Tải bản đầy đủ (.docx) (6 trang)

Nhóm 16 ô nhiễm đất do hoạt động nông nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (436.24 KB, 6 trang )

THÀNH VIÊN NHÓM:
Võ thành luân ( nhóm trưởng)
Lê lâm hoàng tuấn
Võ văn việt
Nguyễn ngọc thức
Trần quyết
Lê ngọc thành
Nguyễn văn trí
ĐỀ TÀI: Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG ĐẤT DO HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP
Xã hội loài người chúng ta ngày càng tiến gần đến sự phát triển bền vững. Đó là việc phát
triển kinh tế hiện đại song song với việc bào vệ môi trường sinh thái. Tuy nhiên, ngay nay tình
trạng ô nhiễm môi trường đang hoành hành khắp mọi nơi trên hành tinh xanh. Vấn đề làm sao để
bảo vệ môi trường sinh thái vẫn đang là một vấn đề nan giải, cấp bách đối với nhiều nước trên
thế giới cũng như Việt Nam. Hiện tượng ô nhiễm môi trường ngày càng trầm trọng không chỉ ô
nhiễm về không khí, nước mà còn ô nhiễm môi trường đất. Việt Nam được biết đến là một đất
nước nông nghiệp, nên tài nguyên đất là vô cùng quan trọng đối với nền kinh tế nông nghiệp của
nước ta. Không những thế môi trường đất là nơi trú ngụ của con người và hầu hết các sinh vật
cạn, là nền móng của các công trình dân dụng, công nghiệp và văn hóa của con người. Đất là
nguồn tài nguyên quý giá, con người sử dụng tài nguyên đất vào hoạt động sản xuất nông nghiệp
để đảm bảo nguồn cung cấp lương thực, thực phẩm cho con người. Nhưng hiện nay vấn đề ô
nhiễm môi trường đất đang ở mức báo động. Ta có thể thấy nguyên nhân chủ yếu gây ra ô nhiễm
môi trường đất bắt nguồn từ hoạt động sản xuất nông nghiệp ở nông thôn Việt Nam. Người dân
nông thôn vốn xưa nay còn phải quan tâm nhiều hơn đến cuộc sống mưu sinh khi đời sống chưa
được thật sự đảm bảo thì việc bào vệ môi trường chỉ là thứ yếu. Ta có thể thấy rằng nguồn gốc
chủ yếu gây ra môi trường đất đầu tiên phải kể đến việc lạm dụng và sử dụng không hợp lý các
loại hóa chất trong sản xuất nông nghiệp. Ô nhiễm đất không những ảnh hưởng xấu tới sản xuất
nông nghiệp và chất lượng nông sản mà thông qua lương thực, rau quả… ảnh hưởng gián tiếp tới
sức khỏe con người và động vật. Ngày càng xuất hiện nhiều căn bệnh ung thư quái ác cướp đi
hàng ngàn sinh mạng mỗi năm.
Chúng ta sẽ bắt đầu tìm hiểu nguyên nhân vì sao hoạt động sản xuất nông nghiệp lại làm
môi trường đất bị ô nhiễm nghiêm trọng như vậy! Có thể thấy rằng môi trường đất bị ô nhiễm


xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau, nhưng chủ yếu nhất là do việc lạm dụng sử dụng quá
nhiều hóa chất nông nghiệp cùng với các loại phân bón trong hoạt động trông trọt.
Trước tiên, là vấn đề ô nhiễm môi trường dất do sử dụng các loại phân bón khác nhau trong

ngành trồng trọt.
Phân bón đã góp phần đáng kể làm tăng
năng suất cây trồng, chất lượng nông sản. Theo đánh giá của Viện Dinh Dưỡng Cây trồng Quốc
Tế ( IPNI), phân bón đóng góp khoảng 30-35% tổng sản lượng cây trồng. Tuy nhiên nếu không
được sử dụng theo quy định, phân bón lại chính là một trong những tác nhân gây nên sự ô nhiễm


môi trường sản xuất nông nghiệp và môi trường sống. Tính từ năm 1985 tới nay, diện tích gieo
trồng ở nước ta chỉ tăng 57.7%, nhưng lượng phân bón sử dụng tăng tới 517%, trong 20 năm qua
tổng các yếu tố dinh dưỡng đa lượng N + P2O5 + K2O năm 2007 đạt trên 2.4 triệu tấn, tăng gấp
hơn 5 lần so với lượng sử dụng của năm 1985. Ngoài ra hàng năm nước ta còn sử dụng phân lân
hữu cơ, hữu cơ sinh học.
Năm
N
P2O5
K2O
NPK
N+P2O5+K2O Bảng
1:
Lượng
1985
342.3
91.0
35.9
54.8
469.2

phân
bón vô
1990
425.4
105.7
29.2
62.3
560.3
cơ sử
dụng
1995
831.7
322.0
88.0
116.6
1223.7
ở Việt
Nam
qua các
năm.
2000
1332.0 501.0
450.0
180.0
2283.0
(Đơn vị:
nghìn
2005
1155.1 554.1
354.1

115.9
2063.6
tấn)

2007

1357.5

551.2

516.5

179.7

2425.2

Lượng phân bón cây trồng chưa sử dụng được: phân đạm từ 55-70% (tương đương 1.77 triệu tấn
ure). Phân lân từ 55-60% (2.07 triệu tấn supe lân). Phân kali từ 50-60% (344 nghìn tấn kali
clorua). Trong số phân bón chưa được cây sử dụng: một phần còn lại ở trong đất, một phần bị
rửa trôi theo nước mặt do mưa, theo công trình thủy lợi ra các ao hồ, sông suối gây ô nhiễm
nguồn nước. Một phần vì rửa trôi theo chiều dọc xuống tầng nước ngầm. Và một phần bị bay hơi
do tác động của nhiệt độ hay quá trình phản ứng nitrat hóa gây ô nhiễm không khí.
Bảng 2: Lượng phân bón hàng năm cây trồng chưa sử dụng được (đơn vị: nghìn tấn)
Năm
N
P2O5
K2O
N+P2O5+K2
Phân
bón hóa học làm gia tăng năng

O
suất, 1985 205.4
nhưng việc sử dụng lặp đi lặp lại
54.6
21.5
281.5
với
liều lượng rất cao gây ra ô nhiễm
1990 255.2
63.4
17.5
336.2
đất do 1995 499.0
các tạp chất lẫn vào. Hơn nữa
193.2
52.8
734.2
Nitrat 2000 799.2
và Phosphat rải một cách dư thừa
300.6
270.0
1369.8
sẽ
chảy theo nước mặt và làm ô nhiễm
2005 693.1
322.5
212.6
1238.2
các
mực thủy cấp. Ngoài ra, phân bón

2007 814.5
330.7
309.9
1455.1
được
sản xuất từ nguyên liệu là rác thải
đô thị, phế thải công nghiệp chế biến từ nông sản, thực phẩm, phế thải chăn nuôi vì thế phân bón
chứa rất nhiều chất độc hại. Nó còn được sản xuất từ nguồn phân lân nhập khẩu từ nước ngoài do
đó có hàm lượng Cadmi quá cao, vượt quá mức quy định được phép sử dụng nhưng người dân
lại sử dụng quá nhiều loại phân hóa học để chăm sóc rau củ có hàm lượng chất kích thích sinh
trưởng như GA3, NAA vượt quá 0.5% khối lượng có trong phân bón. Bên cạnh đó việc sử dụng
phân bón hóa học không đúng kĩ thuật trong canh tác nông nghiệp nên hiệu lực phân bón thấp,
có trên 50% lượng đạm, 50% lượng kali và sấp sỉ 80% lượng lân dư thừa trực tiếp hay gián tiếp
gây ô nhiễm môi trường đất. Vì phân bón chứa hàm lượng đạm cao, nhưng khi bón cho cây
trồng, cây chỉ sử dụng được 40-60%, nên khi bón thừa đạm cho cây trồng dư lượng của nớ sẽ


tích tụ nằm lại trong đất gây ô nhiễm môi trường. Việc bón thuốc đạm cho cây trồng nếu không
cân đối thì đạm sẽ chuyển từ NH4¬- sang NO3-. Hàm lượng NO3- tồn dư trong các loại rau rất
cao, nguyên nhân là do sử dụng không hợp lý liều lượng và tỉ lệ phân đạm vô cơ và hữu cơ bón
cho cây, phương thức bón không đúng do chạy theo lợi nhuận, bón thúc trể, sát với thời điểm thu
hoạch. Trong nguyên liệu sẽ nằm lại trong đất và làm ô nhiễm đất khi hàm lượng của nó đạt
10mg/kg đất.sản xuất phân lân có chứa 3% Flo, khoảng 50-60% lượng Flo này sẽ nằm lại trong
đất và làm ô nhiễm đất khi hàm lượng của nó đạt 10mg/kg đất. Các loại phân bón hóa học do
nguồn nguyên liệu và quá trình sản xuất có khi các chất có trong phân bón không được tinh khiết
do đó chúng chứa nhiều tạp chất kim loại nặng và á kim độc và ít di động trong đất. Chúng có
thể tích tụ ở các tầng mặt của đất nơi có rễ cây được cây trồng hấp thụ và tích lũy trong sản
phẩm. Các loại phân bón hóa học thuộc nhóm chua sinh lý (Ure,(NH4)2SO4, KCl, super
photphat) còn tồn dư axit làm chua đất, nghèo kiệt các cation kiềm và xuất hiện nhiều độc tố đối
với cây trồng như: Al3+, Mn2+, Fe3+ làm giảm hoạt tính sinh học của đất và năng xuất cây

trồng. Bên cạnh đó trong phân bón gồm nhiều kim loại nặng như: Asen, chì, thủy ngân và
cadimi, rồi còn chưa nhiều vi sinh vật gây hại như: E.Coli, Salmonella, coliform là những loại
gây bệnh đường ruột nguy hiểm. Ngoài ra, tập quán sử dụng phân Bắc, phân chuồng tươi trong
canh tác nông nghiệp còn phổ biến. Trong phân chuồng phân Bắc chưa hoai múc có chứa nhiều
mầm bệnh cho con người và gia súc còn có thể gây hại cho rể cây vì thế bón phân chuồng khi
chưa hoai mục sẽ phản tác dụng. Việc sử dụng phân chuồng tươi với liều lượng lớn, không tuân
thủ quy trình kĩ thuật, các mẫu đất, nước, rau quả được nghiên cứu đều còn tồn dư lượng Fecal
coliform. Chỉ tính riêng trong nội thành Hà Nội hàng năm lượng phân bắc thải ra khoảng
550.000 tấn và chỉ khoảng 1/3 trong số đó được xử lý. Ở các vùng nông thôn phía nam đặc biệt
vùng đồng bằng sông Cửu Long phân tươi được coi là nguồn thức ăn cho cá, tập quán xử dụng
phân tươi, nước thải bón, tưới trực tiệp cho đất đã gây ô nhiễm sinh học nghiêm trọng cho môi
trường đất, không khí, nước.
Tiếp theo đó chính là vật đề lạm dụng và sử dụng quá nhiều hóa chất nông nghiệp như thuốc
bảo vệ thực vật và các loại nông dược.

Cuối những năm 1960, chỉ có khoảng 0.48% diện tích đất canh tác sử
dụng thuốc bảo vệ thực vật thì hiện nay là 100% với trên 1000 chủng loại thuốc, trong đó có
nhiều loại thuốc có độc tính cao. Hàng năm, nước ta sử dụng trung bình 15.000 đến 25.000 tấn
thuốc bảo vệ thực vật. Bính quân 1ha gieo trồng sử dụng đên 0.4-0.5kg thuốc bảo vệ thực vật. Sử
dụng không hợp lý không tuân thủ theo đúng những quy định nghiêm ngặt về quy trình sử dụng
nên thuốc bảo vệ thực vật gây nhiều tác hại cho chính người sử dụng thuốc và người tiêu dùng
nông sản, thực phẩm có chứa dư lượng thuốc bảo vệ thực vật, đồng thời ảnh hưởng đến môi


trường sống. Báo cáo tổng hợp của tổng cục môi trường, bộ tài nguyên và môi trường, môi năm
hoạt động nông nghiệp phát sinh 9.000 tấn chất thải nông nghiệp nguy hại, chủ yếu là thuốc bảo
vệ thực vật, trong đó không ít loại thuốc có độ độc cao đã bị cấm sử dụng. Ngoài ra cả nước còn
khoảng 50 tấn thuốc bảo vệ thực vật tồn lưu tại hàng chục kho bãi; 37.000 tấn hóa chất trong
nông nghiệp bị tịch thu đang được lưu giữ chờ sử lý. Thuốc bảo vệ thực vật có đặc điểm rất độc
đối với mọi sinh vật, tồn dư lâu dài trong môi trường đất, tác dụng gây độc không phân biệt,

nghĩa là gây chết tất cả những sinh vật có hại và có lợi cho môi trường đất.
Ô nhiễm môi trường đất do hóa chất bảo vệ thực vật. Việc sử dụng hóa chất bảo vệ thực vật
trong nông nghiệp đã làm nảy sinh nhiều vấn đề. Định hướng của thuốc trừ sâu là diệt sâu hại,
nhưng diễn biến thực tế lại ảnh hưởng độc tới đất và các sản phẩm nông nghiệp, động vật, sức
khỏe con người. Đặc biệt những dư lượng của những chất do tính độc cao như chlordane, PPT,
picloram, zimazime. Một đặc tính quan trọng của hóa chất bảo vệ thực vật trong hệ sinh thái là
tính khuếch đại sinh học. Từ nồng độ sử dụng nhỏ sau khi vào hệ sinh thái thông qua chuỗi lưỡi
thức ăn chất độc được tích lũy với nồng độ cao dần qua các bậc dinh dưỡng. Hầu hết các loại hóa
chất bảo vệ thực vật đều độc với người và động vật máu nóng. Tuy nhiên, mức độ gây độc của
mỗi loại thuốc khác nhau, có loại gây độc cấp tính, có loại thuốc có tính tích lũy lâu trong cơ thể
sống, bền vững trong môi trường. Các kết quả nghiên cứu cho thấy có đến 90% hóa chất bảo vệ
thực vật không đạt mục đích mà gây độc cho đất, nước, nông sản. Việc sử dụng lặp lại nhiều lần
cùng một loại thuốc ở nhiều nước đang phát triển do được bao cấp và trợ giá dẫn đến hiện tượng
quen thuốc buộc phải sự dụng các chủng loại hóa chất bảo vệ thực vật khác có độc tính cao hơn
và càng xúc tiến rủi ro về môi trường cũng như nghề nghiệp. Theo kết quả báo cáo của viện bảo
vệ thực vật năm 1999, hiện nay thị trường Việt Nam có 270 loại thuốc diệt côn trùng, 216 loại
thuốc diệt nấm, 160 loại thuốc diệt cỏ, 12 loại thuốc diệt gặm nhấm và 26 loại thuốc kích thích
sinh trưởng. Điều đáng lo là 60% tổng số hóa chất trên được sử dụng phun cho rau quả mà phần
lớn nông dân lại không hiểu đầy đủ về tác dụng, tính năng của mỗi loại thuốc cho nên họ thường
phun sai chủng loại, liều lượng cũng như thời gian cho phép. Năm 1990, lượng hóa chất bảo vệ
thực vật được sử dụng là 10.300 tấn đến năm 1998 tăng lên 33.000 tấn. Rất nhiều vụ ngộ độc do
hóa chất bảo vệ thực vật gây ra ở quy mô và mức độ khác nhau. Bên cạnh đó nông dược cũng là
một nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường đất. Sự sử dụng có hệ thống một lượng nông dược
ngày càng tăng ở nông thôn là một dẫn chứng cho một thảm họa sinh thái từ việc sử dụng thiếu
suy ngỹ của một kỹ thuật mới. Khác với các chất ô nhiễm khác, nông dược được rải một cách tự
nguyện vào môi trường tự nhiên nhằm tiêu diệt các kí sinh của động vật nuôi và con người hay
vào nông thôn đễ triệt hạ các loại phá hoại mùa màng.
Bảng 3: Thời gian tồn lưu trong đất của 1 số nông dược
Loại
Thời gian bán phân (năm)

Hợp chất KL nặng
10-30
Clo hữu cơ (666-DDT)
2-4
Thuốc trừ cỏ
1-2
2.4D và 2.4.5T
0.4
Thuốc trừ sâu dạng lân
0.02-0.2
hữu cơ
Vì số lượng nông dược tích lũy trong đất đặc biệt là thuốc có chứa nhiều nguyên tố kim loại
nặng có độc tính lớn thời gian lưu lại trong đất dài, có loại nông dược thời gian lưu trong đất từ
10-30 năm những loại nông dược này có thể được cây trồng hấp thụ tích trong quả và lá, đi vào
cơ thể người và động vật qua thực phẩm ảnh hưởng đến sức khỏe. Thuốc trừ sâu đồng với việc


các côn trùng gây hại, có độc với vi sinh vật và các côn trùng có ích, ngược lại 1 số sâu bệnh thì
lại sinh ra tính kháng thuốc.
Một nguyên nhân đáng chú ý nữa đó là do ý thức của người dân nông thôn Việt Nam. Thói
quen rửa bình bơm và dụng cụ pha chế thuốc bảo vệ thực vật không đúng nới quy định. Không
những thế sau khi sử dụng thuốc bảo vệ thực vật xong thì người dân lại thải các loại vỏ chai
thuốc ra ngoài môi trường. Số lượng lớn các loại chai, lọ, bao bì thuốc bảo vệ thực vật vốn là loại

rác nguy hại nhưng hầu hết không được xử lý mà bị vức bỏ bừa bãi.

Khoảng 7.500 tấn vỏ bao thuốc bảo vệ thực vật, hầu như lượng vỏ bao này chưa được thu gom
xử lý hợp vệ sinh mà xã trực tiếp ra môi trường.
Những nguyên nhân trên đã làm cho môi trường đất bị ô nhiễm nặng nề và còn ảnh hưởng
đến sức khỏe đời sống con người.

_ Thứ nhất là mức độ tác hại của việc sử dụng phân bón và các loại thuốc bảo vệ thực vật trong
hoạt động sản xuất nông nghiệp đến môi trường:
+Làm đất xuống cấp.
+Làm chai cứng đất, chua đất, thay đổi cân bằng dinh dưỡng giữa đất và cây trồng, làm thay đổi
thành phần tính chất của đất do hàm lượng nito còn dư thừa trong đất (khoảng 50% là được thực
vật sử dụng, số còn lại là nguồn gây ô nhiễm).
+ Nitrat là yếu tố cần thiết cho sinh trưởng và phát triển của cây trồng, đồng thời nó cũng được
xem là mối đe dọa cho sức khỏe con người và tính trong sạch của nguồn nước tự nhiên vì ion
NO3- gần như không bị đất hập thụ và dễ bị rửa trôi vào các nguồn nước: Gây ngộ độc thực
phẩm, lương thực cho gia súc bởi dư lượng thuốc trừ sâu, chất kích thích sinh trưởng; gây xói
mòn đất, làm giảm độ phì của đất; gây ô nhiễm không khí do sự khuếch tán cua hóa chất bảo vệ
thực vật.
+ Việc lạm dụng phân bón làm mất đi tính ổn định của hệ sinh thái nông ngiệp. Kiểu canh tác
dùng nhiều phân bón vô cơ, kết hợp với việc ngừng quay vòng của chất hưu cơ trong đất trồng,
tạo nên mối đe dọa nghiêm trọng trong việc giữ phì nhiêu của đất là do sự tích lũy liên tục các
tạp chất (kim loại, á kim). Làm thành phần hữu cơ của đất bị giảm nhanh, khả năng giữ nước và
thoát nước của đất bị thay đổi.
+ Do lượng đạm trong phân bón hóa hoc rất cao mà khi bón cây chỉ sử dụng 50-60%, nên khi
bón thừa đạm làm cây không chuyển hóa hết được sang dạng hữu cơ,làm tích lũy nhiều đạm vô
cơ gây độc cho cây; thừa đạm làm cây sinh trưởng thái quá, gây vóng. Ngoài ra, chất xơ không
hình thành làm cây yếu, các quá trình hình thành hoa quả bị đình trệ, không cho thu hoạch. Bón
thừa đạm làm cho hàm lượng nitrat tích lũy trên mặt đất và làm giảm chất lượng nước. Một phần


khí thải từ phân bón đưa vào không khí, khí NO2 làm ảnh hưởng tới tầng ozon gây mưa axit.

+Ngoài ra, phân bón đi vào nguồn nước gây phì hóa nước (phú dưỡng) làm cho tảo và thực vật
sống trong nước phát triển với tốc độ nhanh làm giảm năng lượng ánh sáng không đi tới các lớp
nước phía dưới, lượng oxy bị giảm, các lớp nước trở nên thiếu khí oxy. Khi táo và thực vật bậc
thấp chết, xác của chúng bị phân hủy, tạo nên các chất độc hại, có mùi hôi, gây ô nhiễm nguồn

nước. Bên cạnh đó, thuốc trừ sâu gây ngộ độc cho thực vật thủy sinh. Một số loại thuốc thường
biến đổi sau khi sử dụng, chuyển hóa bền vững và độc hại hơn thuốc trừ sâu ban đầu.
+ mùi thuốc trừ sâu từ đồng ruộng lan tỏa trong không khí gây ô nhiễm không khí. Và thuốc trừ
sâu còn làm chết các vi sinh vật có lợi trong đất, làm đất bị nhiễm độc , đất trở nên chua hóa
nhanh, giảm năng suất cây trồng.
_ Thứ hai, là làm ảnh hưởng đến sức khỏe con người:
+ Ô nhiễm nitrat không phải là vấn đề mới mà cách đây hàng trăm năm người ta đã công nhận
nồng độ cao của nó, thể hiện qua 2 loại bệnh đó là bệnh methaemoglobinaemia ( trè xanh ở trẻ sơ
sinh), và bệnh ung thư dạ dày ở người lớn.
+ Ô nhiễm thuốc trừ sâu làm con người bị viêm đường hô hấp khi hít phải, làm nhức đầu và ho.
+ Theo Viện Hàn Lâm khoa học quốc gia Mỹ đã cảnh báo: Sự phơi nhiễm với các hóa chất độc
hại cho hệ thần kinh ở nhiều mức độ được tin rằng an toàn đối với người trưởng thành có thể dẫn
đến hậu quả với phụ nữ mang thai, làm mất đi thường xuyên chức năng não bộ nếu thiếu sự phơi
nhiễm diễn ra trong thời kì mang thai và thời kỳ niên thiếu.
+ Ngộ độc rau không an toàn thuốc trừ sâu là những chất thuộc nhóm lân hữu cơ rất độc, dễ gây
ngộ độc cấp tính, là nguy cơ tiềm ẩn đe dọa đến sức khỏe con người.
+ Lượng đạm cao có tác hại cho sức khỏe con người vì chúng gây chứng methemoglobinemie,
thể hiện qua việc ion NO2 kết hợp với Hemoglobin, làm cho hô hấp khó khăn. Nitrat được thành
lập trong ống tiêu hóa biến thành Nitrosamine là một chất gây ung thư mạnh.
+ Tỉ lệ mắc bệnh lý ở một số địa phương xấp xĩ 50% dân số, đặc biệt mắc nhiều bệnh như ung
thư, mắt hột, đường ruột, tiêu chảy.nhiều làng ung thư đã xuất hiện ở Nghệ An, Hà Tĩnh, Hải
Phòng… xuất hiện nhiều dịch bệnh và các loại bệnh lạ. Gây một số bệnh truyền nhiễm do giun
sán, kí sinh trùng đặc biệt là ở trẻ em. Thuốc trừ sâu gây bệnh tật và tử vong cho nhiều loài động
vật, vi sinh vật có lợi và con người.



×