Quản lý nguy cơ sức khỏe và xử lý nguy cơ sức khỏe sau bão
Bùi Văn Thưởng – Đại học Y dược Thái Bình
ĐẶT VẤN ĐỀ
Việt Nam là một quốc gia nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa nên
hàng năm đều có mùa mưa bão gây lũ lụt, úng ngập tại nhiều địa phương trên cả
nước. Theo số liệu thống kê nhiều năm thì trung bình hàng năm có khoảng 5 - 6
cơn bão và 2- 3 áp thấp nhiệt đới ảnh hưởng đến nước ta. Mùa bão bắt đầu từ tháng
6 và kết thúc vào cuối tháng 11 và nửa đầu tháng 12. Bão thường tập trung nhiều
nhất trong các tháng 8, 9, và 10. Mỗi cơn bão có mức độ nguy hiểm và sức tàn phá
khác nhau, khu vực tác động trực tiếp cũng khác nhau song nhìn chung đều gây ra
những hậu quả nặng nề tới sức khỏe tính mạng con người và ảnh hưởng nghiêm
trọng tới đời sống kinh tế xã hội của nhân dân.
Khi bão đổ bộ gây nên những tác hại về mặt cơ học trực tiếp như chìm
thuyền, ngập lụt, đổ cây, sập nhà... ảnh hưởng trực tiếp đến tính mạng con người và
của cải của nhân dân. Cơn bão số 1 năm 2016 đã gây thiệt hại lớn cho nhân dân
khu vực các tỉnh phía bắc, nặng nề nhất là các tỉnh Thái Bình, Nam Định, Ninh
Bình… Cụ thể, đã có 7 người chết và mất tích, 63 người bị thương, 2.989 nhà bị đổ
sập hoàn toàn; 1.316 tàu, thuyền bị chìm, hư hỏng tại các khu vực cửa sông. Theo
thống kê, đã có 216.194 ha lúa bị ngập; trong đó, có 54.802 ha bị thiệt hại và
17.575 ha mất trắng; rau màu bị hư hại 28.372 ha; 587.402 con gia súc, gia cầm bị
chết, cuốn trôi; 22.744 ha và 302 lồng bè nuôi trồng thủy sản bị thiệt hại; 31.594
cột điện bị gãy, nghiêng đổ … ước tổng thiệt hại khoảng 6.442 tỷ đồng.[3]
Bên cạnh đó, mỗi cơn bão còn gây ra những tác hại gián tiếp như các loại
bệnh tật phát sinh sau mưa bão ảnh hưởng đến sức khỏe con người. Sau bão lũ, có
rất nhiều nguy cơ sức khỏe gây phát sinh bệnh tật ảnh hưởng đến sức khỏe con
người. Xác động vật, thưc vật chết phân hủy trong đất, trong nước gây ô nhiễm
môi trường nghiêm trọng . Môi trường bị ô nhiễm kết hợp với khí hậu nhiệt đới tạo
điều kiện thuận lợi cho các loại vi rút, vi khuẩn gây bệnh phát sinh phát triển. Các
mầm bệnh này nhanh chóng nhân lên trong điều kiện dinh dưỡng tốt và có thể lây
lan trên diện rộng khi có hiện tượng ngập úng kéo dài gây những trận dịch lớn. Bên
cạnh đó, thời tiết thay đổi đột ngột, điều kiện sinh hoạt bị đảo lộn, thiếu nước sạch
để dùng trong sinh hoạt hàng ngày, thiếu thức ăn, thuốc men, ăn uống, đại tiểu tiện
trong điều kiện không đảm bảo vệ sinh, quần áo, giường chiếu không được khô
ráo… cũng góp phần phát sinh bệnh tật cho cư dân trong các vùng sau bão lũ.
Sau bão lũ, có hai nhóm nguy cơ sức khỏe lớn thường bùng phát trong các
khu vực dân cư. Thứ nhất là nhóm bệnh phát sinh trực tiếp từ các nguồn bệnh trong
vùng bão lũ. Các bệnh này bao gồm một số bệnh da liễu như nấm kẽ chân, nấm
móng; viêm kẽ ngón tay, ngón chân (dân gian gọi là “nước ăn chân”); mẩn ngứa;
viêm da… với các biểu hiện như ngứa, sẩn, nổi mụn nước, loét (kẽ chân tay). Tiếp
theo là các bệnh đường tiêu hóa hay gặp như tả, lỵ, thương hàn, nhiễm khuẩn,
nhiễm độc thức ăn do các loại vi khuẩn khác (E.coli, Campylobacter…) hoặc amíp,
giardia. Thứ hai là nhóm bệnh phát sinh do các vector truyền bệnh phát sinh mạnh
sau bão lũ. Điển hình trong số này là bệnh sốt xuất huyết, sốt do virut thường và
sốt rét. Nguồn nước tù đọng, thời tiết nóng ẩm tạo điều kiện cho muỗi và virut sinh
sôi nảy nở gây bệnh cho người.
Do đó, việc phòng chống dịch bệnh sau bão lũ là hết sức quan trọng. Nhận thấy
tính bức thiết của vấn đề, em thực hiện tiểu luận với chủ đề “ Quản lý nguy cơ sức
khỏe và xử lý nguy cơ sức khỏe sau bão”. Tiểu luận được thực hiện với mục tiêu:
1. Xác định nguy cơ sức khỏe đối với nhân dân sau bão
2. Phân tích nguyên nhân và đưa ra giải pháp xử ly các nguy cơ sức khỏe sau
bão
I.
NỘI DUNG
1. Một số khái niệm
1.1. Thảm họa và thiên tai [5]
- Theo định nghĩa của Tổ chức phát triển Liên Hợp quốc (UNDP) thì thiên tai và
thảm họa là tình trạng đe dọa cộng đồng nhất thiết phải có sự hỗ trợ và giúp đỡ của
quốc gia hoặc quốc tế
- Một thiên tai hoặc thảm họa nhất thiết phải hội đủ một số tiêu chuẩn sau:
+ Ít nhất có 10 người chết trở lên hoặc ít nhất có 100 người bị ảnh hưởng.
+ Môi trường bị tàn phá hoặc ô nhiễm nặng nề.
+ Tuyên bố tình trạng khẩn cấp quốc gia.
+ Kêu gọi sự giúp đỡ của quốc tế.
1.2.
Bão
Bão và ATNĐ được gọi chung là xoáy thuận nhiệt đới (XTNĐ): là một vùng
gió xoáy, có đường kính tới hàng trăm kilômét, hình thành trên vùng biển nhiệt
đới. Ở bắc bán cầu, gió thổi xoáy vào trung tâm theo hướng ngược chiều kim đồng
hồ. Áp suất khí quyển trong bão thấp hơn rất nhiều so với xung quanh và thường
thấp hơn 1000mb.
1.3.
Nguy cơ sức khỏe
Nguy cơ được định nghĩa là một khả năng có thể xảy ra trong một lĩnh vữc
nào đó khi có các yếu tố tác động vào lĩnh vực đó.
Nguy cơ sức khỏe là khả năng tác động đến sức khỏe do một số yếu tố tác
động. Ví dụ như sự tác động của virut cúm khiến sức khỏe của con người giảm sút,
gây ra một số triệu chứng như nhức đầu, sổ mũi... gấy cảm giác khó chịu, làm sức
khỏe giảm sút.
Quản lý nguy cơ sức khỏe là việc quản lý các nguy cơ gây ảnh hưởng đến
sức khỏe con người, quản lý các yếu tố nguy cơ tác động đến con người, từ đó đưa
ra những biện pháp can thiệp, xử lý kịp thời.
Xử lý nguy cơ sức khỏe là việc lập kế hoạch, thực hiện những biện pháp giải
quyết, xử lý các yếu tố nguy cơ tác động đến sức khỏe, hạn chế các tác động của
các yếu tố đó đối với sức khỏe con người.
2. Mức độ của bão [6]
Nước ta sử dụng thang Beaufort để đo cấp độ bão. Thang Beaufort được
Francis Beaufort, một đô đốc hải quân và đồng thời là một nhà thủy văn học người
Ireland, tạo ra năm 1805. Thang mang tên Beaufort có sự phát triển lâu dài và phức
tạp, từ công trình trước đó của những người khác cho tới khi Beaufort trở thành
người quản lý cao cấp trong Hải quân Hoàng gia Anh trong thập niên 1830.
Thang Beaufort ban đầu phân thành 13 cấp ( cấp 0 đến cấp 12) dựa theo sức
gió, sau đó được mở rộng thêm 3 cấp mở rộng. Hiện nay cấp độ bão được phân
thành 30 cấp. Những cơn bão đổ bộ vào Việt Nam thường ở cấp 6 đến cấp 13, ít
khi đạt cấp cao hơn.
3. Tình hình bão trên Thế giới và Việt Nam
3.1. Tình hình bão trên Thế giới [2]
Theo thống kê, mỗi năm trên toàn Thế giới có khoảng 80 cơn bão. Trong đó
Bắc bán cầu là nơi hình thành bão nhiều nhất, chiếm 73% tổng số cơn bão toàn
cầu. Bão thường xuất hiện tại 8 vùng biển:
Khu vực Tây Bắc Thái Bình Dương (bao gồm cả biển Đông Việt Nam) mỗi
năm bình quân hình thành khoảng 30 cơn bão, chiếm 38% tổng số cơn bão trên
toàn cầu. Năm 1967 vùng biển này có tới 40 cơn bão, đây là năm có nhiều bão nhất
trong lịch sử. Tính đến nay, năm có ít bão nhất là năm 1951 chỉ có 20 cơn bão.
Khu vực Đông Bắc Thái Bình Dương mỗi năm có 14 cơn bão chiếm 17%
tổng số cơn bão trên toàn thế giới. Bắc Đại Tây Dương (bao gồm cả vùng biển
Caribe và Vịnh Mexico) bình quân mỗi năm có 9 cơn bão. Vịnh Bengal bình quân
chỉ có 4 cơn bão trong một năm, còn biển Ả Rập rất ít khi có bão, trong một năm
thường chỉ xuất hiện một cơn bão. Khu vực Tây Nam Ấn Độ Dương bình quân
mỗi năm xuất hiện 8 cơn bão. Đông Nam Ấn Độ Dương và Nam Thái Bình
Dương mỗi năm thường hình thành 7 cơn bão. Khu vực Bắc Thái Bình Dương là
vùng biển hình thành nhiều bão nhất, chiếm ½ tổng số bão trên toàn cầu, bão ở
vùng biển này có cường độ gió mạnh nhất so với bão ở các vùng biển khác. Nam
Đại Tây Dương là vùng biển duy nhất chưa xuất hiện bão.
Ở Bắc bán cầu, bão thường xuất hiện vào mùa hè-thu, trong đó tháng 8,
tháng 9 là thời gian xuất hiện nhiều bão nhất. Tuy nhiên tại khu vực biển Đông,
vịnh Bengal, biển Ả Rập bão lại thường xuất hiện nhiều nhất vào tháng 5, tháng 9,
tháng 10 và tháng 11, vào mùa xuân vùng biển này không có bão. Tây Bắc Thái
Bình Dương là vùng biển duy nhất quanh năm đều có bão. Khu vực Nam bán cầu
bão thường xuất hiện từ tháng 1 đến tháng 3, trong đó tháng 1 là tháng có nhiều
bão nhất.
Những nước chịu ảnh hưởng nhiều bão nhất thế giới là Philippines, Việt
Nam, Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, Bangladesh, Úc, Mỹ, Mexico và một số nước
khác thuộc vùng biển Caribe.
Dưới đây là những cơn bão có sức tàn phá mạnh nhất trong vòng 7 năm qua.
[4]
Ngày 15/11/2007, cơn bão Sidr tấn công Bangladesh, làm ít nhất 4.100
người chết hoặc mất tích, trong khi 8,7 triệu người đối mặt với thiệt hại nặng nề về
nhà cửa, nơi làm ăn buôn bán
Bão Nargis vào ngày 3/5/2008 tấn công miền nam Myanmar, làm 138.000
người chết ở Đồng bằng Irrawaddy
Siêu bão Bopha năm 2012 tàn phá Mindanao, Philippines, làm khoảng 1.900
người chết hoặc mất tích. Đây là khu vực ít bị các cơn bão tấn công nên người dân
dường như đã chủ quan trong việc phòng chống siêu bão
3.2. Tình hình bão ở Việt Nam
Theo thống kê các trận bão đổ bộ vào Việt Nam của Trung tâm dữ liệu khí
tượng thuỷ văn, từ năm 2005 đến năm 2015, nước ta hứng chịu 48 cơn bão đổ vào
đất liền. Bão thường đổ bộ vào vùng duyên hải miền trung và đồng bằng sông
Hồng. Các tỉnh thường phải hứng chịu những trận bão lớn gồm Huế Đà Nẵng, Phú
Yên, Khánh Hòa, BÌnh Định, Ninh Thuận, Bình Thuận (thuộc vùng duyên hải
miền Trung) và Quảng Ninh, Hải Phòng, Thái Bình, Nam Định ( thuộc đồng bằng
sông Hồng). Thời gian bão đổ bộ thường từ tháng 7 đến tháng 11 hàng năm. [5]
Biến đổi khí hậu những năm trở lại đây là một phần nguyên nhân hình thành
lên những cơn bão có cấp độ lớn, di chuyển phức tạp, gây ảnh hưởng nặng nề đến
sức khỏe tính mạng nhân dân và ảnh hưởng đến đời sống kinh tế xã hội. Dưới đây
là một số cơn bão lớn đổ bộ vào Việt Nam 10 năm trở lại đây.
1- Bão Xangsane (bão số 6): Đổ bộ vào bờ biển từ Đà Nẵng đến Quảng Ngãi
ngày 1-10-2006. Xangsane được coi là cơn bão mạnh nhất đổ bộ vào Việt Nam
trong khoảng 20 năm qua. Bão làm 68 người chết và mất tích, gần 270.000 ngôi
nhà bị hỏng nặng, 1.287 hec-ta đất nông nghiệp hư hại, 65.000 gia cầm bị chết và
hơn 700 thuyền đánh cá bị chìm.
2- Bão Mekkhala (bão số 7, còn gọi là “Thần Sấm”): Ngày 30-9-2008 tiến
sâu vào địa phận tỉnh Quảng Bình với sức gió mạnh cấp 8, cấp 9, giật cấp 9. Mặc
dù thiệt hại nhẹ nhưng cơn bão đến quá nhanh, người dân chưa kịp đề phòng, nhiều
trẻ em vẫn còn đi học. Được đánh giá là cơn bão không lớn nhưng đã làm 164 nhà
đổ sập, 6.172 nhà bị ngập, tốc mái, hư hại; nhấn chìm 38 tàu, 3 người chết và 14
người mất tích.
3- Bão Ketsana (bão số 9): Được so sánh có sức tàn phá như siêu bão
Xangsane. Ngày 26-9-2009, bão Ketsana đổ bộ vào khu vực miền Trung và Tây
Nguyên. Thiệt hại lớn nhất tại các tỉnh, thành như Bình Định, Quảng Ngãi, Quảng
Nam, Đà Nẵng, Thừa Thiên Huế… Ban Chỉ đạo Phòng chống lụt bão Trung ương
nhận định: Ketsana là một trong những cơn bão mạnh nhất trong vòng 40 năm qua
tại Việt Nam. Dù dự báo và tổ chức phòng chống tốt nhưng cơn bão này vẫn gây
thiệt hại lớn: 163 người chết, 11 người mất tích và 629 người bị thương; 21.614
nhà bị sập, trôi; 258.264 nhà hư hại và 294.711 nhà bị ngập. Ngoài ra, bão lũ còn
gây thiệt hại rất nặng về nông nghiệp, thủy sản, giao thông, điện, thủy lợi..., tổng
thiệt hại ước tính 14.014 tỷ đồng.
4- Bão Côn Sơn là cơn bão nhiệt đới đầu tiên trong mùa bão Thái Bình
Dương năm 2010 gây ảnh hưởng đối với Philippines, Việt Nam. Khi tràn vào Việt
Nam (các tỉnh Hải Phòng, Thái Bình, Nam Định) trung tâm bão có tốc độ gió đạt
75-177km/h (tương đương cấp 11,12 theo thang bão của Việt Nam). Đuôi bão quét
qua các khu vực tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An. Tổng thiệt hại do bão Côn Sơn gây ra
ước tính khoảng 77,8 triệu USD, làm cho 80 người chết và 99 người bị mất tích.
Bão Conson cũng gây thiệt hại nghiêm trọng về tài sản của người dân vùng ven
biển. Đã có 303 nhà bị hư hỏng và tốc mái (Quảng Ninh 200; Hải Phòng 103); 27
tàu tàu bị đắm, vỡ (Quảng Ninh 15; Hải Phòng 5; Quảng Ngãi 6; Hà Tĩnh 1); 34
tàu tàu thuyền bị trôi, trong đó có 3 tàu lớn đang sửa chữa tại Hải Phòng; 13 chiếc
lồng bè hải sản của người dân cũng bị cuốn trôi trong bão (Quảng Ninh 12; Hải
Phòng 1). Ước tính bão Conson đã ảnh hưởng đến gần 2.000 ha lúa.
5- Bão Haiyan, VN gọi là bão số 14, đổ bộ vào khu vực Hải Phòng-Quảng
Ninh sáng sớm hôm 11 tháng 11 năm 2013 sau khi hoành hành Philippines trầm
trọng. Bão Haiyan, tức bão Hải Yến hay bão số 14, với sức gió mạnh cấp 11, giật
tới cấp 13, khi vào sâu trong vùng đất liền khu vực Hải Phòng- Quảng Ninh đã
giảm cường độ xuống còn cấp 7, cấp 8, gây mưa to trên diện rộng.
Theo báo cáo nhanh từ Ủy ban Quốc gia tìm kiếm cứu nạn, tại các địa phương ảnh
hưởng của siêu bão Haiyan, đã có 13 người chết và 81 người bị thương. Nguyên
nhân chủ yếu là do tai nạn khi chằng chống nhà cửa, chặt tỉa cây cối. Siêu bão đã
đánh chìm 1 tàu của Phú Yên, làm hỏng 4 phương tiện của các tỉnh Hải Phòng, Phú
Yên.[8]
6- Bão Mirinae (bão số 1) Cơn bão số 1 năm 2016 đã gây thiệt hại lớn cho
nhân dân khu vực các tỉnh phía bắc, nặng nề nhất là các tỉnh Thái Bình, Nam Định,
Ninh Bình… Cụ thể, đã có 7 người chết và mất tích, 63 người bị thương, 2.989 nhà
bị đổ sập hoàn toàn; 1.316 tàu, thuyền bị chìm, hư hỏng tại các khu vực cửa sông.
Theo thống kê, đã có 216.194 ha lúa bị ngập; trong đó, có 54.802 ha bị thiệt hại và
17.575 ha mất trắng; rau màu bị hư hại 28.372 ha; 587.402 con gia súc, gia cầm bị
chết, cuốn trôi; 22.744 ha và 302 lồng bè nuôi trồng thủy sản bị thiệt hại; 31.594
cột điện bị gãy, nghiêng đổ … ước tổng thiệt hại khoảng 6.442 tỷ đồng.
3. Quản lý nguy cơ sức khỏe trong bão
3.1 Các biện pháp đảm bảo nước sach cho ăn uống và sinh hoạt trong
bão[5]
Nhu cầu sử dụng nước sạch là không thể thiếu đối với mọi người dân. Bình
thường, nhu cầu về nước sạch cho ăn uống sinh hoạt ở nông thôn tối thiểu là 30
lít/người/ngày và ở thành thị là 50 lít/người/ngày. Tuy nhiên trong điều kiện thảm
họa thì lượng nước sạch tối thiểu cần thiết để đảm bảo nhu cầu ăn uống sinh hoạt
thông thường là 15 lít/người/ngày.
Trong khi bão xảy ra, dịch vụ cấp nước máy có thể bị gián đoạn. Tại Việt
Nam, tỷ lệ người dân sử dụng nước giếng khoan, giếng đào hay nước mặt phục vụ
cho ăn uống sinh hoạt vẫn còn cao nên người dân cần được hướng dân từ trước để
biết cách áp dụng các biện pháp xử lý nước đơn giản khi bão đổ bộ. Nếu không có
nước máy, nước mưa người dân có thể sử dụng nước giếng, nước mặt ao hồ sông
suối hay thậm chí sử dụng nước ngập lụt và xử lý theo quy trình sau đây để có
nước sạch phục vụ mục đích ăn uống sinh hoạt
Cho nước vào
thùng, xô ->
làm trong nước
bằng phèn
chua, vải man
Khử trùng nước
bằng cloramin
(t hoặc b) hoặc
clorua vôi. 1
viên có thể khử
trùng cho 25 lít
nước
Uống
Đun sôi
Sinh hoạt, chế biến thực
phẩm, rửa rau…
3.2 Các nguyên tắc đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm trong thảm
họa[5]
Khi thảm họa xảy ra, điều kiện sống thay đổi, không còn những điều kiện
sống thiết yếu để duy trì cuộc sông như bình thường, nguy cơ thiếu thưc phẩm,
thực phẩm bị ô nhiễm đe dọa cuộc sống của mọi gia đình. Chính vì vậy, các cấp
chính quyền cũng như người dân càng phải tuân thủ triệt để các nguyên tắc vệ sinh
an toàn thực phẩm để hạn chế tối đa những hậu quả cho sức khỏe từ thực phẩm.
1. Đảm bảo vệ sinh
Việc đầu tiên là phải khuyến khích người dân rửa tay sạch bằng xà phòng và nước
sau khi đi vệ sinh trước và sau khi tiếp xúc với thực phẩm sống và trước khi ăn.
Khi chế biến thực phẩm, phải đảm bảo rửa sạch tay và làm vệ sinh tất cả bề mặt,
dụng cụ sử dụng trong quá trình chuẩn bị thực phẩm.
Những người bị tiêu chảy hoặc có những biểu hiện bệnh khác phải tranh xa khu
vực chế biến thực phẩm.
2. Để riêng thực phẩm sống và thực phẩm chín
Các thực phẩm sống như thịt gia súc, gia cầm, hải sản và các chất lỏng khác có thể
chứa các vi sinh vật gây bệnh nguy hiểm. Do đó chúng ta cần để riêng thực phẩm
sống với những thực phẩm chín, tách biệt khu vực giết mổ thịt và khu vực chuẩn bị
thực phẩm. Nhũng dụng cụ sử dụng trong nhà bếp và dụng cụ sử dụng cho thực
phẩm sống cần được giữu sạch sẽ. Làm sạch và làm vệ sinh dụng cụ bị nhiễm bẩn
trước khi sử dụng cho lần tiếp theo. Tiếp theo chúng ta cần bảo quản tách biệt
những thực phẩm sống và thực phẩm chuẩn bị nấu, thực phẩm cần được bảo quản
tránh tiếp xúc với nước bẩn
3. Nấu kỹ.
Nấu chín thức ăn đúng cách sẽ có thể giết chết các sinh vật nguy hiểm gây hại cho
sức khỏe con người. Hầu hết các vi sinh vật nhanh chóng bị tiêu diệt ở nhiệt độ
trên 70 ᵒC, nhưng một số vẫn có thể sống ở nhiệt độ 100 ᵒC trong vài phút. Do vậy
khi chế biến thực phẩm nên đạt tới nhiệt độ sôi và tiếp tục đun sôi thêm 1 lúc.
4. Giữ thực phẩm ở nhiệt độ an toàn.
Vi sinh vật sinh sôi rất nhanh nếu thực phẩm để trong nhiệt độ bình thường, tốc độ
sinh sản nhanh hơn ở nhiệt độ cao hơn và nhanh nhất ở nhiệt độ 30-40 ᵒC. Để đảm
bảo vệ sinh và an toàn thực phẩm, thức ăn cần được ăn ngay sau khi đã nấu chín,
thực phẩm cần được bảo quản ở nơi lạnh dưới 5 ᵒC.
5. Sử dụng nước sạch và dụng cụ sạch
Để có nước sạch sử dụng,nước cần được xử l bằng cách đun sôi hoặc xử lý bằng
một viên chlorine. Sử dụng các dụnd cụ sạch để lấy nước và dự trữ nước, làm sạch
đồ dùng, dụng cụ trong gia đình để đựng nước dự trữ.
3.3 Các biện pháp quản lý chất thải trong thảm họa [5]
3.3.1 Xử lý phân trong thảm họa
Khi thảm họa xảy ra, người dân có thể hạn chế tối đa nhu cầu về nước sạch song
nhu cầu đi vê sinh thì không thể hạn chế được dù trong thời gian ngắn. Trong thảm
họa các hệ thống cống thoát nước thải và nhà vệ sinh có thể bị phá hỏng, chuồng
gia súc có thể bị ngập và một số người dân có thể mất nhà cửa và phải tập trung tại
nơi sơ tán và những nơi này thường có cơ sở hạ tầng về vệ sinh là rất hạn chế.
Trong trường hợp bão lụt, các nhà vệ sinh hộ gia đình bị ngập thì người dân có thể
sử dụng các nhà vệ sinh công cộng gần đó ( ví dụ nhà vệ sinh của trường học, siêu
thị, nhà văn hóa xã phường...) hoặc tận dụng những nơi đất cao, cách xa nhà, xa
nguồn nước và chưa bị ngập để làm hố tiêu tạm thời ( kích thước có thể là 0,5 m
mỗi chiều).
3.3.2 Thu gom xử lý chất thải rắn trong thảm họa
Ở Việt Nam, chất thải rắn có từ nhiều nguồn khác nhau. Hầu hết chất thải
này hiện nay chưa được thu gom, phân loại xử lý tốt. Khi bão xảy ra, công tác thu
gom và vận chuyển chất thải cần được thực hiện càng sớm càng tốt và phải được
thống nhất với người dân. Tốt nhất là tại những nơi bị tác động, chính quyền cơ sở
cung cấp các thùng đựng rác thải cho người dân và bố trí nhân viên thu gom và xử
lý một cách hợp lý. Trong điều kiện thực tế tại nước ta hoạt động này là khó khả
thi. Do đó, theo hướng dẫn của Cục Y tế dự phòng, tại các lán trại sơ tán của người
dân nên đào các rãnh có chiều rộng 1m, chiều dài 1,5 m, chiều sâu 2 m. Người dân
đổ rác thải vào hố và hàng ngày rắc một lớp đất lên mặt rác và đến khi hố đầy thì
lấp bằng một lướp đất dày 40cm.
4. Nguyên nhân và các nguy cơ sức khoẻ sau bão
Sau bão lũ, có rất nhiều yếu tố nguy cơ gây phát sinh bệnh tật ảnh hưởng đến
sức khỏe con người . Đầu tiên phải kể đến là việc môi trường luôn bị ô nhiễm nặng
nề sau bão lũ bởi nhiều loại thực vật bị chết, bị rụng lá, các loại động vật nhỏ như
giun, côn trùng, rắn, chuột… bị chết do ngâm lâu trong nước hoặc do thiếu thức
ăn. Những “sản phẩm” này nhanh chóng bị thối rữa trong điều kiện nóng ẩm và
mang mầm bệnh như vi khuẩn, virut “lang thang” khắp nơi theo nguồn nước. Hiện
tượng úng ngập sau mưa bão mới thật kinh khủng bởi có lẽ không có một tác nhân
nào gây ô nhiễm nguồn nước nhanh và rộng lớn như lũ lụt. Ở khu vực đô thị, úng
ngập khiến nước tràn khắp nơi, đặc biệt là các hố ga, nhà vệ sinh công cộng, khu
vực chứa nước thải sinh hoạt, hóa chất, dầu xăng, nước thải từ các khu công nghiệp
và những dòng nước siêu bẩn này mang hàng tỷ tỷ mầm bệnh “trộn” vào các bể
nước ăn, bể tắm, nhà cửa, khu vực công cộng… Ở khu vực nông thôn, tình hình ô
nhiễm nguồn nước sau bão lũ còn có thêm đóng góp của thuốc trừ sâu diệt cỏ vừa
mới được sử dụng từ những cánh đồng, trang trại; nước bẩn ngập lụt từ các khu
chăn nuôi gia súc; từ các nghĩa địa có nhiều người chết mới được an táng (thường
chỉ ở độ sâu trên dưới 1m). Các mầm bệnh này nhanh chóng nhân lên trong điều
kiện dinh dưỡng tốt và thời tiết nóng ẩm của miền nhiệt đới và có thể lây lan trên
diện rộng gây những trận dịch lớn. Sau bão lũ, nhiều loại động vật như chuột, mèo
hoang, rắn rết… mất nơi cư trú nên tìm vào các khu vực người ở và mang theo vô
số mầm bệnh nguy hiểm. Bên cạnh đó, thời tiết thay đổi đột ngột, điều kiện sinh
hoạt bị đảo lộn, thiếu nước sạch để dùng trong sinh hoạt hàng ngày, thiếu thức ăn,
thuốc men, ăn uống, đại tiểu tiện trong điều kiện không đảm bảo vệ sinh, quần áo,
giường chiếu không được khô ráo… cũng góp phần phát sinh bệnh tật cho cư dân
trong các vùng sau bão lũ.
Sau bão lũ, có hai nhóm nguy cơ lớn thường bùng phát trong các khu vực
dân cư. Thứ nhất là nhóm bệnh phát sinh trực tiếp từ các nguồn bệnh trong vùng
bão lũ. Các bệnh này bao gồm một số bệnh da liễu như nấm kẽ chân, nấm móng;
viêm kẽ ngón tay, ngón chân (dân gian gọi là “nước ăn chân”); mẩn ngứa; viêm
da… với các biểu hiện như ngứa, sẩn, nổi mụn nước, loét (kẽ chân tay). Các bệnh
ngoài da hầu như luôn có sau bão lũ và chiếm một tỷ lệ cao.
Tiếp theo là các bệnh đường tiêu hóa hay gặp như tả, lỵ, thương hàn, nhiễm
khuẩn, nhiễm độc thức ăn do các loại vi khuẩn khác (E.coli, Campylobacter…)
hoặc amíp, giardia. trong đó tỷ lệ bệnh hay gặp nhất là tiêu chảy do E.coli (trực
khuẩn đại tràng), nhưng đáng sợ nhất là bệnh tiêu chảy cấp bởi lỵ trực khuẩn hoặc
bệnh do vi khuẩn thương hàn, đặc biệt là tiêu chảy cấp do vi khuẩn tả. Nhóm các
bệnh này thường dễ gây dịch với các triệu chứng cơ bản như đau bụng, mót rặn,
tiêu chảy cấp.
Cùng với nguy cơ mắc bệnh đường ruột do vi khuẩn gây ra thì bệnh do ký
sinh trùng cũng luôn rình rập sau mưa, lũ. Trong đó đáng chú ý là bệnh kiết lỵ,
bệnh giun sán. Bệnh kiết lỵ do amip gây ra, bệnh rất dễ gây thành dịch do khả năng
lây lan của nó và nguy hiểm hơn, nếu không có thuốc đặc trị thì rất dễ trở thành
mạn tính, nhất là gây áp-xe gan là một bệnh nguy hiểm đến tính mạng người bệnh.
Viêm gan virut A, E, một số bệnh như đau mắt đỏ, viêm tai giữa nhiễm khuẩn…
hoặc bệnh do vi khuẩn Leptospira cũng có thể xảy ra trong các khu vực bị ngập lụt
mặc dù tần suất ít gặp hơn.
Thứ hai là nhóm bệnh phát sinh do các vector truyền bệnh phát sinh mạnh
sau bão lũ. Đây là các bệnh rất dễ lây và bùng phát dịch trên diện rộng. Điển hình
trong số này là bệnh sốt xuất huyết, sốt do virut thường và sốt rét. Nguồn nước tù
đọng, thời tiết nóng ẩm tạo điều kiện cho muỗi và virut sinh sôi nảy nở gây bệnh
cho người. [7]
5. Xử lý nguy cơ sức khỏe sau bão
Thông thường sau khi bão xảy ra, các nguồn nước và môi trường bị ô nhiễm
ảnh hưởng tới sức khỏe và tính mạng của người dân. Do đó, ngay sau khi bão
xảy ra, các ban ngành liên quan cần cần chỉ đạo thực hiện công tác xử lý nước
và vệ sinh môi trường để tránh nguy cơ ảnh hưởng cho sức khỏe cộng đồng. cần
có sự phối hợp chặt chẽ giữa chính quyền địa phương, y tế ,tài nguyên môi
trường và người dân trong công tác dọn vệ sinh môi trường và xử lý nguồn nước
ăn uống. Các công ty cấp nước cần nhanh chóng khôi phục hệ thống, trở lại hoạt
động để cung cấp nước sạch cho người dân. Công ty môi trường đô thị cũng cần
bố trí công nhân và phương tiện vận chuyển để tăng cường công tác thu gom vận
chuyển rác thải tới nơi xử lý. Trung tâm y tế dự phòng và trạm y tế xã cần hướng
dẫn người dân thực hiện các hoạt động cải thiện tình trạnh nước sạch và vệ sinh
môi trường sau thảm họa như thau rửa giếng nước, làm trong và khử trùng giếng
nước trước khi sử dụng, làm vệ sinh nhà cửa, đường làng ngõ xóm, tu sửa hoặc
xây mới các nhà vệ sinh bị hư hỏng, xử lý xác súc vật chết.
Chủ động phòng các bệnh: Tiêu chảy, bệnh ngoài da, đau mắt đỏ, sốt xuất huyết
Với những nơi chưa có nước máy thì cần thau, rửa, vệ sinh sạch sẽ giếng khơi,
sát trùng bằng Cloramin B, phèn chua. Cố gắng quản lý tốt chất thải để hạn chế
mầm bệnh lây lan. Với vấn đề ăn uống, BS Nguyễn Văn Doanh (sở Y tế Ninh
Bình) khuyến cáo các gia đình nên ăn chín, uống sôi. Thực phẩm cần được bảo
quản chu đáo, tránh ôi thiu. Tuyệt đối không ăn rau sống, uống nước lã, không đi
vệ sinh bừa bãi. Không nên tắm ở ao, hồ, sông vừa bị lũ, lụt. Nên đến trạm y tế
để tiêm phòng những loại vaccine phòng bệnh đường ruột sau mưa lũ. Với trẻ
em, cần đề phòng 3 loại bệnh: Bệnh sốt xuất huyết, các bệnh nhiễm khuẩn
đường hô hấp và các bệnh nhiễm khuẩn đường tiêu hóa. Dù ngủ trưa, hay ban
đêm, trẻ em đều phải nằm mùng. Nếu ngồi học cần mặc quần dài để hạn chế bị
muỗi đốt. [1]
“Né” các bệnh về da Theo bác sĩ Lê Quân (Trung tâm Bác sĩ Gia đình Hà Nội),
các bệnh về da sau mưa lụt rất dễ mắc do thiếu vệ sinh, thiếu dịch vụ y tế, thực
phẩm, nước uống. Hay gặp là bệnh “nước ăn chân” (nấm kẽ chân), gây lở, ngứa
rát với triệu chứng đau ngứa rát. Do đó, sau khi lội nước, hãy lau khô kẽ chân.
Nếu đã bị nước ăn chân, cần đến trạm y tế để được chữa trị. Mưa bão bà con hay
ở tập trung trong các lán, trại chật hẹp, môi trường ẩm ướt khiến nấm dễ phát
triển trên da, nhất là vùng bẹn (hay gặp là lác, hắc lào). Bệnh này dễ lây truyền
khi phơi chung khăn tắm, quần áo. Khi mắc bệnh cần tự giác đi khám bác sĩ để
được chữa trị triệt để, đồng thời điều trị cho cả những người ở gần (chỉ 2-4 tuần
là khỏi). Bệnh ghẻ cũng dễ phát sinh và lây lan nhanh, rất ngứa về đêm. Vì vậy,
cần đi khám sớm để được bôi thuốc trị ghẻ, tránh lây lan. Bên cạnh đó, cơ thể
suy yếu, vệ sinh da kém, ngứa gãi vì chấn thương sẽ làm vi trùng ở da tăng độc
tính, gây nhiễm trùng dưới da sinh nhọt, chốc lở. Do đó, cần giữ da sạch, tắm
bằng xà bông diệt khuẩn hoặc thuốc tím pha loãng.
Phòng tránh dịch bệnh bùng phát. Theo Cục Y tế dự phòng và môi trường (Bộ Y
tế), sau mưa bão, lũ lụt, các mầm bệnh lây lan rất nhanh, nguy cơ bùng phát dịch
rất lớn. Trong khi đó, điều kiện sinh hoạt thiếu thốn, sức đề kháng giảm nên khả
năng mắc bệnh rất cao. Đứng hàng đầu là tiêu chảy cấp tính, trở nặng và lây lan
nhanh nếu không ngăn chặn kịp thời, nhất là với trẻ em nếu dùng nước ăn, uống
không hợp vệ sinh. Bên cạnh đó là tiêu chảy do vi khuẩn thương hàn, lỵ, E.coli,
Campylobacter liên quan đến vệ sinh môi trường, vệ sinh thực phẩm và nước
dùng trong sinh hoạt. Do đó, người dân cần ăn chín, uống sôi, rửa tay trước khi
ăn. Khi có người bị tiêu chảy cấp cần nhanh chóng đưa đến cơ sở y tế gần nhất
để điều trị kịp thời. Ngoài ra, còn có thể bị nhiễm ký sinh trùng amíp (gây bệnh
lỵ amíp), các loại giun sán. Đặc biệt dịp này dịch sốt xuất huyết đang phát triển
mạnh ở một số địa phương, gặp mưa bão, ngập lụt càng dễ bùng phát. Các bệnh
viêm gan A, E cũng dễ mắc sau ngập lụt với hậu quả lâu dài, phức tạp do nguồn
nước không an toàn, vệ sinh kém và nguy hiểm với phụ nữ có thai. Bệnh sốt
vàng da, chảy máu sau mưa lũ cũng hay xảy ra bởi vi khuẩn Leptospira rất dễ
dàng chui qua da và niêm mạc để vào trong cơ thể. Khi cơ thể tiếp xúc trực tiếp
với nước ô nhiễm, một số bệnh khác cũng thường xảy ra như vết thương làm độc
trên da, viêm da, bệnh tai mũi họng, bệnh viêm mắt. Vì vậy sau mưa bão, nhà
tắm, cầu tiêu, bếp núc cần nhanh chóng được vệ sinh sạch sẽ. Các biện pháp
phòng chống dịch bệnh cụ thể:
- Giếng ngập cần dùng phèn chua (1g/20 lít nước), hoặc Cloramin T hoặc B (1
viên/ 25 lít nước), hoặc vải sạch lọc nước dùng.
. - Xử lý nhà tiêu bằng vôi bột và lấp đất dày khoảng 0,5m, lèn chặt.
- Xử lý xác súc vật chết bằng cách phun hóa chất diệt côn trùng , tưới dầu hỏa để
chống loài ăn thịt, côn trùng xâm nhập, chờ nước rút thì đem chôn.
- Mọi người cần ăn thức ăn mới nấu, nhất là người già và trẻ em.
- Nên dự trữ nước sạch, thuốc sát khuẩn, phèn chua để làm sạch nước; Trữ đồ hộp,
nước tinh khiết, nước khoáng đóng chai (không bị ngấm nước) đề phòng nước
ngập lâu. Dự trữ một số thuốc thông thường (cảm sốt, kháng sinh, đường ruột,
thuốc nhỏ mắt (mũi), thuốc sát khuẩn, bông, băng, các loại thuốc chống tiêu chảy,
kiết lỵ ) để dùng khi cần.
- Nơi hay ngập lụt cần có nắp và nilon bịt miệng giếng khơi, giếng khoan trước
khi bị ngập.
- Ở vùng rừng núi và nông thôn, trong những ngày mưa bão bà con nên đi ủng khi
ra ngoài để tránh bị điện giật. (Theo Cục Y tế dự phòng và môi trường) .
II.
Kết luận và kiến nghị
1. Kết luận
Bão là một trong những hiện tượng thời tiết nguy hiểm và gây hậu quả
nghiêm trọng trên phạm vi rộng lớn. Thảm họa bão không chỉ tác động trực
tiếp đến sức khỏe tính mạng người dân khi đổ bộ mà còn tác động gián tiếp
trong những ngày những ngày sau đó, gây ra những nguy cơ sức khỏe cho
con người.
Sau bão, môi trường bị ô nhiễm tạo điều kiện thuân lợi cho những tác
nhân gây hại cho con người phát triển. Nếu không được quản lý và xử lý kịp
thời, những tác nhân vi khuẩn, vi rút, các yếu tố gây hại có thể lây lan ảnh
hưởng đến sức khỏe tính mạng con người thậm chí có thể bùng nổ thành dịch
bệnh. Do đó, cần quản lý nguy cơ sức khỏe con người trong các vấn đề sử
dụng nước sạch trong ăn uống và sinh hoạt, sử dụng thực phẩm an toàn, đảm
bảo vệ sinh an toàn thực phẩm cũng như xử lý phân chất thải xác súc vật chết
.. nhằm hạn chế nguy cơ gây bệnh cho con người.
Cần có sự phối hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa các cấp chính quyền, các ban
ngành đoàn thể cùng với nhân dân trong công tác quản lý nguy cơ sức khỏe
và xử lý nguy cơ sức khỏe sau bão. Dọn dẹp, xử lý rác thải, xác súc vật chết
sau bão là hoạt động cần tiến hành ngay, đảm bảo hạn chế tác động của các
yếu tố gây hại cho con người. Song song với đó là thực hiện các biện pháp
nhằm duy trì cung cấp nước sạch tối thiểu cho người dân ăn uống và sinh
hoạt, xử lý nước đúng tiêu chuẩn. Đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm là vô
cùng quan trọng sau bão lũ, thực hiện ăn chín uống sôi, sử dụng nguồn thực
phẩm tốt cho con người, tránh nguy cơ lây nhiễm các vi khuẩn, vi rút gây hại
vào cơ thể. Tích cực, chủ động dự phòng và điều trị các bệnh gây ảnh hưởng
đến sức khỏe con người sau thảm họa bão.
aTrong tương lai thảm họa bão vẫn sẽ tác động vào nước ta gây hậu quả
nghiêm trọng về người và tài sản. Tuy nhiên chúng ta có thể giảm thiểu tác
động của bão thông qua những biện pháp dự phòng chủ động trước khi bão
đổ bộ, quản lý nguy cơ sức khỏe trong thảm họa và sử lý sức khỏe sau bão
một cách có hiệu quả. Mọi người hãy cùng chung tay giảm thiểu tác động của
bão đối với sức khỏe, đời sống con người, hạn chế các thiệt hại do thảm họa
bão gây ra.
2. Kiến nghị
2.1.
Đối với cơ quan nhà nước
- Tăng cường đầu tư vào công tác dự báo, nâng cao hiệu quả hoạt động dự
báo bão để có những kế hoạch ứng phó kịp thời chủ động.
- Tích cực đẩy mạnh tuyên truyền về tác hại của bão lũ gây ra tới toàn thể
nhân dân.
- Xây dựng những biện pháp phòng chống bão lũ hiệu quả, phù hợp đối với
đặc điểm dân cư từng vùng.
2.2.
Đối với cơ sở y tế
- Tuyên truyền về nguy cơ sức khỏe trước, trong và sau bão gây ra đối với
con người.
- Xây dựng các biện pháp đối phó, xử lí các yếu tố nguy cơ ảnh hưởng đến
sức khỏe con người.
- Tích cực, chủ động thực hiện có hiệu quả các hành động, biện pháp xử lý
nguy cơ sức khỏe sau bão một cách nhanh chóng, kịp thời.
2.3. Đối với người dân
- Tích cực, chủ động phòng tránh bão nhằm giảm tác hại do bão gây ra ở
mức thấp nhất.
- Thực hiện đúng các biện pháp nhằm xử lý, hạn chế các nguy cơ sức khỏe
sau bão.