Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

Nghiên cứu ảnh hưởng của cơ sở hạ tầng và chi phí đến quyết định đầu tư DNNVV

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (107.47 KB, 10 trang )

Ảnh hưởng của cơ sở hạ tầng và chi phí đến
quyết định đầu tư của DNNVV tại Việt Nam
Nguyễn Mạnh Cường, Đại học Công Nghiệp Hà Nội
Đỗ Hải Hưng, Đại học Công Nghiệp Hà Nội
Tóm tắt
Bài báo nghiên cứu ảnh hưởng của cơ sở hạ tầng và chi phí đến quyết định đầu tư của
DNNVV tại Việt Nam. Không giống như một số nghiên cứu cho rằng cơ sở hạ tầng chỉ quan
trọng với các doanh nghiệp lơn. Dựa trên bộ dữ liệu từ 231 doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Việt
Nam, kết quản nghiên cứu đã phát hiện thấy rằng với đặc trưng của các DNNVV hiện nay, cả
hai yếu tố cơ sở hạ tầng và chi phí đều có ảnh hưởng đến quyết định đầu tư của doanh nghiệp,
Và do đó, nếu các địa phương muốn thúc đẩy đầu tư của các DNNVV hiện nay thì việc cải
thiện cả hai yếu tố này là cần thiết..
Từ khóa: Cơ sở hạ tầng, chi phí, môi trường đầu tư, quyết định đầu tư, doanh nghiệp
nhỏ và vừa.
Giới thiệu
Doanh nghiệp nhỏ và vừa là chủ thể cung cấp hàng hóa, dịch vụ quan trọng trong tất
cả các nền kinh tế. Vấn đề cải thiện môi trường đầu tư trong đó có vấn đề về cơ sở hạ tầng và
chi phí cho các doanh nghiệp ngày càng thu hút các nghiên cứu trong và ngoài nước. Tuy
nhiện, các nghiên cứu trước đây phần lớn tập trung ở góc độ vĩ mô hay cấp độ quốc gia, chủ
yếu quan tâm đến quyết định đầu tư của các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài, ít
nghiên cứu đến các doanh nghiệp trong nước, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Do đó,
kết quả nghiên cứu không cung cấp nhiều kết quả cụ thể về vai trò của cơ sở hạ tầng và chi
phí trong việc thúc đẩy đầu tư của các DNNVV tại một phạm vi nhỏ hơn, chẳng hạn là tại một
địa phương. Hơn nữa, bằng chứng từ các nghiên cứu tại các quốc gia khác có thể không phản
ánh chính xác trong bối cảnh các DNNVV tại Việt Nam.
Do đó, xuất phát từ cấp độ từng doanh nghiệp để tiến hành nghiên cứu ảnh hưởng của
của cơ sở hạ tầng đến quyết định đầu tư của DNNVV tại Việt Nam là cần thiết và sẽ góp phần
bù đắp vào các khoảng trống nghiên cứu nói trên.
1. Tổng quan nghiên cứu
1.1. Doanh nghiệp nhỏ và vừa và quyết định đầu tư của doanh nghiệp


Doanh nghiệp nhỏ và vừa:
Các tiêu chí chính được sử dụng để định nghĩa các DNNVV có thể được phân loại
thành hai nhóm: (1) Tiêu chí định lượng: Thông thường, số lượng lao động toàn thời gian
được đề cập như là tiêu chí chính nhưng đồng thời nó cũng được bổ sung một vài tiêu chí hỗ
trợ cần thiết khác để phân biệt rõ DNNVV với các doanh nghiệp lớn như tổng tài sản, tổng
doanh thu. (2) Các tiêu chí định tính: Đặc trưng nổi bật của các DNNVV bao gồm: (i) Chiếm
phần thị trường tương đối nhỏ; (ii) là sử dụng "nguyên tắc cá nhân" về sở hữu và quản lý,
nghĩa là chủ sở hữu và quản lý doanh nghiệp là cùng một người, đóng vai trò trung tâm trong
1


mọi quá trình ra quyết định kinh doanh kể cả với nhân viên, khách hàng và nhà cung cấp; (iii)
Có tính độc lập, nghĩa là doanh nghiệp không phải là một phần của doanh nghiệp lớn hoặc
tương đối tự do với sự kiểm soát bên ngoài của một doanh nghiệp lớn khác. (Gentrit and
Justina, 2015). Tại Việt Nam, định nghĩa DNNVV sử dụng một hoặc kết hợp một số số phép
đo trong bốn phép đo xác định: số lượng lao động, doanh thu, tổng tài sản, tổng vốn. Cách
định nghĩa Nghị định số 56/2009/NĐ-CP của Chính phủ cũng căn cứ theo quy mô tổng nguồn
vốn hoặc số lao động bình quân năm của các doanh nghiệp, tùy theo tính chất, mục tiêu của
từng chính sách, chương trình trợ giúp mà các tiêu chí có thể được cụ thể hóa cho phù hợp.
Quyết định đầu tư của doanh nghiệp.
Hành vi đầu tư của doanh nghiệp nói chung được hiểu là việc các doanh nghiệp bỏ
vốn ở hiện tại nhằm thu được lợi nhuận trong tương lai. Quyết định đầu tư của doanh nghiệp
đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế trên cả góc độ vĩ mô và vi mô. Ở góc độ vĩ mô, đầu
tư của doanh nghiệp đóng góp phần lớn vào sự tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội của các
quốc gia, đó là nguồn lực lớn duy trì các hoạt động kinh tế (Zarnowitz 1992). Trên phương
diện vi mô, quyết định đầu tư là cơ hội giúp các doanh nghiệp giảm chi phí, giá thành, gia
tăng hiệu quả sản xuất, cải thiện khả năng cạnh tranh. Nó có thể được hiểu là quá trình sử
dụng phối hợp các nguốn lực nhằm đạt được kết quả có lợi hoặc đạt được một tập hợp các
mục tiêu xác định trong điều kiện kinh tế xã hội nhất định (Từ Quang Phương, Nguyễn Bạch
Nguyệt 2007). Quyết định đầu tư cũng là việc làm quan trọng đầu tiên khi các doanh nghiệp

muốn tận dụng cơ hội, thời cơ kinh doanh để hiện thực hóa mục tiêu tăng trưởng và phát triển.
1.2. Ảnh hưởng của cơ sở hạ tầng và chi phí đến quyết định đầu tư của doanh nghiệp
Nhìn chung, quá trình ra quyết định đầu tư được thừa nhận là chịu ảnh hưởng tổng hòa
của nhiều yếu tố khác nhau, bao gồm cả yếu tố bên trong và các yếu tố bên ngoài doanh
nghiệp.
Các yếu tố bên trong (Enoma và Mustapha, 2010) hay các yếu tố vi mô và yếu tố
chiến lược (theo cách gọi của Wei và Liu, 2005; Zhang,2002; Chin-Shan Lu và cộng sự,
2006) phản ánh chiến lược, khả năng của doanh nghiệp, chúng thường liên quan tới các mục
tiêu dài hạn và khả năng của các doanh nghiệp trong việc bảo vệ thị trường, khả năng đa dạng
hóa các hoạt động kinh doanh để đạt được hoặc duy trì một chỗ đứng tại địa điểm đầu tư
cũng như bổ sung một loại hình đầu tư.
Trong khi đó, các yếu tố bên ngoài doanh nghiệp (Enoma và Mustapha, 2010), cũng
được gọi là các yếu tố vĩ (theo cách gọi của Wei và Liu, 2005; Zhang,2002; Chin-Shan Lu và
cộng sự, 2006) bao gồm các yếu tố thuộc môi trường kinh tế, môi trường chính trị và xã hội
và các chính sách, quy định của chính phủ. Cùng với các yếu tố bên trong, nhiều nghiên cứu
thực nghiệm thừa nhận rằng tất cả các doanh nghiệp đang chịu ảnh hưởng lớn của các yếu tố
bên ngoài trong quá trình ra quyết định đầu tư của mình. Cơ sở hạ tầng và chi phí thuộc nhóm
các yếu tố bên ngoài doanh nghiệp

Về cơ sở hạ tầng:

2


Theo các nghiên cứu của Seyoum And Lin (2015); Khadarool and Seetanah (2010);
Jose I Galan (2007); David Dollar và cộng sự (2005); Oum and Park (2004); Dunning (1981,
1988,1993) và nhiều nghiên cứu khác, chất lượng và sự sẵn có của cơ sở hạ tầng bao gồm
giao thông vận tải, năng lượng, thông tin, nước, chất lượng và kỹ năng lao động, khả năng
tiếp cận tài chính … có thể có một tác động lớn đến hiệu quả sản xuất, tiềm năng tăng trưởng,
cũng như về khả năng các doanh nghiệp sẽ xác định vị trí đầu tư trong một khu vực. Theo đó,

các doanh nghiệp có xu hướng chọn đầu tư tại các địa điểm với cơ sở hạ tầng tốt và các doanh
nghiệp hiện tại có thể dời đi nơi khác khi họ không hài lòng với cơ sở hạ tầng sẵn có. Do vậy,
cơ sở hạ tầng có thể là một yếu tố quyết định quan trọng vị trí đầu tư của doanh nghiệp (David
Dollar và cộng sự, 2005).
Theo Shatz và Venables (2000), có hai lý do chính nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài
chọn lựa một vị trí đầu tư. Đầu tiên là động cơ tìm kiếm thị trường, đầu tư kinh doanh để phục
vụ các thị trường địa phương giúp đạt được tính kinh tế về thuế quan, chi phí vận chuyển và
khai thác một thị trường mới. Lý do thứ hai là họ có thể sử dụng các đầu vào với chi phí thấp
hơn hay đạt được tính kinh tế các yếu tố sản xuất để tối đa hóa lợi nhuận.
Khadarool và Seetanah (2010) nghiên cứu về ảnh hưởng của hạ tầng giao thông đến
đầu tư trực tiếp nước ngoài lập luận rằng để tiếp cận thị trường mới doanh nghiệp cần tiếp
nhận và vận chuyển sản phẩm, sự phát triển cơ sở hạ tầng giao thông giúp doanh nghiệp được
tiếp cận cách thức vận chuyển dễ dàng và giảm chi phí vận tải, chi phí kinh doanh để thu lợi
nhuận tối đa, do đó nó cũng góp phần đáp ứng động cơ tìm kiếm thị trường. Ngoài ra, trên
thực tế cơ sở hạ tầng được coi như đầu vào bổ sung như điện nước, thông tin, chất lượng lao
động… nên khi chúng được cung cấp đầy đủ và có chi phí thấp giúp doanh nghiệp đạt được
tính kinh tế yếu tố đầu vào.
Rất nhiều nghiên cứu thừa nhận cơ sở hạ tầng là một trong những yếu tố quan trọng
nhất để thu hút các nhà đầu tư. Dunning (1981, 1988,1993), Chin-Shan Lu và cộng sự (2006),
David Dollar và cộng sự (2005), Ching-Chiao Yang (2006), Mary Hallward-Driemeier (2006),
Khalid Sekkat (2007), A.J.Khadarool và B. Seetanah (2010) và nhiều nghiên cứu khác.
Root và Ahmed (1979) và Wheeler và Mody (1992) là một trong những người đầu tiên
khẳng định sự quan trọng của cơ sở hạ tầng đối với việc thu hút dòng vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài cho các quốc gia. Dunning (1981, 1988, 1993) cũng thừa nhận rằng cơ sở hạ tầng
là những lợi thế địa điểm quan trọng mà các công ty nước ngoài tìm kiếm trước khi vận hành
và đầu tư ở nước sở tại. Haughwout (2001) chỉ rõ, ngay cả khi cơ sở hạ tầng như không có vai
trò trực tiếp trong cơ cấu chi phí và năng suất của các công ty tư nhân, vẫn có nhiều bằng
chứng cho thấy có tác động gián tiếp từ cơ sở hạ tầng giúp doanh nghiệp hạ thấp chi phí, nâng
cao hiệu quả đầu tư. Tương tự, nghiên cứu của Dollar và cộng sự (2005), Hallward-Driemeier
và Wallsten (2006) thu thập dữ liệu từ một số lượng lớn các doanh nghiệp để xem xét các chỉ

số môi trường đầu tư cho thấy cơ sở hạ tầng có ảnh hưởng lớn đến hoạt động của doanh
nghiệp thông qua các chỉ số năng suất nhân tố tổng hợp (TFP), hiệu suất đầu tư, tăng trưởng
việc làm. Chin-Shan Lu và Ching-Chiao Yang (2006), nghiên cứu đã tìm thấy mối hệ tích cực
giữa cơ sở hạ tầng và ý định phát động đầu tư của doanh nghiệp trong khu vực hậu cần quốc
3


tế. Nếu một khu vực tăng cường cơ sở hạ tầng bao gồm cả cơ sở hạ tầng cứng như thông tin
liên lạc và cung cấp năng lượng và cơ sở hạ tầng mềm như các thông tin và kỹ năng lao động,
các nhà đầu tư tiềm năng sẽ sẵn sàng để đầu tư vào khu vực đó. Thêm vào đó là của Jose I
Galan và cộng sự (2007), dựa trên phân tích mẫu với 103 doanh nghiệp đa quốc gia Tây Ban
Nha trong quyết định đầu tư của họ tại các nước Mỹ La Tinh và Liên Minh Châu Âu, kết quả
phân tích cho thấy các nhà quản lý doanh nghiệp đa quốc gia của Tây Ban Nha gán một vai
trò trung tâm đối với yếu tố cơ sở hạ tầng và công nghệ khi họ xác định vị trí đầu tư tại các
quốc gia thuộc khối Châu Âu. Các doanh nghiệp đặc biệt nhấn mạnh vào các yếu tố như sự
sẵn có và chất lượng của cơ sở hạ tầng phát triển tốt, mức độ cao của sự phát triển công nghệ
và tiếp cận với các nhà cung cấp đáng tin cậy.
Trong bối cảnh các nước đang phát triển, vai trò của cơ sở hạ tầng càng trở nên rõ ràng
hơn. Ở đó, tính sẵn có của cơ sở hạ tầng là một đòi hỏi mang tính cấp thiết để tạo dựng môi
trường đầu tư hấp dẫn và hỗ trợ tích cực cho đầu tư tư nhân (Wheeler và Mody, 1992).
Nghiên cứu của Dollar và cộng sự (2005); Hallward-Driemeier và Wallsten (2006) nhấn
mạnh thêm rằng, sự thiếu hụt cơ sở hạ tầng tại các nước đang phát triển hiện nay là một hạn
chế đáng kể cho hoạt động đầu tư của doanh nghiệp và năng lực cạnh tranh của các quốc gia
này.
Như vậy, xét về tổng thể các nghiên cứu cho thấy trong một môi trường đầu tư có cơ
sở hạ tầng có chất lượng, vận hành trơn tru là điều kiện giúp doanh nghiệp giảm thiểu chi phí
kinh doanh và do đó nâng cao tỷ lệ lợi nhuận đầu tư cơ sở hạ tầng tốt là một điều kiện cần
thiết cho các nhà đầu tư hoạt động thành công và do đó sẽ thu hút được đầu tư của các doanh
nghiệp. Giống như Wei (2000) đã kết luận "một địa điểm với cơ sở hạ tầng tốt là hấp dẫn hơn
những nơi khác”.

Tuy vậy, vẫn có một số ít nghiên cứu không thống nhất quan điểm trên. Theo ADB
(2005), cơ sở hạ tầng tác động có tác động tới kinh doanh của doanh nghiệp ít hơn so với các
yếu tố môi trường đầu tư khác như sự ổn định kinh tế, tham nhũng và các quy định về lao
động. Nghiên cứu của Quazi (2005) và Commander và Svejnar (2007) cho thấy không có mối
quan hệ đáng kể giữa cơ sở hạ tầng và thu hút vốn đầu tư của các địa phương.
Ngoài ra, các nghiên cứu cũng cho thấy có sự mâu thuẫn khi xét tới vai trò của các yếu
tố thành phần trong cơ sở hạ tầng. Kết quả nghiên cứu của David Dollar và sự (2005) cho
thấy yếu tố của cơ sở hạ tầng vật lý đặc biệt là năng lượng có ảnh hưởng quan trọng nhất đến
hiệu quả hoạt động kinh doanh. Ngược lại, kết quả phân tích của Mary Hallward-Driemeier
(2006) lại cho thấy vai trò của cơ sở hạ tầng vật lý như giao thông, năng lượng là khá hạn chế
trong khi cơ sở hạ tầng công nghệ và tính linh hoạt của thị trường lao động ảnh hưởng tích
cực nhất đến hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp.

Về chi phí
Chi phí cũng là yếu tố nhận được nhiều sự chú ý trong các nghiên cứu gần đây. Các
chi phí đầu vào thường liên quan trực tiếp đến cơ sở hạ tầng, tuy nhiên cơ sở hạ tầng tại một
địa điểm cụ thể được đo lường bằng sự đầy đủ và chất lượng của chúng. Còn yếu tố chi phí sẽ
xem xét chủ yếu ở góc độ chi phí mà doanh nghiệp dự kiến phải trả cho việc sử dụng các cơ
4


sở hạ tầng để thực hiện đầu tư. Các yếu tố chi phí phản ánh giá cả của lao động và các đầu
vào khác như đất, năng lượng (như điện, điện), vận tải, nguyên liệu (Mebratu seyoum và
Jihong Lin, 2015).
Chi phí là một vấn đề quan trọng mà các nhà đầu tư phải xem xét việc trước khi quyết
định đầu tư, một số nghiên cứu đã tập trung vào vấn đề này.
Trên cơ sở các khía cạnh của vị trí (L) lợi thế, mô hình chiết trung của Dunning (1980,
1988, 1993) có đề cập đến vấn đề động cơ hiệu quả nguồn lực nhân tố. Theo đó, các doanh
nghiệp bị thúc đẩy bởi nhu cầu tìm kiếm các yếu tố sản xuất nhằm đảm bảo được cung cấp
các đầu vào với giá rẻ và an toàn chẳng hạn như tài nguyên thiên nhiên và nguồn nhân lực tại

địa điểm dự kiến. Do đó sự chênh lệch mức giá hay chi phí đầu vào giữa các địa điểm, quốc
gia sẽ là vấn đề quan trọng trong quyết định đầu tư của doanh nghiệp.
Wu và Strange (2000) đã chứng minh tầm quan trọng của việc xem xét chi phí và cho
rằng nó có ảnh hưởng nhất định đến sự lựa chọn của các vị trí của các công ty bảo hiểm nước
ngoài tại Trung Quốc. Oum và Park (2004), Graeme Newell và Ross Seabrook (2006) cũng tái
khẳng định rằng yếu tố chi phí là một yếu tố quan trọng với ra quyết định vị trí đầu tư. Trong
nghiên cứu về các yếu tố tác động tới ý định đầu tư của doanh nghiệp vào khu vực hậu cần
xuyên quốc gia, Chin-Shan Lu, Ching-Chiao Yang (2006) cũng cho thấy có sự tác động của
các yếu tố chi phí tới dự định đầu tư của doanh nghiệp. Phát hiện cũng cho thấy các nhà quản
trị cần phải cung cấp các đầu vào có ưu thế như đất đai và lao động với chi phí thấp và ưu đãi
thuế để thu hút các nhà đầu tư.
Quá trình tổng quan nghiên cứu cũng cho thấy, tầm quan trọng của các yếu tố chi phí
đối với các quyết định đầu tư có khả năng chịu ảnh hưởng bởi sự tương quan giữa địa điểm
đầu tư dự kiến và với địa điểm xuất phát của doanh nghiệp. Theo nghiên cứu của Jose I Galan
và cộng sự (2007), khi các doanh nghiệp đa quốc gia Tây Ban Nha xem xét chủ yếu đến nhóm
các yếu tố liên quan đến chiến lược tài sản trục lợi khi quyết định để xác định vị trí đầu tư của
họ trong nhóm các nước phát triển hơn Tây Ban Nha (Liên minh châu Âu), nhóm các yếu tố
chi phí không có vai trò quan trọng. Nhưng ngược lại, khi điểm đến dự kiến đầu tư là các
nước kém phát triển hơn, ngoài các yếu tố xã hội và văn hóa thì các yếu tố chi phí đã gây ảnh
hưởng tiêu cực và đáng kể về khi các doanh nghiệp Tây Ban Nha định vị đầu tư của họ ở châu
Mỹ Latinh. Ngoài ra còn có các nghiên cứu của Buckley và cộng sự (2007 và gần đây hơn là
nghiên cứu của Mebratu seyoum và Jihong Lin (2015) nghiên cứu về đầu tư của các doanh
nghiệp Trung quốc ra nước ngoài cho thấy, động cơ tìm kiếm các tài nguyên giá rẻ không có
vai trò quan khi các doanh nghiệp ra quyết định đầu tư, yếu tố đóng vai trò quan trọng nhất là
lợi thế cụ thể của doanh nghiệp, tiếp theo là khả năng tiếp cận thị trường và ưu đãi của địa
phương. Họ luận giải rằng lý, tại thị trường nội địa Trung Quốc nguồn cung lao động và các
đầu vào khác là rất rồi rào với chi phí thấp, do đó nó không còn là lý do thúc đầy các doanh
nghiệp đầu tư nữa.
2. Mô hình và phương pháp nghiên cứu.
Từ nghiên cứu của Jose.I. Galan và cộng sự (2007); Chin Shan Lu và cộng sự (2006)

cùng với nhiều nghiên cứu khác khi xem xét biến phụ thuộc là quyết định đầu tư của doanh
5


nghiệp dưới sự ảnh hưởng của các yếu tố cơ sở hạ tầng và chi phí. Trong đó, các yếu tố cơ sở
hạ tầng phản ánh sự sẵn có và chất lượng của hạ tầng giao thông, năng lượng, công nghệ,
nguồn lao động và khả năng tiếp cận tài chính. Các yếu tố chi phí phản ánh chi phí tiếp cận và
giá cả của lao động và các đầu vào khác như đất đai, thuế, năng lượng, vận tải, nguyên vật
liệu. Dựa trên kết quả tổng quan, nghiên cứu đã dự kiến mô hình nghiên cứu cho bối cảnh tại
Việt Nam, cụ thể:
- Về mô hình nghiên cứu được mô hình hóa như sau:
Hình 1. Mô hình nghiên cứu
Cơ sở hạ tầng
Quyết định
đầu tư của
DNNVV

Chi phí

Nguồn: Tác giả tổng hợp đề xuất
- Phương trình hồi quy: Y = β0 + β1*X1 + β2*X2 + ε
Trong đó :
Y: Quyết định đầu tư của doanh nghiệp
X1,X2: Cơ sở hạ tầng, chi phí
β0: Hằng số
βi: Các hệ số hồi quy
ε: Sai số ngẫu nhiên
- Các giả thuyết nghiên cứu:
H01: Cơ sở hạ tầng ảnh hưởng cùng chiều đến quyết định đầu tư của DNNVV
H02: Chi phí ảnh hưởng ngược chiều đến quyết định đầu tư của DNNVV

- Thang đo các biến:
Hình 1. Thang đo cơ sở hạ tầng và chi phí
2.1 Hệ thống giao thông tại địa phương đầy đủ, thuận lợi
2.2

1. Cơ sở
hạ tầng

Doanh nghiệp được sử dụng nguồn cung cấp điện,
nước ổn định

2.3 Thông tin liên lạc thuận tiện, ổn định
2.4

Nguồn lao động, cán bộ quản lý dồi dào và có chất
lượng

2.5

Quỹ mặt bằng để đầu tư sản xuất kinh doanh tại địa
phương phong phú.

Chin-Shan Lu và
cộng sự (2006);
Jose.I. Galan và
cộng sự (2007).
Sun và cộng sự
(2002); Dollar và
cộng sự (2005);


2.6 Công nghệ, kỹ thuật phát triển cao
2. Chi phí

3.1 Chi phí vận chuyển cao
3.2 Giá cả nguyên liệu, năng lượng và nước sạch cao
3.3 Khó tiếp cận nguồn vốn có lãi suất thấp

Chin-Shan Lu và
cộng sự (2006),
Oum và Park
(2004) ; Jose.I.
Galan và cộng sự
6


3.4 Khó khăn trong việc tiếp cận đất đai chi phí thấp
3.5 Doanh nghiệp phải sử dụng lao động với chi phí cao

(2007). Sun và
cộng sự (2002

Phương pháp nghiên cứu định tính: Nghiên cứu thực hiện phỏng vấn sâu với 10
giám đốc doanh nghiệp nhằm kiểm tra, điều chỉnh, bổ sung thang đo cho các khái niệm
nghiên cứu.

Phương pháp nghiên cứu định lượng: Nghiên cứu định lượng được thực hiện với
dữ liệu thu thập bằng bảng hỏi với 231 doanh nghiệp khác nhau. Các nội dung chính bao
gồm: (1) Đánh giá chính thức thang đo bằng phương pháp phân tích nhân tố khám phá EFA
và hệ số tin cậy Cronbach’s Alpha; (2) Đánh giá xu hướng, mức độ tác động giữa các biến
phụ thuộc và biến độc lập cũng như là các giả thuyết nghiên cứu của mô hình.


Mẫu nghiên cứu: Để thực hiện nghiên cứu, có 300 phiếu khảo sát được phát ra, số
phiếu thu về hợp lệ là 231 phiếu, đạt tỷ lệ 77%. Trong đó nếu tính theo quy mô vốn đầu tư tại
thời điểm điều tra, số lượng mẫu tương đối trải đều giữa các mức quy mô vốn, dao động từ 26
đến 38 doanh nghiệp. Cụ thể, nhóm doanh nghiệp có quy mô vốn đến dưới 0,5 tỷ đồng đến
dưới 1 tỷ đồng và từ 1 tỷ đồng đến dưới 5 tỷ đồng có số mẫu lớn nhất với 38 doanh nghiệp.
Thấp nhất là nhóm doanh nghiệp có quy mô vốn từ 50 đến 100 tỷ đồng với 26 doanh nghiệp
được điều tra.
3. Kết quả và bình luận.

3.1. Kết quả nghiên cứu định tính: Nhìn chung các thang đo được các đối tượng
điều tra hiểu đúng ý nghĩa và có thể trả lời một cách dễ dàng. Vì vậy, các thang đo này sẽ
được giữ nguyên để đưa vào bảng hỏi chi tiết trong nghiên cứu định lượng sau khi có một vài
điều chỉnh nhỏ với thang đo cơ sở hạ tầng. Theo đó biến quan sát số 3 và biến quan sát số 6
được đề nghị gom lại thành biến quan sát phản ánh chung về Trình độ phát triển công nghệ,
hệ thống thông tin tại địa phương.

3.2. Kiểm định giá trị của thang đo chính thức bằng phương pháp phân
tích nhân tố khám phá (EFA):
Trước tiên, kiểm định KMO và Bartlett được thực hiện nhằm kiểm tra điều kiện phân
tích EFA của dữ liệu. Kết quả thu được là, giá trị KMO = 0,782, kiểm định Bartlett cho giá trị
Sig là 0,000. Kết quả này cho thấy các biến có quan hệ với nhau và đủ điều kiện để phân tích
nhân tố khám phá.
Nghiên cứu tiến hành chạy lại EFA, từ 10 biến quan sát đã trích được 2 nhân tố. Tổng
phương sai giải thích được khi nhóm nhân tố được rút ra là 64,994 (>50%). Các giá trị Factor
loading đều đạt giá trị từ 4.32 trở lên, đạt yêu cầu lớn hơn 0.3
3) Kết quả EFA cho Cơ sở hạ tâng gồm 5 tiêu chí đo lường được tải vào một nhân tố,
hệ số tải tương ứng được sắp xếp từ lớn đến nhỏ là: 0,835; 0,799; 0,768; 0,749 và 0,575. Như
vậy các hệ số tải về nhân tố tương ứng đều lớn hơn 0,55 nên có thể kết luận 5 biến quan sát
này có quan hệ ý nghĩa với biến Cơ sở hạ tầng .

7


4) Kết quả EFA cho chi phí gồm 5 tiêu chí đo lường được tải vào một nhân tố, hệ số
tải tương ứng được sắp xếp từ lớn đến nhỏ là: 0,883; 0,882; 0,834; 0,728 và 0,726. Như vậy
các hệ số tải về nhân tố tương ứng đều lớn hơn 0,72 nên có thể kết luận 5 biến quan sát này có
quan hệ ý nghĩa với biến Chi phí

3. Kết quả kiểm định ảnh hưởng của cơ sở hạ tầng và quyết định đầu tư của
doanh nghiệp.
Kết quả kiểm định mô hình cho kết quả, R2 điều chỉnh là 0,195, giá trị Fchange là
28.913 với Sig. = 0.000, hệ số Durbin-Watson = 1.708 và hệ số phóng đại phương sai (VIF)
của các biến độc lập trong mô hình đều nhỏ hơn 2. Như vậy. Như vậy, mô hình cũng được
chấp nhận, các biến trong mô hình giải thích được 19,5% sự biến thiên của biến quyết định
đầu tư.

Các biến số, thông số kiểm định
Cơ sở hạ tầng
Chi phí

Hệ số đã
chuẩn hóa

Sig.

.410*

.000

-.223*


.000

Biến phụ thuộc: Quyết đinh đầu tư
*. Tương quan có ý nghĩa ở mức 0.001 (2 phía).
Đối với Cơ sở hạ tầng: Các thông số hồi quy cũng cho thấy, cơ sở hạ tầng có ảnh
hưởng quan trọng và cùng chiều tới quyết định đầu tư với ß = 0.410 (p<0.001). Có thể kết
luận là có đủ cơ sở kết luận chấp nhận giả thuyết H01
Đối với chi phí: Kết quả hồi quy cũng cho thấy yếu tố chi phí có ảnh hưởng quan
trọng và ngược chiều tới quyết định đầu tư của doanh nghiệp với ß = -0.223 (p<0.01). Có đủ
cơ sở kết luận chấp nhận giả thuyết H02.

4. Thảo luận kết quả nghiên cứu
Đây là một trong những nghiên cứu đầu tiên phân tích ảnh hưởng của cơ sở hạ tầng và
chi phí tới quyết định đầu tư của các DNNVV tại Việt Nam.
Về cơ sở hạ tầng: Phân tích cho thấy, yếu tố cơ sở hạ tầng giữa vai trò ảnh hưởng
quan trọng và tích cực nhất đến quyết định đầu tư của doanh nghiệp. Điều này hàm ý rằng,
các DNNVVV ưu tiên đầu tư phát triển hoạt động kinh doanh tại một địa phương khi họ được
thỏa mãn các điều kiện về cơ sở hạ tầng hơn các địa phương khác. Những kết quả này cho
phép chúng ta suy luận rằng các DNNVV sẵn sàng tìm kiếm các địa phương có ưu thế về cơ
sở hạ tầng có thể giúp doanh nghiệp gia tăng lợi ích. Do đó, họ đặc biệt nhấn mạnh vào sự tồn
tại của các cơ sở hạ tầng phát triển tốt như sự sẵn có và chất lượng của nguồn nhân lực có tay
nghề, đất đai, nguồn vốn, công nghệ và tiếp cận được các nhà cung cấp đáng tin cậy. Điều này
cũng phù hợp với lý thuyết hành vi đầu tư của Dunning (1980, 1988, 1993), theo đó, một địa
phương sẽ trở thành lựa chọn vị trí đầu tư của doanh nghiệp nếu nó tạo ra những lợi thế trong
cung cấp nguồn lực như đất đai, lao động, tài nguyên thiên nhiên và các hạ tầng khác phục vụ
8


sản xuất kinh doanh. Đồng thời, xét về bối cảnh thực tế tại Việt Nam, cho dù cơ sở hạ tầng là

yếu tố được chính quyền từ trung ương đến địa phương quan tâm đầu tư, cải thiện nhưng có
vẻ như các DNNVV hiện vẫn khó khăn khi tiếp cận các nguồn lực này. Nổi bật trong đó chính
là những bất cập trong quá trình tiếp cận đất đai, nguồn vốn và nguồn lao động có chất lượng.
Do đó kết quả của nghiên cứu là phù hợp với bối cảnh hiện nay của Việt Nam.
Về chi phí: Lý thuyết của Dunning (1980, 1988, 1993) đề cập ở trên cũng hỗ trợ cho
phát hiện của nghiên cứu về vai trò của nhóm yếu tố chí phí. Theo kết quả nghiên cứu, song
song với cơ sở hạ tầng, chi phí cũng là vấn đề mà các DNNVV rất dành nhiều sự quan tâm và
có ảnh hưởng lớn khi quyết định đầu tư (ß= -0.219). Theo Dunning, một địa phương có lợi thế
và vị trí nghĩa là phải đảm cho các doanh nghiệp được thụ hưởng nguồn lực nhân tố đầu vào
với chi phí thấp hơn. Nghĩa là, các doanh nghiệp được cung cấp tài nguyên với giá rẻ và an
toàn hơn so với các địa phương khác. Như vậy, vấn đề được rút ra là, yếu tố chi phí lớn thực
sự đã trở thành sẽ là một rào cản đáng kể đối với các DNNVV tại Việt Nam vốn đã có những
hạn chế về quy mô đầu tư quá nhỏ bé nên bị giới hạn về năng lực tài chính. Chính những hạn
chế này làm cho khả năng đáp ứng chi phí huy động các nguồn lực giảm đi, chẳng hạn việc
thất thế so với các doanh nghiệp lớn có tiềm lực tài chính hùng mạnh, nên không thể tận dụng
lợi thế quy mô khi thuê, mua một số lượng lớn và thời gian dài các nguồn lực đầu vào do đó
phải chấp nhận một mức chi phí cao hơn. Không những vậy, các doanh nghiệp nhà nước hoặc
các doanh nghiệp có quan hệ thân hữu với giới chức địa phương sẽ dành được nhiều ưu ái hơn
khi tiếp cận các nguồn lực chi phí thấp. Với nhiều nguyên nhân khác nhau, có vẻ như các
nguồn lực chi phí thấp không được phân bổ nhiều cho các DNNVV tại Việt Nam.
4. Kết luận
Các nghiên cứu trước đây chủ yếu là tập trung ở góc độ vĩ mô hay cấp độ quốc gia,
chưa đủ để cung cấp nhiều kết quả cụ thể để nhận thức các khía cạnh cơ sở hạ tầng và chi phí
có vai trò quan trọng như thế nào để thúc đẩy đầu tư của các DNNVV tại một phạm vi nhỏ
hơn, cụ thể là tại một địa phương. Hơn nữa, bằng chứng từ các nghiên cứu tại các quốc gia
khác có thể không phản ánh chính xác những yếu tố nào là thực sự quan trọng đối với các
DNNVV tại Việt Nam. Kết quả của nghiên cứu này nhấn mạnh vào tính cấp thiết phải cải
thiện cả hai yếu tố cơ sở hạ tầng và chi phí nếu các địa phương muốn thúc đẩy đầu tư của các
DNNVV hiện nay.
Tài liệu tham khảo


[1.] Christian M. Rogerson, 2009. Local Investment Incentives for Urban Economic
Development: Recent Debates in South African Cities. Urban Forum.
[2.] David Dollar, Mary Hallward-Driemeier and Taye Mengistae, 2005. Investment
Climate and Firm Performance in Developing Economies. Economic Development
and Cultural Change.
[3.] Hoa, D.T.T. and Lin, J.Y., 2016. Provincial Governance and Foreign Direct
Investment in Vietnam: An empirical study at sub-nation level. International Journal
of Research in Finance and Marketing.
[4.] Mary Hallward-Driemeier, Scott Wallsten and Lixin Colin Xu, 2006.
Ownership, investment climate and firm performance Evidence from Chinese firms.
Economics of Transition.
9


[5.] Mauro, P., 1995. Corruption and growth. Quarterly Journal of Economics, 110,
pp. 681-712
[6.]
Tae Hoon Oum and Jong-Hun Park, 2004. Multinational firms’ location
preference for regional distribution centers: focus on the Northeast Asian region.
Transportation Research Part E.
[7.] Thuy, N.T. and Mathijs A. van Dijk, 2008. Corruption and growth_Private vs
state-owned firms in Vietnam. Journal of Banking & Finance.
[8.] Tuyen, T,Q., Huong, V.V., Tinh, D.T. and Hiep T.D., 2016. Corruption,
provincial institutions and manufacturing firm productivity: New evidence from a
transitional economy. Estudios de Economía, N.43, Vol.2.
[9.] Viet, P.H., 2013. Effects of changes in provincial governance on the economic
performance of the business sector: an empirical study using Vietnam’s Provincial
Competitiveness Index. Waseda business &economic, 49.


10



×