Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Một số kinh nghiệm xây dựng trường đạt chuẩn quốc gia ở trường THCS ban công thuộc đơn vị vùng kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn của huyện bá thước tỉnh thanh hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (195.09 KB, 22 trang )

1. Mở đầu:
1.1. Lý do chọn đề tài:
Đảng và Nhà nước ta đã xác định rõ “giáo dục là quốc sách hàng đầu”,
“đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho sự phát triển”. Trong chiến lược phát triển
giáo dục từ năm 2011 - 2020 Quốc hội đã thông qua, Thủ tướng chính phủ đã
phê duyệt là: “Phải đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục đào tạo, nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực đáp ứng được yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và
hội nhập quốc tế”. Xây dựng trường học đạt Chuẩn quốc gia (CQG) là một yêu
cầu hết sức cần thiết trong giai đoạn hiện nay, đây là nhiệm vụ hết sức khó khăn
đòi hỏi sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị để huy động nhiều nguồn lực của
toàn xã hội tham gia thực hiện. Nhận thức được công tác xây dựng trường đạt
CQG là giải pháp có tính chiến lược để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện
nên thời gian qua, các cấp uỷ đảng, chính quyền trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa nói
chung và huyện Bá Thước nói riêng luôn xác định đây là nhiệm vụ trọng tâm
trong phát triển Kinh tế - Xã hội (KT-XH) của địa phương. Bên cạnh đó, hầu hết
nhân dân, phụ huynh, học sinh thấy rõ vai trò, tầm quan trọng của việc xây dựng
trường học theo CQG nên đều đồng lòng và sẵn sàng ủng hộ, cộng tác với ngành
giáo dục và các nhà trường trong việc xây dựng các tiêu chí của trường chuẩn.
Đó chính là những điều kiện thuận lợi, quyết định đến kết quả xây dựng trường
học đạt CQG trên địa bàn huyện Bá Thước. Trên cơ sở những điều kiện thuận
lợi nói trên, thời gian qua, ngành giáo dục huyện Bá Thước đã quán triệt sâu sắc
nhiệm vụ xây dựng trường chuẩn tới các đơn vị trường học. Theo đó, nhiệm vụ
xây dựng trường học đạt chuẩn đều được cụ thể trong kế hoạch thực hiện nhiệm
vụ năm học của các cấp quản lý giáo dục và các nhà trường, gắn với việc đánh
giá năng lực quản lý của người đứng đầu và mức độ hoàn thành nhiệm vụ được
giao của mỗi nhà trường trong tổ chức thực hiện nhiệm vụ. Vì thế công tác xây
dựng trường đạt CQG của huyện Bá Thước đã đạt được những kết quả đáng ghi
nhận. Xuất phát từ quan điểm, đường lối lãnh đạo của Đảng và nhà nước, Đảng
bộ, nhân dân các dân tộc trên địa bàn xã Ban Công, thầy và trò nhà trường
THCS Ban Công xác định phải xây dựng nhà trường đạt CQG thì mới có đủ mọi
điều kiện thúc đẩy nhà trường nâng cao được chất lượng dạy và học theo yêu


cầu chiến lược con người trong giai đoạn mới.
Là Hiệu trưởng nhà trường, bản thân đã xác định rõ trọng trách, xem mục
tiêu phấn đấu để hoàn thành Kế hoạch xây dựng trường đạt CQG vào năm 2016
là mục tiêu cao nhất trong điều kiện của một trường nằm trong địa bàn xã thuộc
vùng KT-XH đặc biệt khó khăn (135). Nên để Kế hoạch trở thành hiện thực, bên
cạnh một số giải pháp có tính chất chung, địa phương và nhà trường cần có
những giải pháp riêng, mang tính đặc thù. Vì vậy, bản thân luôn trăn trở, tìm ra
các giải pháp hữu hiệu nhất để thực hiện có hiệu quả mục tiêu, nhiệm vụ quan
trọng này.
1.2. Mục đích nghiên cứu:
Mục đích của việc xây dựng trường đạt CQG là nhằm tạo môi trường học
tập thân thiện, không chỉ phục vụ cho hoạt động dạy - học thật tốt mà còn tạo
1


điều kiện thuận lợi cho việc tiến hành các hoạt động giáo dục khác của nhà
trường nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh. Đây là một
chủ trương lớn nhằm đáp ứng với xu thế phát triển của thời đại công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước trong thời kỳ hội nhập của Đảng và Nhà nước và phù hợp
với nguyện vọng của quần chúng nhân dân. Nhiệm vụ này đã được đưa vào chỉ
tiêu Nghị quyết của Ban Chấp hành (BCH) Đảng bộ huyện Bá Thước và xã Ban
Công. Do đó, tập trung các nguồn lực đẩy nhanh tiến độ thực hiện xây dựng
trường đạt CQG, đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện là
việc làm cần thiết vừa có tính cấp bách, vừa có tính lâu dài. Vì thế bản thân tập
trung nghiên cứu để tìm ra các giải pháp góp phần vào việc hoàn thành các chỉ
tiêu mà ngành và Nghị quyết của huyện Đảng bộ đã đề ra về việc xây dựng
trường THCS đạt chuẩn quốc gia trên địa bàn huyện Bá Thước.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
Công tác xây dựng Trường CQG ở trường THCS Ban Công, huyện Bá
Thước, tỉnh Thanh Hóa (xã thuộc vùng KT-XH đặc biệt khó khăn được thụ

hưởng các chính sách theo chương trình 135 của Chính phủ)
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
1.4.1. Phương pháp lý luận:
Nghiên cứu các tài liệu của Đảng về giáo dục và đào tạo (GD&ĐT), của
Bộ GD&ĐT, của Sở GD&ĐT và các tài liệu của các nghành khác có liên quan.
Nghiên cứu Thông tư số: 47/2012/TT-BGDĐT, ngày 07 tháng 12 năm 2012
của Bộ GD&ĐT Ban hành Quy chế công nhận trường trung học cơ sở (THCS),
trường trung học phổ thông (THPT) và trường phổ thông có nhiều cấp học đạt
CQG.
1.4.2. Phương pháp thực tế:
Nghiên cứu thực tế việc xây dựng trường CQG của trường THCS Ban
Công. Điều tra, khảo sát, thống kê, so sánh với việc xây dựng trường CQG ở
một số trường trong huyện. Rút ra kinh nghiệm về công tác xây dựng trường
CQG của trường thuộc vùng KT-XH đặc biệt khó khăn.
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm:
2.1. Cơ sở lý luận của Sáng kiến kinh nghiệm:
Căn cứ quy chế công nhận trường THCS, trường THPT và trường phổ
thông có nhiều cấp học đạt CQG ban hành kèm theo Thông tư số 47/2012/TTBGDĐT ngày 07 tháng 12 năm 2012 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo;
Căn cứ Nghị quyết HĐND huyện Bá Thước nhiệm kỳ 2011-2016 và biên bản
khảo sát xây dựng trường CQG năm 2016 của UBND huyện Bá Thước; Căn cứ
Nghị quyết của Đảng ủy xã Ban Công khóa XXII nhiệm kỳ 2015 - 2020 và
Quyết định của UBND xã Ban Công về việc xây dựng Trường THCS đạt CQG;
Căn cứ kế hoạch thực hiện nhiệm vụ năm học 2015 – 2016 và năm học 2016 2017 của Phòng GD&ĐT Bá Thước; Căn cứ vào tình hình thực tế của trường
THCS Ban Công.
2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm:
2


2.2.1. Đặc điểm tình hình:
Ban Công là một xã Miền núi nằm ở phía Tây của tỉnh Thanh Hóa, cách

thị trấn Cành Nàng 2 km, chỉ chia cắt bởi cây cầu bắc qua sông Mã nhưng lại
thuộc vùng Kinh tế - xã hội ĐBKK của huyện Bá Thước, với địa thế cảnh quan
“Sông núi hữu tình”, là điểm thuộc vị trí “Cửa ngõ” của khu vực Quốc Thành,
có đường 15C chạy qua, có diện tích tự nhiên 4386,29 ha và có dân số khá đông
với 1684 hộ, 6676 nhân khẩu, có 3 dân tộc anh em Thái, Mường, Kinh sinh sống
trong đó dân tộc Thái chiếm đa số với 79%, dân tộc Mường chiếm 18%, dân tộc
Kinh 3%. Xã gồm 7 thôn bản, người dân sống chủ yếu bằng nghề nông nhưng
đồi núi ghồ ghề, lại khan hiếm nước nên tỉ lệ hộ nghèo còn cao. Nhìn chung, cơ
sở hạ tầng của xã nhà tuy vẫn còn nhiều thiếu thốn song so với trước đây đã có
sự phát triển đi lên, đời sống và nhận thức của người dân về giáo dục ngày càng
được nâng cao, nhận thức về công tác giáo dục thế hệ trẻ trong phụ huynh học
sinh ngày càng chuyển biến tích cực. Tuy mảnh đất còn nghèo nhưng giàu
truyền thống hiếu học. Từ mảnh đất này, có biết bao thế hệ học sinh đã phấn đấu
và trưởng thành, có người đã đỗ đạt học hàm giáo sư, học vị tiến sĩ, giữ các cấp
bậc cao trong quân đội và các cơ quan nhà nước; là kỹ sư, bác sĩ, nhà quản lý
giỏi, nhà giáo; có người là những nhà doanh nghiệp, người thợ lành nghề, người
lính biên cương, hải đảo... Đây là điều kiện tốt nhất để giáo dục trên địa bàn xã
Ban Công nói chung và giáo dục THCS Ban Công nói riêng ngày càng phát triển
ổn định, vững chắc.
Trên địa bàn xã có đầy đủ cả 3 cấp học với 3 nhà trường từ Mầm non đến
THCS. Trường THCS Ban Công nằm ở Thôn Ba tương đối trung tâm của xã,
với diện tích khuôn viên 6443,5 m2. Trường được thành lập từ tháng 9 năm 1970
với tên gọi ban đầu trường cấp I, II sau đó đổi tên thành trường PTCS Ban Công.
Tháng 9 năm 1997 trường PTCS Ban Công chia tách thành hai cấp học riêng biệt
tiểu học và THCS, từ đó trường chính thức mang tên trường THCS Ban Công. Trải
qua hơn 45 năm phấn đấu, xây dựng và trưởng thành, từ cơ sở vật chất ban đầu
chỉ có 4 phòng học, các phòng làm việc còn thiếu thốn, sân chơi bãi tập, khuôn
viên nhà trường chưa được quy hoạch, đến năm 2015, trường đã có sự thay đổi
nhanh chóng về cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học, chất lượng đội ngũ, chất
lượng giáo dục và công tác phổ cập GDTHCS... Quy mô và cơ sở vật chất nhà

trường thường xuyên được quan tâm và đầu tư nên ngày càng khang trang sạch
đẹp, đáp ứng yêu cầu dạy và học. Trường có bề dày thành tích trong lĩnh vực
giáo dục của huyện nhà, trước đây từng là “cái nôi” bồi dưỡng các lớp học sinh
năng khiếu cho huyện để tham gia thi học sinh giỏi các cấp, có nhiều thế hệ học
sinh thành đạt hiện đang công tác và giữ những vị trí quan trọng trong các cơ
quan nhà nước và trong bộ máy lãnh đạo của địa phương, của huyện và trên
khắp mọi miền của tổ quốc. Đó chính là nền tảng vững chắc để nhà trường
không ngừng thi đua dạy tốt, học tốt và quyết tâm phấn đấu xây dựng nhà
trường thành trường đạt CQG bậc THCS.
2.2.2. Thuận lợi, khó khăn:
* Thuận lợi:
3


Sự nghiệp GD xã nhà luôn nhận được sự quan tâm của Huyện ủy, HĐND,
UBND huyện Bá Thước, của Đảng uỷ, HĐND, UBND, các tổ chức đoàn thể và
nhân dân trong toàn xã, sự tạo điều kiện, giúp đỡ của cơ quan chuyên môn là
PGD&ĐT Bá Thước, của các tổ chức đoàn thể và nhân dân trên toàn xã Ban
Công. Mục tiêu chung của Đảng uỷ, Chính quyền địa phương là không ngừng
phát triển kinh tế, văn hoá xã hội, quốc phòng, an ninh, đặc biệt là việc quyết
tâm phấn đấu xây dựng các nhà trường trong xã đạt CQG. Các ban ngành, đoàn
thể, thôn bản, hội khuyến học, hội cha mẹ học sinh và nhân dân địa phương đã
nhận thức rõ về vai trò trách nhiệm đối với sự nghiệp giáo dục của nhà trường.
Kinh tế, xã hội của địa phương ngày càng có nhiều chuyển biến tích cực,
đời sống nhân dân không ngừng được nâng lên, tỷ lệ hộ nghèo ngày càng giảm
đáng kể. Trên địa bàn xã có 2 thôn là thôn Tôm và thôn Ba đã được công nhận
đạt chuẩn Nông thôn mới và địa phương tiếp tục từng bước đưa các thôn khác
hoàn thành các tiêu chí xây dựng nông thôn mới của chương trình mục tiêu quốc
gia. Trong những năm qua cơ sở hạ tầng như đường xá, trạm y tế, mạng lưới
điện, nước sạch, vệ sinh môi trường ngày một hoàn thiện.

Tình hình chính trị, an ninh trật tự, an toàn xã hội ngày càng được giữ
vững. Đảng bộ nhiều năm liền đạt danh hiệu Đảng bộ trong sạch vững mạnh.
Nhân dân và công nhân viên chức lao động yên tâm công tác, lao động sản xuất,
tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước. Thực hiện sống và làm việc
theo Pháp luật của nhà nước, cơ quan và Quy ước, hương ước của địa phương,
xóm, làng.
Trường THCS Ban Công Từ năm học 2012-2013 đến nay, liên tục đạt
danh hiệu trường Tiên tiến cấp huyện, được Giám đốc Sở GD&ĐT, chủ tịch
UBND huyện tặng Giấy khen. Đội ngũ giáo viên đa số có năng lực chuyên môn
vững vàng, có kinh nghiệm trong công tác giảng dạy và giáo dục học sinh, mỗi
năm đều có giáo viên đạt danh hiệu GVDG, CSTĐ cấp huyện, đã có 01 giáo
viên đạt danh hiệu giáo viên làm tổng phụ trách Đội giỏi cấp tỉnh. HS Đa số đều
chăm ngoan, nghe lời thầy cô, đoàn kết, mỗi năm có từ 15 đến 30 em đạt giải
HSG các cấp và đạt giải trong các cuộc thi cấp huyện, cấp tỉnh, đặc biệt còn cả
học sinh đạt giải Nhất cấp quốc gia trong cuộc thi vận dụng kiến thức liên môn
để giải quyết các tình huống thực tiễn.
Nhà trường có tổng diện tích 6443,5 m 2. Đảm bảo đủ diện tích cho HS
học tập và hoạt động. Có đầy đủ phòng học đảm bảo cho việc dạy - học một ca;
CSVC, trang thiết bị đáp ứng nhu cầu giảng dạy và học tập.
* Khó khăn:
Bên cạnh những thuận lợi trên, Ban Công cũng gặp không ít khó khăn về
mọi mặt: Là một xã đặc biệt khó khăn (ĐBKK) nằm ở phía Tây của tỉnh Thanh
Hóa, thuộc vùng được thụ hưởng chính sách theo chương trình 135 của Chính
phủ, điều kiện tự nhiên và xã hội còn nhiều khó khăn do địa hình phức tạp, đồi
núi nhiều; Người dân sống chủ yếu bằng nghề nông nhưng ruộng ít, nên thường
phải đi làm ăn xa, đại bộ phận lại là những gia đình trẻ, có con cái đang ở lứa
tuổi học sinh nên không có điều kiện quan tâm, chăm sóc. Trong xã tỉ lệ hộ
4



nghèo, cận nghèo vẫn còn cao so với mặt bằng chung của toàn huyện, một bộ
phận dân cư làm ăn và sinh sống thiếu tập trung. Một bộ phận nhân dân trình độ
dân trí chưa cao, nhận thức còn hạn chế nên chưa có sự đầu tư thích đáng cho
con em học tập và rèn luyện, quá trình đóng góp, huy động nguồn lực xây dựng
trường còn chậm. Kinh phí của địa phương còn hạn hẹp, nên việc huy động
nguồn đối ứng với sự đầu tư của UBND huyện để nhà trường xây dựng trường
đạt chuẩn còn gặp nhiều khó khăn. Khi nhà trường bước vào xây dựng trường
CQG, cả cụm Quốc Thành nói chung và xã Ban Công nói riêng chưa có trường
nào đạt trường CQG, trên địa bàn huyện Bá Thước mới chỉ có 4 trường THCS
đạt CQG – là những trường có khá nhiều các điều kiện thuận lợi về KT-XH nên
việc học hỏi kinh nghiệm còn nhiều bất cập.
Trường THCS Ban Công trong những năm gần đây đã được huyện, xã
quan tâm xây dựng cơ sở vật chất (CSVC) song vẫn thiếu và chưa đồng bộ: Các
phòng học bộ môn nếu được cải tạo từ các phòng học thừa sẽ không phù hợp với
các thiết bị mới được lắp đặt; Các phòng chức năng, trang thiết bị dạy học có
nhưng so với nhu cầu vẫn chưa đủ đáp ứng cho việc thực hiện mục tiêu và
nhiệm vụ cấp học trong tình hình mới hiện nay; Chất lượng giáo dục của nhà
trường trong những năm qua đã từng bước được nâng lên song chất lượng giáo
dục mũi nhọn vẫn chưa mang tính ổn định và bền vững; Đội ngũ quản lý, giáo viên,
nhân viên tuy đủ về số lượng nhưng không có giáo viên Nhạc, một số nhân viên
như thư viện, y tế, văn thư, thủ quỹ phải kiêm nhiệm nên khó khăn cho nhà
trường trong việc phân công nhiệm vụ và lưu trữ hồ sơ, văn bản. Chất lượng
giáo viên có nâng lên nhưng vẫn chậm so với sự đổi mới về phương pháp giảng
dạy, trình độ ngoại ngữ và ứng dụng CNTT chưa đáp ứng yêu cầu của ngành và
xã hội trong xu thế hội nhập và phát triển. Đội ngũ giáo viên tuy có năng lực khá
vững vàng nhưng vẫn chưa có giáo viên được công nhận giáo viên dạy giỏi cấp
tỉnh; Dù nhà trường đã làm tương đối tốt công tác xã hội hóa giáo dục, phối kết hợp
chặt chẽ giữa ba môi trường giáo dục: Gia đình – nhà trường – xã hội song tình trạng
học sinh bỏ học, không thường xuyên đến trường, đến lớp vẫn còn rải rác xảy ra. Vẫn
còn một bộ phận học sinh chưa chăm, chưa ngoan, hay vi phạm nội quy trường, lớp.

Một số em thiếu sự quan tâm, phối hợp giáo dục của gia đình nên các điều kiện học
tập chưa đảm bảo dẫn đến kết quả học tập chưa đạt yêu cầu của lớp học, cấp học.
2.2.3. Thực trạng của nhà trường trước khi bước vào xây dựng trường
CQG:
Vào cuối học kỳ I năm học 2015 - 2016, sau khi được đoàn khảo sát xây
dựng trường CQG của huyện, Phòng giáo dục và đào tạo huyện Bá Thước giao
nhiệm vụ khởi động xây dựng trường đạt CQG nhà trường đã tự rà soát và đạt
được kết quả như sau:
Về quy mô trường, lớp và học sinh: Nhà trường chỉ có 01 điểm trường,
với đủ các khối lớp 6,7, 8, 9, số HS tương đối ổn định và không có quá 45 em/
lớp. Tuy nhiên hàng năm vẫn còn HS đi học không thường xuyên và có dấu hiệu
bỏ học.

5


Đội ngũ giáo viên đa số có năng lực chuyên môn vững vàng, có kinh
nghiệm trong công tác giảng dạy và giáo dục học sinh, nhưng không có giáo
viên Nhạc, một số nhân viên như thư viện, y tế, văn thư, thủ quỹ phải kiêm
nhiệm. Tổng số CBGV, NV trong biên chế là: 21 người, trong đó: Nam 11
người; Nữ: 10 người; CBQL: 02 Giáo viên: 17; Nhân viên: 02; 100% CBGV,
NV đạt chuẩn về trình độ. Trong đó: Đại học: 14/21 đạt tỷ lệ 66,7%; Cao đẳng:
6/21 tỉ lệ 28,6%; Trung cấp: 01 tỉ lệ 4,7%; Đảng viên: 16/21 đạt tỉ lệ 76,2%;
Trình độ LLCT: 3 đồng chí có bằng trung cấp.
Quy mô về diện tích, CSVC: Đảm bảo đủ diện tích cho HS học tập và
hoạt động. Có đầy đủ phòng học đảm bảo cho việc dạy - học một ca, nhưng các
phòng học bộ môn, phòng chức năng, sân chơi, bãi tập của HS chưa có. Trang
thiết bị đã cũ và hư hỏng nhiều nên chưa đáp ứng yêu cầu dạy và học trong tình
hình mới. Thư viện chưa được công nhận là thư viện chuẩn do còn thiếu hệ
thống tài liệu tham khảo, máy tính.

Cụ thể, đối chiếu theo 5 tiêu chuẩn như sau:
* Tiêu chuẩn 1- Tổ chức và quản lý nhà trường: Đạt
Có 5 tiêu chí đều đã đạt
* Tiêu chuẩn 2 - Cán bộ quản lý, giáo viên và nhân viên: Đạt
Có 3 tiêu chí đều đã đạt
* Tiêu chuẩn 3 - Chất lượng giáo dục: Chưa đạt
Có 5 tiêu chí thì có 4 tiêu chí đạt, còn 1 tiêu chí về Sử dụng công nghệ
thông tin: Chưa Đạt
* Tiêu chuẩn 4 – Tài chính, CSVC và thiết bị dạy học: Chưa đạt
Có 4 tiêu chí thì chỉ có 1 tiêu chí đạt, còn 3 tiêu chí Chưa Đạt đó là:
Khuôn viên nhà trường, CSVC và hệ thống CNTT
* Tiêu chuẩn 5 – Quan hệ giữa nhà trường, gia đình và xã hội: Đạt
Có 4 tiêu chí đều đã đạt
Từ thực trạng trên bản thân đã nhận thấy rõ nguyên nhân chủ yếu là do:
Công tác vận động tuyên truyền của nhà trường còn thiếu chiều sâu, thiếu giải
pháp cụ thể nên một bộ phận phụ huynh học sinh chưa có sự nhận thức sâu sắc
về giáo dục, chưa quan tâm đến quản lý con em, trách nhiệm cộng đồng với nhà
trường chưa cao; Ban Công cũng có tiềm năng về XHH giáo dục nhưng việc
khai thác tiềm năng đó chưa thật toàn diện, chưa có kế hoạch rõ ràng và còn tư
tưởng trông chờ, phụ thuộc vào sự đầu tư của nhà nước. Lúc này xác định vấn
đề khó khăn lớn nhất và cần tập trung nguồn lực để giải quyết đó là việc hoàn
thiện cơ sở vật chất và trang thiết bị dạy học để đáp ứng yêu cầu của trường đạt
chuẩn quốc gia, đồng thời nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện thì cần có
những giải pháp thiết thực và hiệu quả.
2.3. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề:
Trên cơ sở định hướng chỉ đạo của cấp trên, xuất phát từ tình hình thực tế
của địa phương và nhà trường, là Hiệu trưởng, bản thân tôi đã suy nghĩ, trăn trở
suốt 3 năm học và đã dần tìm ra các giải pháp để từng bước hoàn thiện các tiêu
chuẩn xây dựng trường THCS Ban Công đạt CQG qua từng năm học, những
6



giải pháp tôi đã sử dụng để cùng với nhà trường xây dựng thành công trường đạt
CQG, đó là:
2.3.1. Giải pháp định hướng:
* Định hướng về mục tiêu, nhiệm vụ, nội dung xây dựng trường
THCS đạt CQG: Xác định được điều này sẽ giúp cho Hiệu trưởng chủ động
trong xây dựng đề án, kế hoạch, lộ trình, trong triển khai tổ chức thực hiện, huy
động nguồn lực, làm tốt công tác tham mưu với cấp ủy Đảng, chính quyền địa
phương và cấp trên. Muốn vậy Hiệu trưởng cần nghiên cứu đầy đủ các quyết
định, thông tư, hướng dẫn của Bộ và Sở GD&ĐT về 5 tiêu chuẩn của trường TH
đạt CQG, về hướng dẫn nội dung, quy trình, hồ sơ trong công tác kiểm tra
trường THCS đạt CQG. Mục tiêu, kế hoạch xây dựng trường đạt CQG từng năm
học của huyện và sự chỉ đạo trực tiếp của cơ quan quản lý cấp trên để xác định
đúng mục tiêu, nhiệm vụ trọng tâm, trên cơ sở tình hình thực tế của địa phương
và nhà trường mà đề ra công việc nào cần thực hiện vào thời điểm nào là có hiệu
quả.
* Định hướng về việc xây dựng đề án, kế hoạch, lộ trình, bước đi: Đây
là những vấn đề mang tính cụ thể, khả thi, là những bước đi, việc làm rõ ràng
cần triển khai thực hiện trong từng giai đoạn, thể hiện tính chủ động, sáng tạo,
đảm bảo quá trình thực hiện đúng hướng, đảm bảo sự vững chắc về kết quả công
việc đối với một địa phương, nhà trường thuộc vùng KT-XH ĐBKK. Đề án, kế
hoạch, lộ trình càng cụ thể, rõ ràng bao nhiêu thì bước đi càng chủ động, đúng
hướng, kết quả càng vững chắc bấy nhiêu.
* Định hướng về công tác chỉ đạo, tổ chức, triển khai thực hiện: Công
tác này là một trong những vấn đề quan trọng nhất trong quy trình, nó định rõ
con người và công việc phải tiến hành, định rõ cách thức, biện pháp tổ chức
triển khai thực hiện, định rõ những vấn đề cần điều chỉnh, bổ sung, rút kinh
nghiệm, định rõ trách nhiệm của từng người trong chỉ đạo và trong quá trình
triển khai thực hiện.

* Định hướng về huy động các nguồn lực: Nguồn lực chính là các yếu
tố có tính quyết định đến sự thành công của công việc, đồng thời là điều kiện,
phương tiện để có khả năng thực thi nhiệm vụ một cách có hiệu quả. Đối với
một địa phương, nhà trường thuộc vùng KT-XH ĐBKK như Ban Công thì càng
phải định hướng rõ ràng, cụ thể các nguồn lực cần huy động cho nhiệm vụ xây
dựng trường đạt CQG.
2.3.2. Giải pháp xây dựng đề án, lộ trình, kế hoạch:
Việc xây dựng đề án, lộ trình, kế hoạch phải căn cứ vào thực trạng tình
hình nhà trường và địa phương, vừa mang tính cụ thể, khả thi, vừa mang tính ổn
định lâu dài, xác định những mục tiêu trọng tâm trong từng tiêu chuẩn, tập trung
nguồn lực giải quyết dứt điểm theo lộ trình các mục tiêu đó. Xây dựng đề án phù
hợp tình hình thực tiễn, xác định đúng lộ trình, kế hoạch sẽ giúp nhà trường chủ
động trong triển khai thực hiện, chủ động trong công tác tham mưu, chủ động
trong huy động nguồn lực và tất yếu sẽ có tính khả thi cao.

7


Nắm vững yêu cầu và nội dung các tiêu chuẩn qui định đối với trường
THCS đạt CQG, trên cơ sở tình hình thực tế của nhà trường và địa phương, từ
năm học 2014-2015 nhà trường đã từng bước xây dựng lộ trình, kế hoạch thực
hiện xây dựng trường đạt CQG trong vòng 3 năm học, cụ thể như sau:
Tiêu chuẩn 1: Tổ chức nhà trường: Dự định đạt từ năm học 2014 – 2015.
Nhà trường căn cứ vào tình hình thực tế để chỉ đạo tổ văn phòng tăng
cường qu¶n lý hồ sơ theo đúng qui định. Nhà trường và các tổ chức đoàn thể
trong trường thường xuyên chú trọng việc cập nhật hồ sơ, đảm bảo hình thức đạt
yêu cầu, số lượng đầy đủ và đảm bảo về chất lượng theo quy định tại điều lệ
trường trung học và quy định của các tổ chức đoàn thể.
Tiêu chuẩn 2 - Cán bộ quản lý, giáo viên và nhân viên: Dự định đạt từ
năm học 2014 -2015.

Nhà trường sẽ bám sát các văn bản quy định của các cấp quản lý để phân
công giáo viên, nhân viên làm công tác kiêm nhiệm văn thư, thủ quỹ, thư viện,
phối hợp với trạm y tế xã Ban Công để hợp đồng nhân viên y tế, đồng thời tạo
điều kiện để đưa giáo viên đi bồi dưỡng về nghiệp vụ.
Tiêu chuẩn 3 - Chất lượng giáo dục: Dự định đạt từ năm học 2014-2015.
Hàng năm tập trung chỉ đạo và rà soát để từng bước đưa chất lượng giáo
dục đi lên đáp ứng yêu cầu của trường đạt CQG.
Tiêu chuẩn 4 – Tài chính, Cơ sở vật chất và thiết bị dạy học: Dự kiến tiêu
chuẩn này sẽ đạt vào năm 2016.
Nhà trường cần tích cực hơn trong việc tham mưu đề nghị cấp trên đầu tư
xây dựng nhà Hiệu bộ, cải tạo phòng học thừa làm phòng học bộ môn, phòng
chức năng, tăng cường hệ thống máy vi tính đủ cho HS được học Tin học. Tham
mưu cho chính quyền địa phương bổ sung diện tích đất để làm sân chơi, bãi tập
cho HS, làm nhà xe HS và làm nhà vệ sinh cho GV. Nhà trường tiếp tục tiết
kiệm từ nguồn chi thường xuyên và làm tốt công tác huy động các nguồn lực để
tăng cường bàn ghế GV, HS, cải tạo mặt bằng, làm bồn hoa, trồng và chăm sóc
cây cảnh, trang trí trường lớp, cải tạo hệ thống điện... đảm bảo điều kiện cho
việc dạy và học theo chuẩn.
Tiêu chuẩn 5 – Quan hệ giữa Nhà trường, Gia đình và xã hội: Dự định
đạt từ năm học 2014-2015.
Tiêu chuẩn này trường đã đạt. Tuy nhiên Trường cần duy trì và làm tốt
hơn công tác tham mưu, phối hợp với các lực lượng trong và ngoài nhà trường
để thực hiện tốt công tác xã hội hóa giáo dục.
2.3.3. Giải pháp chỉ đạo:
Đề án, kế hoạch, lộ trình xây dựng trường CQG cần có sự lãnh đạo, chỉ
đạo trực tiếp của Thường vụ Đảng ủy xã, Ban chỉ đạo xây dựng trường CQG của
huyện, xã, của cơ quan chuyên môn là Phòng GD&ĐT, của Chi bộ nhà trường.
Trong triển khai thực hiện, cần chỉ đạo để định rõ từng nội dung, phân công
nhiệm vụ cụ thể cho các thành viên trong Ban chỉ đạo, nhằm thực hiện dứt điểm
từng giai đoạn, từng nội dung công việc, kiểm tra tiến độ thực hiện và điều

chỉnh, bổ sung kế hoạch kịp thời, có hiệu quả.
8


2.3.4. Giải pháp tuyên truyền:
Với những khó khăn còn gặp phải như đã nêu, vấn đề tuyên truyền về
công tác giáo dục, về xây dựng trường THCS đạt CQG đối với xã Ban Công
càng quan trọng. Tuyên truyền, trước hết là để nâng cao nhận thức về giáo dục,
là để thực hiện có hiệu quả công tác xã hội hóa giáo dục, giảm thiểu tình trạng
học sinh bỏ học, giảm tỉ lệ học sinh có học lực yếu kém, học sinh vi phạm đạo
đức và quan trọng nhất là để huy động các nguồn lực cho công việc xây dựng
trường THCS Ban Công đạt CQG. Đối tượng tuyên truyền trước hết là đội ngũ
các cấp ủy Đảng, chính quyền, các đoàn thể xã hội, nhân dân, phụ huynh trong
địa phương, đội ngũ cán bộ, giáo viên, nhân viên, học sinh trong nhà trường, sau
đó là các lực lượng bên ngoài, các nhà hảo tâm... để mọi người hiểu về tầm quan
trọng của việc xây dựng trường CQG và đồng thuận để cùng nhà trường tháo gỡ
dần những khó khăn, vướng mắc. Trong quá trình thực hiện, tôi đã sử dụng linh
hoạt nhiều hình thức tuyên truyền khác nhau, phù hợp với từng đối tượng như:
* Đối với CBGV, NV và HS của trường: Tuyên truyền thông qua các buổi
họp, các giờ chào cờ đầu tuần, các buổi sinh hoạt 15 phút đầu giờ, các buổi hoạt
động ngoại khóa, ngoài giờ lên lớp...
* Đối với phụ huynh HS: Tuyên truyền thông qua các hội nghị CMHS,
các buổi họp, gặp gỡ giữa nhà trường với CMHS và thông qua HS để nhắn nhủ
thông điệp đến phụ huynh...
* Đối với nhân dân trên địa bàn xã: Tôi đã phân công các đồng chí trong
BGH cùng với CBGV nhà trường đến từng thôn gặp gỡ Bí thư chi bộ, Trưởng
thôn để trao đổi và nhờ thông qua hệ thống truyền thanh của thôn, thông qua các
buổi họp thôn để tuyên truyền (Với những thôn chưa có hệ thống tăng âm, loa
đài như Thôn Nghìa tôi đã cho mượn trong một thời gian, sau đó vận động thôn
mua dưới sự hỗ trợ của nhà trường)

* Đối với cấp ủy, Đảng, chính quyền và các đoàn thể ở địa phương: Tuyên
truyền thông qua các hội nghị giao ban tháng, quý, các cuộc họp định kỳ, đột
xuất của Đảng ủy, HĐND, UBND và các đoàn thể. Đặc biệt, xét thấy Đoàn
TNCSHCM là lực lượng mạnh có thể huy động được sức lao động trong quá
trình cải tạo mặt bằng nên tôi đã gặp trực tiếp BCH Đoàn xã để trao đổi và xin
hỗ trợ.
* Đối với các lực lượng khác: Qua các mối quan hệ quen biết do đã có
thời gian công tác gần 5 năm ở trường, tôi đã trực tiếp tìm đến những hộ gia
đình có tiềm lực, các doanh nghiệp đóng trên địa bàn xã để trao đổi, trình bày về
những khó khăn hiện tại của nhà trường để xin được hỗ trợ về cả ngày công và
hiện vật như: Gia đình anh Thịnh, anh Khánh – Thôn Tôm, anh Quý – Thôn Ba,
anh Hải – Thôn La Hán, doanh nghiệp kinh doanh vật liệu xây dựng của gia
đình chị Oanh – Thôn Ba...
2.3.5. Giải pháp tham mưu:
Thực hiện nhiệm vụ xây dựng trường đạt CQG, nhà trường là đơn vị trực
tiếp thực thi công việc song cần có sự chỉ đạo sát xao của cơ quan quản lý cấp
trên, của chính quyền địa phương, hơn thế nữa, có những vấn đề vượt ra ngoài
9


tầm giải quyết của nhà trường, vì vậy, công tác tham mưu là rất quan trọng.
Tham mưu để có sự chỉ đạo đồng bộ, thống nhất từ quan điểm, nhận thức đến
hành động, việc làm. Tham mưu để có sự điều chỉnh, bổ sung kế hoạch thực
hiện, đề xuất cụ thể những công việc cần tập trung. Tham mưu dưới nhiều hình
thức như thông qua hội nghị, làm việc trực tiếp với lãnh đạo địa phương, lãnh
đạo huyện và lãnh đạo các phòng ban cấp huyện có liên quan. Tham mưu bằng
văn bản, hoặc bằng trao đổi thực tiếp...
* Với Địa phương: Tham mưu để Đảng uỷ, UBND xã Ban Công nhận
thấy việc xây dựng trường THCS xã nhà đạt CQG là nhiệm vụ cấp thiết, nhằm
tạo điều kiện để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đáp ứng yêu cầu phát

triển của đất nước và của địa phương hiện nay. Đầu tiên, tôi tham mưu cho
HĐND xã làm tờ trình đề nghị với UBND huyện Bá Thước tiếp tục tham mưu
cho UBND tỉnh, HĐND tỉnh Thanh hóa về việc xin chủ trương tăng cường diện
tích đất. Theo đó, tại kỳ họp thứ 12, HĐND tỉnh Thanh Hóa khóa XVI, đã ban
hành Nghị quyết số 116/2014/NQ-HĐND ngày 31 tháng 12 năm 2014, có nội
dung “Mở rộng khuôn viên trường THCS Ban Công thêm diện tích 0,16 ha” đủ
để làm sân chơi, bãi tập cho HS. Sau đó, tôi tham mưu cho UBND xã làm chủ
đầu tư bằng nguồn kinh phí nâng cấp nhà ở cho GV vùng KT-XH khó khăn của
UBDT để sửa chữa, nâng cấp khu tập thể cho CBGV. Tiếp tục tham mưu cho
Đảng uỷ xã Ban Công xây dựng nghị quyết chuyên đề và đưa vào Nghị quyết tại
Đại hội lần thứ XXII nhiệm kỳ 2015 - 2020 của Đảng bộ xã về việc tập trung
nguồn lực phấn đấu xây dựng trường THCS Ban Công đạt CQG vào năm 2016.
Sau khi có các nghị quyết làm điều kiện tiên quyết, tôi đã tham mưu cho UBND
xã triệu tập cuộc họp giữa đại diện Lãnh đạo xã, cán bộ phụ trách Địa chính xã
và lãnh đạo Thôn Ba, đại diện các hộ gia đình có đất canh tác giáp ranh với nhà
trường, dưới sự chứng kiến của BGH nhà trường để thỏa thuận đền bù, tuy nhiên
do kinh phí của địa phương và nhà trường khó khăn không thể đền bù bằng tiền
mặt nên tôi tiếp tục tham mưu cho UBND xã dùng nguồn đất dự trữ 5% của xã ở
vị trí khác để đổi cho các hộ dân. Sau khi có đủ diện tích đất, tôi lại từng bước
tham mưu cho Đảng ủy – HĐND xã tiếp tục chỉ đạo UBND xã hỗ trợ nhà
trường làm nhà vệ sinh cho GV, nhà để xe cho HS theo yêu cầu đạt chuẩn và đổ
đất, san ủi mặt bằng để xây tường rào bao quanh đảm bảo an toàn, an ninh
trường học. Tuy nhiên xét thấy mặt bằng mới được cải tạo nếu xây tường rào
ngay sẽ không đảm bảo chất lượng dễ dẫn đến sụt lún nên tôi đã cùng với lãnh
đạo xã đề xuất với đoàn kiểm tra trường đạt chuẩn quốc gia của UBND tỉnh cho
nợ lại hạng mục tường rào, chưa xây mà nhờ phụ huynh rào tạm bằng chà rào,
sau một vài tháng mặt bằng ổn định Xã sẽ tiến hành cho xây.
* Với Phòng GD & ĐT và BCĐ xây dựng trường CQG huyện Bá Thước:
Tôi đã làm tốt công tác tham mưu cho BCĐ xây dựng trường CQG của huyện tổ
chức các đợt về khảo sát thực tế tại nhà trường và xây dựng kế hoạch, lập biên

bản giao nhiệm vụ cụ thể cho từng phòng ban trực thuộc UBND huyện quản lý
như: Phòng Tài chính - Kế hoạch, Phòng Kinh tế - Hạ tầng, Phòng Tài nguyên Môi trường, Phòng Giáo dục và Đào tạo và UBND xã, Trường THCS Ban Công
10


cùng với những hạng mục cần phải đầu tư theo tiến độ và thời gian cụ thể, rõ
ràng. Trong quá trình thực hiện, những vấn đề nhà trường tham mưu với địa
phương mà lãnh đạo xã còn lưỡng lự chưa quyết định thì tôi báo cáo với Phòng
GD&ĐT và BCĐ xây dựng trường CQG của huyện tác động với địa phương
giúp nhà trường. Lại do đặc thù các phòng học bộ môn của NT không xây mới
mà được cải tạo từ các phòng học thừa, có thể điều kiện chưa đảm bảo nên tôi đã
tham mưu cho lãnh đạo PGD&ĐT trực tiếp đứng ra hợp đồng với Công ty
CPTBGD Hồng Đức về tại trường khảo sát thực tế để lựa chọn thiết bị lắp đặt
hợp lý, phù hợp với diện tích, kết cấu nhưng vẫn đảm bảo yêu cầu về kỹ thuật,
thẩm mỹ và độ an toàn. Bên cạnh đó tôi thường xuyên gặp gỡ lãnh đạo và cán
bộ phòng giáo dục, Hiệu trưởng các trường đã xây dựng thành công trường
CQG để trao đổi, qua đó học hỏi kinh nghiệm về nghiệp vụ chuyên môn, cách
thức làm việc mang lại hiệu quả nhằm hoàn hoàn thiện hồ sơ, từng bước hoàn
thiện các tiêu chí đúng tiến độ.
2.3.6. Giải pháp huy động nguồn lực:
Nguồn lực có tính quyết định đến sự thành công của công việc, đồng thời
là điều kiện, phương tiện để có khả năng thực thi nhiệm vụ một cách có hiệu
quả. Đối với một địa phương, nhà trường thuộc vùng KT-XH ĐBKK như Ban
Công càng phải định hướng rõ, cụ thể các nguồn lực cần huy động. Trước hết
phải xác định rõ phát huy sức mạnh nội lực là chủ yếu bằng việc phát huy có
hiệu quả các nguồn lực hiện có của nhà trường, địa phương, định rõ những nội
dung nào thuộc về trách nhiệm của nhà trường, những nội dung nào thuộc trách
nhiệm của địa phương, của cấp trên để từ đó có sự huy động nguồn lực đúng
hướng và đem lại hiệu quả. Huy động nội lực là phát huy sức mạnh trong tập thể
hội đồng sư phạm, trong học sinh, sử dụng nguồn tài chính được cấp trên cấp

cho đơn vị phù hợp có hiệu quả, ưu tiên tập trung cho những tiêu chuẩn giải
quyết được bằng quyền hạn của đơn vị, là phát huy sáng tạo khả năng, tiềm lực
sẵn có của địa phương, phát huy hiệu quả của công tác xã hội hóa giáo dục, phải
có sự quyết đoán, năng động, sáng tạo của các cấp ủy Đảng, chính quyền địa
phương, phải có sự đồng thuận, phối hợp chặt chẽ với các ban ngành, đoàn thể,
quần chúng nhân dân và phụ huynh học sinh trong địa bàn. Với đặc thù là xã đặc
biệt khó khăn nên có những vấn đề địa phương và nhà trường không thể một
mình giải quyết được, vì vậy, ngoài phát huy nội lực là chủ yếu, cần có sự huy
động sự hỗ trợ từ bên ngoài, cụ thể đó là UBND huyện, các phòng ban cấp
huyện và của các nhà hảo tâm.
Bản thân được bổ nhiệm làm Hiệu trưởng trường THCS Ban Công vào
tháng 01 năm 2014. Đứng trước điều kiện khó khăn về CSVC và chất lượng
giáo dục chưa đạt yêu cầu, tỉ lệ học sinh bỏ học tuy đã giảm nhưng vẫn còn rải
rác hàng năm, tôi đã trăn trở tìm ra các giải pháp huy động các lực lượng xã hội
nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện và tăng cường CSVC góp phần
xây dựng thành công trường đạt CQG vào năm 2016. Các giải pháp cụ thể mà
tôi đã áp dụng để huy động các nguồn lực xây dựng được trường CQG trong
một thời gian rất ngắn (chỉ 3 năm: 2014, 2015, 2016), đó là:
11


* Tập trung duy trì sĩ số HS và nâng cao chất lượng giáo dục: Trước
tình trạng hầu hết các năm học đều có HS bỏ học nguyên nhân chính là do học
sinh có hoàn cảnh gia đình quá khó khăn, bố mẹ phải đi làm ăn xa, không có
người quan tâm, chăm sóc hoặc ở nhà với ông bà già, cô, dì, chú, bác... thiếu sự
động viên, bảo ban, kèm cặp. Muốn duy trì sĩ số thì phải làm tốt công tác nhân
đạo từ thiện để giúp đỡ học sinh nghèo được đến trường, vì thế giải pháp mà tôi
thường sử dụng là: Tặng quần áo, tặng vở, đồ dùng học tập, miễn giảm một số
khoản đóng góp cho HS, thậm chí có những hôm HS đến trường đau bụng vì đói
không học được tôi đã cho tiền hoặc mua đồ cho các em ăn sáng, rồi khi mỗi dịp

Tết đến, Xuân về lại vận động các tổ chức: Công đoàn, Chi hội khuyến học,
CTĐ, Đoàn – Đội và các cá nhân: CBGV, NV nhà trường và cả các em HS có
điều kiện hơn với tinh thần “Tương thân tương ái”, “Lá lành đùm lá rách, lá rách
ít đùm lá rách nhiều” để động viên các em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn bằng
những món quà ý nghĩa, thiết thực như quần áo ấm, gạo, bánh, kẹo, mắm,
muối... giúp các em phần nào không bị rét, bị thiếu bữa trong những ngày tết;
Bên cạnh đó, cho xây dựng tủ sách dùng chung giúp học sinh được mượn vào
đầu các năm học đảm bảo để các em có đủ sách vở cần thiết khi đến trường.
Đồng thời, gần gũi để nắm bắt tâm lý học sinh, động viên, giúp đỡ kịp thời khi
các em gặp những vấn đề khó mà bản thân không giải quyết được. Yêu cầu giáo
viên chủ nhiệm, giáo viên bộ môn hàng ngày, hàng tuần và từng tiết học theo dõi
sát sao sĩ số học sinh, nếu thấy em nào có biểu hiện bất thường thì cùng với
BGH đến nhà để gặp gỡ, trao đổi, động viên các em và gia đình, nếu người thân
ở nhà không giải quyết được thì liên lạc với bố mẹ hoặc những người có uy tín
trong gia đình, dòng họ để nhờ can thiệp.
Chất lượng giáo dục tuy đã dần được nâng lên nhưng vẫn chưa mang tính
ổn định và bền vững, đặc biệt là chất lượng mũi nhọn nên trước mắt, tôi chỉ đạo
tập trung vào các cuộc thi mới mang tính chiến lược nhưng cũng không kém
phần quan trọng như Thi vận dụng kiến thức liên môn để giải quyết các tình
huống thực tiễn, thi dạy học theo chủ đề tích hợp hay thi Nghiên cứu khoa học
kỹ thuật nhằm vừa kích thích tính sáng tạo, ham học hỏi, tìm tòi cái mới của các
em, vừa để các giáo viên được tiếp cận ngay từ đầu và chủ động nắm bắt
phương pháp thực hiện và hướng dẫn học sinh với phương châm “ Biết đến đâu
chắc đến đó”. Vì vậy từ khi Sở GD&ĐT, Phòng GD&ĐT tổ chức các cuộc thi
này thì năm nào nhà trường cũng có các dự án đạt giải cao cấp huyện, cấp tỉnh,
đặc biệt năm học 2014-2015 nhà trường đã có dự án đạt giải Nhất lĩnh vực, giải
Nhì toàn cuộc cấp Quốc gia trong cuộc thi vận dụng kiến thức liên môn để giải
quyết các tình huống thực tiễn. Bên cạnh đó nhà trường luôn chỉ đạo thực hiện
song song với 2 nhiệm vụ là: Phát triển chất lượng đại trà và hạn chế tỷ lệ học
sinh yếu kém, vì HS đa số là con em dân tộc thiểu số, khả năng tiếp thu bài còn

nhiều hạn chế. Do đó, ngay đầu mỗi năm học nhà trường tổ chức ôn tập cho
những HS có học lực Yếu, Kém của năm học trước, cho các em kiểm tra lại, nếu
đủ điều kiện mới cho lên lớp, sau đó tiến hành phân loại học sinh toàn trường:
Với đối tượng HS Yếu, Kém thì động viên GV dạy phụ đạo không thu tiền, với
12


số HS Khá, Giỏi và học sinh có năng khiếu thì giao cho giáo viên kèm cặp, bồi
dưỡng. Phối hợp chặt chẽ với Công đoàn trong việc động viên GV tranh thủ mọi
thời gian, khắc phục khó khăn để làm tốt công tác bồi dưỡng và phụ đạo học
sinh nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện của nhà trường.
Với CBGV, nhà trường tôi luôn quán triệt phải thực hiện nghiêm túc việc
đổi mới phương pháp dạy học, chú trọng phát huy tính tích cực, độc lập, sáng
tạo của HS, kích thích HS hăng say phát biểu xây dựng bài, đặc biệt chú ý đến
việc dạy học phân hoá theo năng lực HS bằng hệ thống các câu hỏi, bài tập theo
mức độ tăng dần, tăng cường sử dụng thiết bị và đồ dùng, khuyến khích sử dụng
giáo án điện tử, ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy. Chỉ đạo cho các
tổ chuyên môn lên kế hoạch dự giờ các giáo viên trong tổ bằng cách xây dựng
các giờ dạy mẫu và bám sát chuẩn KT-KN để đánh giá tiết dạy. Đồng thời, các
GV phải lên kế hoạch dự giờ lẫn nhau để đánh giá phương pháp dạy học, chủ
yếu là đánh giá khả năng nắm bắt kiến thức, tính linh hoạt, chủ động của HS
trong giờ học và thông qua các buổi sinh hoạt tổ chuyên môn để đề xuất, góp ý
cho đồng nghiệp của mình nhằm nâng cao chất lượng giờ dạy, góp phần thực
hiện thành công kế hoạch nâng cao chất lượng dạy và học của nhà trường.
* Nêu cao vai trò và sự quyết tâm của người đứng đầu đơn vị: Muốn
có sự đồng thuận cao trong công tác xây dựng nhà trường, đặc biệt là vấn đề xây
dựng CSVC từ lãnh đạo cấp trên, lãnh đạo địa phương, nhân dân trong toàn xã
đến phụ huynh, học sinh trong toàn trường thì Hiệu trưởng phải là người gương
mẫu, có tầm nhìn chiến lược, có năng lực về mọi mặt, có uy tín cao được Đảng Chính quyền- Các đoàn thể - Nhân dân trong toàn xã cùng đồng nghiệp và phụ
huynh, học sinh trong toàn trường tin yêu, kính trọng. Là tấm gương sáng trong

mọi lĩnh vực hoạt động để cho mọi người học tập và làm theo. Thậm chí Phải
hy sinh cả lợi ích cá nhân thì mới lay động được lòng người cùng tham gia ủng
hộ nhà trường và địa phương. Ví dụ: Trong điều kiện kinh tế địa phương khó
khăn như đã nêu ở trên, nguồn chi thường xuyên của nhà trường thì hạn hẹp tôi
đã bàn với Ban tài vụ tìm nguồn kinh phí từ việc vay không lãi (Hoặc lãi xuất
thấp) rồi tiết kiệm trả dần để lo xây dựng, cải tạo những hạng mục nhỏ như: xây
mới và ốp gạch bồn hoa, cây cảnh, bê tông sân trường, đường vào nhà xe, xây
nhà vệ sinh học sinh và quét vôi ve, trát vá, sơn cửa toàn bộ các dãy phòng học,
mua thêm bảng, bàn ghế giáo viên học sinh ...
* Làm tốt công tác phối hợp với Hội khuyến học và Chủ tịch công đoàn
trường để tạo sự đồng thuận, thống nhất, dân chủ trong cách chỉ đạo, động viên
kịp thời nhằm khích lệ tinh thần làm việc, nguyện đem hết sức mình để cống
hiến cho mục tiêu xây dựng thành công trường đạt CQG.
* Phát huy nội lực trong nhà trường: Trước hết, cần tiết kiệm chi từ
nguồn kinh phí chi thường xuyên được phân bổ từ ngân sách nhà nước và từ
40% nguồn học phí thu được của HS theo quy định, nhưng nguồn này rất ít vì
HS có tới 208/210 em = 99% thuộc đối tượng Hộ nghèo, CN, HSDTTS vùng
KT-XH ĐBKK được miễn, giảm học phí theo quy định của Chính phủ nên nhà
trường cần phải phát huy nội lực từ phía CBGV, NV đó là: Vận động CBGV, NV
13


cho nhà trường vay tiền mặt với phương châm “Góp nhỏ thành lớn”, hoặc mua
tặng cây cảnh, ủng hộ tiền mặt hoặc SGK xây dựng tủ sách dùng chung trong
thư viện, tích cực tham gia ủng hộ ngày công, đóng góp trí tuệ để cùng với các
em HS lao động quy hoạch khuôn viên, trang trí trường lớp giúp nhà trường
không phải trả tiền thuê, mướn. Đồng thời, yêu cầu CBGV, NV làm tốt công tác
xây dựng và bảo quản CSVC đảm bảo cho dạy và học để nâng cao chất lượng
giáo dục toàn diện.
* Tranh thủ sự đầu tư của cấp trên, sự tài trợ của các tập thể, cá nhân

hảo tâm trong, ngoài nhà trường ủng hộ tiền, hiện vật và ngày công lao
động để xây dựng, cải tạo CSVC trường học: Khi nhà trường được giao
nhiệm vụ xây dựng trường CQG, thì địa phương đang tập trung thanh toán tiền
đền bù đất cho các hộ dân bên cạnh trụ sở làm việc để mở rộng diện tích, đầu tư
xây dựng hệ thống phòng làm việc, hội trường... nên việc đầu tư CSVC theo
hướng CQG cho trường THCS lại càng khó khăn hơn. Nắm được tình hình này
UBND huyện đã chủ động đứng ra làm chủ đầu tư để xây mới nhà Hiệu bộ.
Đồng thời giao cho UBND xã làm nhà vệ sinh cho GV, nhà để xe cho HS và hỗ
trợ nhà trường cải tạo mặt bằng sân TD, xây tường rào bao quanh. Nhờ làm tốt
công tác tuyên truyền tôi đã huy động được nhân dân, phụ huynh, CBGV, học
sinh và tổ chức Đoàn TNCSHCM của Xã tham gia cải tạo mặt bằng, cải tạo
khuôn viên: Đối với những học sinh khối 6,7 còn nhỏ, sức yếu chưa làm được
thì thông qua các em nhờ phụ huynh đến giúp (Có những em có bố mẹ đi làm ăn
xa ở nhà với ông, bà tuy đã già nhưng vẫn đến cùng với thầy cô giáo, các Đoàn
viên, Thanh Niên của xã và các em học sinh lớn tham gia lao động). Bên cạnh
đó, trong quá trình tuyên truyền khi đến các hộ dân có phương tiện máy ủi, máy
múc, xe tải chở đất ... hoặc có vật liệu cần thiết tôi đã vận động để giúp đỡ nhà
trường với giá công rẻ hoặc cho nợ để giảm chi phí trong thời điểm khó khăn
như: Đến gia đình anh Thịnh – Thôn Tôm để nhờ gia đình giúp đỡ trong việc san
ủi, cải tạo mặt bằng vì nếu chỉ nhờ vào sức người thì khó có thể hoàn thành kịp
tiến độ; đến gia đình anh Khánh – Thôn Tôm để nhờ giúp đỡ cải tạo các phòng
học bộ môn; đến 2 gia đình anh Quý – Thôn Ba, anh Hải – Thôn la Hán để nhờ
giúp đỡ xây bồn hoa, cây cảnh, sửa nhà vệ sinh HS..., đến doanh nghiệp kinh
doanh vật liệu xây dựng của gia đình chị Oanh – Thôn Ba để xin ủng hộ và đề
nghị được mua nợ các loại vật liệu cát, sỏi, gạch, xi măng...
Phối hợp với Chủ tịch Hội khuyến học xã và Chủ tịch công đoàn trường
để thống nhất các giải pháp huy động, xin ý kiến chỉ đạo của UBND huyện,
Phòng GD&ĐT, Đảng ủy, UBND xã Ban Công về nội dung kêu gọi các lực
lượng xã hội tham gia xây dựng CSVC trường học. Thành lập Ban vận động,
viết thư kêu gọi các nhà tài trợ, phụ huynh học sinh ủng hộ tiền hoặc hiện vật cụ

thể về từng hạng mục (Tổ chức lấy ý kiến và cho Phụ huynh đăng ký ủng hộ
trước để nhà trường có kế hoạch phù hợp), sau đó tiến hành mua sắm bổ sung, tu
sửa theo đúng lộ trình đã được phê duyệt, đồng ý. Báo cáo thu - chi với UBND
xã và phụ huynh HS về nguồn kinh phí huy động từ các cá nhân, tập thể hảo
tâm. Ghi danh cá nhân, tập thể điển hình vào sổ vàng truyền thống nhà trường.
14


Viết thư cảm ơn và trực tiếp gặp gỡ cảm ơn những cá nhân và tập thể điển hình
đã ủng hộ nhà trường.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm đối với hoạt động giáo dục,
với bản thân, đồng nghiệp và nhà trường:
Trước đây, trường THCS Ban Công chỉ có 14 phòng học gồm: 6 phòng học
kiên cố - nhà 2 tầng, 8 phòng học bán kiên cố - 2 nhà cấp 4; 01 nhà công vụ giáo
viên (3 phòng) và 01 khu tập thể giáo viên (9 phòng)- đã cũ và xuống cấp, với
chất lượng giáo viên, học sinh còn nhiều hạn chế, nhưng mỗi năm học đi qua
bằng công sức trí tuệ của thầy và trò, bằng sự chắt chiu giành dụm từ các nguồn
lực, sự giúp đỡ của phụ huynh học sinh, các thế hệ cựu học sinh và sự nâng niu
che chở của đảng bộ nhân dân Ban Công, trường đã dần dần tạo được CSVC ổn
định phục vụ giảng dạy học tập. Chất lượng giáo dục ngày càng phát triển, tỉ lệ
học sinh lên lớp, tốt nghiệp ngày càng cao. Chất lượng các cuộc thi luôn ở vị trí
thứ hạng cao của huyện. Chất lượng thi tuyển vào THPT được nâng lên. Nhà
trường từng bước đổi mới, từ năm 2012 đến nay luôn giữ vững danh hiệu tập thể
LĐTT, CĐ VM, Chi bộ đạt Chi bộ TSVM tiêu biểu 5 năm liền. Với ý chí tự lực,
tự cường, với tinh thần chủ động sáng tạo trường đã hoàn thành xuất sắc 5 tiêu
chuẩn của trường chuẩn quốc gia theo thông tư số 47/2012/TT-BGDĐT ngày 07
tháng 12 năm 2012 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo cụ thể là:
Tiêu chuẩn 1: Tổ chức và quản lý nhà trường
Trường có 7 lớp với 210 HS, có 2 tổ chuyên môn với 17 giáo viên. Hàng
năm các tổ chuyên môn triển khai nhiều chuyên đề SHSP tập trung giải quyết về

đổi mới PPDH, ĐM KTĐG, ứng dụng CNTT, sử dụng đồ dùng dạy học; có kế
hoạch bồi dưỡng nâng cao trình độ nghiệp vụ sư phạm, đạt được các tiêu chí đề
ra.
Chi bộ nhà trường đóng vai trò hạt nhân lãnh đạo, nhân tố quyết định chất
lượng mọi mặt của nhà trường. Quá trình phấn đấu xây dựng chuẩn quốc gia, chi
bộ đã kết nạp được 2 đảng viên. Chi bộ được huyện ủy Bá Thước tặng giấy khen
chi bộ đạt “Chi bộ trong sạch vững mạnh 5 năm liền” giai đoạn 2012-2016.
Công đoàn đóng vai trò nòng cốt tích cực trong việc tổ chức tốt các phong
trào thi đua, các cuộc vận động với nhiều hình thức phong phú, đa dạng, tập hợp
được đông đảo đoàn viên khơi dậy được tiềm năng và thế mạnh của từng cá
nhân. Hoạt động Công đoàn đã khẳng định vai trò, vị trí, chức năng của tổ chức
công đoàn và phong trào quần chúng; khẳng định sự đóng góp quan trọng vào sự
phát triển của nhà trường. Công đoàn trường nhiều năm đạt công đoàn vững
mạnh; được công đoàn Giáo dục Bá Thước tặng giấy khen.
Hoạt động đội sáng tạo, tổ chức được nhiều sân chơi bổ ích, hấp dẫn lôi
cuốn học sinh. Đồng chí TPT đạt giải nhất trong hội thi GV TPT giỏi do tỉnh
đoàn tổ chức năm học 2013-2014. Liên đội liên tục nhiều năm đạt LĐ VMXS
được huyện đoàn, tỉnh đoàn tặng giấy khen.
Tiêu chuẩn 2: về cán bộ quản lý, GV và NV
Đổi mới công tác quản lý trong việc chỉ đạo và tổ chức thực hiện đảm bảo
tính khoa học và thực tiễn; tranh thủ được sự lãnh đạo của cấp ủy đảng, của các
15


cấp chính quyền, sự phối hợp chặt chẽ với công đoàn, biết tận dụng thời cơ,
năng động, sáng tạo, chịu khó học hỏi, dám nghĩ dám làm, dám chịu trách
nhiệm, tận tâm với phong trào; không ngừng xây dựng đội ngũ đã tạo dựng được
một tập thể sư phạm đoàn kết cùng nhau chung sức chung lòng, phấn đấu hoàn
thành xuất sắc nhiệm vụ.
Số giáo viên trực tiếp giảng dạy có 17 đồng chí, 01 đồng chí vừa giảng

dạy vừa kiêm TPT, đủ giáo viên cho các bộ môn; bình quân 2,4 giáo viên/lớp.
100% giáo viên đạt trình độ chuẩn. Số giáo viên đạt trình độ trên chuẩn là 11/17
đồng chí đạt 64,7%. Số giáo viên được công nhận là giáo viên dạy giỏi cấp
huyện trở lên những năm qua đạt tỷ lệ theo yêu cầu, đến nay đã có 12/17 lượt
GVDG cấp huyện đạt 70,6%. Đa số giáo viên đều có phẩm chất đạo đức tốt,
năng lực chuyên môn vững vàng, không có giáo viên nào xếp loại yếu về đạo
đức và CM, không có giáo viên nào bị xử lý kỷ luật. Hàng năm 100% giáo viên
được xếp loại khá trở lên theo chuẩn nghề nghiệp. Những thành công của nhà
trường gắn liền với sự trưởng thành của đội ngũ giáo viên.
Tiêu chuẩn 3: Chất lượng giáo dục
Chất lượng đại trà luôn được giữ vững và có nhiều tiến bộ qua từng năm
học, chất lượng năm sau cao hơn năm trước, nhà trường đặc biệt quan tâm đến
việc tổ chức dạy bổ trợ kiến thức cho học sinh khối 9. Kết quả hàng năm thi vào
THPT ngày càng cao. Chất lượng HSG văn hóa luôn đứng ở tốp giữa và kết quả
các cuộc thi cấp huyện, cấp tỉnh trong 3 năm liên tục luôn giữ vững ở tốp đầu
trong toàn huyện và ngày càng được phát huy. Học sinh tự hào được học tập
dưới mái trường này ra sức phấn đấu dành kết quả cao trong học tập.
* Tỷ lệ học sinh bỏ học, lưu ban và trượt tốt nghiệp:
Tổng
Bỏ học
Lưu ban
Năm học
số HS T.Số
T.Số
T.Số
%
191
2014 - 2015
1
1

0
0
215
2015 - 2016
2
1
1
0,45
* Chất lượng giáo dục toàn diện:
- Xếp loại hạnh kiểm:
Tổng số XL Tốt
Năm học
HS
%
T.Số
165
86,39
2014 - 2015 191
187
86,98
2015 - 2016 215
- Xếp loại học lực:
Tổng số XL Giỏi
Năm học
HS
TS
%
8
4,19
2014 - 2015 191

8
3,72
2015 - 2016 215

Trượt TN
%
%
0,52
0,52
0,45
0,9

XL Khá
T.Số %

XL TB
T.Số %

XL Yếu
T.Số %

20
23

4
5

2
0


10,47
10,70

2,09
2,33

1,05
0

XL Khá
TS
%

XL TB
TS
%

XL Yếu
TS
%

69
88

111
114

3
5


36,13
40,93

58,11
53,02

1,57
2,33

16


- Kết quả tốt nghiệp THCS và Thi vào lớp 10 THPT, TTGDTX-DN:
KQ đậu
KQ vào
Tổng
HS
vào lớp 10
TTGD
vào
Số
Số
Tỷ
THPT
TX-DN
Trung học
Năm học
HS
TN
lệ %

lớp 9
Tỷ lệ
Tỷ lệ
SL
SL
SL
SL
%
%
2014 - 2015 39 39
100
33
33
3
7,7
36
92,3
2015 - 2016 46 47
97,9
34
34
6
13
40
86,9
- Chất lượng mũi nhọn của học sinh: Kết quả thi học sinh giỏi VH và các
cuộc thi khác
HSG Văn
Thi
Năm học

HSG TDTT
Thi NCKHKT
Hóa
VDKTLM

2014-2015
2015-2016

Cấp
Huyện,
cụm

Cấp
tỉnh

24
18

0
0

Cấp
huyện

Cấp
tỉnh

Cấp
huyện


Cấp
tỉnh

Cấp
huyện

Cấp
Tỉnh

0
6

0
0

0
Giải 3

0
Giải 3

2
4

1
3

- Kết quả của giáo viên: Kết quả thi giáo viên giỏi các cấp và các cuộc thi
khác
Năm học


GVDG

GVDG

Thi viết SKKN

Cấp Tỉnh

Cấp
tỉnh
2

Cấp
huyện
5

Thi DH theo
chủ đề TH
Cấp
Cấp
tỉnh
huyện
3
5

2

4


2

2014-2015

1

Cấp
Huyện
1

2015-2016

0

4

9

Công tác phổ cập THCS luôn cập nhật kịp thời, thống kê, tổng hợp đảm
bảo tính chính xác, khoa học. Kết quả phổ cập các năm đạt như sau: năm 2013
đạt 89,0%; năm 2014 đạt 89,5%; năm 2015 đạt 90,1%; năm 2016 đạt 92,9%.
Về các hoạt động giáo dục khác: Nhà trường luôn chú trọng giáo dục đạo
đức học sinh, giáo dục truyền thống thông qua tổ chức hoạt động ngoài giờ lên
lớp với nhiều hình thức phong phú. Đặc biệt, trường luôn đẩy mạnh phong trào
“Trường học thân thiện, học sinh tích cực”, giữ gìn và xây dựng trường ngày
càng xanh - sạch - đẹp - an toàn.
Tiêu chuẩn 4: Tài chính, cơ sở vật chất và thiết bị dạy học
Hiện tại, Diện tích 6443,5 m2, bình quân đạt 30,7m2/học sinh. Trường có
khuôn viên riêng biệt, cơ cấu các khối trong tường được bố trí tương đối hợp lý,
sạch sẽ và thoáng mát. Trong đó khu phòng học có 7 phòng đúng tiêu chuẩn.

Khu phòng học bộ môn gồm: phòng vật lý – Công nghệ, phòng Hóa học - Sinh
học, với đầy đủ phương tiện và đồ dùng thí nghiệm theo quy định; có 01 phòng
17


máy vi tính với 17 máy nối mạng Internet, phòng đa năng có 1 máy chiếu, có 4
máy tính giành cho cán bộ QL, kế toán và thư viện. Thư viện được công nhận
đạt thư viện chuẩn. Nhà trường có phòng truyền thống, đây là một công trình
văn hóa kết tinh trí tuệ và tình cảm sâu sắc của các thầy cô giáo và các em học
sinh với các thế hệ đi trước, phòng truyền thống đã phát huy tốt giá trị giáo dục.
Nhà trường có sân luyện tập thể dục thể thao với diện tích 1500m 2. Ngoài ra nhà
trường có đủ các phòng làm việc cho cán bộ quản lý, các tổ chức, đoàn thể, tổ
chuyên môn và có đủ trang thiết bị theo quy định. Đặc biệt, bằng khả năng và ý
thức tự học, để hưởng ứng phong trào thi đua ứng dụng CNTT, các thầy cô giáo
nhà trường đã xây dựng Wesite phục vụ cho công tác thông tin, tuyên truyền,
quản lý và giáo dục rất hiệu quả.
Tiêu chuẩn 5: Quan hệ giữa nhà trường, gia đình và xã hội
Trong nhiều năm qua công tác XHH giáo dục được nhà trường đặc biệt
quan tâm, nhà trường đã tham mưu tích cực cho lãnh đạo Đảng, chính quyền địa
phương đưa XHH giáo dục vào Nghị quyết, tổ chức triển khai sâu rộng trong
các tổ chức đoàn thể của địa phương. Dưới sự lãnh đạo của thường vụ Đảng ủy,
nhà trường đã tích cực chủ động, phát huy nội lực bằng nhiều hình thức vận
động, tuyên truyền đã khơi dậy truyền thống tình cảm của các lực lượng xã hội,
nhân dân, phụ huynh tham gia vào các hoạt động của nhà trường một cách hiệu
quả như: phong trào tiếng trống học đêm đã có sức lan tỏa được lãnh đạo địa
phương, nhân dân, phụ huynh đồng tình ủng hộ. Đặc biệt là việc xây dựng
CSVC cho nhà trường, ngoài ngân sách nhà nước cấp, ngân sách địa phương hỗ
trợ. Nhà trường đã tranh thủ vận động, kêu gọi sự giúp đỡ ủng hộ của các lực
lượng xã hội: từ những người có vị trí cao trong xã hội đến những người dân lao
động bình thường; từ các thế hệ cựu học sinh đến những bác, những anh, những

cô chưa một lần học ở trường làng; từ sự đóng góp của các thầy, cô giáo đang
giảng dạy, các em HS đang học đến các thế hệ GV, HS đẫ từng công tác và học
tập tại trường. Tất cả đều hướng về nhà trường với tình cảm sẻ chia sâu sắc để
xây dựng CSVC đáp ứng yêu cầu cảu trường đạt chuẩn Quốc gia. Hiệu quả của
công tác xã hội hóa giáo dục đã làm thay đổi căn bản, toàn diện về CSVC, thiết
bị dạy học, cảnh quan khuôn viên nhà trường, góp phần quan trọng nâng cao
chất lượng giáo dục của nhà trường.
Tổng giá trị xây dựng từ năm 2015 đến nay hơn 3,7 tỷ đồng, trong đó:
UBND huyện Bá Thước Đầu tư: 1.973.000.000 đồng; PGD & ĐT Bá Thước đầu
tư: 360.000.000 đồng; UBND xã Ban Công đầu tư: 970.000.000 đồng; Nhà
trường tiết kiệm chi thường xuyên: 310.247.000 đồng; Hội cha mẹ học sinh:
153.405.000 đồng và các cá nhân ủng hộ hơn 30 ngày công, tính trị giá gần
10.000.000 đồng. Hội khuyến học, Doanh nghiệp: 5.760.000 đồng; GV, HS và
các tổ chức trong nhà trường giúp đỡ HS có hoàn cảnh ĐBKK hàng năm: từ
2.000.000 đồng đến 2.700.000 đồng.
Có thể khẳng định rằng chính sức mạnh của xã hội hoá giáo dục đã làm
chuyển biến nhận thức của cán bộ, nhân dân địa phương và là nhân tố cực kỳ
quan trọng, tạo ra được những điều kiện hết sức thuận lợi để trường THCS Ban
18


Công xây dựng thành công trường chuẩn quốc gia. CSVC ngày càng phát triển
là yếu tố quan trọng để nâng cao chất lượng giáo dục của nhà trường ngày càng
phát triển lên một tầm cao mới.
Cán bộ giáo viên, nhân viên nhà trường thường xuyên tham gia các hoạt
động xã hội của địa phương, nơi cư trú góp phần tích cực trong chương trình xây
dựng nông thôn mới.
Đóng góp của nhà trường cho xã hội: Trong suốt hơn 45 năm xây dựng và
phát triển, nhà trường đã đóng góp cho xã hội, cho địa phương hơn 2 nghìn học
sinh có trình độ THCS nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng

nhân tài cho quê hương, đất nước. Đến nay đã có nhiều thế hệ HS của nhà
trường thành đạt và giữ các vị trí quan trọng trong các cơ quan nhà nước, chính
quyền địa phương.
Ghi nhận sự phấn đấu bền bỉ và đạt hiệu quả cao của nhà trường, ngày 12
tháng 12 năm 2016, UBND tỉnh Thanh Hóa đã ra quyết định công nhận trường
THCS Ban Công đạt chuẩn quốc gia năm 2016. Đây là niềm vinh dự tự hào, sự
động viên khích lệ to lớn đối với toàn thể cán bộ, giáo viên và học sinh toàn
trường và là thành công lớn đối với nhân dân, địa phương và các cấp quản lý.
3. Kết luận, kiến nghị:
3.1. Bài học kinh nghiệm:
Xây dựng trường đạt CQG ở địa bàn thuộc vùng kinh tế - xã hội đặc biệt
khó khăn là một vinh dự cho địa phương và nhà trường, song trong quá trình
thực hiện quả có nhiều gian nan, vất vả, qua 3 năm học triển khai thực hiện,
Trường THCS Ban Công đã đạt được mục tiêu đề ra.
Có được kết quả thành công đó là nhờ vào những yếu tố sau đây: Sự nhận
thức đúng đắn, sự nhiệt thành, tâm huyết của mọi lực lượng tham gia; Sự năng
động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm của lãnh đạo Đảng, chính quyền địa phương,
nhà trường; Sự lãnh đạo, quan tâm của Ban chỉ đạo xây dựng trường CQG
huyện Bá Thước; Sự chỉ đạo, điều hành trực tiếp của ban chỉ đạo xây dựng
trường chuẩn quốc gia Xã Ban Công và trường THCS Ban Công; Sự chung tay,
góp sức của các nhà hảo tâm.
Từ những yếu tố làm nên thành công ấy, là Hiệu trưởng nhà trường, bản
thân tôi đã rút ra cho mình một số kinh nghiệm nhỏ trong quả trình thực hiện
xây dựng trường CQG ở địa bàn thuộc vùng kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn
như Ban Công:
Một là, Làm tốt công tác tuyên truyền, vận động, huy động tối đa mọi lực
lượng tham gia;
Hai là, Làm tốt công tác xã hội hóa giáo dục, tạo sự đồng thuận trong các
cấp ủy Đảng, chính quyền, các đoàn thể địa phương;
Ba là, Biết phát huy nội lực là chính, đồng thời tranh thủ sự góp sức của

mọi lực lượng bên ngoài trong quá trình huy động các nguồn lực;

19


Bốn là, Tích cực, có kế hoạch cụ thể trong công tác tham mưu với lãnh
đạo địa phương, UBND huyện và các phòng ban cấp huyện đối với những vấn
đề nhà trường không thể giải quyết được;
Năm là, Lãnh đạo Đảng, chính quyền địa phương, nhà trường phải thống
nhất trong tư tưởng và hành động, năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám
chịu trách nhiệm trước nhiệm vụ, trọng trách của mỗi người;
Sáu là, Phải xuất phát từ thực tiễn của địa phương, nhà trường để có kế
hoạch, lộ trình, bước đi, giải pháp phù hợp, có tính khả thi và đem lại hiệu quả
cao nhất.
3.2. Kết luận:
Xây dựng trường THCS đạt CQG giai đoạn 2015 - 2020 là một mục tiêu
quan trọng của Đảng và Nhà nước. Đây là một nhiệm vụ nặng nề nhưng rất vinh
dự của nhà trường và địa phương, nó đòi hỏi phải có sự nỗ lực phấn đấu, huy
động nhiều nguồn lực, nhiều lực lượng tham gia. Do đó cần phải có sự đồng
lòng, đồng sức, sự chỉ đạo chặt chẽ thường xuyên của các cấp uỷ Đảng và chính
quyền đoàn thể ở địa phương, của Phòng Giáo dục và đào tạo. Công tác tham
mưu đòi hỏi phải hết sức tích cực, thiết thực. Trường THCS Ban Công đã khởi
động xây dựng trường CQG trong năm học 2016 - 2017 là một cơ hội lớn, để
con em địa phương sớm có được môi trường giáo dục lành mạnh, mạng lưới
trường lớp đạt chuẩn đủ điều kiện phục vụ tốt cho các hoạt động nâng cao chất
lượng giáo dục, đồng thời đánh dấu một bước đột phá trong sự phát triển đi lên
của giáo dục xã nhà. Ban chỉ đạo xây dựng trường CQG Xã Ban Công đã xác
định rõ mục tiêu, nhiệm vụ đối với các nhà trường trong địa bàn xã nhà nói
chung và đối với Trường THCS Ban Công nói riêng, vì vậy địa phương cũng
như nhà trường đã tranh thủ được sự ủng hộ, quan tâm và chỉ đạo sâu sát, hiệu

quả của lãnh đạo Đảng, chính quyền các cấp, của Phòng GD&ĐT Bá Thước, của
đội ngũ thầy cô giáo trường THCS Ban Công, của Ban đại diện cha mẹ HS, học
sinh và các lực lượng giáo dục trong xã nhà, cùng nhau tập trung mọi nguồn lực,
quyết tâm đẩy nhanh tiến độ xây dựng trường đạt chuẩn quốc gia để Trường
THCS Ban Công được kiểm tra và công nhận trường đạt CQG vào cuối năm
2016. Đây là một sự cố gắng vượt bậc của Đảng, chính quyền, các đoàn thể địa
phương, của đội ngũ thầy cô giáo, học sinh trường THCS Ban Công, của Ban
đại diện cha mẹ và các lực lượng giáo dục trong xã nhà. Tuy vậy, địa phương,
nhà trường còn phải phấn đấu nỗ lực nhiều hơn nữa để giữ vững và phát triển
trong những năm học tiếp theo. Những vấn đề bản thân tôi trình bày trong phạm
vi đề tài này chắc chắn không thể tránh khỏi những hạn chế, song nó đã phần
nào đem lại kết quả thực hiện nhiệm vụ xây dựng trường CQG trong gần 3 năm
học liền, đồng thời cho bản thân tôi những kinh nghiệm trong công tác lãnh đạo
nhà trường thực hiện nhiệm vụ năm học nói chung và thực hiện nhiệm vụ xây
dựng trường CQG THCS nói riêng, bản thân tôi rất mong muốn nhận được sự
góp ý chân thành của đồng nghiệp để đề tài được hoàn thiện hơn và góp phần
mang lại ý nghĩa thiết thực trong quá trình đưa các trường THCS vùng kinh tế -

20


xã hội đặc biệt khó khăn của huyện Bá Thước tiếp tục xây dựng thành công
trường đạt CQG trong những năm tiếp theo. Xin chân thành cảm ơn!
3.3. Kiến nghị:
BCĐ xây dựng trường CQG của huyện cần chỉ đạo và xây dựng kế hoạch
đầu tư lộ trình dài hơn (ít nhất từ 2 đến 3 năm trước khi bước vào xây dựng
trường THCS đạt CQG) cho những trường thuộc vùng KT - XH ĐBKK trong
địa bàn huyện.
XÁC NHẬN CỦA ĐƠN VỊ
P.HIỆU TRƯỞNG


Nguyễn Cơ Thạch

Bá Thước, ngày 25 tháng 3 năm 2017
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, không sao chép nội dung của người khác
NGƯỜI VIẾT

Nguyễn Thị Đào

XÁC NHẬN CỦA PGD&ĐT BÁ THƯỚC
.........................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................

21




×