1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
Văn chương nói chung, những bài thơ, bài văn trung đại trong SGK phổ
thông nói riêng trong những năm vừa qua đã gây nên những cuộc trao đổi ý kiến
khác nhau, có khi đối lập nhau. Nguyên nhân chủ yếu không phải ở trình độ, tài
năng mà chính là phương pháp luận tiếp cận tác phẩm văn chương cụ thể. Người
thì giảng dạy văn học trung đại mà như giảng dạy văn học hiện đại, lí giải tác phẩm
một cách chung chung rồi qui vào các giá trị yêu nước, nhân đạo mà không giúp
học sinh thấy được cái hay, cái đẹp của tác phẩm, không hiểu được cái độc đáo của
nhà văn. Người lại nặng về giảng giải nội dung, phân tích các sự kiện lịch sử, giảng
dạy văn học trung đại như các sự kiện lịch sử, nên không khai thác hết các giá trị
thẩm mỹ của văn chương cổ.
Tuy nhiên, nói đến tác phẩm văn chương trước tiên phải nói đến ngôn ngữ.
Ngôn ngữ là chất liệu, là phương tiện biểu hiện mang tính đặc trưng của văn học.
Ngôn ngữ là yếu tố đầu tiên mà nhà văn sử dụng trong quá trình chuẩn bị và sáng
tạo tác phẩm. Văn học lấy ngôn từ làm chất liệu sáng tạo và là con đường để đi vào
thế giới nghệ thuật của nhà văn, còn những người nghiên cứu đi bóc tách các lớp vỏ
ngôn ngữ để thấy được giá trị nội dung, tư tưởng của tác phẩm.
Hơn nữa, để thể hiện tính cách nhân vật, nhà văn không chỉ miêu tả ngoại
hình, biểu hiện nội tâm mà còn thể hiện qua lời thoại của nhân vật. Lời thoại của
nhân vật là lời ăn tiếng nói của nhân vật, là một căn cứ biểu đạt tính cách và phẩm
chất của mỗi người. Do đó trong thể hiện hình tượng nghệ thuật của mình các nhà
văn hết sức coi trọng việc thể hiện tính cách nhân vật thông qua lời thoại của nhân
vật. Như vậy, lời thoại nhân vật (ngôn ngữ nhân vật) là một khái niệm quen thuộc
đối với những nhà nghiên cứu văn học, những nhà nghiên cứu ngôn ngữ, những
người dạy và học văn.
Trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du, tác giả đã tập trung ngòi bút của mình
vào nhân vật chính là Thuý Kiều – một số phận hồng nhan bạc phận. Qua “cõi đoạn
trường” của Thúy Kiều, Nguyễn Du thể hiện nỗi “đau đớn lòng” – một phương
diện của chủ nghĩa nhân đạo Nguyễn Du. Ngoài nhân vật chính, ông lại xây dựng
được hàng loạt nhân vật có cá tính và đã trở thành nhân vật điển hình trong văn
học: Kim Trọng,Từ Hải, Hoạn Thư, Tú Bà, Mã Giám Sinh, Thúc Sinh… Ngay cả
những nhân vật tưởng như rất phụ chỉ được nêu ra trong một số câu thơ, Nguyễn
Du cũng để lại cho người đọc những ấn tượng khó quên qua những màn, những
cuộc hội thoại trong tác phẩm.
Qua thực tế giảng dạy các đoạn trích trong Truyện Kiều nhất là đoạn trích
Trao duyên, tôi xin mạnh dạn đề xuất một kinh nghiệm nhỏ qua đề tài: Ngôn ngữ
của Nguyễn Du và cách tiếp cận mới đoạn Trao duyên (trích Truyện Kiều –
Nguyễn Du, Ngữ văn 10, tập II).
Trang 1
1.2. Mục đích nghiên cứu
Đề tài sẽ làm rõ cách tiếp cận đoạn Trao duyên qua đặc điểm sử dụng ngôn
ngữ hội thoại độc đáo, đặc sắc của đại thi hào Nguyễn Du trong đoạn trích;
Chỉ rõ nhóm động từ chỉ hành động nói năng của Thúy Kiều và vai trò của
chúng trong việc khắc hoạ tính cách nhân vật cũng như thể hiện ý đồ nghệ thuật
của đoạn trích;
Nghiên cứu phương thức lập luận trong lời thoại của Thúy Kiều cũng như
chiến lược giao tiếp của nhân vật từ đó chỉ rõ thấy rõ hiệu quả giao tiếp của cuộc
trao duyên.
1.3. Đối tượng nghiên cứu
Lấy đoạn Trao duyên (Trích Truyện Kiều – Nguyễn Du, Ngữ Văn 10, tập II)
làm trung tâm, đề tài sẽ nghiên cứu các dạng hội thoại của các nhân vật mà chủ yếu
của Thúy Kiều trong đoạn trích đó, bao gồm:
- Đối thoại.
- Độc thoại; Độc thoại nội tâm.
- Phương thức lập luận trong lời thoại.
Từ đó, đề tài sẽ khẳng định: Khi dạy Truyện Kiều nói chung và đoạn trích
Trao duyên nói riêng không thể không hướng dẫn học sinh tìm hiểu ngôn ngữ hội
thoại đa dạng mà các nhân vật sử dụng vì nó không chỉ là căn cứ để khẳng định tài
năng Nguyễn Du mà còn là cơ sở để hiểu hơn về tâm trạng và sự sắc sảo trong tính
cách Thúy Kiều.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết: Từ lý thuyết chung về hội
thoại theo Giáo trình giản yếu về ngữ dụng học (Đỗ Hữu Châu, Nxb Giáo dục, Hà
Nội 1995) và một số tài liệu tham khảo đáng tin cậy khác, đề tài sẽ xác định chính
xác các dạng hội thoại, phương thức lập luận được sử dụng trong đoạn Trao duyên.
- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin: Từ thực tế giảng
dạy Truyện Kiều nói chung, đoạn Trao duyên nói riêng của bản thân và một số
đồng nghiệp, đề tài sẽ chỉ ra những hạn chế thường gặp như: chỉ chú trọng đến tìm
hiểu nội dung mà xem nhẹ phương diện nghệ thuật, chỉ chú trọng đến một số biện
pháp nghệ thuật quen thuộc mà bỏ qua cách thức sử dụng ngôn ngữ, nhất là các
dạng ngôn ngữ hội thoại của thi hào Nguyễn Du....
- Phương pháp thống kê, xử lý số liệu: Thống kê số lượng các câu thơ và quy về
tỉ lệ % các dạng ngôn ngữ, các dạng hội thoại được sử dụng trong Truyện Kiều nói
chung, đoạn trích Trao duyên nói riêng. Từ đó đề xuất cách thức tiếp cận, giảng dạy
Truyện Kiều nói chung, đoạn trích Trao duyên nói chung cho hiệu quả.
1.5. Những điểm mới của SKKN:
Năm 2013, tôi có thực hiện đề tài: Hướng dẫn học sinh tìm hiểu ngôn ngữ
hội thoại của nhân vật Thuý Kiều trong đoạn trích Trao duyên (Trích Truyện Kiều
– Nguyễn Du).
Trang 2
Tuy nhiên, đề này tài còn nhiều hạn chế:
- Về hình thức: Chưa đúng chuẩn cấu trúc mới đối với một bản SKKN như:
chưa có mục đích nghiên cứu, đối tượng nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu...
- Về nội dung:
+ Chủ đề: Cùng một đoạn trích Trao duyên nhưng chủ đề khác nhau. Cụ thể:
Đề tài năm 2013 là làm rõ ngôn ngữ hội thoại trong đoạn trích Trao duyên; Đề tài
năm 2018 là làm rõ ngôn ngữ của Nguyễn Du trong toàn bộ Truyện Kiều và cách
tiếp cận mới đoạn trích Trao duyên. Tức là làm rõ sự sáng tạo bậc thầy, sự tài tình
của Nguyễn Du trong việc biến ngôn ngữ tác giả thành ngôn ngữ nhân vật Thúy
Kiều, từ đó đề xuất cách giảng dạy đoạn Trao duyên theo hướng khai thác ngôn
ngữ tác giả, ngôn ngữ nhân vật.
+ Phạm vi nghiên cứu: Đề tài năm 2013 mới chỉ dừng lại ở ngôn ngữ đối
thoại, độc thoại nội tâm của nhân vật Thúy Kiều; Đề tài năm 2018 phát triển thêm
ngôn ngữ đơn thoại, cách thức lập luận, chiến lược giao tiếp của Thúy Kiều để thực
hiện thành công màn trao duyên. Cũng là để làm rõ sự sắc sảo, thông minh, tính cá
thể trong tính cách của Thúy Kiều khi tiếp cận đoạn trích theo hướng này.
+ Các số liệu thống kê và tỉ lệ % được khảo sát trong toàn bộ Truyện Kiều
(Đề tài năm 2013 mới chỉ khảo sát trong đoạn Trao duyên và một số đoạn trích
được giảng dạy trong chương trình). Thông qua đối chiếu, so sánh có thể nhận thấy
trong đoạn trích Trao duyên số lần sử dụng của Nguyễn Du cao hơn, dày đặc hơn
cả về hệ thống ngôn ngữ hội thoại, hệ thống các từ loại như động từ, thán từ.....tất
cả đều phục vụ cho ý đồ nghệ thuật của đại thi hào.
+ Phần đề xuất: Đề tài năm 2018 cụ thể hơn về đối tượng hướng đến (đối với
đồng nghiệp, đối với Sở GD&ĐT).
+ Phần thực trạng của vấn đề: Đề tài năm 2018 đưa các quan điểm tiếp cận
khác nhau đối với một tác phẩm văn chương trung đại của một số nhà nghiên cứu,
của đồng nghiệp (Đề tài năm 2013 chưa có). Từ đó xác định một cách tiếp cận tác
phẩm văn chương trung đại phù hợp nhất, nhất là đối với Truyện Kiều nói chung,
đoạn trích Trao duyên nói riêng.
2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lý luận của đề tài:
1.1. Một số khái niệm liên quan đến đề tài:
a. Hội thoại: Hội thoại là một trong những hoạt động ngôn ngữ thành lời
giữa hai hay nhiều nhân vật trực tiếp, trong một ngữ cảnh nhất định mà giữa họ có
sự tương tác qua lại về hành vi ngôn ngữ hay hành vi nhận thức nhằm đi đến một
đích nhất định.
b. Lập luận: là một chiến lược hội thoại nhằm dẫn dắt người nghe, người
đọc đến một kết luận mà người nói, người viết có định hướng, có chủ đích nêu ra.
Trang 3
c. Chiến lược giao tiếp: là phương châm và các biện pháp sử dụng các hành
vi ngôn ngữ trong giao tiếp nhằm giữ thể diện và tránh đe dọa thể diện của người
tham gia giao tiếp sao cho đạt hiệu quả giao tiếp cao nhất.
1.2. Ngôn ngữ hội thoại trong Truyện Kiều và trích đoạn Trao duyên:
Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du tập trung ngòi bút của mình vào nhân vật
chính là Thúy Kiều. Cụ thể:
- Trong Truyện Kiều có 73 cuộc thoại và 33 lần độc thoại nội tâm thì riêng
Thúy Kiều đã nói tới 76 lượt lời trong 45 cuộc thoại với 512 câu thơ và độc thoại
nội tâm 18 lần với 130 câu thơ. Nghĩa là trong 3.254 câu Kiều thì tác giả đã dành
riêng cho nhân vật chính 642 câu chỉ để tả lời ăn tiếng nói của nàng (hoặc trong lúc
trò chuyện với các nhân vật khác hoặc trong những lúc nàng tự nhủ mình): gần một
phần năm tác phẩm.
- Chỉ đề tả 6 lần Thúy Kiều đánh đàn mà Nguyễn Du cũng đã dành tới 104
câu thơ trong đó riêng 2 lần đàn cho Kim Trọng nghe lúc đầu và cuối truyện đã có:
34 + 24 = 58 câu. Cho nên nhân dân ta đặt tên cho tác phẩm của Nguyễn Du là
Truyện Kiều cũng không phải là không có lý do. Lời của các nhân vật chiếm tới
1.212 dòng thơ đối thoại tức một phần ba tác phẩm. Nếu kể cả 211 dòng độc thoại
nội tâm thì có tới 1.423 dòng thơ trên 3.254 tức 43,7% dành cho hội thoại. Đây
chính là đặc trưng của tiểu thuyết hiện đại bởi qua đó tính cách nhân vật được bộc
lộ một cách trực tiếp.
Trong trích đoạn Trao duyên, Nguyễn Du sử dụng 26 câu đối thoại (thực
chất là Đơn thoại vì Đơn thoại là chỉ có một nhân vật phát biểu còn các nhân vật
khác chỉ nghe hoặc không phát biểu, một người nói ra thành lời có người nghe
nhưng không có lời đáp lại); 04 câu độc thoại (Độc thoại là dạng hội thoại mà
nhân vật nói một mình hướng đến một đối tượng không có mặt, ở đây Thúy Kiều
nói với Kim Trọng); 04 câu độc thoại nội tâm (độc thoại nội tâm là lời tự nhủ, tự
mình nói với mình của các nhân vật, trong đoạn trích là lời tự thương của Thúy
Kiều). Như vậy, đặc điểm nổi bật của ngôn ngữ nhân vật trong Truyện Kiều nói
chung và đoạn trích Trao duyên nói riêng là sự cá tính hóa rất cao, mỗi nhân vật
Truyện Kiều đều có một lối nói riêng, một vốn từ riêng, không hề lẫn lộn. Ngôn
ngữ của nhân vật đều đã được lựa chọn hết sức chính xác, tiêu biểu cho nếp nghĩ,
nếp cảm và sự lựa chọn của tác giả không chỉ biểu hiện ở những từ không có khả
năng thể hiện trực tiếp, cụ thể nội dung tư duy cảm xúc của các nhân vật, bởi ngôn
ngữ nhân vật ở đây vừa tham gia vào việc thể hiện sự phát triển của các sự kiện vừa
là nhân tố quan trọng góp phần tạo nên những tính cách nhân vật đa dạng, điển
hình.
Vì vậy, vấn đề đặt ra cho giáo viên khi dạy Truyện Kiều nói chung và đoạn
trích Trao duyên nói riêng không thể không hướng dẫn học sinh tìm hiểu ngôn ngữ
hội thoại đa dạng mà các nhân vật sử dụng vì nó không chỉ là căn cứ để khẳng định
Trang 4
tài năng Nguyễn Du mà còn là cơ sở để hiểu hơn về tâm trạng và sự sắc sảo trong
tính cách Thúy Kiều.
2.2. Thực trạng của vấn đề:
2.2.1. Một số quan điểm tiếp cận văn bản văn học trung đại liên quan đến đề tài:
Thứ nhất: khi giảng dạy các tác phẩm văn chương trung đại, giáo viên phải
dựng lại được không khí văn hóa, lịch sử của thời đại, phải tạo được sự đồng cảm
về văn hóa, văn học. Từ điểm xuất phát là chân trời hiện tại, Giáo viên phải giúp
cho học sinh trở lại chân trời đầu tiên để học tập cách cảm, cách nghĩ của người
xưa.
Thứ hai: giảng dạy văn học trung đại phải dựa trên thi pháp văn chương
trung đại. Kiến thức về thi pháp văn học trung đại sẽ là chiếc chìa khóa giúp học
sinh có thể giải mã các tác phẩm văn chương.
Thứ ba: Giảng dạy văn học trung đại phải bám sát đặc trưng thể loại. Trong
chương trình văn THPT, học sinh được tiếp xúc với nhiều thể loại văn học trung đại
khác nhau như: Thơ Đường luật, cáo, phú, văn tế, truyện thơ, ngâm khúc, tiểu
thuyết chương hồi. Mỗi thể loại có một kết cấu riêng mang những đặc trưng riêng.
Do đó dạy học văn học trung đại cần phải nắm vững đặc trưng của từng thể loại.
Thứ tư: Giảng dạy các tác phẩm văn học trung đại phải đặt trong mối liên hệ
với cuộc sống thực tại hôm nay. Sẽ vô cùng buồn tẻ nếu học sinh chỉ biết rằng,
mình đang học những tác phẩm của người xưa, những câu chuyện của cha ông
trong quá khứ mà các em không tìm thấy ý nghĩa trong hiện tại. Từ hiện tại, giáo
viên phải dẫn các em trở về với chân trời đầu tiên để khám phá, chiếm lĩnh tác
phẩm. Từ chân trời đầu tiên ấy, chúng ta phải đưa các em về với hiện tại thì tác
phẩm văn học mới thực sự có ý nghĩa.
Những quan điểm trên đúng nhưng chưa đủ. Việc dạy một tác phẩm hay một
trích đoạn nào đó của văn học trung đại rất cần và bắt buộc dựng lại không khí
văn hóa, lịch sử, dựa trên thi pháp văn chương trung đại, đặc trưng thể loại hay
đặt nó trong mối liên hệ với cuộc sống hôm nay. Tuy nhiên, trong quá trình tiếp cận
văn bản văn học mà bỏ qua yếu tố về ngôn ngữ, nhất là đối với Truyện Kiều thì
người dạy sẽ không thể giúp học sinh thấy hết được tính cách thông minh, sắc sảo
của Thúy Kiều và tài năng của đại thi hào Nguyễn Du.
2.2.2. Thực trạng việc dạy đoạn trích Trao duyên:
Việc dạy trích đoạn Trao duyên không chỉ giúp học sinh tiếp thu được các
kiến thức cơ bản theo yêu cầu của tiết học (giúp học sinh nhận ra được ngôn ngữ
hội thoại của nhân vật, tâm trạng thể hiện qua ngôn ngữ; khẳng định tài năng nghệ
thuật bậc thầy của Nguyễn Du qua việc dùng từ; củng cố cho học sinh kiến thức về
ngôn ngữ hội thoại: đơn thoại, độc thoại và độc thoại nội tâm…) mà còn giúp hình
thành ở học sinh một số kỹ năng cần thiết trong học tập và cuộc sống (thông qua
việc Thúy Kiều vận dụng ngôn ngữ phù hợp cho từng hoàn cảnh, từng đối tượng
hướng đến của lời nói mà học sinh đã nhận thức được các giá trị của lời nói để có
Trang 5
cách ứng xử có văn hóa trong các tình huống giao tiếp đa dạng, phức tạp, tế nhị của
cuộc sống). Tuy nhiên trong những năm qua:
- Đối với giáo viên: khi dạy trích đoạn Trao duyên thường bỏ qua hoặc ít chú
ý đến việc khai thác các dạng hội thoại mà nhân vật Thúy Kiều đã sử dụng để bộc
lộ tâm trạng, càng không quan tâm đến khả năng lập luận và chiến lược giao tiếp
mà nhân vật chính đã sử dụng để cuộc trao duyên đạt hiệu quả cao nhất. Bỏ qua
điều này là giáo viên đã bỏ đi một cơ sở để hiểu tâm trạng, tính cách Thúy Kiều
cũng là bỏ đi một phương diện nghệ thuật thành công của đoạn trích.
- Đối với học sinh: do áp lực học – thi, xu hướng chọn ngành nghề, do không
có thời gian nên đa số thờ ơ với môn Văn. Với riêng Truyện Kiều, sự cách xa về
thời gian, sự khác biệt về một số quan niệm thuộc phạm trù văn hóa giữa con người
thời trung đại và hiện đại đã khiến học sinh ngại tiếp cận với tác phẩm, học và tìm
hiểu tác phẩm với tâm lí qua loa, đại khái. Mặt khác, khi đặt câu hỏi trong các bài
kiểm tra 15 phút hoặc 45 phút về sự thành công trên phương diện nghệ thuật hầu
hết học sinh không làm được bài. Những hiểu biết về hội thoại (đối thoại, độc thoại,
độc thoại nội tâm) còn mỏng và hời hợt. Sự hạn chế hiểu biết về ngôn ngữ hội thoại
sẽ ảnh hưởng rất lớn đến việc tiếp nhận các giá trị đoạn trích Trao duyên nói riêng
và Truyện Kiều nói chung.
Từ thực trạng trên, qua đề tài này tác giả sẽ cố gắng làm rõ đặc điểm sử dụng
ngôn ngữ hội thoại độc đáo, đặc sắc của đại thi hào Nguyễn Du trong đoạn trích;
chỉ rõ nhóm động từ chỉ hành động nói năng của Thúy Kiều và vai trò của chúng
trong việc khắc hoạ tính cách nhân vật cũng như thể hiện ý đồ nghệ thuật của đoạn
trích; nghiên cứu phương thức lập luận trong lời thoại của Thúy Kiều cũng như
chiến lược giao tiếp của nhân vật từ đó chỉ rõ thấy rõ hiệu quả giao tiếp của cuộc
trao duyên.
2.3. Giải pháp sử dụng để giải quyết vấn đề:
2.3.1. Tiếp cận ngôn ngữ của Nguyễn Du trong việc xác lập lập luận và chiến lược
giao tiếp của nhân vật Thúy Kiều qua đoạn trích Trao duyên.
2.3.1.1. Vài nét về ngôn ngữ hội thoại trong Truyện Kiều và trích đoạn Trao duyên:
- Ngôn ngữ hội thoại đóng vai trò khá quan trọng trong Truyện Kiều.
+ Có 1.467 câu hội thoại/3254 câu (chiếm 45,1% ).
+ Có 1.191 câu đối thoại (chiếm khoảng 81,2%); 276 câu độc thoại (chiếm
khoảng 18,8 %).
+ Có tới 90 cuộc thoại.
- Trong 34 câu của đoạn trích Trao duyên:
+ Có: 26 câu đối thoại (thực chất là Đơn thoại vì Đơn thoại là chỉ có một
nhân vật phát biểu còn các nhân vật khác chỉ nghe hoặc không phát biểu, một
người nói ra thành lời có người nghe nhưng không có lời đáp lại).
+ Có 04 câu độc thoại (Độc thoại là dạng hội thoại mà nhân vật nói một
mình hướng đến một đối tượng không có mặt).
Trang 6
+ Có: 04 câu độc thoại nội tâm (độc thoại nội tâm là lời tự nhủ, tự mình nói
với mình của các nhân vật).
2.3.1.2. Tìm hiểu lập luận trong hội thoại của trích đoạn Trao duyên.
* Chỉ rõ đặc điểm cấu tạo của lập luận trong hội thoại trích đoạn Trao duyên
- Một lập luận bao gồm hai phần: luận cứ và kết luận. Lập luận có thể có một
luận cứ hoặc một số luận cứ.
- Về cấu tạo: lập luận có thể là một phát ngôn ghép hoặc là một đoạn văn.
* Hướng dẫn tìm hiểu cách thức lập luận trong hội thoại của nhân vật Thúy Kiều
trong Trao duyên và cơ sở tạo nên tính thuyết phục của lập luận.
- Cơ sở tạo nên tính thuyết phục của lập luận: hội tụ 4 yếu tố: cơ hội, lí lẽ,
tính biểu cảm của lời và thái độ của người nghe.
- Ngôn ngữ của Kiều nổi bật trong Trao duyên bởi tính lập luận sắc bén và
sức cảm hoá, thuyết phục người đối thoại.
Kiều trao duyên cho Thúy Vân:
“…Cậy em em có chịu lời,
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.
.........................................
Dạ đài cách mặt khuất lời,
Rưới xin giọt nước cho người thác oan…
Ở đây, màn lập luận của Kiều đã hội tụ được các yếu tố cần thiết để tạo nên
sự thành công của việc trao duyên:
+ Hoàn cảnh dẫn đến việc trao duyên: Sóng gió bất kì (Hiếu) và Giữa đường đứt
gánh tương tư (Tình).
+ Cơ hội để thực hiện màn lập luận đắc địa: Trong đêm thanh vắng, chỉ có hai chị
em, ngày mai chị đã phải ra đi.
+ Luận cứ hết sức xác đáng:
Luận cứ 1: Chị hi sinh vì hiếu thì không thể trọn vẹn chữ tình (câu 7 – 8):
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai.
Luận cứ 2: Em còn trẻ, hơn nữa giữa chị với em là tình máu mủ (câu 9 - 10):
Ngày xuân em hãy còn dài,
Xót tình máu mủ thay lời nước non.
Luận cứ 3: Chị sẽ trao em hết những kỉ vật của tình yêu (câu 13 – 18):
Chiếc vành với bức tờ mây
……………….
Luận cứ 4: Nếu em “thay lời nước non” giúp chị, chị vô cùng biết ơn (câu 11
– 12, 15 – 16):
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.
Và:
Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên.
+ Tính biểu cảm của lời nói: Khi thực hiện màn lập luận, Kiều lạy rồi thưa.
Trang 7
+ Thái độ tích cực của Thúy Vân: Lặng im nghe giãi bày, nhận các kỉ vật Kiều trao.
Chính vì vậy, màn lập luận của Kiều đã thành công.
* Tìm hiểu chiến lược giao tiếp của Thúy Kiều trong Trao duyên:
- Sử dụng lối nói gián tiếp, ước lệ:
Xót tình máu mủ thay lời nước non.
- Sử dụng các điển cố, điển tích, tránh đề cập trực tiếp vào vấn đề nhằm giữ
thể diện cho Thúy Vân, tránh sự sỗ sàng, đột ngột cho Vân; ngôn ngữ được lựa
chọn, cân nhắc:
Giữa đường đứt gánh tương tư,
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em.
2.3.2. Tiếp cận ngôn ngữ của Nguyễn Du trong việc sử dụng các động từ và các từ
chỉ hành động nói năng qua ngôn ngữ hội thoại của Thúy Kiều trong đoạn trích
Trao duyên.
2.3.2.1. Đặc điểm các động từ và các từ chỉ hành động nói năng trong Trao duyên
- Có 09 động từ và các từ chỉ hành động nói năng gắn với lời của nhân vật.
* Đặc điểm cấu trúc
- Từ đơn tiết: có 06 từ.
- Từ song tiết: 02 từ.
- Từ có ba âm tiết: 01 từ.
* Đặc điểm ngữ nghĩa và sự hành chức
- Từ chỉ hành động hỏi (Hỏi để thăm dò thái độ người nghe): có chịu lời
- Động từ chỉ hành động nói: thưa.
- Động từ chỉ hành động cầu khiến - mệnh lệnh: cậy, ngồi lên
- Động từ chỉ hành động cam kết: chẳng quên, đền
- Động từ chỉ hành động biểu cảm: lạy
- Thán từ chỉ hành động khóc: Ôi, hỡi
2.3.2.2. Yêu cầu học sinh nhận xét về các động từ và các từ chỉ hành động nói năng
qua ngôn ngữ hội thoại của Thúy Kiều trong trích đoạn Trao duyên
- Các hành động nói năng được sử dụng với số lượng lớn, phong phú.
- Đóng vai trò quan trọng trong việc khắc hoạ tính cách nhân vật đồng thời
góp phần thể hiện sự phát triển tính cách nhân vật Thúy Kiều:
+ Cậy chứ không phải Nhờ. Cậy là thể hiện niềm tin nhất, chỉ có em mới là
người chị tin cậy nhất. Vì thế “cậy” có sức nặng của niềm tin hơn.
+ Chịu lời chứ không phải Nhận lời. Chịu lời buộc người mình tin phải nghe
theo không thể từ chối. Nếu nói Nhận lời thì người nghe có thể từ chối.
+ Lạy, Thưa: thái độ kính cẩn, trang trọng với người bề trên hoặc với người
mình hàm ơn. Trong lúc bối rối và đau khổ nhất, Kiều vẫn chọn những lời lẽ thuyết
phục đứa em ruột của mình. Bởi vì những gì nàng sắp nói ra vô cùng hệ trọng với
hạnh phúc của em mình. Kiều không chỉ lựa lời mà cử chỉ thông qua lời thoại
“Ngồi lên cho chi lạy rồi sẽ thưa”. Kiều lạy là lạy đức hi sinh cao cả của Thúy Vân.
Trang 8
- Diễn tả được những cung bậc tình cảm khác nhau của nhân vật và thể hiện
một cách tinh tế đời sống nội tâm phức tạp của nhân vật Thúy Kiều:
+ Sau khi đã “chọn” và “đặt vấn đề” một cách nhanh chóng và kĩ càng bằng
hàng loạt những động từ và những từ chỉ hành động hỏi - nói - cầu khiến - biểu
cảm, Thuý Kiều dường như ngay lập tức tiếp lời như nếu để lâu sẽ không thể nào
nói được.
Giữa đường đứt gánh tương tư,
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em
+ Tiếp tục với những động từ chỉ hành động nói, những câu thơ tiếp Kiều tự
điểm qua những biến cố đời Kiều. Những biến cố ấy, Thuý Vân đều chứng kiến,
thấu hiểu và cảm thông “khi gặp gỡ chàng Kim” và cả “khi sóng gió bất kì”.
Kể từ khi gặp chàng Kim,
Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề…
+ Thuý Kiều mất bao công sức để thuyết phục Thuý Vân nhưng chính lúc
Thuý Vân chấp nhận thì cũng là lúc Thuý Kiều bắt đầu chới với để cố níu mình lại
với tình yêu. Duyên đã khó trao, tình làm sao trao được? Tìm về với những kỉ vật
thiêng liêng (chiếc vành, bức tờ mây, mảnh hương nguyền) cũng là để được về với
tình yêu của nàng. Những kỉ vật đẹp đẽ đó gắn liền với những ngày đẹp nhất đời
Kiều. Nó thiêng liêng khi nó chỉ là của riêng nàng và Kim Trọng. Tình yêu không
có người thứ ba, khi có người thứ ba, sự thiêng liêng bắt đầu đổ vỡ. Câu thơ
“Duyên này thì giữ vật này của chung” thể hiện tâm trạng của Kiều xiết bao đau
đớn. Tình yêu và niềm tin đối với Thuý Kiều giờ đây đã hoàn toàn trượt mất.
+ Cố níu kéo tình yêu bằng kỉ vật (dù chỉ trong tâm tưởng), Thuý Kiều đành
ngậm ngùi đau xót nghĩ về tương lai.
Mai sau dù có bao giờ,
Đốt lò hương ấy so tơ phím này…
+ Ngay trong lúc tưởng chừng Kiều sẽ buông xuôi, thì suy nghĩ của nhân vật
lại rẽ sang hướng khác. Những thán từ chỉ hành động khóc được sử dụng khi Kiều
nhớ về Kim Trọng:
Ôi Kim lang ! Hỡi Kim lang
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây !
Màn trao duyên kết thúc trong tiếng kêu thảng thốt, tiếng nấc nghẹn ngào của
người con gái trong nỗi đau “phụ bạc chàng Kim”.
2.4. Hiệu quả của đề tài
Qua thực tế áp dụng đề tài vào việc giảng dạy tại 2 lớp 10A1 và 10A10
trường THPT Hàm Rồng, tôi thu được kết quả như sau :
2.4.1. Về kiến thức:
Trang 9
- Với cách triển khai phần Đọc – hiểu văn bản Trao duyên theo hướng dành
một phần nhỏ lượng thời gian để hướng dẫn học sinh khảo sát ngôn ngữ hội thoại
của Thúy Kiều trong đoạn trích, học sinh có thể hoàn toàn chủ động điểm qua được
ngôn ngữ nhân vật Truyện Kiều – một phương diện nghệ thuật thành công đặc sắc
của đoạn trích Trao duyên. Học sinh đã thấy đặc điểm nổi bật của ngôn ngữ nhân
vật trong Truyện Kiều là sự cá tính hóa rất cao, từ đó suy ra mỗi nhân vật Truyện
Kiều đều có một lối nói riêng, một vốn từ riêng, không hề lẫn lộn.
- Giờ dạy sẽ giúp học sinh nhận ra ngôn ngữ mà Thúy Kiều dùng để trao
duyên cho Thúy Vân đã được lựa chọn hết sức chính xác, tiêu biểu cho nếp nghĩ,
nếp cảm và ngôn ngữ của Thúy Kiều ở đây vừa tham gia vào việc thể hiện sự phát
triển của các sự kiện vừa là nhân tố quan trọng góp phần tạo nên tính cách nhân vật
đa dạng, điển hěnh.
- Thêm một lần để củng cố cho học sinh kiến thức về ngôn ngữ hội thoại:
đơn thoại, độc thoại và độc thoại nội tâm – thứ ngôn ngữ mà thiên tài Nguyễn Du
thường sử dụng.
2.4.2. Về kĩ năng:
- Thông qua việc Thúy Kiều vận dụng ngôn ngữ phù hợp cho từng hoàn
cảnh, từng đối tượng hướng đến của lời nói mà học sinh đã nhận thức được các giá
trị của lời nói để có cách ứng xử có văn hóa trong các tình huống giao tiếp đa dạng,
phức tạp, tế nhị của cuộc sống.
- Học sinh nhận thức được sự cần thiết của việc tìm hiểu vai trò của ngôn
ngữ hội thoại của các nhân vật trong các tác phẩm văn học bởi đó là căn cứ vô cùng
quan trọng để hiểu tâm trạng, tính cách các nhân vật và khẳng định sự thành công
về mặt nghệ thuật (phương diện dùng từ) của các tác giả.
2.4.3. Về thái độ:
Qua bài học, học sinh có hứng thú được tìm hiểu ngôn ngữ của các nhân vật
văn học đặc biệt khi ngôn ngữ là cơ sở quan trọng để hiểu tâm trạng, tính cách nhân
vật. Từ đó giúp các em có nhu cầu dùng lời nói để bộc lộ tâm trạng, tính cách sao
cho hợp lí và có sức thuyết phục với đối tượng mình giao tiếp.
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận:
Ngôn ngữ hội thoại trong Truyện Kiều nói chung, trích đoạn Trao duyên nói
riêng đã výợt lên hẳn so với các tác phẩm cùng thể loại, cùng thời đại và thậm chí
khác thời đại của Nguyễn Du. Đó là ngôn ngữ gắn với lời ăn tiếng nói hàng ngày
của quần chúng nhân dân.
Ngôn ngữ lập luận đã được nhân vật Thúy Kiều sử dụng một cách linh hoạt
trong nhiều tình huống giao tiếp khác nhau và đã phát huy tác dụng tích cực của nó.
Nhân vật chính của Trao duyên đã vận dụng một cách uyển chuyển các
phương châm, biện pháp, yếu tố của chiến lược giao tiếp khi tham gia hội thoại làm
cho những cuộc thoại trở nên nhuần nhị, nhanh chóng đạt được hiệu đích giao tiếp
Trang 10
và trở thành một trong những mẫu mực về hội thoại mà các nhà ngữ dụng học cần
phải quan tâm nghiên cứu.
Thông qua các động từ nói năng này và ngôn ngữ hội thoại độc đáo, Nguyễn
Du đã khắc hoạ thành công tính cách nhân vật Thúy Kiều trong Truyện Kiều.
3.2. Kiến nghị
3.2.1. Với đồng nghiệp
Thứ nhất, việc khảo sát ngôn ngữ hội thoại của Thúy Kiều trong trích đoạn
chỉ là một phần nhỏ trong việc triển khai Đọc – hiểu văn bản cho học sinh chứ
không phải phần nội dung chiếm phần lớn lượng thời gian. Khi dạy, giáo viên có
thể lồng vào từng phân đoạn theo bố cục đã chia hoặc để dành cho phần tìm hiểu
những nét đặc sắc về nghệ thuật của đoạn trích.
Thứ hai, đây là một trong những đoạn thơ mở đầu cuộc đời lưu lạc và những
đau khổ của Thúy Kiều. Khi Vương Ông và Vương Quan bị bắt vì có kẻ vu oan,
Thúy Kiều đã phải bán mình để lấy tiền cứu cha và em. Đêm hôm trước ngày Kiều
phải ra đi theo Mã Giám Sinh, nàng đã trao duyên cho em để “trả nghĩa chàng
Kim”. Vì vậy khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu phần Tiểu dẫn, GV phải yêu cầu các
em chú ý đến điều này vì đó là hoàn cảnh dẫn đến việc trao duyên của Kiều, cũng
là cơ sở thứ nhất giúp việc lập luận của màn trao duyên thành công.
Thứ ba, đoạn thơ đậm đặc tính người trong một không gian nghệ thuật bao
hàm cả một hệ thống các thủ pháp nghệ thuật, ngôn ngữ, hình tượng, nhất là ngôn
ngữ. Ở đó Nguyễn Du đã sáng tạo nên một cuộc vừa mang tính đối thoại vừa mang
tính độc thoại, gây nên một hiệu ứng thẩm mĩ vô cùng độc đáo; là nơi gặp gỡ giữa
ba tâm hồn đồng cảnh, đang quằn quại vì những lẽ khác biệt của tình đời. Giúp học
sinh phân tích đặc điểm sử dụng ngôn ngữ hội thoại độc đáo, đặc sắc của đại thi
hào Nguyễn Du trong đoạn trích; chỉ rõ nhóm động từ chỉ hành động nói năng của
Thúy Kiều từ đó thấy được vai trò của chúng trong việc khắc hoạ tính cách nhân
vật cũng như thể hiện ý đồ nghệ thuật của đoạn trích là việc giáo viên cần phải lưu
ý.
Đoạn trích không dài, cũng không mang một nội dung to tát. Chỉ vẻn vẹn 34
câu thơ lục bát tái hiện lại cái đêm Kiều nhờ Thúy Vân thay mình lấy Kim Trọng để
trả nghĩa, để chấp nối duyên tình mà Kiều bỏ lại. Đoạn trích có lẽ cũng chỉ có
vậy, là một cuộc đối thoại khá công khai giữa hai chị em: Kiều là người nói, vân là
người nghe. Mặt khác, Thúy Kiều đã trao duyên nhưng tình thì còn giữ lại. Tuy
nhiên trong cả 34 câu thơ ấy, người ta không thấy, không nghe lời của Thúy Vân,
điều này cho thấy Nguyễn Du rất tinh tế, bởi trong hoàn cảnh ấy Thúy Vân không
thể nói gì. Tất cả ngôn ngữ của Thúy Kiều đều đặt Thúy Vân vào hoàn cảnh “mặc
Trang 11
nhiên phải chấp nhận”, đó là hiệu quả của phương thức lập luận trong lời thoại của
Thúy Kiều cũng như chiến lược giao tiếp của nhân vật. Dạy đoạn trích, giáo viên
không thể không chú ý đến điều này vì nó không chỉ là căn cứ để khẳng định tài
năng Nguyễn Du mà còn là cơ sở để hiểu hơn về tâm trạng và sự sắc sảo trong tính
cách Thúy Kiều.
Trong sự hoảng loạn khi tình yêu đã mất, mọi cái đều trở nên hư ảo, nửa tỉnh
nửa mê. Từ chỗ nói với em, rất tự nhiên Kiều chuyển sang nói với mình, nói với
người yêu, tức là từ đối thoại (thực chất là đơn thoại) chuyển sang độc thoại (nói
với người vắng mặt) và độc thoại nội tâm (nói với chính mình). Lưu ý được điều
này khi khám phá đoạn trích cũng là cách quan trọng để GV giúp học sinh cảm
nhận sự chuyển biến tâm trạng của một tâm hồn cô đơn, cô độc đến tuyệt vọng.
3.2.2. Với Sở GD&ĐT:
Thứ nhất, với các tác phẩm, các đoạn trích có nhiều vấn đề cần khai phá, tìm
hiểu một cách thấu đáo như Truyện Kiều hay đoạn trích Trao duyên cần cho các
trường tăng lượng thời gian giảng dạy trên lớp, 01 tiết đối với Truyện Kiều, 02 tiết
đối với Trao duyên như hiện nay là không đủ.
Thứ hai, với những Sáng kiến kinh nghiệm đạt giải A cấp Sở, có khả năng
ứng dụng cao cần tổ chức triển khai, giới thiệu xuống các trường hoặc trong các đợt
tập huấn chuyên môn mở rộng của Sở.
XÁC NHẬN CỦA HIỆU TRƯỞNG
Thanh Hóa, ngày 05 tháng 5 năm 2018
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung của
người khác.
Người viết
Lường Văn Hoan
Trang 12
DANH MỤC CÁC ĐỀ TÀI SKKN ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG CẤP SỞ
GD&ĐT ĐÁNH GIÁ ĐẠT TỪ LOẠI C TRỞ LÊN
T
T
Năm
1
2012
2
3
Tên đề tài
Tích hợp giáo dục kĩ năng sống qua dạy bài Tràng Giang
của Huy Cận
Hướng dẫn học sinh tìm hiểu ngôn ngữ hội thoại của
2013 nhân vật Thuý Kiều trong đoạn trích Trao duyên (Trích
Truyện Kiều – Nguyễn Du).
Một cách tổ chức chương trình “khi tôi 18” có chất
2015
lượng
Xếp loại
C
C
B
Trang 13
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Chu Thị Thuỷ An (1996), Ngữ nghĩa và cách thể hiện lời đáp trong hội thoại,
Luận án Thạc sĩ Khoa Ngữ văn, Vinh.
2. Trần Thị Vân Anh (2006), Quan hệ thời gian theo kiểu trùng ứng - một định
hướng cho việc phân tích Truyện Kiều, Ngữ học trẻ 2006, tr.300 - 304.
3. Đỗ Hữu Châu (1995), Giáo trình giản yếu về ngữ dụng học, Nxb Giáo dục, Hà
Nội.
4. SGK Ngữ văn 10 tập 2, NXBGD 2007.
5. SGV Ngữ văn 10 tập 2, NXBGD 2007.
Trang 14
Trang 15