Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

Tư tưởng thân dân của Nguyễn Trãi và bài học trong phát huy quyền dân chủ ơ Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (159.95 KB, 13 trang )

TƯ TƯỞNG “THÂN DÂN” CỦA NGUYỄN TRÃI VÀ BÀI HỌC
TRONG PHÁT HUY QUYỀN DÂN CHỦ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
ThS. Lê Đức Thọ
Trường Cao đẳng Nghề Đà Nẵng
(Tạp chí Khoa học Công nghệ, Đại học Phạm Văn Đồng, ISSN 0866-7659. Số 12,
tr.138-146. Năm 2017)
TÓM TẮT
Tư tưởng “thân dân” là một dòng chảy liên tục trong quá trình dựng
nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Nguyễn Trãi – Người anh hùng dân
tộc, nhà tư tưởng uyên bác, nhà văn, nhà thơ lỗi lạc, nhà văn hóa kiệt xuất
đã làm rạng rỡ non sông đất nước Việt Nam, ông đã đưa tư tưởng “thân
dân” đạt đến tầm cao của thế kỷ XV. Tư tưởng đó có nhiều giá trị nhân văn
sâu sắc và còn nguyên giá trị đối với công cuộc xây dựng và bảo vệ đất
nước hiện nay. Bài viết phân tích một số nội dung chủ yếu trong tư tưởng
“thân dân” của Nguyễn Trãi và những bài học của nó trong phát huy quyền
dân chủ ở Việt Nam hiện nay.
Từ khóa: Nguyễn Trãi; tư tưởng “thân dân”; dân là gốc; phát huy
quyền dân chủ.

1. MỞ ĐẦU
Tư tưởng của Nguyễn Trãi
phản ánh nhiều mặt của đời sống
nước ta trong chế độ phong kiến
đương thời nhưng nội dung cốt lõi,
xuyên suốt vẫn là tư tưởng lấy dân
làm gốc. Quan điểm này đã trở
thành phương pháp luận quan
trọng cho dân tộc ta trong công
cuộc dựng nước và giữ nước nhiều
thế kỷ qua. Qua nghiên cứu cho
thấy tư tưởng “thân dân” của


Nguyễn Trãi mang đậm tính chất

nhân văn, tính nhân dân và tính dân
tộc sâu sắc. Và qua đó đã để lại cho
thế hệ sau một nền tảng tư tưởng đậm
đà bản sắc dân tộc về quyền dân chủ
trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ và
phát triển đất nước.
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG
PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Tư tưởng “thân dân” của
Nguyễn Trãi và bài học trong phát
huy quyền dân chủ ở Việt Nam hiện
1


nay.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp chung nhất là
phương pháp luận biện chứng duy
vật; kết hợp các phương pháp như:
phương pháp logic, lịch sử, so
sánh, phân tích, tổng hợp …
3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU,
BÀN LUẬN
3.1. Kết quả nghiên cứu
3.1.1. Giới thiệu về Nguyễn
Trãi
Nguyễn Trãi (1380 – 1442),

hiệu là Ức Trai, là vị anh hùng dân
tộc, một nhà văn hóa kiệt xuất, là
một nhà chính trị của lịch sử
phong kiến Việt Nam. Ông là
người làng Chi Ngại, huyện
Phượng Sơn, trấn Kinh Bắc1, sau
chuyển về làng Ngọc Ổi, huyện
Thượng Phúc, Hà Đông2. Là người
văn võ song toàn, tài năng của ông
bộc lộ rất sớm. Năm 1400, thi đỗ
Thái học sinh và được mời ra làm
quan dưới triều Hồ cùng năm.
Nguyễn Trãi là cộng sự của
triều đình nhà Lê với tư cách một
nhà chính trị, một nhà mưu lược.
Ông đã thi thố tài kinh bang tế thế
trên các mục tiêu chiến lược: đánh
1 Nay là xã Cộng Hòa, huyện Chí Linh, tỉnh Hải
Dương
2 Nay thuộc xã Nhị Khê, huyện Thượng Tín, Hà
Nội

đuổi giặc Minh, giành lại độc lập cho
đất nước, xây dựng triều đại Hậu Lê
thành một triều đại hưng thịnh.
Chức quan của Nguyễn Trãi
được Toàn thư ghi lại lần đầu tiên vào
năm 1427, qua đoạn văn sau đây:
“Lấy Hàn lâm viện Thừa chỉ học sĩ
Nguyễn Trãi làm Triều liệt đại phu,

Nhập nội hành khiển, Lại bộ Thượng
thư, kiêm hành Khu mật viện sự” [1,
tr.263]. Như vậy là thời kì đầu đến
với khởi nghĩa Lam Sơn (khoảng
1416 – 1418), dâng Bình Ngô sách3,
Nguyễn Trãi đã được phong chức
Hàn lâm viện Thừa chỉ học sĩ. Khi
kháng chiến đang tiến dần đến thắng
lợi hoàn toàn, Hàn lâm viện Thừa chỉ
học sĩ Nguyễn Trãi được phong làm
“Triều liệt đại phu, Nhập nội hành
khiển, Lại bộ Thượng thư, kiêm hành
Khu mật viện sự” [1, tr.263]. Sau
chiến thắng ban thưởng công danh,
năm 1428 Nguyễn Trãi được phong
tước “Quan phục hầu”, và các chức
danh đầy đủ của ông là “Tuyên phụng
đại phu, Nhập nội hành khiển Môn hạ
Hữu gián nghị đại phu, Đồng Trung
thư lệnh sự, tứ Kim tử ngư đại,
Thượng hộ quốc, Quan phục hầu, tứ
tính Lê Trãi” [5, tr.25]. Với những
cương vị mà mình đảm trách, ông đã
3 Bình Ngô sách là kế sách đánh quân Minh. Kế sách
này nhằm vào việc đánh thành quân đội Minh,
nhưng không phải là “công thành”, mà là đánh vào
lòng người, tức là gọi hàng địch. Chính kế sách này
đã từng dụ hàng nhiều thành lũy giặc như thành
Nghệ An, Thuận Hóa


2


tham gia đề xuất, bàn luận và soạn
thảo những vấn đề nhằm mục tiêu
tái thiết đất nước sau chiến tranh,
trù hoạch những chính sách an
dân.
Nguyễn Trãi đã để lại cho đời
một kho tàng văn học đồ sộ, tác
phẩm của ông chứa đựng một giá
trị bao la như: Quân trung từ mệnh
tập, Chuyện về Băng Hồ Tiên
Sinh, Dư địa chí, Ức Trai thi tập,
Quốc âm thi tập, Bình Ngô đại cáo
... các tác phẩm này vừa thể hiện
quan điểm của ông về đường lối
đánh giặc, phương pháp đánh giặc,
tổng kết lịch sử dân tộc; vừa khái
quát về địa chính trị của Đại Việt ở
thế kỷ XV; đồng thời cũng chỉ ra
những góc nhìn về nhân sinh, về
tình yêu đối với đất nước của ông.
Với tầm vóc của một nhà tư
tưởng, nhà chiến lược quân sự, vị
quân sư của Lê Lợi, Nguyễn Trãi
đã cống hiến và đặt nền móng tinh
thần, tư tưởng cho cuộc kháng
chiến. Đó là tư tưởng “thân
dân” mà ông rút từ học thuyết Nho

giáo nhưng được áp dụng một
cách đầy sinh động và sáng tạo
vào hoàn cảnh nước ta lúc bấy giờ.
3.1.2. Nội dung tư tưởng
“thân dân” của Nguyễn Trãi
Là một nhà nho, Nguyễn Trãi
đã tiếp thu tư tưởng “Nhân nghĩa”

của Mạnh Tử không máy móc, giáo
điều mà có sự sáng tạo và phát triển,
thể hiện lòng yêu nước thương dân
sâu sắc, thiết tha của một anh hùng
dân tộc. Ông đã tạo ra một sức mạnh
khá đặc biệt trong lịch sử của các
cuộc chiến tranh, đó là sử dụng tư
tưởng “Nhân nghĩa” để đánh địch.
Nguyễn Trãi luôn tâm niệm
“lòng hãy cho bền đạo Khổng môn”
[5, tr.433], nhưng khi bàn đến khái
niệm “dân” ông không sử dụng
những thuật ngữ mà các nhà kinh
điển của Nho học đã dùng như “tiểu
nhân”, “hạ ngu”, “hạ dân” … mà ở
Nguyễn Trãi nhân dân luôn có một ví
trí rất quan trọng, quan trọng đến mức
trân trọng. Mỗi khi nhắc đến nhân
dân, ông luôn dành cho họ những tình
cảm và ngôn từ thân thiết, gần gũi.
Với Nguyễn Trãi, “dân” không
chỉ là những người nông dân, mà còn

là tất cả những giai tầng trong xã hội,
là sĩ, nông, công, thương. Tuy mỗi
người “có cao cùng thấp” song tất
thảy “đều hết làm tôi thánh thượng
hoàng” [5, tr.438]. Những con người
bình dị đó khi đất nước thanh bình thì
chỉ biết vui thú ruộng vườn, nhưng
khi đất nước lâm nguy họ lại chính là
lực lượng làm nên sức mạnh vô địch
để giúp triều đình đánh đuổi quân
thù, mở nền thái bình cho đất nước.
Tuy chỉ là “tứ phương manh lệ”
nhưng khi họ tề tựu lại dưới ngọn cờ
3


chính nghĩa thì những “manh lệ”
ấy lại hợp thành một sức mạnh to
lớn, đập tan mọi kẻ thù hung tợn.
Vậy mới biết “lật thuyền mới rõ
dân như nước” [5, tr.281].
Trong quan niệm của Nguyễn
Trãi, nhân dân còn là những người
bị bóc lột nặng nề nhất trong xã
hội nhất là khi triều đình phong
kiến lâm vào khủng hoảng hay khi
đất nước bị xâm lăng. Trong bối
cảnh xã hội mà triều đình thì “cậy
mình giầu, mặc dân khốn khổ, chỉ
ham vui chơi, đắm đuối tửu sắc”,

chỉ biết “đánh bạc vây cờ, chọi gà,
thả chim; nào là cá vàng nuôi
chậu, chim rừng nhốt lồng”, mặc
cho dân phải sống trong cảnh lầm
than khốn khó [5, tr.196-197]. Vì
thế khi mà chính giáo suy đồi, kỷ
cương rối loạn, Nguyễn Trãi cũng
như nhân dân đều mong muốn một
chính thể mới tốt đẹp hơn, gần dân
hơn.
Đối với ông, nhân dân là nỗi
lòng thương xót, niềm tin yêu, là
sức mạnh cuồn cuộn như nước
triều dâng, nhân dân là định hướng
cho toàn bộ tư tưởng của Nguyễn
Trãi, đó phải là “An dân”,”Điếu
dân”. Hai vế đầu tiên trong “Bình
ngô đại cáo” viết: Việc nhân
nghĩa cốt ở yên dân - Quân điếu
phạt trước lo trừ bạo4 đã nói lên tư

tưởng vì nước, vì dân của ông.
Hết lòng thương dân, Nguyễn
Trãi thực sự “Dân vi bản”, đó là sự
tiếp thu tư tưởng “Dân vi quý, xã tắc
tứ chi, quân vị khinh” của Mạnh Tử.
Song quan niệm về “Dân” của
Nguyễn Trãi rộng hơn của Mạnh Tử.
Nó là toàn thể nhân dân lao động, bao
gồm cả “Dân đen”, “Con đỏ”. Với

lòng thương dân sâu sắc, trong bài
Bình Ngô đại cáo ông đã thể hiển
lòng căm phẫn giặc Minh, kể lên tội
ác tày trời của giặc: “Thui dân đen
trên lò bạo ngược, Hãm con đỏ xuống
dưới hố tai ương. Dối trời lừa người,
kế gian đủ muôn nghìn khóe, Cậy
binh gây hấn, ác chứa gần hai chục
năm” [5, tr.77].
Không chỉ chăm lo cho dân,
Nguyễn Trãi còn thấy được sức mạnh
to lớn của dân “Dân như nước”, dân
có thể chở thuyền, có thể lật thuyền.
Theo ông, thành hay bại, trị hay loạn,
tất cả đều ở ý dân, lòng dân. Do vậy,
ông luôn thấy mình phải có trách
nhiệm “Nuôi dân”, “Chăm dân”,
“Huệ dân”. Theo ông, mọi chủ
trương, mọi đường lối của triều đình
đều phải căn cứ vào lòng thương dân,
đều phải căn cứ vào lòng người mà
hoạch định.
Nếu như ở Mạnh Tử, “Lòng trắc
ẩn là đầu mối của nhân”, thì ở
Nguyễn Trãi “Nhân” không chỉ là

4 Xem bản dịch của Ngô Tất Tố

4



lòng trắc ẩn mà còn vì độc lập của
dân tộc, vì hạnh phúc của nhân
dân, vì hòa bình của đất nước.
Lòng nhân ái của ông không chỉ là
để đối xử với người dân của nước
mình, mà ngay cả đối với những
kẻ lầm đường lạc lối, đối với kẻ
thù chủ trương của ông không phải
là trừng phạt mà là giáo hóa họ.
Theo Nguyễn Trãi “Nhân
nghĩa” là tiêu chí để phân biệt kẻ
nhân với tiểu nhân, người yêu
nước với kẻ bán nước, người vì
dân với kẻ không chăm lo lợi ích
cho dân. Cũng như Mạnh Tử,
Nguyễn Trãi rất ghét chiến tranh,
ông coi chiến tranh là việc ghê
tởm, nguy hiểm, làm tổn hại đến
sinh mạng của nhiều người.
Đường lối chính trị của Nguyễn
Trãi mang đậm chủ nghĩa nhân
đạo, như trong chiến tranh, ông lập
luận đanh thép với giặc Minh rằng
“Đem đại nghĩa để thắng hung tàn.
Lấy chí nhân để thay cường bạo”5.
Trong quan hệ vua tôi,
Nguyễn Trãi hết lòng trung thành
với bậc vua sáng, không tin theo
một cách mù quáng tinh thần quy

định của Hán nho, hay Tống nho.
Vì thế ông cùng cha từ bỏ nhà Hồ,
những mong báo đền ơn nước, cứu
muôn dân. Khi nhà Hồ chống quân
Minh thất bại, ông cũng không
5 Bình Ngô Đại Cao (Ngô Tất Tố dịch)

chết như những vị “Ngu trung” khác
mà đi tìm minh chủ mới là Lê Lợi.
Ông luôn tâm niệm “Thờ vua một
bữa chứa từng khuây”. Cho đến cuối
đời ông vẫn khẳng định, nữa đời
trung nghĩa được tròn, cho dù tài hèn,
sức yếu, đầu bạc mà vẫn giữ được
tấm lòng son. Với ông, trung với vua
là phải khuyên vua thực hành nhân
nghĩa cùng vua cứu dân giúp nước,
thực hành lý tưởng “Lo trước, vui
sau”, để dân giàu nước mạnh. Nhân
cách này còn thể hiện việc trọng dụng
người tài của Nguyễn Trãi. Trong đối
nhân xử thế với tất cả các mối quan
hệ trong xã hội, Nguyễn Trãi luôn là
người “Có nhân, có trí, có anh hùng”.
Trong gia đình ông là người con có
hiếu, khi cha bị giặc bắt ra biên ải, rất
đau lòng nhưng nghe lời cha dạy Nếu
có hiếu với cha thì hãy quay về cứu
nước, khóc lóc theo cha có ích gì.
Nguyễn Trãi đã làm tròn chữ trung,

chữ hiếu như cha dạy. Với bạn bè,
Nguyễn Trãi luôn quan tâm, giúp đỡ
với mọi người, đồng cam cộng khổ
với họ.
Nguyễn Trãi người anh hùng
dân tộc, danh nhân văn hóa của thế
giới đã kế thừa được nhiều truyền
thống quý báu của dân tộc, tình
nghĩa, tương thân tương ái, yêu nước
thương dân, bất khuất chống giặc
ngoại xâm... trên tinh thần của bậc
đại nho.
5


3.1.3. Bài học rút ra từ việc
nghiên cứu tư tưởng “thân dân”
của Nguyễn Trãi trong quá trình
phát huy quyền dân chủ ở Việt
Nam
Từ những quan điểm của
Nguyễn Trãi về “dân” và vai trò,
sức mạnh của “dân”, có thể khẳng
định rằng ông là người đưa quan
điểm “dân vi bản” – dân là gốc của
nước trong tư tưởng Nho giáo lên
một tầm cao mới. “Dân là gốc
nước” không còn là phương tiện
để giai cấp cầm quyền sử dụng
như một chiếc đũa thần trong

chính sách mị dân để dễ bề cai trị,
mà nó thực chất là mục đích để
nhà cầm quyền hướng tới.
Tư tưởng “thân dân” của
Nguyễn Trãi luôn được các nhà tư
tưởng sau này của dân tộc kế thừa
và sử dụng một cách có hiệu quả
trong khi luận giải về những giải
pháp nhằm mục tiêu “trị quốc,
bình thiên hạ”. Tuy nhiên, trong
suốt chiều dài lịch sử trung đại
Việt Nam, không một nhà tư tưởng
nào từ sau Nguyễn Trãi có thể
nâng quan điểm của ông lên một
tầm cao mới. Chỉ đến thời đại Hồ
Chí Minh, những tư tưởng nhân
văn của Nguyễn Trãi về “dân” mới
thực sự được Hồ Chí Minh và
Đảng ta phát triển thêm về “chất”.
Trong thời đại Hồ Chí Minh, dân

không chỉ là gốc của nước, mà “nhân
dân” phải thực sự “là chủ”, “làm chủ”
đất nước, được thể hiện ở quan điểm
“Nhà nước là của dân, do dân, vì
dân” của Người. Hồ Chí Minh luôn
căn dặn cán bộ, đảng viên phải luôn
dựa vào dân, liên hệ mật thiết với
quần chúng nhân dân, bởi theo
Người: “Dễ mười lần không dân cũng

chịu, Khó trăm lần dân liệu cũng
xong” [4, tr.212].
Thực hiện theo lời dạy của Chủ
tịch Hồ Chí Minh, ngay từ khi ra đời
cho đến nay, Đảng Cộng sản Việt
Nam, với tư cách là đảng cầm quyền,
luôn quán triệt quan điểm lấy dân làm
gốc, tuyệt đối trung thành với lợi ích
của nhân dân, lợi ích của dân tộc,
luôn phát huy quyền làm chủ của
nhân dân.
Tuy nhiên, sau khi lãnh đạo
nhân dân thực hiện thắng lợi sự
nghiệp cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân, trong nội bộ Đảng đã xuất
hiện những biểu hiện làm nguy hại
đến mối quan hệ máu thịt giữa Đảng
và nhân dân. Sự xuất hiện của bệnh
chủ quan, duy ý chí, lối suy nghĩ và
hành động giản đơn, nóng vội chạy
theo nguyện vọng chủ quan, lời nói
không đi đôi với việc làm, vi phạm
nguyên tắc tập trung dân chủ, không
lắng nghe ý kiến của quần chúng... đã
làm suy giảm lòng tin của nhân dân
đối với Đảng. Nhận thức được nguy
6


hiểm của những biểu hiện tiêu cực

nêu trên, trong Báo cáo chính trị
trình Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VI (12/1986), Đảng ta đã
rút ra bốn bài học kinh nghiệm cho
quá trình lãnh đạo cách mạng Việt
Nam. Và bài học đầu tiên mà Đảng
ta nêu ra là phải quán triệt tư
tưởng “lấy dân làm gốc” trong
toàn bộ hoạt động, xây dựng và
phát huy quyền làm chủ của nhân
dân.
Trong thời kỳ đổi mới, Đảng
ta đã có những bước tiến quan
trọng trong nhận thức lý luận về
dân chủ và thực hành dân chủ, đã
đạt được những thành tựu quan
trọng về thực hiện dân chủ hóa đời
sống xã hội, làm cho dân chủ xã
hội chủ nghĩa trở thành động lực
của đổi mới và phát triển đất nước.
Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản
chất của chế độ ta, "vừa là mục
tiêu, vừa là động lực của sự phát
triển đất nước". Vì vậy, Đảng ta rất
coi trọng xây dựng và từng bước
hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa, đặc biệt, từ khi thực hiện
đường lối đổi mới đất nước (1986)
đến nay, nhận thức về vấn đề dân
chủ của Đảng ngày càng hoàn

thiện, cụ thể hóa thành các chủ
trương, đường lối, chính sách và
thực sự trở thành động lực phát
triển đất nước.

Qua 30 năm thực hiện đường lối
đổi mới, tuy có lúc, có nơi vẫn còn
những khuyết điểm, hạn chế; song,
với việc phát triển kinh tế - xã hội,
cải thiện đời sống, nâng cao trình độ
dân trí, mở rộng dân chủ trong xã hội,
Đảng ta ngày càng củng cố được
niềm tin của nhân dân, khơi dậy được
những tiềm năng mới, tạo ra được
những xung lực mới cho cách mạng
trong giai đoạn mới. Quan niệm về
dân chủ theo đó cũng ngày càng được
mở rộng. Dân chủ được xem xét trên
nhiều khía cạnh: Dân chủ là chế độ
chính trị; là giá trị; là phương thức và
nguyên tắc tổ chức xã hội; dân chủ
chung đối với xã hội và dân chủ riêng
đối với mỗi cá nhân; dân chủ trên tất
cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Dân chủ xã hội chủ nghĩa còn phản
ánh một bước chuyển từ thể chế
chính trị dựa trên áp lực, tuân thủ
mệnh lệnh sang thể chế hợp tác, đồng
thuận, đầy trách nhiệm. Do vậy, với
việc đưa dân chủ trở thành một mục

tiêu của chủ nghĩa xã hội càng thể
hiện rõ sự phát triển về tư duy lý luận
của Đảng ta. Phát huy dân chủ xã hội
chủ nghĩa không những phát huy
được tính tích cực, sự chủ động, tự
giác của mỗi người trong xã hội, mà
còn góp phần quan trọng giải phóng
năng lực sáng tạo của con người. Bởi
vậy, không phải đơn thuần trong mục
tiêu xây dựng xã hội, Đảng ta đưa hai
7


từ “dân chủ” lên trước hai từ
“công bằng”. Điều này vừa khẳng
định vai trò của dân chủ trong tiến
trình xây dựng xã hội xã hội chủ
nghĩa, vừa thể hiện sự nhận thức
và tư duy mới của Đảng; phù hợp
với sự phát triển của thời đại.
Đại hội XI của Đảng đã
khẳng định mục tiêu: Xã hội xã
hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây
dựng là một xã hội dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh; do nhân dân làm chủ....
Trong đó có hai điểm mới quan
trọng được bổ sung và phát triển
so với Nghị quyết Đại hội X của
Đảng:

Một là, sửa lại mục tiêu xã
hội mà nhân dân ta xây dựng trở
thành “Xã hội dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh” [2, tr.70]. Ở đây, Đảng ta đã
đưa từ dân chủ lên trước cụm
từ công bằng, văn minh. Điều đó
cho thấy Đảng ta đã xác định rõ vị
trí của dân chủ và thực hành dân
chủ trong quá trình phát triển xã
hội. Để có xã hội dân giàu, nước
mạnh, trước hết phải bảo đảm
trong xã hội có nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa và phải thực hành dân
chủ xã hội chủ nghĩa một cách
thực chất, vì đó là điều kiện tiên
quyết, là cơ sở thiết yếu để xây
dựng xã hội công bằng, văn minh.

Hai là, khẳng định đặc trưng
quan trọng của xã hội xã hội chủ
nghĩa mà nhân dân ta đang xây dựng
là xã hội do nhân dân làm chủ, thể
hiện rõ bản chất của chế độ xã hội ở
Việt Nam hiện nay.
Đại hội XII của Đảng khẳng
định: “Tiếp tục phát huy dân chủ xã
hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền
lực nhà nước thuộc về nhân dân…
Dân chủ phải được thực hiện đầy đủ,

nghiêm túc trên tất cả các lĩnh vực
của đời sống xã hội” [3, tr.169].
Qua các kỳ đại hội Đảng, có thể
thấy rằng những đổi mới của Đảng ta
trong quá trình hoàn thiện lý luận về
Nhà nước của dân, do dân, vì dân đã
phản ánh được tính đúng đắn và tính
thời sự sâu sắc của tư tưởng “thân
dân” của Nguyễn Trãi. Trong giai
đoạn hiện nay, khi đất nước đang tiến
bước trên con đường xây dựng một
xã hội của dân, do dân, vì dân thì việc
nghiên cứu là một dịp để hình dung
lại các bước đường tư tưởng không
hề bằng phẳng mà dân tộc ta đã trải
qua, và có thêm những bài học quý
báu để xây dựng một xã hội thực sự
vì dân.
Một là, bài học coi sự nghiệp
cách mạng là của dân, do dân, vì dân
trong thời kỳ Đảng lãnh đạo công
cuộc đổi mới toàn diện đất nước.
Trong toàn bộ quan điểm của
8


mình, Đảng Cộng sản Việt Nam
luôn khẳng định cách mạng là sự
nghiệp của nhân dân. Nhân dân
chính là động lực to lớn của mọi

thắng lợi trong sự nghiệp bảo vệ
và xây dựng Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa. Suốt quá trình tồn tại và
phát triển của mình, chính nhờ bắt
rễ sâu rộng trong quần chúng, chủ
trương, đường lối được lòng dân,
được nhân dân đồng tình ủng hộ,
cho nên Đảng và nhân dân ta đã
kết thành một khối vững chắc,
quan hệ máu thịt với nhân dân là
cội nguồn sức mạnh to lớn của
Đảng.
Trong xu thế mở cửa và hội
nhập khu vực và thế giới, nước ta
đang có nhiều thuận lợi, nhưng
cũng không ít khó khăn, đặc biệt là
âm mưu diễn biến hòa bình của
các thế lực thù địch chia rẽ khối
đại đoàn kết toàn dân, hòng làm
giảm sức mạnh của lực lượng quần
chúng trong sự nghiệp bảo vệ, xây
dựng và phát triển đất nước. Các
cấp ủy Đảng, chính quyền, ban
ngành, đoàn thể cần phải sâu sát
hơn nữa quan điểm của Đảng về
công tác Dân vận; coi trọng việc
giữ gìn, phát huy mối quan hệ
khăng khít giữa Đảng, Nhà nước
với nhân dân, thực hiện tốt phương
châm “Ý Đảng – Lòng dân” trong

mọi chủ trương, việc làm của

mình. Mỗi cán bộ đảng viên phải liên
hệ chặt chẽ với nhân dân, tôn trọng
nhân dân và hướng dẫn nhân dân, tổ
chức thành lực lượng, thành phong
trào hành động cách mạng trên các
lĩnh vực, nhằm không ngừng nâng
cao đời sống của nhân dân. Riêng các
tầng lớp của nhân dân cần tích cực
tham gia xây dựng Đảng trong sạch,
vững mạnh về chính trị tư tưởng và tổ
chức.
Hai là, bài học về tinh thần
nhân nghĩa, đoàn kết toàn dân để làm
nên những thắng lợi lịch sử.
Tư tưởng nhân nghĩa của
Nguyễn Trãi có nội dung rộng lớn đó
là sự biểu hiện cho chủ nghĩa yêu
nước, chủ nghĩa nhân đạo và hòa
bình. Nhân nghĩa ở tư tưởng Nguyễn
Trãi là đường lối chính trị, là chiến
lược cứu nước, dựng nước và còn
hơn thế nữa là đạt tới một nền tảng
của phương pháp luận của tư duy và
hành động. Giá trị vĩ đại của tư tưởng
nhân nghĩa đã được khẳng định: là
động lực mạnh mẽ thúc đẩy sự phát
triển của xã hội đương thời.
Ngày nay, sự nghiệp xây dựng

và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta có
cả thời cơ, thuận lợi và khó khăn,
thách thức đan xen. Đáng chú ý là,
các thế lực thù địch chống phá quyết
liệt bằng chiến lược “Diễn biến hòa
bình”, với thủ đoạn hết sức thâm độc,
9


nguy hiểm. Chúng lợi dụng các
vấn đề “nhân quyền”, “dân tộc”,
“tôn giáo”, nhằm chia rẽ khối Đại
đoàn kết toàn dân tộc, chia rẽ giữa
Đảng, Nhà nước với Quân đội và
nhân dân; đòi “phi chính trị hóa”
lực lượng vũ trang, thúc đẩy “tự
diễn biến”, “tự chuyển hóa”,...
Điều đó đặt ra những yêu cầu mới
đối với việc xây dựng khối Đại
đoàn kết toàn dân tộc, phát huy
sức mạnh toàn dân tộc để bảo vệ
Tổ quốc; trong đó, coi trọng ngăn
chặn, làm thất bại mọi âm mưu,
thủ đoạn chống phá của các thế lực
thù địch, giữ vững môi trường hòa
bình cho sự nghiệp xây dựng, phát
triển đất nước.
Để xây dựng khối Đại đoàn
kết toàn dân tộc, một vấn đề hết
sức quan trọng là phải kiện toàn tổ

chức, nâng cao hiệu quả hoạt động
của hệ thống Mặt trận Tổ quốc từ
Trung ương đến địa phương và hệ
thống chính trị; qua đó, không
ngừng tăng cường mối quan hệ
giữa Đảng với nhân dân, lấy đoàn
kết trong Đảng làm cơ sở để xây
dựng khối Đại đoàn kết toàn dân
tộc, tổ chức đảng các cấp là hạt
nhân lãnh đạo, thực hiện. Đảng,
Nhà nước lãnh đạo, điều hành việc
xây dựng, phát huy sức mạnh khối
Đại đoàn kết toàn dân tộc bằng các
nghị quyết, chỉ thị, chủ trương và

hệ thống chính sách, pháp luật, hướng
tới mục tiêu “dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh”.
Văn kiện Đại hội lần thứ XII của
Đảng cũng đã chỉ rõ: “Phát huy mạnh
mẽ mọi nguồn lực, mọi tiềm năng
sáng tạo của nhân dân để xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc; lấy mục tiêu xây
dựng một nước Việt Nam hòa bình,
độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh
thổ, “dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh” làm điểm
tương đồng; tôn trọng những điểm
khác biệt không trái với lợi ích chung
của quốc gia - dân tộc; đề cao tinh

thần dân tộc, truyền thống yêu nước,
nhân nghĩa, khoan dung để tập hợp,
đoàn kết mọi người Việt Nam ở trong
và ngoài nước, tăng cường quan hệ
mật thiết giữa nhân dân với Đảng,
Nhà nước, tạo sinh lực mới của khối
đại đoàn kết toàn dân tộc” [3, tr.158159].
Ba là, bài học về phát huy mạnh
mẽ vai trò của quần chúng nhân dân
trong công cuộc đổi mới toàn diện
đất nước hiện nay.
Xuất phát từ những nguyên lý cơ
bản của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta đã nhận
thức một cách sâu sắc rằng, cách
mạng là sự nghiệp của quần chúng.
Hiện nay, quyền làm chủ của quần
chúng nhân dân ngày càng được tôn
10


trọng và phát huy. Chính vì vậy,
mặc dù còn nhiều khó khăn, thử
thách, xã hội ta vẫn giữ vững sự
đoàn kết và ổn định, nhân dân ta
càng vững tin vào công cuộc đổi
mới do Đảng lãnh đạo.
Trong thời kỳ đổi mới, Đảng
ta đã đề ra những chủ trương,
chính sách đúng đắn nhằm tập hợp

rộng rãi lực lượng của quần chúng
nhân dân, xây dựng khối đại đoàn
kết toàn dân tộc, tạo nên sức mạnh
tổng hợp để thực hiện thắng lợi sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước, xây dựng thành công
chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững
chắc Tổ quốc Việt Nam Xã hội chủ
nghĩa. Nhờ xây dựng khối đại
đoàn kết toàn dân gắn với việc
phát huy dân chủ trong đời sống
xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng,
công cuộc đổi mới của chúng ta đã
và đang giành được những thắng
lợi to lớn, cách mạng Việt Nam đã
chuyển sang giai đoạn mới, giai
đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước. Trong giai
đoạn cách mạng mới này, động lực
chủ yếu để phát triển đất nước,
như Đảng ta đã khẳng định, vẫn là
xây dựng khối đại đoàn kết toàn
dân trên cơ sở liên minh giữa công
nhân với nông dân và trí thức do
Đảng lãnh đạo.
Trong thời gian tới để phát

huy hơn nữa quyền làm chủ của nhân
dân, một mặt tăng cường công tác
thông tin, tuyên truyền rộng rãi trong

toàn xã hội về việc thực hiện quy chế
dân chủ ở cơ sở; không ngừng nâng
cao nhận thức, trách nhiệm của các
cấp ủy đảng, chính quyền, cán bộ,
đảng viên và nhân dân về chủ trương,
đường lối của Đảng, pháp luật của
Nhà nước về phát huy quyền làm chủ
của nhân dân; hoàn thiện và thể chế
hóa các chủ trương của Đảng về dân
chủ và mở rộng dân chủ xã hội chủ
nghĩa; tăng cường vai trò lãnh đạo
của các cấp ủy đảng; trách nhiệm của
chính quyền về thực hiện quy chế dân
chủ; tiếp tục chỉ đạo cụ thể hóa
phương châm “dân biết, dân bàn, dân
làm, dân kiểm tra” ở cơ sở.
3.2. Bàn luận
Bài nghiên cứu đã khái quát,
phân tích tư tưởng “thân dân” của
Nguyễn Trãi và những bài học mang
tính định hướng trong phát huy quyền
dân chủ ở Việt Nam hiện nay. Đồng
thời, bài viết cũng nhìn nhận, đánh
giá quan điểm đó dưới góc độ của
chủ nghĩa duy vật lịch sử. Bài nghiên
cứu có thể dùng làm tài liệu tham
khảo cho sinh viên các chuyên ngành
khoa học xã hội và nhân văn.
4. KẾT LUẬN
Sự cống hiến vô giá của tư

tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi
11


đối với lịch sử tư tưởng Việt Nam
nói riêng và lịch sử dân tộc nói
chung đó là tấm lòng yêu thương
nhân dân và trên hết là Nguyễn
Trãi đã thấy được sức mạnh to lớn
của nhân dân.
Phương châm “dân là gốc
nước” của ông đã trở thành triết lý
hành động của các triều đại phong
kiến Việt Nam trong việc củng cố
chính quyền, ổn định xã hội, phát
triển và bảo vệ Tổ quốc. Cùng với

quá trình phát triển của dân tộc, tư
tưởng “thân dân” được bổ sung thêm
những giá trị mới tiến bộ, nhằm đáp
ứng được đòi hỏi mới của thực tiễn
đất nước. Trong điều kiện hội nhập
quốc tế hiện nay, “dân là gốc nước”
sẽ là cơ sở, là nền tảng để phát huy
được sức mạnh tổng hợp của mọi
tầng lớp nhân dân tham gia vào phát
triển kinh tế - xã hội nhằm thực hiện
mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh”, vững
bước đi lên chủ nghĩa xã hội./.


12


TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Đại Việt sử kí toàn thư, Bản Chính Hòa 1697 (Bản dịch), tập 2, Nxb.
Khoa học xã hội, Hà Nội, 1998.
[2]. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XI, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011.
[3]. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XII, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2016.
[4]. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 12, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002.
[5]. Viện Sử học, Nguyễn Trãi toàn tập, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội,
1976.
THE "THAN DAN" THOUGHTS OF NGUYEN TRAI AND LESSON
IN PROMOTE DEMOCRATIC RIGHTS IN VIET NAM NOWADAYS
The idea of "than dan" is a continuous flow in the process of building
and defending the nation of Vietnam. Nguyen Trai - National hero, erudite
thinker, writer, poet eminent, outstanding cultural master has radiated the
Vietnamese river, he has brought the idea of "than dan" reached The height
of the 15th century. That thought has a lot of human values deep and
meaningful for the construction and protection of the country today. The
article analyzes some of the key contents of Nguyen Trai's "than dan" and
its lessons in promoting democracy in Vietnam today.
Keywords: Nguyen Trai; the “than dan” thoughts; People are
original; Promote democratic right.




×