Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

ĐỔI mới một số BIỆN PHÁP SINH HOẠT tổ CHUYÊN KHỐI mẫu GIÁO NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIÁO dục tại TRƯỜNG mầm NON THÀNH công

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (620.87 KB, 22 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA

PHÒNG GD&ĐT HUYỆN THẠCH THÀNH

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

ĐỔI MỚI MỘT SỐ BIỆN PHÁP SINH HOẠT TỔ
CHUYÊN KHỐI MẪU GIÁO NHẰM NÂNG CAO CHẤT
LƯỢNG GIÁO DỤC TẠI TRƯỜNG MẦM NON THÀNH
CÔNG

Người thực hiện: Trần Thị Bình
Chức vụ: Phó Hiệu Trưởng
Đơn vị công tác: Trường Mầm non Thành Công
SKKN thuộc lĩnh vực: Quản lý

THẠCH THÀNH, NĂM 2019
MỤC LỤC


TT

NỘI DUNG

Trang


1. Mở Đầu

1.1
1.2


1.3
1.4

Lý do chọn đề tài
Mục đích nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Phương Pháp nghiên cứu
2. Nội dung của sáng kiến
2.1
Cơ sở lý luận của sáng kiến
2.2
Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
2.2.1
2.2.2
2.2.3
2.3
2.3.1
2.3.2
2.3.3
2.3.4
2.3.5
a
b
c
d
2.4
3.1

1


Thuận lợi
Khó khăn
Kết quả của thực trạng

1
2
2
2
2
2
3
3
3
4

Các biện pháp sinh hoạt tổ chuyên môn mẫu giáo

4

Thay đổi nhận thức về sinh hoạt tổ chuyên môn
Xây dựng và triển khai kế hoạch
Công tác tự bồi dưỡng
Nâng cao chất lượng sinh hoạt tổ chuyên môn
Một số nội dung mới trong sinh hoạt tổ chuyên môn khối mẫu
giáo
Đổi mới chuyên môn theo nghiên cứu bài dạy
Thảo luận những vấn đề đã được định hướng
Nội dung sinh hoạt: Làm đồ dùng, đồ chơi
Tổ chức hoạt động học ở trên lớp mẫu giáo có trẻ khuyết tật hòa
nhập


4

Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
3. Kết luận, kiến nghị

Kết luận

3.2
Kiến nghị
3.2.1 Đối với giáo viên và nhà trường
3.2.2 Đối với Phòng giáo dục và đào tạo

5
7
8
9
10
12
12
13

15
16
16
16
16
16



1 Mở đầu
1.1. Lý do chọn đề tài:
Sinh thời, Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nói: “ Nghề dạy học là nghề
cao quý nhất trong những nghề cao quý, nghề sáng tạo nhất trong các nghề sáng
tạo. Các thầy cô giáo không những dạy chữ mà còn dạy người, họ cứ như cây
thông trên sườn núi, cây quế giữa rừng sâu thẳm lặng lẽ tỏa hương dâng hiến trí
tuệ, sức lực cho đời” [1] Câu nói ấy không những quen thuộc mà dường như
thấm sâu vào trong tiềm thức những người đã và đang công tác trong nghành
giáo dục. Nó như một lời nhắc nhở và trở thành động lực tiếp thêm sức mạnh
cho đội ngũ nhà giáo không ngừng học tập, rèn luyện để hoàn thiện và xứng
đáng với vai trò của người thầy giáo, cô giáo một nghề mà luôn được xã hội tôn
kính.
Giáo dục mầm non là cấp học đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân có
vai trò và vị trí vô cùng quan trọng trong chiến lược phát triển nguồn nhân lực
chất lượng cao cho đất nước.Thông qua hoạt động chăm sóc và gáo dục những
kỹ năng mà trẻ tiếp thu được qua chương trình chăm sóc giáo dục mầm non sẽ là
nền tảng cho việc học tập và thành công sau này của trẻ. Do vậy việc phát triển
và nâng cao chất lượng đội ngũ là việc làm vô cùng quan trọng và cấp thiết vì
đội ngũ giáo viên là lực lượng cốt cán biến mục tiêu giáo dục thành hiện thực,
giữ vai trò quyết định đến chất lượng và hiệu quả của giáo dục. Đặc biệt là tổ
chuyên môn với vai trò là cầu nối giữa ban giám hiệu với giáo viên và học sinh
được thể hiện rõ trong điều 14 (Điều lệ trường mầm non ban hành theo QĐ số:
04/VBHN- BGDĐT ngày 24/12/2015)
Tuy nhiên trong thực tế công tác sinh hoạt chuyên môn trong những năm
qua đã có những bước tiến bộ song về chất lượng còn nhiều hạn chế:
Nội dung kế hoạch, sổ ghi biên bản, sổ theo dõi chuyên môn còn nặng nề
hình thức. Xây dựng kế hoạch hoạt động chuyên môn còn mang tính đối phó,
chưa căn cứ vào chất lượng thực tế của tổ để xác định các chuyên đề và nội
dung cần sinh hoạt.
Nhận thức về công tác sinh hoạt chuyên môn của một bộ phận giáo viên

chưa sâu sắc, chưa tích cực.Các giờ sinh hoạt, trao đổi chuyên môn còn dựa
nhiều vào sự chỉ đạo của Ban giám hiệu. Dẫn đến giáo viên chưa phát huy hết
vai trò của mình, chưa mạnh dạn trong việc đề xuất các ý kiến để nâng cao chất
lượng sinh hoạt chuyên môn.
Nội dung sinh hoạt chưa phong phú, hình thức đơn điệu, gò bó, không được
cải tiến, hầu như là theo một tiến trình người được phân công trình bày báo cáo
phần chuẩn bị, các thành viên trong tổ góp ý (rất hạn chế), sau đó lấy ý kiến của
tập thể (hầu như là nhất trí), chưa có sự đổi mới và đột phá, nội dung chưa đi sâu
vào các vấn đề trọng tâm đổi mới phương pháp dạy học và tháo gỡ những khó
khăn cho giáo viên trong tổ. Trong các buổi sinh hoạt không khí thường trầm
lắng, những vấn đề mới ít được mang ra bàn bạc, thảo luận.Vì thế hằng năm chất
lượng sinh hoạt tổ chuyên môn khối mẫu giáo chưa đạt kết quả cao.Nguyên
nhân của sự hạn chế, yếu kém này chính là khâu bồi dưỡng chuyên môn cho
giáo viên trong các buổi sinh hoạt chuyên môn của tổ khối chưa đạt hiệu quả.
Qua tìm hiểu thực tế tôi thấy sinh hoạt tổ chuyên môn ở trường còn mang nặng
4


tính hình thức, thiếu sự đa dạng về hình thức tổ chức và phong phú về nội dung.
Chưa khuyến khích và lôi cuốn giáo viên vào hoạt động sinh hoạt chuyên môn
của tổ khối.Bên cạnh đó đặc thù của trường Mầm non Thành Công đều là nữ,
mà đa số giáo viên tổ khối mẫu giáo đang trong độ tuổi sinh đẻ cũng ít nhiều ảnh
hưởng đến công tác chuyên môn. Đứng trước tình hình trên bản thân là một cán
bộ quản lý phụ trách chuyên môn tôi luôn suy nghĩ và trăn trở để tìm ra một số
phương pháp sinh hoạt tổ chuyên môn cho phù hợp với khả năng của giáo viên,
phù hợp với điều kiện thực tế của trường để nâng cao chất lượng giáo dục toàn
trường nói chung và tổ chuyên môn khối mẫu giáo nói riêng. Đưa tổ chuyên
môn khối mẫu giáo thành một khối phát triển vững mạnh.
Chính vì vậy tôi đã chọn đề tài: “Đổi mới một số biện pháp sinh hoạt tổ
chuyên môn khối mẫu giáo nhằm nâng cao chất lượng giáo dục tại trường

mầm non Thành Công huyện Thạch Thành”.
1.2. Mục đích nghiên cứu:
Nhằm mục đích đổi mới một số biện pháp sinh hoạt tổ chuyên môn khối
mẫu giáo nhằm nâng cao chất lượng giáo dục.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
Các biện pháp sinh hoạt tổ chuyên môn khối mẫu giáo trong trường mầm
non Thành Công.
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết.
- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin.
- Phương pháp thống kê, xử lý số liệu.
- Phương pháp đàm thoại và phương pháp quan sát
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lý luận:
Tổ chuyên môn là một bộ phận cấu thành trong bộ máy tổ chức, quản lý
của nhà trường mầm non.
Trong trường các tổ chuyên môn có mối quan hệ hợp tác với nhau phối hợp
với các bộ phận nghiệp vụ khác và tổ chức đoàn thể trong nhà trường nhằm thực
hiện chiến lược phát triển của nhà trường, chương trình giáo dục, các hoạt động
giáo dục và các hoạt động khác hướng tới mục tiêu giáo dục. Tổ chuyên môn
giúp Ban giám hiệu điều hành các hoạt động nghiệp vụ chuyên môn có liên quan
đến chăm sóc giáo dục, trực tiếp quản lí giáo viên trong tổ theo nhiệm vụ quy
định. Tổ chuyên môn còn là cầu nối giữa Ban giám hiệu và giáo viên trong tổ về
thông tin hai chiều mục tiêu cuối cùng là nâng cao chất lượng giáo dục.
Tổ chuyên môn là đơn vị cơ sở trực tiếp nhất đối với các hoạt động của
giáo viên, là nền tảng để tổ chức và triển khai thực hiện các hoạt động chuyên
môn một cách cụ thể và hiệu quả. Tổ chuyên môn có vai trò quan trọng trong
quá trình thực hiện đổi mới phương pháp dạy học, là “trung tâm” bồi dưỡng giáo
viên nhằm giúp giáo viên nâng cao năng lực chuyên môn. Đồng thời, tổ chuyên
môn là nơi quản lý trực tiếp bồi dưỡng giáo viên về nhận thức, chuyên môn

nghiệp vụ, phát hiện ra những điểm mạnh, điểm yếu, thuận lợi và khó khăn của
từng giáo viên trong quá trình chăm sóc giáo dục. Tổ chuyên môn là bộ phận
chủ yếu giữ vai trò quan trọng trong công tác bồi dưỡng nâng cao trình độ
5


chuyên môn nghiệp vụ cho giáo viên. Chỉ có ở tổ chuyên môn, giáo viên mới có
điều kiện trực tiếp và thuận lợi nhất để rèn luyện và từng bước nâng cao trình độ
tay nghề của mình. Bởi vì sinh hoạt tổ chuyên môn có tính tổ chức, chủ động và
mang tính tập thể cao.
Không những thế nhiệm vụ của tổ chuyên môn còn được thể hiện rõ trong
Điều 14 (Điều lệ trường mầm non ban hành kèm theo QĐ số: 04/VBHNBGDĐT ngày 24/12/2015) đó là: Xây dựng kế hoạch hoạt đông chung của tổ
theo tuần, tháng, năm học nhằm thực hiện chương trình, kế hoạch nuôi dưỡng,
chăm sóc giáo dục trẻ và các hoạt động giáo dục khác. Thực hiện bồi dưỡng
chuyên môn, nghiệp vụ, kiểm tra, đánh giá chất lượng, hiệu quả công tác nuôi
dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ và quản lí sử dụng tài liệu, đồ dùng, đồ chơi, thiết
bị giáo dục của các thành viên trong tổ theo kế hoạch của nhà trường. Tham gia
đánh giá, xếp loại giáo viên theo chuẩn nghề nghiệp giáo viên mầm non. Đề
xuất khen thưởng, kỷ luật giáo viên.
Nhận thấy được nhiệm vụ và tầm quan trọng của tổ chuyên môn. Tôi luôn
mong rằng tổ chuyên môn khối mẫu giáo sinh hoạt phải như thế nào để trở thành
nơi các giáo viên chia sẻ về chuyên môn, là môi trường tốt nhất cho những giáo
viên còn hạn chế về năng lực và chưa có kinh nghiệm trong chăm sóc giáo dục
trẻ, nhất là những giáo viên mới vào nghề có dịp để trao đổi, học tập kinh
nghiệm nâng cao trình độ tay nghề, góp phần tháo gỡ những khó khăn trong quá
trình giáo dục trẻ và thực hiện nhiệm vụ được giao.
Như vậy thực chất của việc sinh hoạt chuyên môn là gì? Đó chính là làm
thế nào để nâng cao chất lượng giáo dục trẻ mầm non. Và làm thế nào để hoạt
động của tổ chuyên môn phát huy được hiệu quả?Đó là phải đổi mới phương
pháp sinh hoạt tổ chuyên môn.

2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm:
2.2.1. Thuận lợi:
Ban giám hiệu nhà trường luôn đầu tư quan tâm, thường xuyên kiểm tra,
đôn đốc để thúc đẩy chất lượng hoạt động của các tổ chuyên môn trong nhà
trường nói chung và tổ chuyên môn khối mẫu giáo nói riêng.
Đa số đội ngũ giáo viên trong tổ đoàn kết, thống nhất tích cực, chịu khó
học hỏi, có phẩm chất đạo đức tốt, có uy tín với học sinh và phụ huynh.
Bản thân tôi luôn nhiệt tình trong công việc, có tinh thần trách nhiệm cao,
có uy tín với đồng nghiệp phụ huynh học sinh, biết lắng nghe ý kiến của mọi
người đóng góp, tạo sự đoàn kết trong tổ, gương mẫu, công bằng, sắn sàng giúp
đỡ đồng nghiệp, luôn tích cực tự học, tự bồi dưỡng để nâng cao năng lực chuyên
môn, nghiệp vụ.
2.2.2. Khó khăn:
Công tác sinh hoạt chuyên môn trong những năm qua đã có nhiều chuyển
biến tuy nhiên vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn:
Trình độ của giáo viên không đồng đều dẫn đến vẫn còn một số giáo viên
còn khá lúng túng trong cách tổ chức các hoạt độngchăm sóc và giáo dục trẻ.
100% giáo viên là nữ nên cũng ít nhiều bị chi phối bởi công việc gia đình
với thiên chức làm mẹ đã phần nào ảnh hưởng đến chất lượng của tổ chuyên
môn.
6


Thời gian để tổ chức các buổi sinh hoạt chuyên môn còn ít hầu như là tranh
thủ và lồng ghép dẫn đến chất lượng của buổi sinh hoạt chưa cao.
Đồ dùng, đồ chơi phục vụ chơi và học còn thiếu chưa đáp ứng được yêu
cầu giáo dục phần nào ảnh hưởng đến công tác chăm sóc và giáo dục trẻ.
2.2.3. Kết quả của thực trạng
Đánh giá thực trạng chất lượng giáo viên khối mẫu giáo năm học 20172018 trường mầm non Thành Công được thể hiện như sau:
Tổng số giáo viên tổ chuyên môn khối mẫu giáo: 13 giáo viên.

Tổng
Số giáo
viên

13

Tỉ lệ
SKKN
A: 2
B: 6
C: 4
KĐ: 1

(%)
15
46
31
8

Giáo viên
dạy giỏi
Giỏi: 3
Khá: 7
TB: 3
Yếu 0

Tỉ lệ
(%)
23
54

23
0

Đồ dùng
đồ chơi
A: 2
B: 6
C: 4
KĐ: 1

Tỉ lệ
(%)
15
46
31
8

Từ bảng khảo sát trên ta nhận thấy tỷ lệ giáo viên dạy giỏi cấp trường, xếp
loại xuất sắc theo chuẩn nghề nghiệp thấp, SKKN và ĐDĐC xếp loại A còn
thấp, đang còn tồn tại giáo viên xếp loại trung bình. Đây có thể nói rằng chất
lượng đội ngũ giáo viên của tổ còn hạn chế, chưa tương xứng với tiềm năng của
nhà trường.
Trước thực trạng này bản thân là một cán bộ quản lý phụ trách chuyên môn
khối mẫu giáo, tôi luôn suy nghĩ phải tìm cách đưa ra những phương pháp như
thế nào để mỗi giáo viên trong tổ của mình hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được
giao gặt hái được nhiều kết quả, để sớm khắc phục những tồn tại nhằm nâng cao
chất lượng giáo dục.
2.3. Các biện pháp sinh hoạt tổ chuyên môn khối mẫu giáo:
2.3.1. Thay đổi nhận thức về sinh hoạt tổ chuyên môn:
Trong buổi sinh hoạt: Tôi động viên giáo viên học tập tấm gương thầy cô

giáo dạy giỏi đã cống hiến cuộc đời cho giáo dục, lấy đó làm mục tiêu phấn đấu
sự nghiệp của mình và coi đây là nhiệm vụ của mỗi cá nhân. Tôi giúp giáo viên
nhận thức sâu sắc về sự cần thiết của công tác sinh hoạt chuyên môn.Phải hiểu
rằng, muốn có chỗ đứng vững chắc, bền chặt trong ngành giáo dục thì nhất thiết
phải luôn tự học, tự bồi dưỡng nâng cao năng lực chuyên môn của bản thân.
Trong những năm qua nội dung sinh hoạt tổ chuyên môn chủ yếu được
thực hiện theo kiểu cũ là đánh giá công tác chuyên môn của tổ thời gian qua,
triển khai công tác thời gian tới, thảo luận một số vấn đề theo yêu cầu của nhà
trường như: Dự thảo kế hoạch thực hiện nhiệm vụ năm học,…Chính vì thế ngay
từ đầu năm học tôi đã thay đổi nội dung sinh hoạt và đi vào chiều sâu.
Tôi nghĩ rằng chỉ nói không thôi thì khó có thể thay đổi thói quen sinh hoạt
và nhận thức về buổi sinh hoạt chuyên môn bấy lâu nay. Cho nên ngay từ tháng
đầu tiên của năm học tôi đã tổ chức một buổi sinh hoạt chuyên môn với nội
dung đi sâu về chuyên môn, về những vướng mắc mà tất cả giáo viên đều mắc
7


phải làm cho giáo viên trở nên quan tâm và đưa ra nhiều ý kiến để giải quyết vấn
đề đó là: Vào tuần đầu của tháng 9: Tất cả giáo viên đều khảo sát chất lượng trẻ
và làm sổ chất lượng chăm sóc giáo dục, qua việc duyệt hồ sơ sổ sách tôi thấy sổ
chất lượng chăm sóc giáo dục giáo viên làm sai rất nhiều bao gồm cả giáo viên
lâu năm. Vì thế vào tuần thứ 2 của tháng 9 tôi đã tổ chức sinh hoạt tổ chuyên
môn với nội dung: Làm sổ chất lượng chăm sóc giáo dục. Trước tiên tôi chỉ ra
những chỗ làm sai của từng giáo viên.
Ví dụ: Về chất lượng giáo dục: Cô Hồng: Đánh giá sai ở các lĩnh vực phát
triển
Cụ thể: Khảo sát lần 1 vào tháng 9 ở 5 lĩnh vực phát triển cháu Tuấn Anh với 3
lĩnh vực đạt 2 lĩnh vực không đạt kết quả chung là đạt tuy nhiên cô đánh giá
cháu là chưa đạt
Còn cô Lan chỉ có trẻ đạt, không có trẻ không đạt tôi thấy điều này là vô

lý. Vì đầu năm học có trẻ xếp loại yếu, TB, khá và tốt, trẻ yếu thì có thể không
đạt lĩnh vực nào hay chỉ đạt 1 đến 2 lĩnh vực như: Một trẻ xếp loại yếu được
thể hiện: 0 – 5 hay 1 – 4, 2 – 3; Trẻ xếp loại TB: 3 – 2 (3 lĩnh vực đạt, 2 lĩnh
vực không đạt); Trẻ xếp loại khá: 4 – 1 (4 lĩnh vực đạt, 1 lĩnh vực không đạt);
Trẻ xếp loại Tốt: 5 – 0 (5 lĩnh vực đạt, không có lĩnh vực không đạt).
Khi tôi nhận xét đến cô nào thì cô đấy rất chăm chú lắng nghe và xem lại
sổ của mình làm.Không còn tình trạng ngồi nói chuyện phiếm với nhau như
những buổi sinh hoạt trước, mà giáo viên trở nên rất quan tâm đến nội dung
trong buổi sinh hoạt.Từ đó giáo viên không còn tình trạng làm sai sổ.Cũng chính
từ buổi sinh hoạt đầu tiên của năm học tôi đã thay đổi được cách nhìn nhận khác
hẳn của giáo viên về công tác sinh hoạt tổ chuyên môn và thấy được sinh hoạt tổ
chuyên môn là rất quan trọng và cần thiết.

Hình ảnh buổi sinh hoạt tổ chuyên môn khối mẫu giáo
2.3.2. Xây dựng và triển khai kế hoạch:
Việc xây dựng kế hoạch tổ chuyên môn phải căn cứ vào kế hoạch của nhà
trường và kế hoạch đó phải có tính khả thi giúp cho tổ hoạt động tốt. Cho nên
ngay từ đầu năm học tôi cho tổ tiến hành họp nghiên cứu các văn bản hướng dẫn
8


thực hiện nhiệm vụ năm học của các cấp, đồng thời phân tích kĩ tình hình thực tế
của tổ, thống nhất lập kế hoạch năm, kế hoạch được triển khai thực hiện khi
được nhà trường góp ý và thống nhất. Mỗi tháng tổ đánh giá công tác tháng qua
đề ra kế hoạch tháng tới, kết hợp định hướng kế hoạch tuần một cách cụ thể, nội
dung cụ thể, luôn chú ý đến các chỉ tiêu thi đua, không áp đặt, tránh lập kế
hoạch đối phó hình thức, kế hoạch chung chung.
Sau khi hoàn thành bản dự thảo kế hoạch năm học của tổ chuyên môn khối
mẫu giáo, tôi gửi dự thảo cho các giáo viên trong tổ nghiên cứu trước để có
những ý kiến đóng góp tốt hơn cho bản dự thảo kế hoạch.Sau đó tôi cho tiến

hành họp chuyên môn khối mẫu giáo cùng trao đổi, thảo luận về dự thảo kế
hoạch năm học.Trước khi trao đổi, thảo luận tôi cho giáo viên nắm rõ được ý
nghĩa của việc xây dựng kế hoạch của tổ chuyên môn.
Trong buổi sinh hoạt các thành viên trao đổi, phát biểu ý kiến xây dựng
đóng góp ý kiến phần nhận xét đánh giá và bổ sung kế hoạch, cả tổ thống nhất
thực hiện. Đặc biệt không chấp nhận ý kiến chung chung muôn thuở “Tôi đồng
ý với ý kiến của tổ”,…Còn bản thân tôi là cán bộ quản lý phụ trách chuyên môn
tổ mẫu giáo chịu trách nhiệm điều hành, theo dõi, kiểm tra đôn đốc, ghi nhận
thông tin phản hồi từ phía giáo viên, đánh giá nhận xét ưu điểm, tồn tại vào buổi
sinh hoạt chuyên môn lần sau, hoặc hội ý đột xuất để kịp thời điều chỉnh các
hoạt động phù hợp do các nguyên nhân khách quan hoặc chủ quan.
Ví dụ: Trong bản dự thảo kế hoạch năm học của tổ chuyên môn khối mẫu
giáo với chỉ tiêu đặt ra:
- 100% các lớp thực hiện chương trình giáo dục mầm non đạt loại khá
và tốt.
- 100% trẻ 5 tuổi được cung cấp kiến thức và kỹ năng, các bé đủ điều
kiện vào lớp 1. Kết quả khảo sát chất lượng cuối năm đạt từ khá trở lên,
trong đó tốt > 50%.
Với chỉ tiêu đưa ra như vậy, các thành viên cho ý kiến: Chỉ tiêu đặt ra như
thế là cao hay thấp, nếu có ý kiến chỉ tiêu đặt ra cao quá thì phải đưa ra chỉ tiêu
khác nhưng phải phù hợp và lấy chỉ tiêu đó để phấn đấu.
Tiếp theo tôi tổng kết thảo luận, ghi nhận, tiếp thu, xem xét, điều chỉnh
trong bản thảo và nộp cho hiệu trưởng. Sau đó tôi căn cứ vào kế hoạch năm học
của nhà trường một lần nữa tôi điều chỉnh lại kế hoạch của tổ thành kế hoạch
chính thức, gửi cho hiệu trưởng ký duyệt, khi kế hoạch đã được ký duyệt tôi cho
giáo viên căn cứ vào kế hoạch này để điều chỉnh lại kế hoạch của cá nhân và
thực hiện trong năm học.
Mà trong kế hoạch thì nội dung sinh hoạt là phần quan trọng. Nội dung là
những công việc cần làm cho cả năm học và bổ xung những vấn đề nhà trường
chỉ đạo hoặc nảy sinh sau mỗi lần kiểm tra, những vấn đề giáo viên chưa nắm

vững hoặc gặp khó khăn trong quá trình chăm sóc giáo dục trẻ. Đặc biệt quan
tâm đến những giáo viên năng lực còn hạn chế và có kế hoạch bồi dưỡng (bổ
xung thêm những việc cần làm vào kế hoạch của tổ).
Nhận thấy được tầm quan trọng của việc xây dựng kế hoạch, giáo viên
trong tổ đã có những ý kiến xây dựng rất tốt như: “Nên đưa nội dung tổ chức
9


thi đua giữa các khối lớp với nhau vào nội dung kế hoạch”. Chính vì vậy bản
dự thảo kế hoạch năm học của tổ mẫu giáo được hiệu trưởng đánhgiá cao.

Hình ảnh xây dựng kế hoạch tổ chuyên môn khối mẫu giáo
2.3.3. Công tác tự bồi dưỡng:
Xuất phát từ thực tế, tổ chuyên môn thực hiện công tác bồi dưỡng và tự bồi
dưỡng trong suốt cả năm học. Đây là một trong những nội dung cơ bản trong
việc sinh hoạt tổ chuyên môn.
Trước hết bản thân là một phó hiệu trưởng phụ trách chuyên môn tôi luôn
luôn bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho bản thân như: Nắm vững các văn bản
chỉ đạo, nội dung chương trình giáo dục mầm non. Có như vậy mới có kiến
thức, kĩ năng xây dựng và thực hiện kế hoạch tổ theo năm học, tháng, tuần.
Kiểm tra hồ sơ, sổ sách, việc thực hiện chương trình của các thành viên trong tổ,

Bồi dưỡng kĩ năng đánh giá giáo viên theo chuẩn nghề nghiệp giáo viên
mầm non. Bồi dưỡng kĩ năng tổ chức, sắp xếp nội dung sinh hoạt tổ chuyên môn
cho cả năm học, cho từng buổi cụ thể. Bồi dưỡng năng lực tổ chức, điều hành
một buổi sinh hoạt chuyên môn, tổ chức một chuyên đề, một cuộc thi trong tổ,
phân công nhiệm vụ cho các thành viên trong tổ đúng người, đúng việc.
Tiếp đến là công tác tự bồi dưỡng của các thành viên trong tổ: Giáo viên
trong tổ có trình độ chuyên môn chưa đồng đều, công tác tự bồi dưỡng hoàn
thiện chuyên môn nghiệp vụ của một số giáo viên chưa tốt. Cho nên trong buổi

sinh hoạt tổ chuyên môn tôi đã đưa ra tầm quan trọng của việc tự bồi dưỡng và
10


tự bồi dưỡng như thế nào là tốt?Bồi dưỡng những gì? (đó là bồi dưỡng về tư
tưởng chính trị, về chuyên môn nghiệp vụ).
Muốn có chất lượng bồi dưỡng tốt vào đầu năm học tôi cho giáo viên
trong tổ đăng ký xấy dựng kế hoạch tự bồi dưỡng của cá nhân về nội dung,
phương pháp, hình thức và có thể điều chỉnh cho thích hợp với năng lực của
mình theo từng thời điểm cụ thể. Từ đó giáo viên rèn luyện được năng lực thiết
kế kế hoạch chăm sóc giáo dục, kế hoạch cá nhân.Đây là kĩ năng phục vụ cho
việc lựa chọn, vận dụng hình thức, nội dung cho phù hợp với từng độ tuổi. Mỗi
tháng giáo viên có ít nhất 2 nội dung bồi dưỡng Ví dụ: Về phần lý thuyết:
Phương pháp dạy học và hình thức tổ chức tiết học có hiệu quả; về phần thực
hành: Dạy 1 đến 2 tiết học thuộc môn làm quen với toán.
Ngoài ra tôi hướng cho giáo viên phải ghi chép tất cả các nội dung tự bồi
dưỡng thông qua sinh hoạt chuyên môn, hội thảo chuyên đề, qua dự giờ, hội
giảng, thanh kiểm tra và các cuộc thi. Có thể tự trao đổi, hội ý nhanh những
vấn đề trong khi dạy mà trẻ khó hiểu, không chú ý, khó dạy, không nhất thiết
phải chờ đến họp tổ. Khi tổ chuyên môn, BGH dự giờ có những ý kiến góp ý,
cá nhân giáo viên nên rút kinh nghiệm và có ý thức phấn đấu để nâng cao năng
lực chuyên môn.
Kết quả của công tác tự bồi dưỡng của các thành viên trong tổ: 100% giáo
viên thực hiện đúng nội dung tự bồi dưỡng do nhà trường quy định, nội dung tự
bồi dưỡng đảm bảo theo kế hoạch, đa dạng về hình thức và phong phú về các
kiến thức tự bồi dưỡng. Những giáo viên có kĩ năng sư phạm tốt những hạn chế
về kiến thức chuyên môn, qua việc hướng dẫn tự bồi dưỡng, bản thân những
giáo viên này đã phát huy được năng lực, từ chỗ chưa năm nào đạt giáo viên giỏi
đến nay đã đạt được giáo viên giỏi.
2.3.4. Nâng cao chất lượng các buổi sinh hoạt tổ chuyên môn:

Hình thức tổ chức buổi sinh hoạt chuyên môn thường xuyên thay đổi cho
phù hợp với tính chất của công việc
Ví dụ: Các buổi sinh hoạt chuyên môn đầu năm tổ chức theo hình thức tập
trung để thống nhất quan điểm, hình thức làm việc cho cả năm, các buổi sinh
hoạt chuyên môn thường kỳ tùy vào nhiệm vụ cụ thể mà lựa chọn địa điểm sinh
hoạt luân phiên.
Nội dung sinh hoạt chuyên môn tôi thường xuyên thay đổi có những nội
dung mới, vận dụng phù hợp với thực tế của trường. Chỉ nghiên cứu những nội
dung chuyên môn thấy thật cần thiết.
Ví dụ: Chuyên đề: Làm đồ dùng đồ chơi, phát triển vận động,…Hay trong
buổi sinh hoạt tôi đưa ra nội dung: Phong trào viết sáng kiến kinh nghiệm, sở
dĩ tôi đưa ra nội dung này bởi vì trong những năm qua phong trào viết sáng
kiến kinh nghiệm của giáo viên trong trường rất hạn chế, chỉ làm đối phó, làm
cho có để không mất thi đua, chủ yếu là sao chép trên mạng chỉnh sửa con số,
hay ra quán photo nhờ chỉnh sửa. Cho nên tất cả các giáo viên không hiểu viết
sáng kiến kinh nghiệm là như thế nào. Chính vì vậy trong buổi sinh hoạt tổ
chuyên môn tôi đưa ra được lợi ích của việc viết SKKN và hướng dẫn cách
viết bằng cách cho đọc công văn hướng dẫn viết SKKN của phòng Giáo dục và
Đào tạo, cho đọc tham khảo những sáng kiến hay. Gợi ý, hướng dẫn cho những
11


giáo viên gặp khó khăn trong quá trình nghiên cứu. Kết quả đến cuối năm học
tôi thấy SKKN của giáo viên trong tổ đã có sự đầu tư, tự mình tìm hiểu và viết
ra SKKN, đặc biệt có 2 đề tài của 2 giáo viên trong tổ đã đạt được loại B cấp
huyện.
Ngoài các nội dung trên, tôi đã tổ chức sinh hoạt với các nội dung khác
như: Kĩ năng dự giờ, đánh giá giờ dạy, dành nhiều thời gian hơn cho việc phân
tích, đánh giá và rút kinh nghiệm các giờ dạy đã được giáo viên trong tổ dự
giờ, tôi phân công giáo viên theo chu kỳ (2 giáo viên/tháng) soạn giảng một

tiết dạy cụ thể, tổ chức cho giáo viên nghiên cứu, góp ý trong kỳ họp tiếp theo,
chọn lớp – tiết – thứ - tuần hợp lý, không bị trùng giờ dạy của giáo viên khác
để tổ chức giảng dạy, thử nghiệm và dự giờ. Đến kỳ họp sau, tổ chức thảo luận,
suy ngẫm và chia sẻ ý kiến về tiết dạy.
Ví dụ: Về cách xử lý tình huống sư phạm trong giờ dạy của một giáo viên:
Môn khám phá khoa học: Đề tài: Một số con vật nuôi trong gia đình: Khi cho trẻ
làm quen với con trâu, cô đưa tranh con trâu ra cho trẻ quan sát và hỏi trẻ đây là
con gì? Thì trẻ trả lời là con voi Cô A đã sử lý tình huống đó như sau: “ Cô động
viên trẻ : Con hơi nhầm một chút con hãy quan sát kỹ và nhớ lại xem đây có
đúng là con voi không vì con voi thường sống trong rừng, con voi có cài vòi rất
dài…còn trong bức tranh này thì con vật kia có sừng kia mà . Tôi cho các thành
viên trong tổ đưa ra ý kiến cách xử lý như cô A có được không, ai có cách xử lý
khác hay hơn và tốt hơn không? Lúc này buổi sinh hoạt đã trở nên sôi nổi,
không còn trầm lặng giống mọi khi, các giáo viên trở nên hào hứng hơn.
Phương pháp bồi dưỡng phải linh hoạt, hiệu quả tới từng đối tượng giáo
viên, tôi vận dụng một số phương pháp bồi dưỡng: Phương pháp bồi dưỡng trực
tiếp, phương pháp bồi dưỡng gián tiếp thông qua thăm lớp dự giờ, trao đổi
nghiệp vụ…; tổ chức tập trung nghiên cứu tài liệu và các văn bản chỉ đạo, hướng
dẫn chuyên môn của các cấp. Cho những giáo viên yếu dự giờ giáo viên có
chuyên môn vững, phân công cho giáo viên có chuyên môn giỏi kèm những giáo
viên có chuyên môn yếu, lấy hiệu quả của việc giúp đỡ để xét thi đua cuối năm.
Trong buổi sinh hoạt tôi cho giáo viên sử dụng các phương tiện bồi dưỡng
chuyên môn: Là các đĩa hình, các tài liệu bồi dưỡng (bồi dưỡng thường xuyên,
chương trình giáo dục mầm non,…), các tạp chí giáo dục mầm non,…có nội
dung liên quan đến chuyên môn cần bồi dưỡng cho giáo viên.
Có những thay đổi về nội dung, hình thức, phương pháp sinh hoạt tổ
chuyên môn mà buổi sinh hoạt chuyên môn nào cũng đạt chất lượng cao và tạo
điều kiện cho giáo viên được trao đổi, học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau.
2.3.5. Một số nội dung mới trong sinh hoạt tổ chuyên môn khối mẫu
giáo:

Sinh hoạt tổ chuyên môn thường kỳ là 2 lần/tháng vào tuần thứ 2 và tuần
thứ 4 của tháng sau. Như vậy tất cả các giáo viên trong tổ đã được lĩnh hội
các nội dung kế hoạch tháng của nhà trường, công đoàn, của chuyên môn nhà
trường,…Như vậy phần nào giáo viên đã hình dung hết kế hoạch của tháng
cho từng bản thân. Khi sinh hoạt phải có quy định của tổ như: Giáo viên tham
gia họp thì phải trật tự, ghi chép nội dung, phải lắng nghe ý kiến của đồng
nghiệp và đặc biệt phải suy nghĩ, phát biểu ít nhất 1 ý kiến. Nội dung của
12


buổi sinh hoạt thường xuyên đổi mới, không dập khuôn. Như vậy buổi sinh
hoạt mới đạt hiệu quả.
Sau đây tôi xin đưa ra một số nội dung mới trong sinh hoạt tổ chuyên môn
khối mẫu giáo:
a) Đổi mới sinh hoạt chuyên môn theo nghiên cứu bài dạy:
Sinh hoạt chuyên môn theo nghiên cứu bài dạy: Là hoạt động chuyên môn
nhưng ở đó giáo viên tập trung phân tích các vấn đề liên quan đến trẻ, không tập
trung vào việc đánh giá giờ học, xếp loại giáo viên mà nhằm khuyến khích giáo
viên tìm ra nguyên nhân tại sao trẻ chưa đạt kết quả như mong muốn và có biện
pháp để nâng cao chất lượng giáo dục, tạo cơ hội cho trẻ được tham gia vào hoạt
động, giúp giáo viên có khả năng chủ động điều chỉnh nội dung, phương pháp
dạy sao cho phù hợp với khả năng của trẻ ở mỗi độ tuổi. Sau đây là quá trình
sinh hoạt chuyên môn theo nghiên cứu bài dạy:
Bước 1: Họp chuyên môn: Xác định mục tiêu, chuẩn bị bài dạy:
Tôi cho cả tổ xác định mục tiêu, xây dựng kế hoạch bài dạy nghiên cứu:
Cần xác định mục tiêu cần đạt được khi tiến hành nghiên cứu. Mục tiêu của bài
dạy được nghiên cứu, được đề xuất bởi một thành viên trong tổ chuyên môn, sau
đó được góp ý, hoàn thiện qua sinh hoạt chuyên môn.
Giáo viên có một cuộc thảo luận chi tiết, cụ thể về bài dạy bằng cách đưa
ra các câu hỏi và cả tổ tìm ra câu trả lời:

- Đặt câu hỏi xem đây là loại bài dạy gì?
- Cách giới thiệu vào bài như thế nào?
- Sử dụng các phương pháp và đồ dùng dạy học như thế nào cho đạt
hiệu quả cao?
- Dự kiến tích hợp nội dung giáo dục nào cho phù hợp?
- Hình thức tổ chức là gì?
Sau khi kết thúc buổi sinh hoạt, cho một giáo viên trong tổ nhận nhiệm vụ
soạn giáo án và dạy minh họa, các ý kiến góp ý, chỉnh sửa của tổ chuyên môn
chỉ mang tính tham khảo.
Bước 2: Tiến hành dạy minh họa và dự giờ:
Khi hoàn thành giáo án, giáo viên đó dạy minh họa ở một lớp cụ thể như
lớp: 4 – 5 tuổi, người dạy thử nghiệm những ý tưởng sáng tạo khi dạy, lấy trẻ
làm trung tâm.
Những giáo viên khác dự giờ thì quan sát trẻ, những biểu hiện của trẻ trong
giờ học, những sai lầm khi trẻ mắc phải. Trước khi dự giờ tôi đưa ra yêu cầu
những giáo viện dự giờ phải từ bỏ thói quen đánh giá giờ dạy của giáo viên,
người dự cần đặt mình vào vị trí của người dạy để phát hiện những khó khăn
trong việc học của trẻ để tìm cách giải quyết.

13


Hình ảnh dự giờ một bài dạy đã nghiên cứu
Bước 3: Họp chuyên môn: Suy ngẫm, thảo luận, tìm giải pháp khắc phục:
Khi dự giờ xong giáo viện dự giờ suy ngẫm, thảo luận về bài dạy đã nghiên
cứu: Suy ngẫm và chia sẻ các ý kiến của giáo viên về tiết dạy sau khi dự giờ.
Các ý kiến đưa ra nhiều hay ít, tinh tế và sâu sắc hay hời hợt và nông cạn sẽ
quyết định hiệu quả học tập, phát triển năng lực của tất cả các giáo viên tham gia
vào sinh hoạt tổ chuyên môn.
Giáo viên dự tập trung quan sát việc hoạt động của trẻ, đưa ra bằng chứng

về những gì mình nhìn thấy về cách hoạt động, suy nghĩ, giải quyết vấn đề của
trẻ khi hoạt động, để rút kinh nghiệm, đưa ra biện pháp nâng cao hiệu quả.
Mọi giáo viên lắng nghe, tôn trọng ý kiến của nhau khi thảo luận, không
nên quan tâm đến các tiêu chuẩn truyền thống của một giờ dạy, tuyệt đối không
xếp loại giờ dạy minh họa trong sinh hoạt tổ chuyên môn. Bởi giờ dạy là sản
phẩm chung của mọi người khi tham gia sinh hoạt tổ chuyên môn.
Ví dụ: Tìm giải pháp khắc phục: Về biểu hiện của trẻ trong giờ học: Tiết
làm quen với chữ cái e,ê: Giáo viên dự quan sát thấy có một số trẻ khi mới vào
hoạt động cô gây hứng thú bằng một trò chơi đó là trò chơi “hái quả” thì tất cả
trẻ rất thích thú chơi, nhưng khi vào trọng tâm tiết học thì có một số trẻ không
hào hứng hoạt động. Từ đó tất cả giáo viên đưa ra những ý kiến của mình: Vì
sao một số trẻ không muốn hoạt động, sau đó đưa ra một số biện pháp làm thế
nào để một số trẻ không hào hứng hoạt động trở nên hào hứng hoạt động.
Bước 4: Áp dụng: Sau khi thảo luận về giờ dạy đầu tiên, tất cả cùng suy
ngẫm xem có tiếp tục thực hiện nghiên cứu bài dạy này nữa không? Nếu bài
14


dạy nghiên cứu vẫn chưa hoàn thiện thì cần tiếp tục nghiên cứu để tiến hành
dạy ở các lớp sau cho hoànthiện hơn và áp dụng vào tiết dạy hàng ngày.
Qua việc đổi mới sinh hoạt chuyên môn theo nghiên cứu bài dạy đã giúp
cho giáo viên hoàn thiện được tiết dạy một cách tốt nhất, giáo viên biết cách
nhận xét một tiết dạy khi tham gia dự giờ, qua đó giáo viên còn tích lũy được
kinh nghiệm nâng cao năng lực chuyên môn và đổi mới được phương pháp dạy
học đó là: Phương pháp dạy học tích cực và lấy trẻ làm trung tâm.
b) Thảo luận những vấn đề đã được định hướng:
Khi kết thúc buổi sinh hoạt tổ chuyên môn: Tôi định hướng trước nội dung
sinh hoạt thảo luận lần sau và buổi sinh hoạt sau giáo viên thảo luận những vấn
đề đã được tôi định hướng thông báo lần sinh hoạt trước.
Ví dụ: Sau buổi sinh hoạt tổ chuyên môn tôi thông báo các thành viên ở

trong tổ nội dung sinh hoạt lần sau: Buổi sinh hoạt tổ chuyên môn sau chúng
ta sẽ thảo luận về “Thiết kế giáo án điện tử”, hay là “Phương pháp tư vấn về
chăm sóc, giáo dục mầm non cho các bậc cha mẹ có con 3- 6 tuổi”,…Để các
thành viên trong tổ có ý thức và trách nhiệm tìm hiểu, đọc tài liệu, nghiên cứu
trước nội dung.
Trong nội dung sinh hoạt tôi yêu cầu mỗi giáo viên phải nêu được ý kiến
của mình về nội dung cần thảo luận, tránh trường hợp tôi thống nhất với ý kiến
đồng chí A mà không đưa ra vấn đề gì cả.
Việc định hướng trước nội dung sinh hoạt làm cho giáo viên luôn có tinh
thần tự học, tự bồi dưỡng qua việc đọc, nghiên cứu tài liệu.
c) Nội dung sinh hoạt: Làm đồ dùng đồ chơi:
Ở buổi sinh hoạt chuyên môn lân trước tôi đã định hướng trước lần sinh
hoạt buổi sau là nội dung: Làm đồ dùng đồ chơi. Cho nên tất cả các giáo
viên trong tổ đều chuẩn bị các nguyên vật liệu để thực hiện.
Trong nội dung buổi sinh hoạt tôi và một số giáo viên hướng dẫn cách làm
một số đồ dùng đồ chơi. Sau đó cho mọi người xem để tham khảo những hình
ảnh đồ dùng đồ chơi mà tôi và một số những thành viên trong tổ thu thập được.
Xem trên các trang wed về làm đồ dùng đồ chơi tự tạo, về hội thi đồ dùng đồ
chơi bậc học mầm non, có cả trên diễn đàn giáo dục mầm non Việt Nam. Điều
đặc biệt nữa là có một cô giáo trong ngành mầm non đã tạo ra một trang wed
cho giáo viên trong trường tham khảo nhưng cô đã mở rộng đối tượng xem để
mọi người được xem những hình ảnh đồ dùng đồ chơi tự tạo của giáo viên đó là
trang wed giáo dục: “Hình ảnh chuyên môn giáo dục mầm non”. Sau đó cho
giáo viên tự làm theo hay sáng tạo ra những sản phẩm khác.
Buổi sinh hoạt này đã đạt được kết quả ngoài mong đợi. Giáo viên rất hăng
say, hứng thú say mê sáng tạo làm ra những sản phẩm mới lạ, đẹp mắt, độ bền
cao, có những sản phẩm tháo lắp được và những sản phẩm này khi sử dụng vào
hoạt động giảng dạy tạo được sự lôi cuốn, hấp dẫn trẻ tham gia hoạt động một
cách tích cực giúp giờ hoạt động đạt hiệu quả cao. Trong buổi sinh hoạt này còn
giúp giáo viên phát huy được hết khả năng của mình.Sau đây là một số hình ảnh

giáo viên tự làm đồ dùng đồ chơi để phục vụ tiết dạy và thi làm đồ dùng đồ chơi
cấp trường.
15


Hình ảnh thi đồ dùng đồ chơi cấp trường

Hình ảnh đồ dùng đồ chơi tự tạo của giáo viên
d) Tổ chức hoạt động học ở trên lớp mẫu giáo có trẻ khuyết tật hòa
nhập:
Để tổ chức hoạt động học cho trẻ mẫu giáo ở các lớp mẫu giáo có trẻ
khuyết tật hòa nhập đạt hiệu quả đòi hỏi phải có sự linh hoạt, mềm dẻo trong
việc vận dụng các phương pháp, hình thức tổ chức trong giờ học. Đối với lớp
mẫu giáo có trẻ hòa nhập, sự linh hoạt, mềm dẻo đó còn đòi hỏi ở việc tổ chức
phù hợp với trẻ vì nhận thức của mỗi trẻ là không đồng đều trong lớp, trẻ dân
tộc thiểu số hạn chế về tiếng việt đặc biệt là trẻ khuyết tật hòa nhập có khả năng
16


nhận thức khác các bạn cùng lứa. Do vậy trong những nguyên tắc vận dụng các
hình thức tổ chức các hoạt động giáo dục trẻ nói chung và hoạt động học nói
riêng là “hướng vào sự tương tác giữa trẻ ở độ tuổi có khả năng nhận thức khác
nhau”. Nội dung học mang tính đồng tâm phát triển tức là cùng một nội dung
nhưng được phân hóa theo khả năng nhận thức khác nhau của trẻ trong lớp. Hiện
tại trường có một lớp mẫu giáo có trẻ khuyết tật (bệnh đao) hòa nhập: Với sĩ số
là 23 trẻ và thực hiện theo chương trình GDMN. Đối với giáo viên dạy lớp này
kể cả giáo viên khác khi nói về tổ chức một tiết học cho lớp mẫu giáo có trẻ
khuyết tật hòa nhập còn lúng túng, chưa biết phải dạy như thế nào? Chính vì
nguyên nhân này tôi đã đưa nội dung hướng dẫn tổ chức hoạt động học ở lớp
mẫu giáo có trẻ khuyết tật hòa nhập vào nội dung sinh hoạt tổ chuyên môn.

Nhằm giúp giáo viên biết cách tổ chức một hoạt động học ở lớp mẫu giáo có trẻ
hòa nhập.
Trước khi vào buổi sinh hoạt tôi cho giáo viên trong tổ xem và nghiên
cứu tài liệu: Hướng dẫn thực hiện chương trình giáo dục mầm non trong lớp
mẫu giáo có trẻ khuyết tật hòa nhập.
Sau đó là công tác chuẩn bị giờ học: Tôi cho các thành viên trao đổi, thảo
luận thông qua việc soạn một giáo án cụ thể, gồm: Xác định mục tiêu, chọn nội
dung, lựa chọn phương pháp, chọn hình thức tổ chức, chọn phương tiện.
Tôi đưa ra một ví dụ: Soạn giáo án: Môn thể dục: Chủ đề: Những con vật
biết nhảy. Đề tài: Bật xa. TCVĐ: Ếch nhảy ồm ộp.
Bước 1: Xác định mục tiêu: Tôi hướng dẫn giáo viên: Để xác định được
mục tiêu thì phải tìm hiểu trẻ, biết trẻ cần gì, đã biết gì, khả năng hiện tại của trẻ
như thế nào. Để biết được tôi cho giáo viên chủ nhiệm lớp hòa nhập nói vấn đề
này. Sau khi được lắng nghe về khả năng của trẻ ở lớp MG có trẻ khuyết tật hòa
nhập, cả tổ đã thảo luận và đưa ra mục tiêu bài dạy:
Ví dụ: Về kĩ năng: 5 tuổi: Bật xa được 40 – 50 cm.
Bước 2: Nội dung bài dạy: Đã được tôi đưa ra
Bước 3: Chọn phương pháp dạy học: Tôi nhắc lại 7 phương pháp được quy
định trong chương trình giáo dục mầm non, cho giáo viên suy nghĩ lựa chọn
phương pháp. Cuối cùng cả tổ thống nhất chọn phương pháp dùng trò chơi, đàm
thoại, làm mẫu.Vì sao lại chọn phương pháp này? Bởi vì đối với mẫu giáo có trẻ
hòa nhập nên lựa chọn phương pháp mà theo đó trẻ trong lớp và trẻ khuyết tật có
thể tương tác với nhau và trẻ bình thường làm, trẻ khuyết tật có thể làm theo.
Bước 4: Chọn hình thức tổ chức hoạt động học: Tôi đưa ra 3 hình thức để
giáo viên trong tổ lựa chọn đó là: Tổ chức chung cả lớp, theo nhóm nhỏ, tổ chức
cá nhân. Sau khi phân tích cả 3 hình thức, tổ thống nhất phối hợp 2 hình thức tổ
chức và phối hợp theo kiểu (cá nhân và cả lớp),
Công tác chuẩn bị giờ học đã được tổ thống nhất và hoàn chỉnh giáo án,
chuẩn bị ĐDDH. Tiếp theo là thực hiện giờ học ở buổi sinh hoạt tổ chuyên môn
tiếp theo: Thời gian tổ chức một hoạt động học: 30 phút. Do đây là mẫu giáo .Cả

tổ cử ra một giáo viên thực hiện giờ dạy ở lớp mẫu giáo có trẻ khuyết tật hòa
nhập, những giáo viên khác dự giờ.
Sau đó cả tổ tập trung đánh giá giờ hoạt động học: Tôi hướng dẫn giáo viên
đánh giá: Trước tiên đánh giá trẻ có đạt được mục tiêu đặt ra không. Nếu trẻ đạt
17


được mục tiêu thì đưa ra mục tiêu mới. Nếu trẻ không đạt mục tiêu thì xem lại
mục tiêu, nội dung học, phương pháp dạy học, hình thức tổ chức, phương tiện
học, soạn giáo án và thực hiện giáo án. Cả tổ đánh giá giờ hoạt động học: Môn
thể dục với đề tài “Bật xa” này trẻ đã đạt được mục tiêu đưa ra.
Qua việc tổ chức một hoạt động học ở lớp mẫu giáo có trẻ khuyết tật hòa
nhập, giáo viên biết xác định được mục tiêu.Thấy được việc lựa chọn hình thức tổ
chức, phương pháp dạy học, nội dung học có phù hợp với lớp hay không, khi áp
dụng có đạt được hiệu quả không. Cũng qua đó giáo viên nắm được những đặc
điểm riêng của lớp mẫu giáo có trẻ khuyết tật hòa nhập, nắm được các bước từ
chuẩn bị giáo án đến thực hiện và đánhgiá hoạt động.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Việc đổi mới một số biện pháp sinh hoạt tổ chuyên môn khối mẫu giáo qua
một năm tổ chuyên môn khối mẫu giáo đã thực sự phát triển mạnh mẽ và trở
thành một “tổ chức biết học hỏi” trong nhà trường.
Vai trò của cán bộ quản lý phụ trách chuyên môn đã được phát huy, đã chủ
động trong việc xây dựng và thực hiện kế hoạch, phân công nhiệm vụ cho giáo
viên trong tổ rõ ràng, dễ thực hiện. Tổ chức các hoạt động của tổ khoa học, linh
hoạt, sáng tạo.
Giáo viên tham gia sinh hoạt tổ chuyên môn hào hứng, cởi mở.Chủ động,
tích cực phát biểu ý kiến đóng góp cho nội dung sinh hoạt.
Giáo viên đã đầu tư vào tiết dạy, biết vận dụng phương pháp dạy học tích
cực, biết phối hợp linh hoạt các phương pháp và hình thức dạy, làm cho giờ học
nhẹ nhàng, tự nhiên hơn, trẻ tích cực hoạt động và tiếp thu kiến thức dễ dàng

hơn, giờ học đạt hiệu quả cao.
Chất lượng các buổi sinh hoạt chuyên môn của tổ khối đã đa dạng, hình
thức tổ chức linh hoạt hơn, nội dung bồi dưỡng chuyên môn cũng phong phú lên
rất nhiều.Giáo viên đã nhận thức rất rõ mức độ rất cần thiết của sinh hoạt tổ
chuyên môn và chú trọng tới công tác sinh hoạt chuyên môn của tổ khối.
Giáo viên phát huy hết khả năng sáng tạo của bản thân để làm ra những bộ
ĐDĐC phong phú, đa dạng.
Qua một năm thực hiện đổi mới một số phương pháp sinh hoạt tổ chuyên môn
khối mẫu giáo, tổ đã đạt được kết quả như sau:
Tổng số: 13 giáo viên mẫu giáo năm: 2018-2019
Tổng
Tỷ lệ
Giáo viên
Tỷ lệ
Đồ dùng
Tỷ lệ
số giáo SKKN
(%)
dạy giỏi
(%)
đồ chơi
(%)
viên
A: 4
31
Giỏi: 7
54
A:6
46
B: 6

46
Khá: 6
46
B: 5
39
13
C: 3
23
TB: 0
0
C: 2
15
KĐ: 0

0

Yếu :0

0

KĐ: 0

0

Nhìn vào bảng thống kê chúng ta dễ dàng nhận thấy qua một năm đã có sự
thay đổi đáng kể. Cụ thể: Tỷ lệ giáo viên giỏi, tỷ lệ sáng kiến kinh nghiệm đã
tăng cao. Đồ dùng, đồ chơi đạt loại A,B cũng tăng cao rõ rệt
18



3. Kết luận, kiến nghị
3.1. Kết luận:
Để cho việc đổi mới một số phương pháp sinh hoạt tổ chuyên môn nhằm
nâng cao chất lượng giáo dục.Trước tiên giáo viên phải nhận thức được sinh
hoạt tổ chuyên môn là rất cần thiết và là nhiệm vụ rất quan trọng, có tính chất
quyết định tới sự thành công của nhà trường. Giáo viên cần có những ý kiến
đóng góp thiết thực vào việc xây dựng kế hoạch hoạt động của tổ giúp cho tổ
hoạt động có hiệu quả cao trong cả một năm học. Bên cạnh đó giáo viên phải có
ý thức tự bồi dưỡng cho bản thân bằng cách thường xuyên nghiên cứu tài liệu để
trau dồi kiến thức, chuyên môn nghiệp vụ sư phạm, học hỏi kinh nghiệm từ
đồng nghiệp để đạt được hiệu quả cao hơn trong công tác giáo dục trẻ. Hướng
dẫn, chỉ đạo giáo viên trong một số nội dung mới của buổi sinh hoạt tổ chuyên
môn như: Làm ĐDĐC, đổi mới sinh hoạt chuyên môn theo nghiên cứu bài dạy,
thảo luận về những vấn đề đã được định hướng, tổ chức hoạt động học ở lớp
ghép đã giúp cho giáo viên được trao đổi, thảo luận, phát huy năng lực, góp
phần nâng cao tinh thần đoàn kết, giúp đỡ nhau trong chuyên môn.
Đề tài sáng kiến này đã từng có nhiều người nghiên cứu, có thể một số
phương pháp của tôi không mới lạ đối với những trường khác. Nhưng ở mỗi
trường, mỗi vùng miền lại mang một đặc điểm khác nhau. Đối với trường tôi khi
áp dụng đề tài này vào thực tế đã góp một phần không nhỏ vào công việc khắc
phục tình trạng chất lượng và hiệu quả thấp trong tổ chức sinh hoạt tổ chuyên
môn khối mẫu giáo; tạo sự thay đổi trong phương pháp làm việc, nâng cao
chất lượng công tác sinh hoạt chuyên môn cũng như chất lượng giáo dục
trong toàn trường.
Để đạt được những kết quả trên bản thân phải luôn biết lắng nghe ý kiến
của đồng nghiệp. Mạnh dạn sáng tạo, suy nghĩ tìm tòi ra một số phương pháp
mới trong sinh hoạt tổ chuyên môn khối mẫu giáo, giúp cho buổi sinh hoạt đạt
hiệu quả và nâng cao chất lượng giáo dục trong nhà trường. Biết phối hợp với
Ban giám hiệu thúc đẩy chuyên môn khối mẫu giáo đạt kết quả cao so với những
năm học trước. Thường xuyên tham khảo nhiều tài liệu, luôn gần gũi, tạo niềm

tin cũng như tin tưởng các thành viên trong tổ.
3.2. Kiến nghị:
3.2.1. Đối với giáo viên và nhà trường
- Giáo viên: Tích cực tham gia xây dựng và thực hiện tốt quy định về nề
nếp chăm sóc, giáo dục của nhà trường, chủ động đề xuất những sáng kiến hay
trong sinh hoạt tổ chuyên môn.
- Nhà trường: Ban giám hiệu cần triển khai và rút kinh nghiệm thường kỳ
vào mỗi đợt triển khai chuyên đề.
Tổ chức thi đua giữa các tổ với nhau và có khen thưởng cho tổ chuyên môn
nào đạt được thành tích cao.
3.2.2. Đối với phòng Giáo dục và Đào tạo:
Mở các lớp chuyên đề về công tác sinh hoạt tổ chuyên môn, về nghiệp vụ
quản lý chuyên môn cho giáo viên làm tổ trưởng tổ chuyên môn.

19


Trên đây là những sáng kiến kinh nghiệm của tôi về đổi mới một số
phương pháp sinh hoạt tổ chuyên môn khối mẫu giáo tại trường mầm non Thành
Công. Bản thân tôi đã cố gắng rất nhiều nhưng chắc chắn còn có những thiếu
sót. Kính mong được sự đóng góp ý kiến của các cấp quản lý./.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
Thành Công, ngày 25 tháng 03 năm 2019.
ĐƠN VỊ.
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, không sao chép nội dung của
người khác.
Người viết
Trần Thị Bình


20


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Điều lệ trường mầm non ban hành kèm theo QĐ số: 04/VBHN-BGDĐT ngày
24/12/2015 của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
2. Tạp chí giáo dục mầm non
3. Hướng dẫn thực hiện chương trình GDMN trong các lớp mẫu giáo có trẻ
khuyết tật hòa nhập.
4. Hoàng Thị Thu Hương, Module 44: Giáo dục hòa nhập trẻ khuyết tật trong
giáo dục mầm non.

21


DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG
ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT VÀ CÁC
CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Trần Thị Bình
Chức vụ và đơn vị công tác: PHT Trường Mầm Non Thành Công
Kết quả
Cấp đánh
đánh giá
Năm học
giá xếp loại
TT
Tên đề tài SKKN
xếp loại đánh giá xếp
(Phòng, Sở,

(A, B,
loại
Tỉnh...)
hoặc C)
1
Một số biện pháp huớng dẫn Phòng GD
B
2012
trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi làm
quen với MTXQ
2
Một số biện pháp giáo dục kỹ Phòng GD
B
2015
năng sống cho trẻ mẫu giáo
5-6 tuổi
3
Một số biện pháp chỉ đạo Phòng GD
B
2017
giáo viên tổ chức tốt hoạt
động phát triển vận động cho
trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi trong
trường Mầm non”

22




×