MỞ ĐẦU
Sự ra đời của Luật Cạnh tranh năm 2004 là dấu mốc quan trọng trong quá trình
tạo lập một hành lang pháp lý thống nhất cho hoạt động cạnh tranh của các doanh
nghiệp trên thị trường. Tuy nhiên, sau hơn 12 năm thi hành, với sự thay đổi của bối
cảnh kinh tế - xã hội cùng xu hướng hội nhập quốc tế, một số nội dung của Luật
Cạnh tranh năm 2004 đã không còn phù hợp với tình hình hiện nay. Do đó, để nâng
cao tính hiệu lực, hiệu quả của các chính sách và pháp luật cạnh tranh, đáp ứng yêu
cầu trong xu thế hội nhập kinh tế và phù hợp với các cam kết quốc tế của Việt
Nam, luật cạnh tranh 2018 ra đời đã sử đổi bổ sung một số điều mới trong đó phải
kể đến vấn đề tập trung kinh tế. Để biết thêm về vấn đề này em phân tích đề: “
Phân tích những điểm mới của Luật cạnh tranh 2018 về tập trung kinh tế”
NỘI DUNG
I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TẬP TRUNG KINH TẾ
1. Khái niệm tập trung kinh tế
Khái niệm tập trung kinh tế được tiếp cận dưới nhiều giác độ khác nhau trong
khoa học kinh tế và khoa học pháp lí.
Trong khoa học kinh tế, tập trung kinh tế được nhìn nhận là chiến lược tích tụ
vốn và tập trung sản xuất hình thành các chủ thể kinh doanh có quy mô lớn nhằm
khai thác lợi thế nhờ quy mô. Trong quá trình kinh doanh, các chủ thể kinh doanh
có quy mô lớn luôn tìm cách nâng cao áp lực cạnh tranh buộc các doanh nghiệp
nhỏ yếu hơn phải phụ thuộc mình. Mặt khác, các doanh nghiệp nhỏ yếu hơn phải
sáp nhập vào doanh nghiệp lớn hoặc hợp nhất với nhau nếu muốn tồn tại. Theo đó,
tập trung kinh tế dẫn đến việc giảm số lượng các doanh nghiệp độc lập cạnh tranh
trên thị trường thông qua các hành vi sáp nhập hoặc thông qua tăng trưởng nội sinh
của doanh nghiệp trên cơ sở mở rộng năng lực sản xuất 1. Cách hiểu tập trung kinh
tế này đã chỉ ra nguyên nhân của tập trung kinh tế (thông qua việc sáp nhập, tăng
trưởng nội sinh của các doanh nghiệp và dẫn đến hậu quả là làm giảm các doanh
nghiệp trên thị trường.
Trong khoa học pháp lí, cả Luật cạnh tranh năm 2004 và 2018 không định nghĩa
về hành vi tập trung kinh tế mà chỉ liệt kê các hình thức tập trung kinh tế như: sáp
nhập doanh nghiệp, hợp nhất doanh nghiệp, mua lại doanh nghiệp, liên doanh giữa
các doanh nghiệp, các hành vi tập trung kinh tế khác theo quy định của pháp luật
(Điều 29 luật cạnh tranh 2018).
2. Đặc điểm của tập trung kinh tế
Thứ nhất, chủ thể thực hiện tập trung kinh tế là các doanh nghiệp đang hoạt động
trên thị trường.
Theo quy định của Luật cạnh tranh, chủ thể tham gia tập trung kinh tế có thể là
tổ chức hoặc cá nhân kinh doanh. Còn theo pháp luật hiện hành, tùy thuộc vào hình
thức tập trung kinh tế mà chủ thể thực hiện phải đáp ứng điều kiện nhất định. Cụ
thể, chủ thể thực hiện sáp nhập, hợp nhất có thể là: 1) Các loại công ty theo luật
doanh nghiệp( công ty hợp danh, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn);
2) Các hợp tác xã( theo Luật hợp tác xã). Như vậy, không phải mọi chủ thể là đối
tượng áp dụng của luật cạnh tranh đều có thể tham gia vào các hành vi tập trung
kinh tế mà với mỗi hình thức tập trung kinh tế khác nhau sẽ có giới hạn khác nhau
về chủ thể tham gia. Các doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tế có thể là các
doanh nghiệp hoạt động trong cùng hoặc không cùng thị trường liên quan.
Thứ hai, hành vi tập trung kinh tế được thể hiện dưới những hình thức nhất định
theo quy định của pháp luật.
1 Lê Viết Thái, “Chuyên đề về hành vi tập trung kinh tế”, đề tài nghiên cứu về thể chế cạnh tranh trong
điều kiện phát triển thị trường tại Việt Nam, Viện nghiên cứu thương mại- Bộ công thương 2005.
Theo luật cạnh tranh, tập trung kinh tế diễn ra dưới các hình thức: sáp nhập
doanh nghiệp, hợp nhất doanh nghiệp, mua lại doanh nghiệp, liên doanh giữa các
doanh nghiệp. Hình thức hợp nhất, sáp nhập có bản chất là các doanh nghiệp đã
tồn tại trên thị trường liên kết khả năng kinh doanh bằng cách chủ động tích tụ các
nguồn lực kinh tế như vốn, lao động, kĩ thuật, năng lực quản lí… mà họ đang nắm
giữ riêng lẻ để hình thành một khối thống nhất có quy mô hoạt động lớn hơn trước
và cơ cấu tổ chức của các doanh nghiệp sau khi thực hiện tập trung kinh tế. Trong
hình thức mua lại hoặc liên doanh có thể thấy các doanh nghiệp thực hiện tập trung
kinh tế dưới hình thức này nhằm liên kết về sở hữu, trong đó một trong các chủ thể
tham gia nhằm mục đích sở hữu toàn bộ doanh nghiệp khác hoặc sở hữu một phần
đủ để kiểm soát, chi phối hoạt động của doanh nghiệp khác và làm thay đổi cơ cấu
sở hữu của doanh nghiệp này.
Thứ ba, thông qua việc thực hiện các hình thức tập trung kinh tế sẽ dấn đến hậu
quả là hình thành các doanh nghiệp, tập đoàn kinh tế lớn mạnh, thay đổi cấu trúc
thị trường và tương quan cạnh tranh trên thị trường.
Các doanh nghiệp thông qua việc thực hiện các hình thức tập trung kinh tế khác
nhau đã tích tụ các nguồn lực về tài chính, kĩ thuật, lao động, năng lực tổ chức
quản lí kinh doanh của các doanh nghiệp riêng lẻ để hình thành các doanh nghiệp,
tập đoàn kinh tế lớn mạnh hơn. Qua đặc điểm này, có thể nhận thấy cho dù tập
trung kinh tế được hình thành theo hình thức nào cũng đều làm cho vị trí lợi thế
cạnh tranh của các doanh nghiệp trên thị trường bị thay đổi do việc xuất hện “đột
ngột” các doanh nghiệp có tiềm lực tài chính lớn mạnh hơn và làm thay đổi tương
quan cạnh tranh trên thị trường.
Thứ tư, dựa trên những tiêu chí nhất định theo các quy định của luật cạnh tranh,
Nhà nước sẽ kiểm soát các doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tế.
Một mặt, tập trung kinh tế được hiểu là quyền tự do kinh doanh của các chủ sở
hữu doanh nghiệp khi họ quyết định thay đổi cơ cấu tổ chức doanh nghiệp của
mình. Khi đó, các hình thức của tập trung kinh tế như sáp nhập, hợp nhất doanh
nghiệp được coi là các biện pháp nhằm tổ chức lại doanh nghiệp hoặc các hình
thức đầu tư và được quy định tại các văn bản pháp luật về doanh nghiệp hoặc pháp
luật về công ty và pháp luật khác có liên quan ( như pháp luật về đầu tư, pháp luật
về chứng khoán).
Mặt khác, tập trung kinh tế như đã phân tích tại đặc điểm thứ ba sẽ dẫn đến việc
hình thành các tập đoàn kinh tế lớn mạnh và có thể gây hạn chế cạnh tranh. Vì vậy,
các nước sẽ phải kiểm soát tập trung kinh tế. Tuy nhiên để đảm bảo không xâm
phạm vào quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp và bảo vệ cạnh tranh trên
thương trường thì các nhà lập pháp phải đưa ra những tiêu chí nhất định để kiểm
soát tập trung kinh tế. Tiêu chí chủ yếu được sử dụng để xem xét các vụ tập trung
kinh tế là thị phần kết hợp, tổng doanh thu hang năm giữa các doanh nghiệp tham
gia tập trung kinh tế.
3. Phân loại tập trung kinh tế
Căn cứ vào vị trí của cá chủ thể tham gia tập trung kinh tế theo cấp đọ kinh
doanh, tập trung kinh tế được chia thành:
Tập trung kinh tế theo chiều ngang: là sự sáp nhập, hợp nhất, mua lại…thường
diễn ra giữa hai doanh nghiệp cùng nằm ở một cấp độ trong chuỗi sản xuất hay nói
cách khác đó là những doanh nghiệp cùng hoạt động trên cùng một thị trường liên
quan (thị trường sản phẩm và thị trường địa lí liên quan). Tập trung kinh tế theo
chiều ngang nhằm mục tiêu thực hiện hiệu quả theo quy mô, thực hiện mục tiêu
chiến lược thị trường ( khống chế thị trường hoặc tạo rào cản thị trường). Những
vụ tập trung kinh tế theo chiều ngang thường làm giảm số lượng đối thủ cạnh tranh
độc lập trên thị trường và có thể làm tăng một cách đáng kể các hành vi lạm dụng
vị trí thống lĩnh.
Tập trung kinh tế theo chiều dọc: là sự sáp nhập, hợp nhất, mua lại… diễn ra giữa
những doanh nghiệp ở các cấp độ khác nhau của chuỗi sản xuất. Mục tiêu của Tập
trung kinh tế theo chiều dọc thường nhằm chi phối giao dịch hoặc thực hiện những
mục tiêu chiến lược của thị trường như đảm bảo nguồn cung ứng hoặc tiêu thụ
hàng hóa, dịch vụ; ngăn cản đối thủ cạnh tranh mở rộng thị trường hoặc dựng rào
cản gia nhập thị trường. Tập trung kinh tế theo chiều dọc không trực tiếp làm giảm
số lượng đối thủ cạnh tranh nhưng có thể ảnh hưởng đến cạnh tranh trên thị trường
và dẫn đến việc doanh nghiệp sản xuất dễ dàng thu nhận doanh nghiệp bán lẻ ở đầu
ra gây lo ngại cho cạnh tranh.
Tập trung kinh tế dạng hỗn hợp: là sự sáp nhập, hợp nhất, mua lại, liên doanh…
của những doanh nghiệp không sản xuất những sản phẩm cạnh tranh ( không phải
là đối thủ của nhau) và cũng không có những mối quan hệ mua bán thực sự hoặc
tiềm năng. Lợi thế quy mô của sáp nhập hỗn hợp thường xuất hiện ở những lĩnh
vực như nghiên cứu và triển khai, tổ chức và quản lí. Mục tiêu của tập trung kinh
tế dạng hỗn hợp thường là phân bổ rủi ro vào những thị trường khác nhau hoặc từ
những lí do chiến lược thị trường của những doanh nghiệp này.
II- NHỮNG ĐIỂM MỚI CỦA LUẬT CẠNH TRANH 2018 VỀ TẬP TRUNG
KINH TẾ.
Vấn đề kiểm soát hoạt động tập trung kinh tế (mua bán và sáp nhập) theo như
Điều 18 của Luật Cạnh tranh năm 2004 thì pháp luật cấm tập trung kinh tế nếu thị
phần kết hợp của các doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tế chiếm trên 50% trên
thị trường liên quan (trừ trường hợp quy định tại Điều 19). Đồng thời, các doanh
nghiệp tham gia tập trung kinh tế có thị phần kết hợp từ 30-50% trên thị trường
liên quan phải thông báo cho cơ quan cạnh tranh trước khi tiến hành các hoạt động
tập trung kinh tế. Tuy nhiên, trên thực tế các doanh nghiệp rất khó để tự xác định
thị phần của mình trên thị trường liên quan và như vậy rất khó để biết xem mình có
thuộc ngưỡng bị cấm hoặc phải thông báo tập trung kinh tế hay không. Do đó, các
quy định hiện nay về vấn đề này là không có tính khả thi. Vì vậy, Luật canh tranh
2018 đã sửa đổi, bổ sung và tách thành một chương mới quy định về tập trung kinh
tế (được tách từ Mục 3 Chương II Luật Cạnh tranh năm 2004) để phù hợp với tình
hình hiện tại.
Việc tách tập trung kinh tế thành một chương riêng xuất phát từ sự thay đổi về
cách tiếp cận trong kiểm soát hoạt động tập trung kinh tế theo hướng “tiền kiểm”
nhằm ngăn ngừa việc tập trung kinh tế có thể hình thành nên sức mạnh thị trường,
tiềm ẩn khả năng gây hạn chế cạnh tranh trên thị trường. Hơn nữa, không phải mọi
giao dịch tập trung kinh tế đều có bản chất hạn chế cạnh tranh. Do đó, việc đánh
giá, xem xét khả năng gây hạn chế cạnh tranh của việc tập trung kinh tế khác với
việc đánh giá, xem xét theo hướng “hậu kiểm” đối với hành vi thỏa thuận hạn chế
cạnh tranh hoặc hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, lạm dụng vị trí độc
quyền. Cụ thể luật cạnh tranh 2018 quy định những điểm mới sau:
1. Về các hình thức tập trung kinh tế
Các hình thức tập trung kinh tế theo Điều 29 Luật cạnh tranh 2018 được xây
dựng trên cơ sở tổng hợp nội dung quy định tại Điều 16 và 17 Luật Cạnh tranh
năm 2004 quy định về các hình thức và nội hàm của từng hình thức tập trung kinh
tế, trong đó, có sửa đổi nội dung quy định về Mua lại doanh nghiệp như sau: “Mua
lại doanh nghiệp là việc một doanh nghiệp trực tiếp hoặc gián tiếp mua toàn bộ
hoặc một phần vốn góp, tài sản của doanh nghiệp khác đủ để kiểm soát, chi phối
doanh nghiệp hoặc một ngành, nghề của doanh nghiệp bị mua lại”. Việc sửa đổi
này nhằm làm rõ hình thức mua lại doanh nghiệp có thể được thực hiện trực tiếp
hoặc gián tiếp, do trên thực tế nhiều doanh nghiệp tiến hành thành lập mới công ty
con để tránh hoạt động kiểm soát tập trung kinh tế của cơ quan cạnh tranh do
doanh nghiệp mới chưa có ngành nghề kinh doanh trùng lắp và chưa có thị phần
trên thị trường. Đồng thời, bổ sung đối tượng mua lại không chỉ là tài sản mà còn
có thể là vốn góp của doanh nghiệp cho phù hợp với thực tiễn.
2. Về tập trung kinh tế bị cấm
Điều 30 Luật cạnh tranh 2018 được sửa đổi theo hướng tiếp cận hoàn toàn mới,
dựa trên bản chất gây tác động hoặc có thể gây tác động hạn chế cạnh tranh của
giao dịch tập trung kinh tế. Theo đó, Luật không quy định cấm tập trung kinh tế
một cách cứng nhắc dựa trên mức thị phần kết hợp của các doanh nghiệp tham gia
tập trung kinh tế chiếm trên 50% trên thị trường liên quan như trong Luật Cạnh
tranh năm 2004 mà thay vào đó chỉ quy định cấm doanh nghiệp thực hiện tập trung
kinh tế gây tác động hoặc có khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh một cách
đáng kể trên thị trường, cụ thể:
“Doanh nghiệp thực hiện tập trung kinh tế gây tác động hoặc có khả năng gây tác
động hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể trên thị trường Việt Nam”.
Với quy định như vậy, Luật cạnh tranh 2018 đã thể hiện được quan điểm tiến bộ
là luôn tôn trọng và cho phép doanh nghiệp được quyền thông qua hoạt động tập
trung kinh tế để phát triển kinh doanh và phát triển doanh nghiệp. Nhà nước thực
hiện quyền kiểm soát bằng pháp luật để đảm bảo việc tập trung kinh tế không gây
tác động tiêu cực tới môi trường cạnh tranh và chỉ can thiệp trong trường hợp việc
tập trung kinh tế có nguy cơ gây tổn hại cho môi trường cạnh tranh.
3. Về thông báo tập trung kinh tế (Điều 33 Luật cạnh tranh 2018)
Tại Điều 20 Luật Cạnh tranh năm 2004 quy định các doanh nghiệp tập trung kinh
tế phải thông báo cho cơ quan quản lý cạnh tranh trước khi tiến hành tập trung kinh
tế khi có thị phần kết hợp từ 30% đến 50% trên thị trường liên quan, trừ trường
hợp sau khi tập trung kinh tế doanh nghiệp vẫn thuộc loại hình doanh nghiệp vừa
và nhỏ theo quy định của pháp luật, và trường hợp được miễn trừ theo quy định tại
Điều 19 Luật Cạnh tranh năm 2004. Việc xác định nghĩa vụ thông báo tập trung
kinh tế dựa trên tiêu chí “thị phần kết hợp trên thị trường liên quan” là một trong
những bất cập của Luật Cạnh tranh năm 2004, cần phải được sửa đổi, khắc phục.
Do đó, Điều 33 Luật Cạnh tranh năm 2018 đã không sử dụng “thị phần kết hợp”
làm tiêu chí thông báo tập trung kinh tế, mà thay vào đó sử dụng các tiêu chí sau
làm ngưỡng thông báo, bao gồm:
“a) Tổng tài sản trên thị trường Việt Nam của doanh nghiệp tham gia tập trung
kinh tế;
b) Tổng doanh thu trên thị trường Việt Nam của doanh nghiệp tham gia tập trung
kinh tế;
c) Giá trị giao dịch của tập trung kinh tế;
d) Thị phần kết hợp trên thị trường liên quan của doanh nghiệp tham gia tập trung
kinh tế”.
4. Về thẩm định sơ bộ và thẩm định chính thức việc tập trung kinh tế
Trên cơ sở thay đổi cách tiếp cận về việc kiểm soát tập trung kinh tế dựa trên
bản chất gây tác động hoặc có khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh, Luật
Cạnh tranh năm 2018 quy định quy trình thẩm định tập trung kinh tế qua 02 giai
đoạn: thẩm định sơ bộ và thẩm định chính thức việc tập trung kinh tế, cụ thể:
+ Nội dung thẩm định sơ bộ việc tập trung kinh tế bao gồm:
“…a) Thị phần kết hợp của các doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tế trên thị
trường liên quan; b) Mức độ tập trung trên thị trường liên quan trước và sau khi
tập trung kinh tế; c) Mối quan hệ của các doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tế
trong chuỗi sản xuất, phân phối, cung ứng đối với một loại hàng hóa, dịch vụ nhất
định hoặc ngành, nghề kinh doanh của các doanh nghiệp tham gia tập trung kinh
tế là đầu vào của nhau hoặc bổ trợ cho nhau” (khoản 1 Điều 36 Luật cạnh tranh
2018).
+ Nội dung thẩm định chính thức việc tập trung kinh tế bao gồm:
“…a) Đánh giá tác động hoặc khả năng gây tác động hạn chế cạnh tranh một
cách đáng kể của việc tập trung kinh tế theo quy định tại Điều 31 của Luật này và
các biện pháp khắc phục tác động hạn chế cạnh tranh; b) Đánh giá tác động tích
cực của việc tập trung kinh tế theo quy định tại Điều 32 của Luật này và các biện
pháp tăng cường tác động tích cực của việc tập trung kinh tế; c) Đánh giá tổng
hợp khả năng tác động hạn chế cạnh tranh và khả năng tác động tích cực của tập
trung kinh tế để làm cơ sở xem xét, quyết định về việc tập trung kinh tế” (khoản 2
Điều 37).
Quy định trên cho thấy rằng, Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia cần thẩm định kỹ,
đánh giá tổng hợp khả năng tác động hạn chế cạnh tranh và khả năng tác động tích
cực của tập trung kinh tế để làm cơ sở xem xét, quyết định về việc tập trung kinh
tế. Đồng thời có trách nhiệm thẩm định chính thức và ra quyết định về việc tập
trung kinh tế đúng thời hạn nhằm bảo vệ môi trường cạnh tranh, đồng thời bảo đảm
quyền của doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh. Trường hợp Ủy ban Cạnh
tranh Quốc gia không ra quyết định đúng thời hạn, nếu gây thiệt hại cho doanh
nghiệp thì phải bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật.2
5. Về bổ sung thông tin về tập trung kinh tế
Quy định về trách nhiệm bổ sung thông tin của các bên tham gia tập trung kinh
tế trong quá trình thẩm định chính thức việc tập trung kinh tế. Đây là quy định cần
thiết nhằm tạo điều kiện cho Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia đánh giá khách quan,
chính xác việc tập trung kinh tế, cụ thể Điều 38 Luật cạnh tranh 2018 quy định:
2 />
“1. Trong quá trình thẩm định chính thức việc tập trung kinh tế, Ủy ban Cạnh
tranh Quốc gia yêu cầu doanh nghiệp nộp hồ sơ thông báo tập trung kinh tế bổ
sung thông tin, tài liệu nhưng không quá 02 lần. 2. Doanh nghiệp nộp hồ sơ thông
báo tập trung kinh tế có trách nhiệm bổ sung thông tin, tài liệu liên quan đến việc
tập trung kinh tế và chịu trách nhiệm về tính đầy đủ, chính xác của thông tin, tài
liệu bổ sung theo yêu cầu của Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia. 3. Trường hợp bên
được yêu cầu không bổ sung hoặc bổ sung không đầy đủ thông tin, tài liệu theo
yêu cầu, Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia xem xét, quyết định trên cơ sở thông tin, tài
liệu đã có. 4. Thời gian bổ sung thông tin, tài liệu quy định tại khoản 2 Điều này
không được tính vào thời hạn thẩm định tập trung kinh tế quy định tại khoản 1
Điều 37 của Luật này”.
6. Về tham vấn trong quá trình thẩm định tập trung kinh tế
Nhằm tăng cường sự phối hợp giữa Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia và các cơ quan
quản lý nhà nước trong các ngành, lĩnh vực cụ thể trong việc xem xét, đánh giá,
thẩm định tập trung kinh tế, Điều 39 Luật Cạnh tranh năm 2018 bổ sung quy định
sau:
“1. Trong quá trình thẩm định tập trung kinh tế, Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia có
quyền tham vấn cơ quan quản lý ngành, lĩnh vực mà các doanh nghiệp tham gia
tập trung kinh tế đang hoạt động; trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được
văn bản yêu cầu của Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia về việc tham vấn ý kiến, cơ
quan được tham vấn có trách nhiệm trả lời bằng văn bản về nội dung được tham
vấn. 2. Trong quá trình thẩm định tập trung kinh tế, Ủy ban Cạnh tranh Quốc gia
có thể tiến hành tham vấn ý kiến của các doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân khác
có liên quan”.
7. Về tập trung kinh tế có điều kiện
Đây là quy định mới được bổ sung so với Luật Cạnh tranh năm 2004, cụ thể tại
Điều 42 quy định:
“Tập trung kinh tế có điều kiện là tập trung kinh tế được thực hiện nhưng phải đáp
ứng một hoặc một số điều kiện sau đây: 1. Chia, tách, bán lại một phần vốn góp,
tài sản của doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tế. 2. Kiểm soát nội dung liên
quan đến giá mua, giá bán hàng hóa, dịch vụ hoặc các điều kiện giao dịch khác
trong hợp đồng của doanh nghiệp hình thành sau tập trung kinh tế. 3. Biện pháp
khác nhằm khắc phục khả năng tác động hạn chế cạnh tranh trên thị trường. 4.
Biện pháp khác nhằm tăng cường tác động tích cực của tập trung kinh tế.”
KẾT LUẬN
Tóm lại, tập trung kinh tế có những tác động tích cực đến nền kinh tế, song mặt
bên kia của tập trung kinh tế lớn lại chính là nguy cơ hình thành độc quyền, triệt
tiêu cạnh tranh. Tập trung kinh tế là một xu hướng phát triển tất yếu trong nền kinh
tế thị trường và luôn cần có một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, đồng bộ để kiểm
soát tập trung kinh tế một cách tốt nhất. Có thể thấy, Luật cạnh tranh 2018 ra đời
để khắc phục những tồn tại, bất cập của Luật Cạnh tranh năm 2004 và trong thời
gian qua nhà nước ta đã có rất nhiều nỗ lực trong việc thực hiện kiểm soát tập
trung kinh tế.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Luật cạnh tranh. Nxb, CAND 2018
2. Luật cạnh tranh 2018
3. Luật cạnh tranh 2004
4. />6.
moi/20697/tong-hop-diem-moi-cua-luat-canh-tranh-2018
/> dung cơ bản
của Luật Cạnh tranh.doc