LỜI NÓI ĐẦU
Phép biện chứng duy vật là một bộ phận lý luận cơ bản hợp thành thế giới
quan và phương pháp luận triết học Mác Lê-nin. Với tư cách là khoa học về mối
lien hệ phổ biến và sự phát triển, phép biện chứng khái quát những mối liên hệ
phổ biến nhất bao quát các lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy vào các cặp phạm
trù cơ bản, đó là các cặp phạm trù: cái chung và cái riêng, tất nhiên và ngẫu
nhiên, nội dung và hình thức, bản chất và hình thức, bản chất và hiện tượng, khả
năng và hiện thực, nguyên nhân và kết quả.
Trong sự vận động của hiện thực, mối liên hệ bản chất và hiện tượng là mối
liên hệ được lặp đi lặp lại rất nhiều và rất phổ biến. Do đó có thể nói, mối liên hệ
bản chất – hiện tượng là một trong những mối liên hệ đầu tiên được phản ánh vào
trong đầu óc của con người.Mối liên hệ giữa bản chất- hiện tượng là mối liên hệ
vốn có của thế giới vật chất, nó không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con
người. Với mong muốn hiểu rõ ràng hơn về ý nghĩa và sự giải thích một cách
khách quan, khoa học của phép biện chứng duy vật, nhóm A1 lớp 4006 đã chọn đề
tài số 5 “vận dụng nội dung và ý nghĩa của phương pháp luận của cặp phạm trù
bản chất và hiện tượng để giải quyết một tình huống trong lĩnh vực tự nhiên
hoặc xã hội hoặc tư duy” và và tiến hành phân tích, bình luận để hoàn thành bài
tiểu luận của mình. Do còn nhiều hạn chế trong quá trình nhận thức, bài làm
không tránh khỏi những sai sót, những khuyết điểm cần sửa chữa. Vậy nên nhóm
A1 mong nhận được thật nhiều những ý kiến đóng góp từ thầy cô và các bạn.
Xin chân thành cảm ơn!
CHƯƠNG I: PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT VỀ CẶP PHẠM TRÙ BẢN
CHẤT VÀ HIỆN TƯỢNG
Phạm trù là những khái niệm rộng nhất, phản ánh những mặt, những thuộc
tính, những mối liên hệ chung, cơ bản nhất của các sự vật hiện tượng thuộc một
lĩnh vực nhất định. Phạm trù bản chất- hiện tượng là một trong sáu cặp phạm trù cơ
bản nhất của phép biện chứng duy vật, dùng để chỉ mối quan hệ biện chứng giữa
hai phạm trù bản chất và hiện tượng.
1.
Khái niệm:
Bản chất là tổng hợp tất cả những mặt, những mối liên hệ tất nhiên, tương
đối ổn định bên trong sự vật, quy định sự vận động và phát triển của sự vật.
Hiện tượng là biểu hiện ra bên ngoài của bản chất.
2.
Mối quan hệ biện chứng giữa bản chất và hiện tượng:
Quan điểm duy tâm không giải quyết đúng đắn mối quan hệ biện chứng
giữa bản chất và hiện tượng. Vì họ không thừa nhận hoặc không hiểu đúng
sự tồn tại khách quan của bản chất và hiện tượng.
VD: Những người duy tâm chủ quan cho rằng bản chất không tồn tại thật sự,
bản chất chỉ là tên gọi trống rỗng do con người bịa ra, còn hiện tượng dù có
tồn tại nhưng đó chỉ là sự tổng hợp những cảm giác con người. Số khác theo
chủ nghĩa duy tâm khách quan tuy thừa nhận sự tồn tại thực sự nhưng đó
không phải của bản than sự vật mà theo họ đó chỉ là những thực thể tinh thần
(Platon nói thế giới là những thực thể tinh thần tồn tại vĩnh viễn và bất biến
là bản chất cảm nhận được chỉ là hình bóng của những thực thể tinh thần mà
thôi…). Những quan điểm này không được khoa học và thực tiễn thừa nhận.
Trái với quan điểm trên, chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng, cả
bản chất và hiện tượng đều tồn tại khách quan là cái vốn có của sự vật không
do ai sáng tạo ra, bởi vì sự vật nào cũng được đan xen, chằng chịt. Trong đó
những mối liên hệ tất nhiên, tương đối ổn định. Những mối liên hệ tất nhiên
đó phải được tạo do cảm giác chủ quan của con người quyết định. Chủ nghĩa
duy vật biện chứng không chỉ thừa nhận sự tồn tại khách quan của bản chất
và hiện tượng, mà còn cho rằng, giữa chúng có mối quan hệ chặt chẽ thống
nhất với nhau, vừa mâu thuẫn vừa đối lập.
+ Sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng:
Sự thống nhất này trước hết nằm ở chỗ bản chất luôn luôn được hiện
ra qua hiện tượng, còn hiện tượng nào cúng là sự biểu hiện của bản chất ở
mức độ nhất định. Không có bản chất nào tồn tại có thuần túy ngoài hiện
tượng cũng như không có hiện tượng nào hoàn toàn không biểu hiện bản
chất. Chính nhờ sự thống nhất này mà người ta có thể có thể tìm ra cái bản
chất. Khi bản chất bị tiêu diệt thì sớn muộn hiện tượng sinh ra cũng biến
mất theo. Bản chất mới ra đời thì các hiện tượng mới phù hợp với nó dần
xuất hiện. Chính vì có sự thống nhất đó mà con người mới có thể thông qua
những hiện tượng để nhận thức bản chất, phát hiện ra những quy luật phát
triển sự vật.
+ Sự mâu thuẫn giữa bản chất và hiện tượng:
Đó là sự mâu thuẫn giữa cái bên trong với bên ngoài. Bản chất phản
ánh cái chung sâu xa, bên trong sự vật. Hiện tượng phản ánh cái riêng, bên
ngoài sự vật. Tất cả hiện tượng biểu hiện bản chất theo nhiều cách khác
nhau: có hiện tượng biểu hiện một phần bản chất, thậm chí là tương đối đầy
đủ, tuy nhiên, rất nhiều lần hiện tượng không phản ánh đúng bản chất , sai
lệch bởi bản chất được bộc lộ từ một vài hiện tượng thì con người chỉ cần
dung giác quan để nhận xét sự vật cứ không phải phát triển khoa học kỹ
thuật làm gì. Sự mâu thuẫn này là mâu thuẫn tương đối ổn định và thường
xuyên biến đổi. Bản chất của sự vật tồn tại trong suốt quá trình phát triển của
nó và bản chất chỉ mất đi khi sự vật mất đi, trong khi đó, sự vật luôn biến đổi
với nhiều hiện tượng khác nhau tùy theo từng điều kiện bên ngoài.
+ Hiện tượng phong phú hơn bản chất còn bản chất thì sâu sắc hơn
hiện tượng. Hiện tượng phong phú hơn hẳn vì ngoài bản chung mà chúng có
thì mỗi hiện tượng lại có những nhân tố cá biệt mà chỉ riêng nó có vì bản
chất là cái tương đối ổn định ở trong còn hiện tượng biểu hiện ra bên
ngoài.Ngược lại, bản chất sâu sắc hơn vì nó là những mối liên hệ tất nhiên
bên trong,là những quy định quyết định sự tồn tại và phát triển của sự vật, nó
được lặp lại trong những hiện tượng khác nhau, biểu hiện quy luật phát triển
chung của sự vật đó.
3.
Ý nhĩa phương pháp luận:
Bản chất không tồn tại thuần túy mà biểu hiện qua hiện tượng, vì vậy muốn
nhận thức được bản chất của sự vật phải xuất phát từ thực tế. Tuy nhiên, bản
chất không được thể hiện chỉ bằng một hiện tượng nên ta phải phân tích,
nhận thức nhiều hiện tượng rồi mới đưa ra đánh giá về sự vật. Nhận thức bản
chất của sự vật là một quá trình đi từ hiện tượng đến bản chất, từ bản chất ít
sâu sắc đến sâu sắc hơn
Bản chất là cái tự nhiên, hiện tượng thì không ổn định, không quyết định dự
phát triển của sự vật. Do vậy nhận thức không dừng lại ở hiện tượng mà là ở
bản chất sự vật. Còn trong thực tiễn, phải dựa vào bản chất để xác định
phương thức hoạt động cải tạo sự vật không được dựa và hiện tượng.
CHƯƠNG II: VẬN DỤNG NỘI DUNG VÀ Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP
LUẬN CỦA CẶP PHẠM TRÙ BẢN CHẤT VÀ HIỆN TƯỢNG VÀO
VIỆC GIẢI QUYẾT VẤN NẠN BẠO LỰC HỌC ĐƯỜNG
1.
Đặt vấn đề:
Bạo lực học đường được nghiên cứu từ những năm 70 thế kỷ trước với các
công trình nghiên cứu của nhà tâm lý học Na Uy. Vấn đề bạo lực nói chung
và bạo lực học đường nói riêng được ông đề cập như là một trong những
nghiên cứu chuyên sâu…
Bạo lực và học đường học đường ở Việt Nam đã xuất hiện từ rất lâu. Nó trở
thành một trong những nguyên nhân gây ra sự đau khổ cho các nạn nhân.
Bạo lực học đường có thể xảy ra ở tất cả các bậc học, tù mầm non (vụ “chiếc
thùng phi xanh”), học sinh tiểu học, học sinh THCS, THPT và cả sinh viên
đại học. Tuy nhiên, trong một thời gian dài chúng ta đã xem nhẹ vấn đề này,
thậm chí, một số cá nhân còn xem đó là một phần tự nhiên của quá trình
phát triển tâm sinh lý của con người. Mặt khác, bạo lực học đường chỉ được
nghiên cứu lồng ghép trong các chương trình nghiên cứu về bạo lực đối với
trẻ em nói chung. Đây cũng chính là nguyên nhân làm cho nghiên cứu về
bạo lực học đường còn thiếu sự hệ thống, chuyên sâu trên bình diện khái
niệm và cả thực tiễn…
2.
Mối quan hệ giữa cặp phạm trù bản chất hiện tượng của vấn nạn
bạo lực học đường
a, Những hiện tượng của vấn nạn bạo lực học đường
Hiện nay, vấn nạn bạo lực học đường được diên ra thông qua hai hình
thức, đó là: bạo lực tinh thần – xúc phạm, xỉ nhục, lăng mạ làm ảnh hưởng
đến tinh thần và danh dự con người; bạo lực thể xác - đánh đập, tra tấn,
hành hạ, làm tổn hại sức khỏe, xâm hại đến cơ thể con người.
Mặc dù, bạo lực học đường không phải là vấn nạn mới, nhưng với
tính chất nguy hại và nghiêm trọng như hiện nay, bạo lực học đường trở
thành vấn nạn nhức nhối không chỉ của nền giáo dục Việt Nam mà còn là
của xã hội.
Nếu trước kia bạo lực học đường thường xuất hiện với nam sinh thì
ngày nay tính chất phức tạp trong việc nghiên cứu đối tượng của nạn bạo lực
học đường đã mở rộng quy mô rất nhiều. Không chỉ nam sinh mà ngay cả nữ
sinh cũng có. Tính chất bạo lực không chỉ dừng lại ở phía các em học sinh
với nhau mà giờ còn xuất hiện những hiện tượng học sinh hành hung thầy,
cô giáo và ngược lại cũng có. Đó là việc học sinh hành hung thầy, cô giáo và
cũng có cả thầy cô giáo dùng lời lẽ xúc phạm học trò, dùng vũ lực để giáo
dục học sinh,…
Theo ông Phùng Khắc Nguyên – nguyên Vụ trưởng Vụ công tác học
sinh – sinh viên, Bộ GD&ĐT cho biết: thống kê từ 38 Sở GD&ĐT gửi về Bộ
từ năm 2003 đến năm 2009 có hơn 8000 vụ học sinh tham gia đánh nhua và
bị xử kỉ luật, theo báo cáo của Bộ GD&ĐT, năm học 2009-2010 trên toàn
quốc xảy ra 1598 vụ học sinh đánh nhau trong và ngoài trường, các nhà
trường đã xử lí khiển trách 881 học sinh, cảnh cáo 1558 học sinh, buộc thôi
học có thời hạn là 735 học sinh. Theo số lượng trường học và học sinh hiện
sinh hiện nay thì cứ 5260 thì có 1 học sinh đánh nhau và cứ 9 trường thì lại
xảy ra 1 vụ đánh nhau. Cứ 10000 học sinh thì có 1 người bị kỉ luật khiển
trách, cứ PGS.TS Hoàng Bá Thịnh, chủ nhiệm bộ môn giới và địa hình, Đại
học khoa học và xã hội và nhân văn – Đại học Quốc gia Hà Nội cùng cộng
sự đã tiến hành nghiên cứu về hành vi bạo lực của nữ sinh trung học, khảo
sát 200 phiếu tại trương THPT tại Đống Đa – Hà Nội, kết quả cho thấy
96.7% số học sinh được hỏi cho rằng trường các em có hiện tượng nữ sinh
đánh nhau, kết quả khảo sát cũng cho biết, có đến 64% các em thừa nhận đã
từng có có hành vi đánh bạn khác, trong các em đã từng đánh nhau thì số
nữ sinh 1 lần đánh nhau là 12.7%; 20.7% từ 2-3 lần;4-5 lần là 10.7% và
19.3% đánh nhau từ 5 lần trở lên. Phần lớn các em nữ sinh đã có hành vi
đánh nhau cho rằng bạo lực giữa nữ sinh là chuyện “bình thường” (57.3%)
và “chấp nhận được” (36.9%). Không chỉ dừng lại ở đó, mức độ đánh nhau
cũng được biểu hiện nguy hiểm bằng hình thức lây lan qua nhóm, trong đó
có 41-59.5% là đánh một mình, 47.7-52% đánh tập thể.
Nếu trước kia học sinh đánh nhau thường dùng vũ lực của bản thân thì nay
không chỉ dừng lại ở đó, học sinh thường sử dụng những dụng cụ có tính
chất nguy hiểm cao.Với nữ sinh thường đánh hội đồng như tát, đá, đấm, giật
tóc, lột quần áo rồi tung lên mạng để làm nhục bạn trong phạm vi xã hội
rộng lớn, như vậy không chỉ làm đau đớn vè thể xác mà còn ảnh hưởng hết
sức nghiêm trọng đến tinh thần, thậm chí có thể làm bạn rơi vào những rối
loạn tâm thần dẫn tới tử vong. Với học sinh nam, không đơn thuần chỉ là gậy
gộc mà còn là gạch, dao lam, mã tấu,… những phương tiện này tùy vào mức
độ mà có thể gây thương tích, thậm chí gây tàn phế và cướp đi mạng sống
của học sinh.
Ngoài ra, còn có rất nhiều vụ việc nổi sóng gây bão dư luận như:
Thầy giáo dùng gậy tre vụt vào mặt học sinh tại Thừa Thiên-Huế
17/4/2015
Nữ sinh vụt nhau bằng gậy sắt tại Đà Nẵng ngày 12/11/2015
b, Bản chất của vấn nạn bạo lực học đường
Hành vi bạo lực học đường là hành động mang tính bạo hành diễn ra trên những
khách thể trong môi trường dẫn đến tổn thương về tinh thần, tâm lý và cả thể xác.
Nhìn một cách khái quát, hành vi bạo lực học đường là sử dụng vũ lực hay quyền
lực một cách có ý thức để đe dọa hay thực sự uy hiếp một cá nhân hay một nhóm
học sinh làm gây ra hay có nguy cơ gây ra thương tật, chết, tổn thương tâm lý, kìm
hãm sự phát triển hay tước đoạt quyền của cá nhân hay nhóm học sinh đó. Nói
cách khác, hành vi này diễn ra trong quan hệ giữa các đối tượng trong học đường
hoặc có liên quan đến học đường. Hành vi này về cơ bản có đầy đủ những dấu hiệu
của hành vi bạo lực và gây ra những hậu quả cả về thể chất và tinh thần từ hai phía
trong mối quan hệ bạo lực học đường, đặc biệt là người bị hại.
-
Ảnh hưởng bản thân người bị bạo lực
Đối với bản thân, những vụ bạo lực học đường thường gây ra những hậu quả
về mặt thể xác. Đó là những vết bầm tím, trầy xước, tổn thương vùng ngoài da, gãy
xương, thậm chí không ít vụ đã cướp đi tính mạng của người bị hại. Về mặt tinh
thần, những đứa trẻ bị bạo lực thường cảm thấy bị tổn thương, lo lắng, chán nản,cô
đơn, mệt mỏi, ngoài ra còn rất dễ bị trầm cảm, sợ hãi, ám ảnh tự cô lập mình với
thế giới bên ngoài gâu khó khăn cho cuộc sống thường ngày và ngay cả các em
trưởng thành. Không ít trường hợp có phản ứng tiêu cực như tự tử hoặc nổi loạn để
trả thù.
Đối với những đứa trẻ có hành vi bạo lực, quá trình học tập và trưởng thành
của chúng bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Nhiều nghiên cứu chỉ ra những người có
hành vi bạo lực sau này thường sa đọa vào những thói hư tật xấu, tệ nạn xã hội
-
Ảnh hưởng đến gia đình
Với những gia đình có con em gây ra bạo lực học đường sẽ dẫn đến mâu thuẫn
gia đình trong việc nuôi dạy và quản lí con cái. Không chỉ vậy, cuộc sống gia đình
cũng bị ảnh hưởng, xáo trộn do phản ứng của dư luận và mọi người xung quanh.
Chưa kể nếu những vụ bạo lực học đường gây ra hậu quả nghiêm trọng về mặt thể
xác, gia đình chứ không ai khác là những người phải chịu trách nhiệm đầu tiên (chi
phí giải quyết hậu quả, lời qua tiếng lại với xã hội,…)
Đối với gia đình có con em là nạn nhân, họ thường phải hứng chịu những nỗi
đau về mặt tinh thần là không thể nào đong đếm được. Không chỉ vậy, nó còn
khiến cá bậc phụ huynh luôn sống trong tình trạng lo lắng về sự an toàn hay tương
lai của con mình
-
Ảnh hưởng đến xã hội
Tất nhiên danh tiếng của nhà trường và thành tích thi đua của lớp sẽ bị ảnh
hưởng nặng nề .Nhà trường luôn được ví như ngôi nhà thứ hai của học sinh, nhưng
bạo lực học đường đã gây ra những ảnh hưởng xấu đến quá trình học tập chung vì
các em không còn cảm thấy an toàn trong chính “ngôi nhà” của mình. Nhiều học
sinh tỏ ra sợ hãi khi đến trường, ngần ngại và vắng học thường xuyên…
Bạo lực học đường thể hiện sự thay đổi suy đổi về mặt đạo đức và sự sai lệch
về hành vi đáng bạo động của một bộ phận hiện nay trong xã hội. Những vụ bạo
lực học đường đã làm mất trật tự xã hội, ảnh hưởng đến thế hệ tương lai cũng như
sự phát triển của quốc gia
Mối quan hệ biện chứng giữa bản chất và hiện tượng trong vấn nạn bạo lực
học đường
Bạo lực về vật chất này thực ra có liên quan đến bạo lực về thể chất hay về tâm lýtình cảm. Thế nhưng, xét ở một góc độ nhất định, những biểu hiện của hành vi bạo
lực này thường hướng đến sự bắt ép có liên quan đến vật chất hay những phương
tiện vật chất có liên quan. Trong môi trường học đường, bạo lực vật chất này được
xem là một đặc thù có liên quan rất chặt chẽ đến hành vi bắt nạt học đường hay bạo
lực học đường diễn ra vì đôi lúc nó diễn ra hết sức “tự nhiên”. Nhưng ngày nay,
hành vi này cũng có những biểu hiện diễn ra có chủ đích, cụ thể, có tính toán hay
thậm chí “tổ chức” nhóm. Đó là một thực tế cần được xem xét mang tính khách
quan và hệ thống.
-
Bạo lực về thể chất
Bạo lực thể chất là một hiện tượng rất nghiêm trọng, nó không chỉ ảnh hưởng
đến người bị bạo lực mà còn ảnh hưởng đến người bị chứng kiến cảnh bạo lực.
Bạo lực về thể chất xảy ra khi một người bị người khác sử dụng công khai
những hành động cơ bắp để áp đặt sức mạnh của họ lên người kia. Bạo lực thể
chất bao gồm các hành vi như đá, đấm, đánh…Trong thực tế, hành vi này có thể
xảy ra ngay trong trường học hoặc giữa đường,…diễn ra ở nhiều dạng khác
nhau, mức độ khác nhua tùy vào độ tuổi, văn hóa cũng như môi trường học
đường.
-
Bạo lực về tâm lý, tình cảm
Bạo lực về tâm lý, tình cảm đối với học sinh trong môi trường được xác định
gồm: lời nói, cử chỉ mang tính xúc phạm, dọa nạt, mắng mỏ, gây áp lực, bộc
làm những việc mà người đó không muốn và các quan niệm gây ra hậu quả xấu
về mặt tâm lý tình cảm. Đây là những hành vi gây sức ép đè nặng lên tâm lý và
tinh thần của người bị hại.
Bạo lực tâm lý tình cảm trong môi trường học đường được thể hiện dưới một số
hình thức: dọa dẫm, đe dọa, sỉ nhục gây ức chế lo sợ cho người khác, Sự trêu
ghẹo đó gây ra khó chịu, xấu hổ, tủi thân, mặc cảm, tự ti cho người bị hại.
Ngoài ra không thể không kể đến sức ép giáo dục và các quan niệm hành vi
mang tính chất về bất bình đẳng giới. Có những thầy cô vì chạy theo thành tích
mà bắt ép học sinh theo ý mình để đạt được theo chỉ tiêu nhà trường. Một
nghiên cứu mới đây cho thấy gần 100% học sinh phải đi học them, trong đó
17% học thêm >5h/ngày, 85% luôn bị căng thẳng tâm lý do áp lực việc học,
61% cang thẳng do tần suất thi quá lớn hay gặp khó khăn trong việc khối lượng
học quá cao. Việc phải chịu những áp lực như vậy dễ gây nên sự mất kiếm soát,
rắc rối về đời sống tâm lý…Hoặc có những bạn bè luôn ganh ghét và cạnh tranh
nhau từng chút môt dẫn tới những “gánh nặng trên mức cần thiết”. Chính điều
đó đã gây ra những áp lực thái quá, tạo những áp lực tâm lý và những ảnh
hưởng không tốt đến sức khỏe tinh thần học sinh. Ngoài ra, có thể kể đến một
số hình thức tâm lý tinh thần như: dựng chuyện tạo tin đồn, bêu rếu, tung hình
ảnh nhạy cảm trước công chúng hay trên các trang mạng xã hội.
-
Bạo lực về tình dục
Đây là loại bạo lực khá phức tạp trong môi trường học đường. Cùng với sự phát
triển tâm lý xã hội của con người, bạo lực tình dục trở thành một hành vi cần
được xem xét trên bình diện lứa tuổi, giới tính…Đó có thể là hành vi quấy rối
như sử dụng lời nói tục tĩu, có những hành động vô văn hóa, nhạy cảm, có
những trường hợp như xô đẩy, chọc ghẹo, rình mò nhà vệ sinh nữ, tấn công
bằng lời nói liên quan đến tình dục,…Đó thậm chí còn là hành vi lạm dụng tình
dục như ép buộc quan hệ tình dục ngoài ý muốn, cưỡng ép, sàm sỡ, đánh ghen,
thậm chí là cưỡng hiếp. Thực tế, lạm dụng tình dục diễn ra rất nguy hiểm,
không chỉ ở học sinh mà còn ở một bộ phận giáo viên suy thoái về đạo đức
*Giải pháp
- Cấp độ xã hội: Hướng tới làm thay đổi, giảm thiểu những tiêu cực và truyền
thông bạo lực tới học đường. Ngoài ra còn có thể định hướng lại các tiêu chuẩn
xã hội, tái cơ cấu các hệ thống giáo dục. Tuy nhiên, với việc truyền thông đang
“hốn loạn” tin tức cũng như việc cấu trúc lại nề giáo dục không phải là chuyện
một sớm một chiều nên chiến lược này hiếm khi được sử dụng.
- Cấp độ nhà trường: Cần đề xuất khuyến khích các kỹ thuật quản lý lớp học,
học cách hợp tác và giám sát chặt học sinh. Nên có những giáo dục ngay từ lúc
còn nhỏ để làm giảm bớt đi những hành vi bạo lực. Tăng cường các kỹ năng
cho mọi người, đồng thời, ngay bản thân mỗi thầy cô phải là tấm gương và
cũng cần phải học hỏi nhiều điều. Sự liên kết chặt chẽ giữa nhà trường với các
cơ quan chức năng khác như đồn cảnh sát, viện tâm lý học,… là vô cùng cần
thiết.
- Cấp độ gia đình: Hướng tới cải thiện mối quan hệ gia đình lành mạnh.Mỗi
người bố người mẹ phải là tấm gương đạo đức tốt đẹp để con cái noi theo.
Trong thời đại kim tiền ngày nay, nhiều bậc phụ huynh vì chạy theo những giá
trị đồng tiền mà quên mất giá trị gia đình hay không bao giờ quan tâm đến tâm
ký con cái. Đã có nhiều nghiên cứu cho thấy, sự tham gia của những ông bố bà
mẹ góp phần làm giảm những hành vi hung hãn của con cái cả về tâm lý lẫn thể
xác. Việc quan tâm con cái nhiều hơn cũng giảm thiểu những vụ án kiểu “bảo
mẫu đánh đập trẻ em bán sống bán chết”…
Tóm lại, muốn nhận thức đúng về sự vật, hiện tượng thì không dừng lại ở
hiện tượng bên ngoài mà phải đi sâu vào bản chất bên trong, phải thông qua
nhiều hiện tượng khác nhau. Vấn nạn bạo lực học đường không đơn giản qua
những hiện tượng chúng ta thường thấy, nó bắt nguồn từ những bản chất sâu xa
bên trong bản thân mỗi học sinh, sinh viên. Một ánh mắt thiếu thiện cảm, một
câu nói thiếu suy nghĩ, hay những hành động vô tình….cũng trở thành nguyên
nhân của hiện tượng, hành động bạo lực nơi giảng đường. Bản chất của những
hiện tượng ấy là lối sống sĩ diện, cho mình là nhất, suy nghĩ nông cạn, nghĩ rằng
nắm đấm sẽ giải quyết được mọi chuyện… Tất cả những điều ấy đều đi từ bản
chất con người. Bản chất là thứ khó thay đổi nhưng nếu bản chất thay đổi thì
hiện tượng cũng thay đổi theo chiều hướng khác. Mặt khác, nếu bản chất mất
thì hiện tượng cũng mất theo. Muốn hiểu rõ hay giải quyết được vấn nạn lớn
của xã hội – “bạo lực học đường”, chúng ta phải hiểu rõ được bản chất của vấn
đề và thay đổi nó. Không thể cứ để hiện tượng bạo lực này diễn ra, chúng ta
mới có những biện pháp xử phạt, răn đe… Ta cần tạo một môi trường tốt đẹp,
cần có những giáo dục định hướng đúng đắn cho học sinh, sinh viên ngay từ khi
bắt đầu ngồi trên ghế nhà trường. Nếu những bản chất xấu của con người mất
đi, những hiện tượng xấu đi kèm với nó cũng sẽ mất đi hay hiện tượng bạo lực
học đường cũng không còn nữa. Việc vận dụng nghĩa phương pháp luận của cặp
phạm trù bản chất và hiện tượng sẽ giúp chúng ta ngăn chặn được vấn nạn bạo
lực học đường, tạo môi trường học tập lành mạnh cho học sinh, sinh viên ở mọi
nơi.
KẾT LUẬN
Có thể nói mọi mối quan hệ giữa các sự vật hiện tượng với nhau trong thế
giới khách quan đều phản ánh một trong các phạm trù cơ bản của phép biện chứng
duy vật, trong đó cặp phạm trù bản chất-hiện tượng là một trong những cặp phạm
trù cơ bản, phổ biến nhất của thế giới hiện thực khách quan và có vai trò quan
trọng trong việc nhận thức. Qua những lý lẽ đã nêu và tình huốn chứng minh,
chúng ta có thể nhận thấy bản chất được thể hiện qua nhiều hiện tượng và hiện
tượng phản ánh lấy bản chất. Đồng thời chúng ta hiểu thêm về vấn nạn bạo lực học
đường. Thông qua việc phân tích cặp phạm trù bản chất-hiện tượng, chúng ta hoàn
toàn có thể nhìn ra sự nguy hại, suy thoái từ vấn nạn này. Qua đó, tìm ra nhứng
phương pháp giải quyết phù hợp. Hy vọng những thông tin và kiến thức trên sẽ
giúp con người, nhất là môi trường học đường có cái nhìn đúng đắn hơn về vấn
nạn đang gây bức xúc hiện nay.