;
- Thực hiện dịch vụ thu hộ và chi hộ;
- Thực hiện các dịch vụ thanh toán khác theo quy định của NHNN;
- Thực hiện dịch vụ thanh toán quốc tế khi được Ngân hàng Nhà nước cho phép;
- Thực hiện dịch vụ thu và phát tiền mặt cho khách hàng;
- Tổ chức hệ thống thanh toán nội bộ và tham gia hệ thống thanh tóan liên ngân
hàng trong nước;
- Tham gia hệ thống thanh toán quốc tế khi được Ngân hàng Nhà nước cho phép.
16
2.1.2.4 Các hoạt động khác của NHTM
Ngoài các hoạt động chính bao gồm huy động tiền gửi, cấp tín dụng và cung cấp
dịch vụ thanh toán và ngân quỹ, ngân hàng thương mại còn có thể thực hiện một số
hoạt động khác bao gồm:
Góp vốn và mua cổ phần – Ngân hàng thương mại được dùng vốn điều lệ và quỹ
dự trữ để góp vốn, mua cổ phần của các doanh nghiệp và các tổ chức tín dụng khác
trong nước theo quy định của pháp luật. Ngoài ra, ngân hàng thương mại còn được
góp vốn, mua cổ phần và liên doanh với ngân hàng nước ngoài để thành lập ngân
hàng liên doanh.
Tham gia thị trường tiền tệ - Ngân hàng thương mại được tham gia thị trường tiền
tệ, theo quy định của Ngân hàng Nhà nước, thông qua các hình thức mua bán các công
cụ của thị trường tiền tệ.
Kinh doanh ngoại hối – Ngân hàng thương mại được pháp kinh doanh hoặc thành
lập công ty trực thuộc để kinh doanh ngoại hối và vàng trên thị trường trong nước và
thị trường quốc tế.
Ủy thác và nhận ủy thác – Ngân hàng thương mại được ủy thác, nhận ủy thác làm
đại lý trong các lính vực liên quan đến hoạt động ngân hàng, kể cả việc quản lý tài sản,
vốn đầu tư của tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước theo hợp đồng ủy thác, đại lý.
Cung ứng dịch vụ bảo hiểm – Ngân hàng thương mại được cung ứng dịch vụ bảo
hiểm, đươch thanh lập công ty trực thuộc hoặc lien doanh để kinh doanh bảo hiểm
theo quy định của pháp luật.
Tư vấn tài chính – Ngân hàng thương mại được cung ứng các dịch vụ tư vấn tài
chính, tiền tệ cho khách hàng dưới hình thức tư vấn trực tiếp hoặc thành lập công ty tư
vấn trực thuộc ngân hàng. Bảo quản vật quý giá – Ngân hàng thương mại được thực
hiện các dịch vụ bảo quản vật quý, giấy tờ có giá, cho thuê tủ két, cầm đồ và các dịch
vụ khác có liên quan theo quy định của pháp luật.
17
2.1.3 Đặc điểm của các NHTM
2.1.3.1 NHTM giữ vị trí quan trọng nhất thị trường tài chính
NHTM đảm nhiệm vai trò đặc biệt trên thị trường tài chính nói riêng và trong
toàn bộ nền kinh tế nói chung. Trong đó NHTM giữ vị trí quan trọng nhất trên thị
trường tài chính với việc nắm giữ khoảng 80% tài sản có trong hệ thống ngân hàng, có
khả năng chi phối hoạt động của hệ thống tài chính và các tổ chức tín dụng. So với các
tổ chức tín dụng khác NHTM được thực hiện toàn bộ các hoạt động ngân hàng và các
hoạt động kinh doanh khác mà một số trung gian tài chính khác không thể thực hiện
được bao gồm việc nhận tiền gửi không kỳ hạn và làm dịch vụ bao thanh toán, do đó
tạo nên sự đa dạng về nghiệp vụ kinh doanh và các sản phẩm dịch vụ cung ứng của
NHTM. Đối tượng khách hàng phong phú cùng với địa bàn hoạt động rộng khắp hoạt
động của NHTM càng trở nên quan trọng hơn.
NHTM là công cụ của chính phủ trong việc tài trợ vốn cho các mục tiêu chiến
lược, là công cụ thực hiện chinh sách tiền tệ.
Do có vai trò quan trọng nhất, tác động đến tất cả các chủ thể cùng với sự đa dạng
về khách hàng cũng như các nghiệp vụ và địa bàn hoạt động rộng lớn nên NHTM có
khả năng thoả mãn tốt nhất lợi ích của mọi chủ thể tham gia trên thị trường tài chính
và toàn bộ nền kinh tế. Thể hiện thông qua vai trò của nó.
Ngân hàng thương mại là loại hình ngân hàng xuất hiện đầu tiên và phổ biến nhất
hiện nay, là tổ chức nhận tiền gửi (depository institutions) đóng vài trò là trung gian tài
chính huy động tiền nhàn rỗi thông qua các dịch vụ nhận tiền gửi rồi cung cấp cho
những chủ thể cần vốn chủ yếu dưới hình thức các khoản vay trực tiếp. Các ngân hàng
thương mại huy động vốn chủ yếu dưới dạng: tiền gửi thanh toán (checkable deposits),
tiền gửi tiết kiệm (saving deposits), tiền gửi có kỳ hạn (time deposits). Vốn huy động
được dùng để cho vay: cho vay thương mại (commercial loans), cho vay tiêu dùng
(consumer loans), cho vay bất động sản (mortage loans) và để mua chứng khoán chính
phủ, trái phiếu của chính quyền địa phương. Ngân hàng thương mại dù ở quốc gia nào
18
cũng đều là nhóm trung gian tài chính lớn nhất, cũng là trung gian tài chính mà các
chủ thể kinh tế giao dịch thường xuyên nhất.
2.1.3.2. NHTM đảm nhiệm những chức năng quan trọng trong nền kinh tế
Chức năng trung gian tín dụng, khi thực hiện chức năng trung gian tín dụng thì
ngân hàng thương mại đóng vai trò là cầu nối giữa người thừa vốn và người có nhu
cầu về vốn. Với chức năng này, ngân hàng thương mại vừa đóng vai trò là người đi
vay, vừa đóng vai trò là người cho vay và hưởng lợi nhuận là khoản chênh lệch giữa
lãi suất nhận gửi và lãi suất cho vay và góp phần tạo lợi ích cho tất cả các bên tham
gia: người gửi tiền và người đi vay.
- Đối với người gửi tiền, NHTM thu được lợi từ khoản vốn tạm thời nhàn rỗi
dưới hình thức lãi tiền gửi mà ngân hàng trả cho họ. Hơn nữa ngân hàng còn đảm
bảo cho họ sự an toàn về khoản tiền gửi và cung cấp các dịch vụ thanh toán tiện lợi.
- Đối với người đi vay, NHTM sẽ thỏa mãn được nhu cầu vốn kinh doanh tiện
lợi, chắc chắn và hợp pháp, chi tiêu, thanh toán mà không chi phí nhiều về sức lực
thời gian cho việc tìm kiếm những nơi cung ứng vốn riêng lẻ.
- Đặc biệt là đối với nền kinh tế, chức năng này có vai trò quan trọng trong
việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế vì nó đáp ứng nhu cầu vốn để đảm bảo quá trình
tái sản xuất được thực hiện liên tục và mở rộng quy mô sản xuất.
Chức năng trung gian tín dụng được xem là chức năng quan trọng nhất của
ngân hàng thương mại.
Chức năng tạo tiền: Chức năng tạo tiền không giới hạn trong hành động in
thêm tiền và phát hành tiền mới của Ngân hàng Nhà nước. Bản thân các ngân hàng
thương mại trong quá trình thực hiện các chức năng của mình vẫn có khả năng tạo
ra tiền tín dụng (hay tiền ghi sổ) thể hiện trên tài khoản tiền gửi thanh toán của
khách hàng tại ngân hàng thương mại. Đây chính là một bộ phận của lượng tiền
được sử dụng trong các giao dịch.
19
Từ khoản tích trữ ban đầu, thông qua hành vi cho vay bằng chuyển khoản, hệ
thống ngân hàng thương mại có khả năng tạo nên số tiền gửi (tức tiền tín dụng) gấp
nhiều lần số dự trữ tăng thêm ban đầu. Mức mở rộng tiền gửi phụ thuộc vào hệ số
mở rộng tiền gửi. Hệ số này đến lượt nó chịu tác động bởi các yếu tố: tỷ lệ dự trữ
bắt buộc, tỷ lệ dự trữ vượt mức và tỷ lệ giữ tiền mặt so với tiền gửi thanh toán của
công chúng.
Chức năng tạo tiền được thực thi trên cơ sở hai chức năng khác của Ngân hàng
thương mại là chức năng tín dụng và chức năng thanh toán. Thông qua chức năng
trung gian tín dụng, ngân hàng sử dụng số vốn huy động được để cho vay, số tiền
cho vay ra lại được khách hàng sử dụng để mua hàng hóa, thanh toán dịch vụ trong
khi số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng vẫn được coi là một bộ
phận của tiền giao dịch, được họ sử dụng để mua hàng hóa, thanh toán dịch vụ…
Với chức năng này, hệ thống ngân hàng thương mại đã làm tăng tổng phương
tiện thanh toán trong nền kinh tế, đáp ứng nhu cầu thanh toán, chi trả của xã hội.
Rõ ràng khái niệm về tiền hay tiền giao dịch không chỉ là tiền giấy do NHTW phát
hành mà còn bao gồm một bộ phận quan trọng là lượng tiền ghi sổ do các ngân
hàng thương mại tạo ra.
Chức năng này cũng chỉ ra mối quan hệ giữa tín dụng ngân hàng và lưu thông
tiền tệ. Một khối lượng tín dụng mà ngân hàng thương mại cho vay ra làm tăng khả
năng tạo tiền của ngân hàng thương mại, từ đó làm tăng lượng tiền cung ứng.
Chức năng trung gian thanh toán, ở đây ngân hàng thương mại đóng vai trò là
thủ quỹ cho các doanh nghiệp và cá nhân, thực hiện các thanh toán theo yêu cầu
của khách hàng như trích tiền từ tài khoản tiền gửi của họ để thanh toán tiền hàng
hóa, dịch vụ hoặc nhập vào tài khoản tiền gửi của khách hàng tiền thu bán hàng và
các khác thu khác theo lệnh của khách hàng.
Hoạt động của các ngân hàng liên quan hầu hết đến các chủ thể kinh tế trong
xã hội nên sự sụp đổ của một ngân hàng sẽ làm ảnh hưởng đến quyền lợi của người
gửi tiền đồng thời đến toàn hệ thống. Các ngân hàng có mối liên hệ và phụ thuộc
20
lẫn nhau rất chặt chẽ, chỉ một trục trặc nhỏ trong quá trình thanh toán của một ngân
hàng cũng sẽ gây lên vấn đề thanh khoản của cả hệ thống. Mặt khác sự sụp đổ của
ngân hàng sẽ gây khó khăn về vốn cho các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh
nghiệp vừa và nhỏ, đồng thời ảnh hưởng đến quyền lợi của người gửi tiền.
2.1.3.3. Chứa đựng nhiều rủi ro do trong hoạt động kinh doanh của NHTM
- Đối tượng kinh doanh của NHTM là tiền tệ – một hàng hoá đặc biệt với đặc
điểm rất nhạy cảm dễ bị tác động ảnh hưởng bởi những thay đổi, biến động của các
yếu tố môi trường. Nguồn vốn kinh doanh của ngân hàng là nguồn vốn đi vay dưới
hình thức tiền với tính chất ổn định tương đối thấp.
- NHTM sử dụng vốn chủ yếu là cấp tín dụng cho các doanh nghiệp, tổ chức cá
nhân, hoặc đầu tư vào tài sản tài chính;
- Cường độ cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng ngày càng cao;
- Khách hàng của các ngân hàng có quan hệ tiếp tục, thường xuyên, gắn bó mật
thiết và lâu dài với ngân hàng;
- Sản phẩm của ngân hàng là dịch vụ tài chính với những đặc điểm vô hình,
không ổn định và không dự trữ;
- Tuy mức dư nợ trong những năm gần đây, tăng trưởng khá phù hợp với tốc độ
phát triển của nền kinh tế. Nhưng bên cạnh đó, hoạt động tín dụng của ngân hàng vẫn
còn tồn tại nhiều vướng mắc. Các rủi ro này chủ yếu là do thủ tục pháp lý và yếu tố
chủ quan làm kéo dài thời gian thu hồi nợ và gây lỗ cho ngân hàng vì thời gian kéo
dài, tài sản hư hao, vốn tồn đọng.
Vì vậy các hoạt động ngân hàng luôn song hành với các rủi ro, mức lợi nhuận
luôn tỉ lệ thuận với độ rủi ro nên luôn cần sự quản lý vĩ mô cần thiết để hạn chế rủi
ro cho hệ thống ngân hàng. Có rất nhiều rủi ro trong hoạt động kinh doanh ngân
hàng, nhưng rủi ro tín dụng, thanh khoản và tác nghiệp đang là những rủi ro chính
mà các ngân hàng Việt Nam đối mặt:
21
A, Rủi ro tín dụng
Dù danh nghĩa là hoạt động đa năng, nhưng thu nhập từ hoạt động tín dụng hiện
vẫn chiếm trên/dưới 90% tổng thu nhập của từng NHTM Việt Nam. Rủi ro tín dụng
của các NHTM chủ yếu là do thất bại của khách hàng trong việc thực hiện các nghĩa
vụ đã cam kết với NHTM.
Những rủi ro tín dụng như vậy ngoài nguyên nhân từ chủ quan của khách hàng
còn có nguyên nhân từ phía NHTM đã vi phạm các quy định về cho vay trong hoạt
động của TCTD, và trong một số vụ còn có sự tiếp tay của một số cán bộ NH cho đối
tác lợi dụng việc kinh doanh BĐS để lừa đảo.
Hiện nay thì các yêu cầu về thông tin phục vụ phân tích tín dụng vẫn chưa được
đáp ứng đáng tin cậy, đầy đủ, nhanh chóng và kịp thời. Các thông tin về báo cáo tài
chính của doanh nghiệp chưa bị bắt buộc phải qua kiểm toán do vậy độ chính xác của
báo cáo chưa cao.
Việc tìm kiếm thông tin cực kỳ khó khăn, tình trạng thông tin bất cân xứng là phổ
biến (cán bộ tín dụng chủ yếu lấy thông tin từ chính sự khai báo của khách hàng).
Thiếu các trung tâm dữ liệu khách hàng cá nhân, hộ gia đình, DNVN... (Trung tâm
thông tin tín dụng của NHNN mới chỉ cung cấp thông tin về DN).
B, Tiềm ẩn rủi ro tác nghiệp
Theo Hiệp ước Basel II thì rủi ro hoạt động/rủi ro tác nghiệp là rủi ro thiệt hại
xuất phát từ việc các quy định nội bộ, con người và hệ thống không đầy đủ/hoặc không
hoạt động/hoặc xuất phát từ các sự kiện bên ngoài. Định nghĩa này bao gồm rủi ro
pháp lý nhưng không bao gồm rủi ro chiến lược và uy tín. Dạng rủi ro này ở Việt Nam
tuy chưa nhiều, nhưng với sự phát triển của kinh tế thị trường và CNTT thì đây được
coi là rủi ro tiềm ẩn.
Ngoài ra còn đã xảy ra một số vụ kẻ xấu nổ súng, dùng dao đe dọa cướp tiền NH
trên đường vận chuyển hoặc của khách hàng vừa giao dịch với NH...
22
C, Thanh khoản là vấn đề nhạy cảm
Rủi ro thanh khoản NH là tình trạng NH mất khả năng thanh toán các nghĩa vụ
của mình khi đến hạn hay là khả năng NH không có được đủ vốn khả dụng (cung
thanh khoản) với chi phí hợp lý vào đúng thời điểm mà NH cần để đáp ứng cầu thanh
khoản.
Rủi ro thanh khoản làm giảm thu nhập, uy tín, mất khả năng thanh toán. Trong
ngắn hạn, có lẽ các Ngân hàng sợ nhất tình trạng này, đặc biệt khi thông tin rủi ro bị
lọt ra bên ngoài. Liên quan đến rủi ro thanh khoản, có chuyên gia ngân hàng cho rằng
có mối quan hệ giữa lãi suất và thanh khoản. Mỗi khi thanh khoản hệ thống có vấn đề,
Lãi suất, đặc biệt là Lãi suất huy động và Lãi suất liên ngân hàng lại bị đẩy lên cao
khiến ngân hàng gặp rủi ro về thu nhập và giá trị tài sản của Ngân hàng chịu ảnh
hưởng bất lợi của những biến động Lãi suất. Từ đó lại dẫn đến rủi ro thanh khoản. Đây
là một cái vòng luẩn quẩn, nếu không có khung quản trị rủi ro tốt thì các ngân hàng
không thể thoát ra được.
Rủi ro chính sách đối với thị trường tài chính nói chung và thị trường tiền tệ nói
riêng ở Việt Nam thời gian qua cũng được nhiều chuyên gia nêu ra. Rủi ro chính sách
có thể làm tăng rủi ro về lãi suất và tỉ giá của các NHTM. Tuy nhiên, theo một số ý
kiến thì NHTW nước nào cũng mong muốn chính sách đưa ra ổn định, có tính dự báo
để hỗ trợ thị trường, vấn đề ở đây là những diễn biến khó lường của môi trường kinh tế
(trong và ngoài nước) ngoài dự kiến. Vì vậy, công tác thống kê, xử lý thông tin, chất
lượng dự báo rất cần được quan tâm đúng mức.
2.1.3.4. Các NHTM hoạt động mang tính hệ thống
Hình thức hoạt động mang tính hệ thống của các ngân hàng thương mại dễ dẫn
đến rủi ro sụp đổ cả hệ thống khi thị trường có những biến động xấu. Thị trường liên
ngân hàng hiện nay hoạt động chủ yếu để giao dịch, vay nợ lẫn nhau nhưng cũng
không thể phủ nhận khả năng hoạt động của thị trường này, tuy nhiên cũng luôn phải
chú ý điều chỉnh để hệ thống ngân hàng hoạt động tốt không gây ảnh hưởng xấu đến
23
thị trường. Việc sụp đổ có hệ thống có thể khiến tình trạng lạm phát tăng cao dẫn đến
khủng hoảng kinh tế như năm 2007 vừa qua tại Mỹ.
Qua những phần trên, đã đưa ra một cách tổng quan nhất về hoạt động, cũng
như các rủi ro mà hệ thống NHTM thường gặp phải, sau đây em xin đề cập đến rủi ro
tỷ giá nói chung và rủi ro tỷ giá với một NHTM nói riêng.
2.2 Giới thiệu sơ lược về rủi ro tỷ giá với một ngân hàng
2.2.1 Rủi ro tỷ giá của một ngân hàng
Như chúng ta đã biết có hai nguyên nhân chính gây nên rủi ro ngoại hối:
Thứ nhất, các ngân hàng giao dịch các hợp đồng tiền nước ngoài nhằm
phục vụ cho cho khách hàng và cho chính bản thân mình;
Thứ hai, các ngân hàng đầu tư vào vào tài sản có và huy động vốn bằng các
ngoại tệ.
Cả hai nguyên nhân này tạo ra một xu hướng trạng thái ngoại hối ròng
(trường hay đoản) trong mua bán ngoại hối và trong cơ cấu tài sản bằng ngoại
tệ. Chúng ta sẽ thấy rằng, nếu tỷ giá biến động càng mạnh thì rủi ro ngoại hối
càng lớn. Một trạng thái ngoại hối dương là trạng thái ngoại hối trường ròng với
một loại ngoại tệ (Tức là tài sản nợ bằng ngoại hối nhiều hơn tài sản có bằng
ngoại hối đối với một loại ngoại tệ) và khi trạng thái ngoại hối là trường ròng thì
ngân hàng phải đối mặt với rủi ro ngoại hối khi đồng tiền đó giảm giá so với
đồng nội tệ. Và tương tự chúng ta sẽ có một trạng thái ngoại hối âm là trạng thái
ngoại hối đoản ròng đối với một loại ngoại tệ, và khi mà trạng thái ngoại hối của
một đồng tiền là đoản ròng thì, thì ngân hàng phải đối mặt với rủi ro ngoại hối
khi đồng tiền đó lên giá so với đồng bản tệ. Như vậy, khi trạng thái ngoại hối của
một ngoại tệ là khác 0 thì ngân hàng luôn luôn phải đối phó với với rủi ro ngoại
hối, khi tỷ giá của ngoại tệ biến động so với đồng bản tệ.
Trong môi trường toàn cầu hóa tài chính – ngân hàng, các nhà quản trị
ngân hàng ngày càng phải đối mặt với vấn đề rủi ro ngoại hối nhiều hơn. Những
24
rủi ro này có thể phát sinh thông qua các hoạt động giao dịch ngoại hối; cho vay
bằng ngoại tệ (ví dụ như cho vay bằng ngoại tệ USD); mua các chứng khoán
được phát hành bằng ngoại tệ (ví dụ như mua trái phiếu của chính phủ Mỹ, trái
phiếu Châu Âu…); hoặc là phát hành các chứng khoán nợ bằng ngoại tệ để duy
trì vốn (ví dụ như phát hành các trái phiếu, kì phiếu bằng ngoại tệ)
2.2.2 Tác động của rủi ro tỷ giá với một ngân hàng
Như phần trên đã trình bày, khi mà một ngân hàng đang có trạng thái
ngoại hối trường (đoản) với một loại ngoại tệ thì ngân hàng đó đang phải đối mặt
với rủi ro ngoại hối. Tuy nhiên, ngay cả trong trường hợp ngân hàng có trạng
thái ngoại hối đối với một loại ngoại tệ nào đó là trường (đoản), thì rủi ro ngoại
hối còn phụ thuộc vào hướng và mức độ biến động của tỷ giá hối đoái, tức là:
Lãi/lỗ đối với ngoại tệ i = (trạng thái ngoại hối ròng/đoản của ngoại tệ i) x
(mức biến động của ngoại tệ i).
Như vậy ta có thể thấy một ngân hàng có thể điều chỉnh được trạng thái
ngoại hối của mình. Nhưng lại không thể điều chỉnh được tỷ giá của một loại
ngoại tệ. Bởi nhân tố chính xác định sự vận động của tỷ giá lại chính là các lực
lượng kinh tế, nạn đầu cơ thì không ổn định. Chính vì thế mà các ngân hàng
luôn đứng trước rủi ro về tỷ giá. Nhất là trong điều kiện Việt Nam chúng ta đã
tham gia vào WTO. Thì việc hội nhập sâu, hôi nhập chủ động trong lĩnh vực
ngân hàng càng trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Chính điều này đòi hỏi các
nhà quản lý ngân hàng cần có chính sách điều hành, thực hiện việc phòng chống
rủi ro về tỷ giá thật tốt. Đòi hỏi các nhà quản lý cần phải thường xuyên trau dồi
các kiến thức mới. Để có thể ứng phó nhanh nhất với những biến động của tỷ
giá, hay có thể phán đoán chiều hướng của tỷ giá, từ đó mà đưa ra các quyết
định chính xác nhất, mang lại lợi nhuận cho ngân hàng của mình. Có như vậy thì
ngân hàng của mình mới có thể phát triển nhanh, mạnh và bền vững.
2.2.3 Bộ phận cấu thành của rủi ro tỷ giá
25